Tải bản đầy đủ (.doc) (66 trang)

MỘT SỐ Ý KIẾN GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ THAM GIA ĐẤU THẦU NHẬP KHẨU TẠI CÔNG TY Machino-Import HÀ NỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (338.74 KB, 66 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong chu trình của một dự án đầu tư phát triển, việc xây dựng và mua
sắm trang thiết bị là một trong những khâu quan trọng hàng đầu bên cạnh các
khâu khác như: nghiên cứu khả thi, thẩm định dự án, lùa chọn công nghệ
thích hợp, đàm phán, ký kết và giám sát hợp đồng…
Để việc xây dựng và mua sắm trang thiết bị đạt được những yêu cầu
khắt khe về mặt chất lượng kỹ thuật, tiến độ thực hiện, tiết kiệm chi phí và
hạn chế đến mức thấp nhất những tranh chấp có thể xảy ra, gây thiệt hại vật
chất hoặc phương hại đến uy tín của các bên hữu quan thì phương pháp đấu
thầu với những nguyên tắc cũng như những chuẩn mực thông dụng trên thị
trường Quốc tế (thường gọi là phương pháp đấu thầu Quốc tế) ngày càng tỏ ra
có nhiều ưu điểm hơn hẳn các phương pháp khác và cho đến nay nó đã được
áp dụng khá phổ biến trong hoạt động ngoại thương.
Là phương pháp đem lại hiệu quả kinh tế cao, đấu thầu Quốc tế được
nhìn nhận như một điều kiện thiết yếu để đảm bảo thành công cho các nhà
đầu tư, cho dù họ thuộc khu vực Nhà nước hay khu vực tư nhân, dù họ đầu tư ở
trong nước hay đầu tư ở nước ngoài. Và trong bối cảnh kinh doanh hiện nay,
các nhà thầu xây dựng, các nhà thầu cung ứng trang thiết bị càng không thể
không vận dụng phương pháp đấu thầu Quốc tế nếu họ muốn giành được
những hợp đồng từ các dự án đầu tư tầm cỡ. Hơn nữa, đối với các dự án lớn,
dự án có yêu cầu kỹ thuật phức tạp, dự án có nhiều chủ sở hữu, dự án thuộc
khối Nhà nước, dự án được tài trợ bởi các định chế tài chính Quốc tế thì đấu
thầu là cách duy nhất để tránh những sơ hở, sai lầm đáng tiếc vẫn thường xảy
ra.
Có thể nói đấu thầu Quốc tế không phải là một thủ tục thuần tuý mà là
một công nghệ hiện đại, một hệ thống giải pháp cho mọi vấn đề có liên quan trực
tiếp đến các chủ thể trong toàn bộ quá trình xây dựng hoặc cung ứng thiết bị.


Trong những năm qua, kể từ khi Nhà nước thực hiện chính sách “ mở
cửa”, xu hướng CNH, HĐH đã thực sự làm tiền đề thúc đẩy tốc độ tăng


trưởng nền Kinh tế quốc dân nói chung và các doanh nghiệp Nhà nước nói
riêng, trong đó có Công ty Machino-Import Hà Nội.
Mặc dù trải qua biết bao thăng trầm trên con đường phát triển của
mình, song bằng những nỗ lực phi thường, bằng những cố gắng lớn lao của
toàn thể cán bộ công nhân viên, Công ty Machino-Import đã tìm được vị thế
vững chắc trên thị trường trong nước và Quốc tế. Cải tiến công tác quản lý, đa
dạng hoá, đa phương hoá các mối quan hệ và mặt hàng, đẩy mạnh hoạt động
Marketing, khai thác triệt để loại hình kinh doanh dịch vụ nhằm gia tăng
doanh số và lợi nhuận, không ngừng nâng cao thu nhập cho người lao động là
phương châm hoạt động chủ đạo của Công ty trong suốt thời gian qua. Để có
được những thành tích đáng nể đó thì đấu thầu nhập khẩu là một trong các
phương thức được Công ty Machino- Import sử dụng nhiều nhất khi tiến hành
hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
Tuy nhiên, để vận dụng một cách nhuần nhuyễn phương pháp đấu thầu
cần phải có hiểu biết sâu sắc, thấu đáo về mọi nghiệp vụ cơ bản trong đấu
thầu Quốc tế. Vậy làm thế nào để hoàn thiện công tác tham gia đấu thầu nhập
khẩu, góp phần đẩy mạnh hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty
Machino-Import Hà Nội?
Qua thời gian thực tập tại Công ty Machino-Import Hà Nội và trực tiếp
tại Phòng Kinh doanh 1, em đã mạnh dạn chọn đề tài nghiên cứu là:

“Một sè ý kiến góp phần nâng cao hiệu quả tham gia đấu thầu
nhập khẩu tại Công ty Machino-Import Hà Nội”

Công trình nghiên cứu này được hoàn thành dùa trên cơ sở những lý
luận chung của môn học Kinh doanh Quốc tế, kết hợp với các số liệu có liên


quan. Bng vic vn dng phng phỏp phõn tớch - tng hp, ngoi phn m
u, kt lun v ph lc, ni dung ca cụng trỡnh nghiờn cu c chia thnh

3 phn chớnh nh sau:
Chng I : Một s vn chung v u thu Quc t

Một

số vấn đề chung về đấu thầu Quốc tế
Chng II: Thc trng tham gia u thu nhp khu ti Cụng ty
Machino- Import H Ni

Thực

trạng tham gia đấu thầu nhập khẩu tại Công ty
Machino- Import Hà Nội
Chng III: Một số ý kin gúp phn nõng cao hiu qu tham gia u
thu nhp khu ti cụng ty Machino-Import H Ni Một
số ý kiến góp phần nâng cao hiệu quả tham gia đấu
thầu nhập khẩu tại công ty Machino-Import Hà Nội


CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐẤU THẦU QUỐC
TẾ
I. KHÁI NIỆM VÀ CÁC THUẬT NGỮ THƯỜNG SỬ DỤNG
TRONG ĐẤU THẦU
1- Khái niệm đấu thầu
Đấu thầu: Là một phương thức giao dịch đặc biệt để mua sắm hàng
hoá và dịch vụ, trong đó người mua (được gọi là người gọi thầu hay bên mời
thầu) công bố trước điều kiện mua hàng để người bán (được gọi là người dự
thầu hay nhà thầu) báo giá cả mình muốn bán và các điều kiện trả tiền. Sau đó
người mua sẽ chọn mua (xét thầu) của người bán nào có báo giá rẻ nhất và

các điều kiện tín dụng phù hợp hơn cả với những điều kiện mà người mua đã
nêu. Nhờ đó mà người mua có thể mua được hàng hoá với số lượng và chất
lượng như mong muốn.

Theo Quy chế đấu thầu ban hành kèm với Nghị định số: 88/ 1999 NĐ CP ngày 01/ 9/ 1999 của Chính phủ, mục tiêu của công tác đấu thầu là nhằm
thực hiện tính cạnh tranh, công bằng và minh bạch trong quá trình đấu thầu để
lùa chọn nhà thầu phù hợp, bảo đảm hiệu quả kinh tế xã hội của dự án.

2- Các thuật ngữ thường dùng trong đấu thầu
Dưới đây là các thuật ngữ thường được sử dụng phổ biến trong hoạt
động đấu thầu:


* Đấu thầu: Là quá trình lùa chọn nhà thầu đáp ứng các yêu cầu của
bên mời thầu
* Đấu thầu trong nước: Là cuộc đấu thầu chỉ có các nhà thầu trong
nước tham dù.
* Đấu thầu Quốc tế: Là cuộc đấu thầu có các nhà thầu trong và
ngoài nước tham dù.
* Bên mời thầu: Là chủ dự án, chủ đầu tư hoặc các pháp nhân của
chủ dự án, chủ đầu tư được giao trách nhiệm thực hiện công việc đấu thầu.
* Nhà thầu: Là tổ chức kinh tế có đủ tư cách pháp nhân tham gia
đấu thầu. Nhà thầu trong nước là nhà thầu có tư cách pháp nhân Việt Nam và
hoạt động hợp pháp tại Việt Nam.
* Gãi thầu: Là toàn bộ dự án hoặc một phần công việc của dự án
được phân chia theo tính chất kỹ thuật hoặc trình tự thực hiện dự án, có quy
mô hợp lý và bảo đảm tính đồng bộ của dự án.
* Hồ sơ mời thầu: Là toàn bộ tài liệu do bên mời thầu lập, bao gồm
các yêu cầu cho một gói thầu được dùng làm căn cứ để nhà thầu chuẩn bị hồ
sơ dự thầu và bên mời thầu đánh giá hồ sơ dự thầu.

* Mở thầu: Là thời điểm tổ chức mở các hồ sơ dự thầu được quy
định trong hồ sơ mời thầu.
* Giá gói thầu: Là giá được xác định cho từng gói thầu trong kế
hoạch đấu thầu của dự án trên cơ sở tổng mức đầu tư hoặc tổng dự toán, dự
toán được duyệt.
* Giá đánh giá: Là giá dự thầu đã sửa lỗi hoặc hiệu chỉnh các sai
lệch (nếu có), được quy đổi về cùng mặt bằng (kỹ thuật, tài chính, thương mại
và các nội dung khác) để làm cơ sở so sánh giữa các hồ sơ dự thầu.


* Giá tróng thầu: Là giá được người có thẩm quyền hoặc cấp có
thẩm quyền phê duyệt kết quả đấu thầu để làm căn cứ cho bên mời thầu
thương thảo hoàn thiện và ký hợp đồng với nhà thầu tróng thầu. Giá tróng
thầu không được lớn hơn giá gói thầu trong kế hoạch đấu thầu được phê
duyệt.
* Xét thầu: Là quá trình bên mời thầu xem xét, phân tích, đánh giá,
xếp hạng các hồ sơ dự thầu đê lùa chọn nhà thầu tróng thầu.
*Danh sách ngắn: Là danh sách các nhà thầu được thu hẹp qua các
bước đánh giá.
* Đóng thầu: Là thời điểm kết thúc việc nép hồ sơ dự thầu được quy
định trong hồ sơ mời thầu.
* Kết quả đấu thầu: Là nội dung phê duyệt của người có thẩm
quyền hoặc cấp có thẩm quyền về tên nhà thầu tróng thầu, giá tróng thầu và
loại hợp đồng.
* Bảo lãnh dự thầu: Là việc nhà thầu đặt một khoản tiền (tiền mặt,
séc, bảo lãnh của Ngân hàng hoặc hình thức tương đương) vào một địa chỉ với
một thời gian xác định theo quy định trong hồ sơ mời thầu để bảo đảm trách
nhiệm của nhà thầu với hồ sơ dự thầu.
* Bảo lãnh thực hiện hợp đồng: Là việc nhà thầu tróng thầu đặt một
khoản tiền (tiền mặt, séc, bảo lãnh của Ngân hàng hoặc hình thức tương

đương) vào một địa chỉ với một thời gian xác định theo quy định trong hồ sơ
dự thầu và kết quả đấu thầu để bảo đảm trách nhiệm thực hiện hợp đồng đã
ký.

II. ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG ĐẤU THẦU QUỐC TẾ
ĐỐI VỚI VIỆT NAM


1- Đặc điểm của đấu thầu:
Đấu thầu có những đặc điểm cơ bản như sau:
- Đấu thầu là một phương thức giao dịch đặc biệt, chỉ diễn ra ở một địa
điểm, trong một thời gian xác định trước.
- Đối tượng mua bán không nhất thiết phải là hàng hoá có sẵn mà mua
bán dùa vào tiêu chuẩn kỹ thuật, không nhất tiết phải là hàng hoá hữu hình mà
còn là dịch vụ.
- Trong đấu thầu chỉ có một người mua nhưng có nhiều người bán và
giá hình thành là giá thấp nhất.
- Mọi điều kiện giao dịch đều được quy định sẵn trừ giá cả.
- Đấu thầu thường bị chi phối từ các cơ quan quản lý nguồn vốn đầu tư
về một số điều kiện cũng như thủ tục pháp lý.
2- Vai trò của đấu thầu Quốc tế đối với Việt Nam
* Đối với Nhà nước
- Thực hiện đấu thầu Quốc tế là biện pháp quản lý tài chính có hiệu quả
và tăng cường các lợi Ých kinh tế xã hội khác. Qua đấu thầu sẽ tạo cơ sở để
đánh giá tiềm năng của các doanh nghiệp trong nước cũng như các đối tác
nước ngoài, ngăn chặn được những biểu hiện tiêu cực, tránh được sự thiên vị,
đặc quyền đặc lợi hay hiện tượng móc ngoặc… mà đây là nguồn gốc tạo ra
các hoạt động kinh tế không lành mạnh.
- Đấu thầu còn mang lại cho Nhà nước những sự đầu tư mới về công
nghệ, trang thiết bị máy móc hiện đại, tạo cơ sở hạ tầng để phục vụ quá trình

CNH, HĐH đất nước.
- Đấu thầu đem lại sự tiết kiệm trong vốn đầu tư của đất nước.


- Đấu thầu phản ánh được tính ưu việt của cơ chế thị trường bởi vì đấu
thầu dù được diễn ra dưới hình thức nào thì chúng đều phải tuân thủ các quy
luật kinh tế cơ bản mà đặc biệt là quy luật cạnh tranh, cho nên nó sẽ tạo ra sự
bình đẳng trong SXKD.
- Đấu thầu tạo điều kiện cho Việt Nam nhanh chóng hoà nhập vào nền
kinh tế Khu vực và Thế giới, trong khi quá trình Quốc tế hoá đang diễn ra cao
độ.

* Đối với chủ đầu tư
- Áp dụng phương thức đấu thầu sẽ giúp cho các chủ đầu tư lùa chọn
được nhà thầu có đủ năng lực cũng như kinh nghiệm để thực hiện dự án của
mình sao cho bảo đảm về chất lượng, kỹ thuật, đúng tiến độ thi công, giá
thành và điều kiện tín dụng hợp lý… Trên cơ sở đó tạo tiền đề vững chắc cho
sự thành công của chủ đầu tư khi dự án được đưa vào vận hành.
- Đấu thầu cũng góp phần chống lại tình trạng độc quyền về giá cả của
nhà thầu khi những người này có biểu hiện liên kết với nhau nhằm nâng giá
hàng hoá lên cao hơn so với giá trị thực tế của nó.

* Đối với nhà thầu
- Đấu thầu là hình thức bảo đảm sự công bằng và tạo cơ hội cho tất cả
các nhà cung cấp tiềm năng muốn tham dự cuộc đấu thầu.
- Thông qua đấu thầu sẽ kích thích nhà thầu nâng cao trình độ áp dụng
kỹ thuật, công nghệ hiện đại, đổi mới cung cách làm ăn để gia tăng uy tín và
chất lượng trong việc thực hiện các nghĩa vụ với chủ đầu tư.

III. NỘI DUNG CỦA HOẠT ĐỘNG ĐẤU THẦU



1- Cỏc nguyờn tc cn tuõn th trong u thu
- Nguyờn tc cnh tranh cụng khai vi iu kin ngang bng nhau.
- Nguyờn tc d liu y .
- Nguyờn tc ỏnh giỏ cụng bng.
- Nguyờn tc trỏch nhim phõn minh gia cỏc bờn liờn quan.
- Nguyờn tc ba ch th
- Nguyờn tc bớ mt mi thụng tin t thu ca cỏc n v t thu
- Nguyờn tc bo lónh v bo him chớnh ỏng

2- Hỡnh thc lựa chn nh thu v phng thc u thu
a/ Hỡnh thc u thu
u thu l vic ch u t lựa chn nh thu phự hp nht vi cỏc yờu
cu k thut cng nh ti chớnh m h ó a ra. Nhỡn chung cú th khỏi quỏt
hot ng u thu nh sau:
S 1: Khỏi quỏt hot ng u thu
Đa ra các yêu cầu

Chủ đầu t
(bên mời thầu)

Các nhà thầu
Chứng minh năng lực và đa ra
giải pháp thực hiện

Chọn nhà thầu

Hợp đồng
Ký kết


Theo Quy ch u thu ban hnh kốm vi Ngh nh s: 88/ 1999/ NCP ngy 1/ 9/ 1999 ca Chớnh ph thỡ hin nay cú cỏc hỡnh thc t chc u
thu sau:


* Đấu thầu rộng rãi
Là hình thức đấu thầu không hạn chế số lượng nhà thầu tham gia. Bên
mời thầu phải thông báo công khai về các điều kiện, thời gian dự thầu trên các
phương tiện thông tin đại chúng tối thiểu 10 ngày trước khi phát hành hồ sơ
mời thầu. Đấu thầu rộng rãi là hình thức chủ yếu được áp dụng trong đấu
thầu.
* Đấu thầu hạn chế
Là hình thức đấu thầu mà bên mời thầu mời một số nhà thầu (tối thiểu
là 5) có đủ năng lực tham dù. Danh sách nhà thầu tham dự phải được người
có thẩm quyền hoặc cấp có thẩm quyền chấp thuận.
* Chỉ định thầu
Là hình thức chọn trực tiếp nhà thầu đáp ứng yêu cầu của gói thầu để
thương thảo hợp đồng.
* Chào hàng cạnh tranh
Hình thức này được áp dụng cho những gói thầu mua sắm hàng hoá có
giá trị dưới 2 tỷ đồng. Mỗi gói thầu phải có Ýt nhất 3 chào hàng của 3 nhà
thầu khác nhau trên cơ sở yêu cầu chào hàng của bên mời thầu.
* Mua sắm trực tiếp
Hình thức này được áp dụng trong trường hợp bổ sung hợp đồng cũ đã
thực hiện xong (dưới 1 năm) hoặc hợp đồng đang thực hiện với điều kiện chủ
đầu tư có nhu cầu tăng thêm số lượng hàng hoá hoặc khối lượng công việc mà
trước đó đã được tiến hành đấu thầu, nhưng phải bảo đảm không được vượt mức
giá hoặc đơn giá trong hợp đồng đã ký trước đó. Trước khi ký hợp đồng, nhà
thầu phải chứng minh có đủ năng lực kỹ thuật và tài chính để thực hiện gói thầu.
* Tù thực hiện



Hình thức này chỉ được áp dụng đối với các gói thầu mà chủ đầu tư có
đủ năng lực thực hiện trên cơ sở tuân thủ các quy định của Chính phủ được
ban hành trong quy chế đấu thầu.
* Mua sắm đặc biệt
Hình thức này được áp dụng đối với các ngành hết sức đặc biệt mà nếu
không có những quy định riêng thì không thể đấu thầu được. Cơ quan quản lý
ngành phải xây dựng quy trình thực hiện bảo đảm các mục tiêu của quy chế
đấu thầu cũng như có ý kiến thoả thuận của Bộ kế hoạch và đầu tư để trình
Thủ tướng Chính phủ quyết định.

b/ Phương thức đấu thầu
* Đấu thầu một tói hồ sơ
Là phương thức mà nhà thầu nép hồ sơ dự thầu trong một tói hồ sơ.
Phương thức này được áp dụng đối với đấu thầu mua sắm hàng hoá và xây
dựng.

* Đấu thầu hai tói hồ sơ
Là phương thức mà nàh thầu nép đề xuất về kỹ thuật và đề xuất về giá
trong từng tói hồ sơ riêng vào cùng một thời điểm. Tói hồ sơ đề xuất kỹ thuật
sẽ được xem xét trước để đánh giá. Các nhà thầu đạt số điểm kỹ thuật từ 70%
trở lên sẽ được mở tiếp tói hồ sơ đề xuất về giá để đánh giá. Phương thức này
chỉ được áp dụng đối với đấu thầu tuyển chọn tư vấn.

* Đấu thầu hai giai đoạn
Quá trình thực hiện phương thức này như sau:


Giai đoạn thứ nhất: Các nhà thầu nép hồ sơ dự thầu sơ bộ gồm đề xuất về

kỹ thuật và phương án tài chính (chưa có giá) để bên mời thầu xem xét và
thảo luận cụ thể với từng nhà thầu, nhằm thống nhất về yêu cầu và tiêu chuẩn
kỹ thuật để nhà thầu chuẩn bị và nép hồ sơ dự thầu chính thức cuả mình.
Giai đoạn thứ hai: Bên mời thầu mời các nhà thầu tham gia trong giai
đoạn thứ nhất nép hồ sơ dự thầu chính thức với đề xuất kỹ thuật đã được bổ
sung hoàn chỉnh trên cùng một mặt bằng kỹ thuật và đề xuất chi tiết về tài
chính với đầy đủ nội dung về tiến độ thực hiện, điều kiện hợp đồng, giá dự
thầu.
3- Quy trình thực hiện đấu thầu
Theo tài liệu “Đấu thầu Quốc tế mua thiết bị vật tư và xây dựng công
trình theo thể thức hiệp hội Quốc tế các kỹ sư tư vấn (FIDK), Ngân hàng thế
giới (WB), Ngân hàng phát triển liên hiệp Mỹ” và thực tiễn hoạt động đấu
thầu tại Việt Nam những năm qua cho thấy, mặc dù các cuộc đấu thầu được tổ
chức nhằm phục vụ những mục đích khác nhau, song nhìn chung chúng đều
được tiến hành theo mét quy trình như sau:
THỂ THỨC, TRÌNH TÙ ĐẤU THẦU TỔNG QUÁT


A- Thể thức dự sơ tuyển cho người ứng thầu
1. Mời các nhà thầu dự sơ tuyển.
2. Phát và nép các tài liệu dự sơ tuyển.
3. Phân tích các số liệu dự sơ tuyển, lùa chọn và thông báo danh sách các

ứng thầu.
B- Thể thức để nhận đơn thầu
4. Soạn thảo tài liệu đấu thầu.
5. Phát tài liệu đấu thầu.
6. Các ứng thầu đi thăm công trường.
7. Sửa đổi, bổ sung tài liệu đấu thầu.
8. Thắc mắc của các ứng thầu, cách sử lý.

9. Nép và nhận đơn thầu.

C- Thể thức mở và đánh giá các đơn thầu
10. Mở đơn thầu.
11. Đánh giá đơn thầu.
12. Ký hợp đồng giao thầu.

4- Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động đấu thầu
Đấu thầu là một hoạt động phức tạp, nó liên quan đên nhiều bên tham
gia và nhiều lĩnh vực thực hiện. Do đó khi nói về các nhân tố ảnh hưởng tới
hoạt động đấu thầu, chúng ta cũng phải xét từ nhiều góc độ khác nhau. Song
nổi bật nhất có những nhóm nhân tố như sau:
- Ảnh hưởng của môi trường pháp lý.


- Ảnh hưởng của những người thực hiện đấu thầu.
- Ảnh hưởng của thị trường và mức độ cạnh tranh.
- Ảnh hưởng của thông tin.
- Ảnh hưởng của khoa học công nghệ.

Có thể nói, tất cả các nhân tố trên đều ảnh hưởng tới hiệu quả của hoạt
động đấu thầu. Tuy nhiên sự tác động của mỗi nhân tố lại ở các mức độ cũng
như phương diện khác nhau, nhưng nhìn chung nhân tố nào cũng có hai mặt:
tích cực và tiêu cực. Do đó khi tham gia đấu thầu, các doanh nghiệp cần phải
biết phát huy mặt mạnh của từng nhân tố, tạo ra những mối quan hệ mật thiết
giữa chúng để nhân tố này sẽ là cơ sở cho các nhân tố khác. Bên cạnh đó thì
doanh nghiệp cũng phải có biện pháp nhằm hạn chế bớt mặt yếu của các nhân
tố đã nêu, từ đấy làm nổi bật ưu thế của mình hơn hẳn đối thủ cạnh tranh
trong nước và Quốc tế.


Trên cơ sở những nguyên lý cơ bản về đấu thầu Quốc tế cũng
như vai trò và vị trí của hoạt động đấu thầu đối với nền Kinh tế quốc
dân đã được trình bày ở trên, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu nói
chung và Công ty Machino – Import nói riêng cần phải coi đây là
một trong các phương thức nhập khẩu máy móc thiết bị tối ưu nhất, đặc
biệt khi chóng ta đang tiến hành kinh doanh trong điều kiện hội nhập và
cạnh tranh Quốc tế khốc liệt.


CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG THAM GIA ĐẤU THẦU NHẬP
KHẨU
TẠI CÔNG TY MACHINO - IMPORT HÀ NỘI
I. ĐÁNH GIÁ KHÁI QUÁT VỀ TÌNH HÌNH ĐẤU THẦU QUỐC TẾ TẠI
VIỆT NAM THỜI GIAN QUA
Nếu xét về mặt lịch sử, hình thức đấu thầu đã xuất hiện ở Việt Nam từ
thời kỳ Pháp thuộc. Khi đó, các nhà thầu được gọi dưới cái tên là nhà thầu
khoán. Cho đến khi đất nước hoàn toàn giải phóng, Nhà nước ta đã tổ chức
cuộc đấu thầu Quốc tế đầu tiên vào năm 1979 để xây dựng công trình thuỷ lợi
Dầu Tiếng bằng vốn vay từ Ngân hàng phát triển Châu Á.
Cùng với những chính sách phát triển kinh tế đúng đắn và chiến lược
thu hót vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, bao gồm cả vốn đầu tư trực tiếp
(FDI) cũng như vốn đầu tư gián tiếp (chủ yếu là vốn vay ODA và quỹ tín
dụng Quốc tế) đã, đang và sẽ tạo điều kiện cho hoạt động đấu thầu tại nước ta
ngày một phát triển.
Để quản lý tốt hoạt động đấu thầu, ngày 31/ 11/ 1992, Thủ tướng Chính
phủ đã ban hành quyết định 91/ TTG quy định về quản lý XNK máy móc tiết
bị. Ngày 30/ 3/ 1994, Bộ xây dựng có quyết định 60/ BXD - VKT ban hành
Quy chế đấu thầu xây lắp. Ngày 17/ 1/ 1996, Bộ tài chính ra quyết định số 20
TC/ KBNN ban hành Quy chế mua sắm đồ dùng, trang thiết bị, phương tiện

bằng nguồn kinh phí từ ngân sách Nhà nước cho các lực lượng vũ trang, đoàn
thể, cơ quan Nhà nước. Ngày 16/ 7/ 1996, Chính phủ ban hành Quy chế đấu
thầu. Sau đó Quy chế này được sửa đổi, bổ sung bằng hàng loạt các Nghị định


43/ NĐ- CP ngày 23/ 8/ 1997, Nghị định 88/ 1999/ NĐ- CP ngày 1/ 9/ 1999,
Nghị định 14/ 2000 NĐ- CP ngày 5/ 5/ 2000 và Thông tư số 04/ 2000/ TTBKH hướng dẫn thực hiện Quy chế đấu thầu.
Mấy năm gần đây hoạt động đấu thầu Quốc tế ở Việt Nam đã từng
bước đi vào nề nếp. Nhờ có đấu thầu, các chủ đầu tư có thể lùa chọn nhà thầu
đáp ứng được các yêu cầu cơ bản của dự án. Các cơ quan quản lý Nhà nước
có đủ thông tin thực tế và cơ sở khoa học để đánh giá đúng năng lực thực sự
(tài chính, khoa học kỹ thuật, cơ sở vật chất…) của các nhà thầu. Cũng nhờ
đấu thầu mà hiệu quả của dự án đầu tư được nâng cao, tiết kiệm cho Nhà
nước hàng trăm tỷ đồng, trung bình từ 8%- 15% so với dự toán ban đầu. Ví
dự như: Công trình xây dựng đường cao tốc Láng – Hoà Lạc, kết quả tróng
thầu cuối cùng của gói thầu số 10 (km 27 đến km 30) là 6,94 tỷ đồng. Trong
khi giá ước tính ban đầu là 17 tỷ đồng.
Về phía nhà thầu, qua đấu thầu, họ đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm
trong cạnh tranh, tiếp thu được những kiến thức về khoa học công nghệ tiên
tiến trong việc xây dựng dự án lớn, có điều kiện để khẳng định mình ở hiện
tại và trong tương lai, có cơ sở để cạnh tranh trên thương trường trong nước
và Quốc tế.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được thì hoạt động đấu thầu
Quốc tế ở Việt Nam cũng đã bộc lé nhiều hạn chế như: giá dự thầu thường bỏ
thấp hơn giá trị thực tế của thiết bị để tróng thầu hay có sự thông đồng giữa
chủ đầu tư và nhà thầu…. Chính các tồn tại này đã gây ra những cản trở, ách
tắc khiến cho đấu thầu vẫn chưa thực sự phát huy được thế mạnh vốn có của
nó, đồng thời làm nảy sinh các hiện tượng tiêu cực, gây tổn hại không nhỏ
cho nền Kinh tế quốc dân.

a/ Những bất cập trong giá dự thầu


Trong cuộc chạy đua trên thương trường, giá dự thầu là một trong
những nhân tố quyết định việc được hay mất của mỗi nhà thầu. Thời gian gần
đây, giá dự thầu được bỏ thấp đến mức chóng mặt bởi nhu cầu bức bách về
việc làm, bởi sự thất bại khá nhiều ở các gói thầu trước mà một số nhà thầu đã
không lùa được sức mình. Đôi khi giá bỏ thầu thấp hơn giá thành đến chục
phần trăm và hậu quả là nhà thầu phải chấp nhận thua lỗ hoặc nguy cơ bỏ dở
công trình để chịu phạt.
Tiếp nữa là phong trào “thư giảm giá”. Tất nhiên các nhà thầu đều có
quyền đưa thư giảm giá trước giê mở thầu. Trong một cuộc mở thầu có đến
70%- 80% số nhà thầu gửi thư giảm giá từ 5% - 25%, giảm đều cho tất cả
hạng mục hoặc từng hạng mục.
Hiện tại có một số gói thầu đã và đang được thực hiện với giá thắng
thầu chỉ bằng 40%- 50%, thậm chí là 35% ước tính ban đầu. Rõ ràng là thắng
thầu như vậy thì chúng ta mới chỉ thấy cái “được” trước mắt mà không thấy
cái “mất” lâu dài. Cái “được” đó là việc làm, còn cái “mất” có thể là rất nhiều.
Đầu tiên là mất lãi, sau đó ảnh hưởng đến chất lượng công trình, dẫn đến mất
uy tín, rồi đến sự tồn tại và phát triển của nhà thầu, đặc biệt là đời sống của
cán bộ công nhân viên không được đảm bảo. Vậy ai “mất”? Tính đến cùng
vẫn là Nhà nước vì nhà thầu làm ăn không có lãi thì khó có thể hoàn thành
nghĩa vụ nép ngân sách. Hơn nữa, do không có lãi nên nhà thầu khó mà tích
luỹ được và như vậy cơ hội đầu tư mở rộng quy mô cũng không có.
Đã đến lúc phải lên tiếng cảnh báo các nhà thầu Việt Nam khi tham gia
đấu thầu trong nước hay Quốc tế cần phải cân nhắc giữa cái “được” và cái
“mất” để sử dụng nguồn vốn đầu tư có hiệu quả.

b/ Tổ chức đấu thầu còn mang tính hình thức, thiếu hiệu quả



- Tiêu cực trong đấu thầu, đây là vấn đề có thật nhưng nó có ở từng
mức độ, từng nơi, từng lúc và không giống nhau cũng như không phải là toàn
bộ trong hoạt động đấu thầu. Tuy nhiên hiện tượng tiêu cực vẫn còn, từ đó
xảy ra đấu thầu giả hay nói cách khác, đấu thầu chỉ còn là hình thức. Đặc biệt
trong đấu thầu hạn chế, các nhà thầu thường thoả thuận ngầm để cho một nhà
thầu thắng. Vì vậy, việc tổ chức đấu thầu rộng rãi sẽ thu hẹp tối đa việc móc
ngoặc giữa các nhà thầu.
- Ngoài ra, do những bí mật không cần thiết đã tạo điều kiện để xuất
hiện các tiêu cực khác như: tiêu chuẩn xét thầu thường lồng ghép trong đó
những ý đồ chủ quan hướng vào nhà thầu nào mà chủ đầu tư đã có ý định lùa
chọn trước. Ngược lại các nhà thầu khác cầm chắc thất bại trong một cuộc
chơi không công bằng mà trên thực tế khó nhận biết được.
- Thêm vào đó, sự móc ngoặc với bên mời thầu là chiến thuật đưa giá
dự thầu thấp để nắm chắc khả năng thắng thầu. Sau đó khi thực hiện hợp
đồng, chủ đầu tư và nhà thầu cùng thống nhất bổ sung khối lượng phát sinh
hoặc thay đổi một phần thiết kế. Có những gói thầu giá trị khối lượng phát
sinh lên đến vài chục tỷ đồng.
Những trường hợp thông đồng, móc ngoặc nêu trên đang làm cho đấu
thầu trở thành phương tiện “giảng hoà” việc giao thầu giữa chủ đầu tư và nhà
thầu.

c/ Những yếu kém trong khâu quản lý Nhà nước đối với hoạt động đấu
thầu
Đầu mối quản lý về đấu thầu ở cấp địa phương vẫn chưa có sự thống
nhất triệt để. Nhiều địa phương giao cho Sở kế hoạch và đầu tư đảm nhiệm
phần việc này. Song cũng có địa phương lại bổ nhiệm những đơn vị khác như
Sở xây dựng hoặc một bộ phận thuộc văn phòng Uỷ ban nhân dân phụ trách.



- Việc phân cấp, phân quyền, để rồi phân trách nhiệm đi kèm với mặt
“được” thì mặt trái của nó cũng bộc lé rất rõ. Đó là tính chuyên môn hoá
không cao dẫn đến việc thực hiện công tác đấu thầu còn lúng túng, nhất là đối
với các gói thầu có quy mô lớn, đòi hỏi công nghệ phức tạp.
Một ví dụ điển hình là: Mặc dù trong Quy chế đấu thầu đã quy định rất
rõ ràng việc phân bổ cấp xét duyệt và thẩm định các gói thầu, cụ thể: Đối với
gói thầu mua sắm hàng hoá thuộc ngành I (công nghiệp điện, dầu khí, hoá
chất, chế tạo máy, xi măng, luyện kim, khai thác chế biến khoáng sản, giao
thông cầu, cảng, bến, sân bay, đường sắt, đường quốc lé) có giá trị từ 100 tỷ
đồng trở lên sẽ do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, còn Bộ kế hoạch và đầu
tư thẩm định…nhưng trên thực tế vẫn có địa phương tự ý tổ chức thẩm định,
vừa trái với quy định của pháp luật, vừa gây mất thời gian và trùng lặp công
việc.
- Theo quy định thì trước khi đấu thầu phải trình duyệt kế hoạch đấu
thầu và sau khi đấu thầu phải thông báo kết quả đấu thầu. Song do sự buông
lỏng trong quản lý nên có gói thầu đã được duyệt kế hoạch đấu thầu nhưng
vẫn không nói rõ đấu thầu mở rộng hay đấu thầu hạn chế … nhằm mục đích
gián tiếp loại bỏ các nhà thầu Việt Nam mà vẫn hợp pháp.

d/ Nội dung của những văn bản phảp quy về đấu thầu thiếu sự nhất
quán, chưa cụ thể, nhiều vấn đề còn bỏ sót
- Trong Quy chế đấu thầu chưa làm rõ được các hình thực lùa chọn nhà
thầu và phương thực thực hiện hợp đồng như: ngoài hình thức đấu thầu rộng
rãi, đấu thầu hạn chế còn có những hình thức giản đơn hơn (chào hàng cạnh
tranh, mua sắm trực tiếp…) Những hình thức này trong Quy chế có đề cập
nhưng chưa hướng dẫn cách vận dụng, do đó có hiện tượng tranh cãi khi thực
hiện, thậm chí còn kiện cáo cho là chào hành cạnh tranh là tiêu cực, là sai.


- Ngoài ra khi lập hồ sơ mời thầu, nội dung về lùa chọn nhà thầu khi

thực hiện hợp đồng “chìa khoá trao tay”, hợp đồng trọn gói hoặc hợp đồng có
điều chỉnh giá chưa được làm rõ. Trong khi đó, đây lại là những vấn đề hết
sức hệ trọng đối với đơn vị cấp quyết định đầu tư và chủ đầu tư.
- Do các dự án có vốn đầu tư nước ngoài có nhiều nguồn khác nhau,
mỗi loại lại có đặc điểm riêng mà các tổ chức cho vay vốn buộc nước đi vay
phải làm theo những quy định của họ. Trong Quy chế đấu thầu của Việt Nam
đã đề cập đến việc ưu tiên cho các nhà thầu trong nước khi tham gia đấu thầu
Quốc tế nhưng thực chất chưa được làm rõ, cụ thể hoá, nên thực tiễn các nhà
thầu của ta vẫn chưa được hưởng lợi thế này.
- Qua nghiên cứu Nghị định 14/ 2000/ NĐ- CP về việc sửa đổi, bổ sung
một số điều của Quy chế đấu thầu thì vấn đề về quản lý sau hợp đồng vẫn
chưa được quan tâm đến. Thêm vào đó, vấn đề quản lý kho dữ liệu thầu cũng
vô cùng cần thiết song trong Nghị định mới chỉ dừng lại ở việc bảo mật lúc
thực hiện các khâu nhận và đánh giá hồ sơ dự thầu. Còn sau khi ký hợp đồng
rồi thì kho dữ liệu trên chưa được quy định cụ thể để quản lý cũng như sử
dụng.

e/ Tồn tại trong vấn đề nhân sự
- Do hoạt động đấu thầu còn khá mới mẻ ở nước ta, cộng thêm sự điều
chỉnh nhiều lần quy chế đấu thầu khiến cho những cán bộ trong lĩnh vực đấu
thầu của chúng ta vẫn chưa có đủ năng lực và kinh nghiệm chuyên môn cần
thiết, đặc biệt ở các khâu quan trọng như: soạn thảo hồ sơ mời thầu hay đánh
giá hồ sơ dự thầu.
- Ngoài ra, do hạn chế các thông tin về công nghệ và giá cả Quốc tế,
thiếu chuyên gia giỏi cả kỹ thuật lẫn ngoại ngữ nên ta gặp không Ýt khó khăn
khi tiến hành tổ chức đấu thầu. Chính vì thế mà chủ đầu tư thường thuê các


chuyên gia tư vấn Quốc tế xét duyệt hồ sơ dự thầu, dẫn đến kết quả đánh giá
nhiều khi không sát thực với tình hình của Việt Nam.

- Có thể nói, bên cạnh một vài công ty xây lắp của nước ta có khă năng
tróng thầu trong những cuộc đấu thầu Quốc tế xây dựng công trình, còn phần
lớn nhà thầu nội địa không đủ sức đọ với các nhà thầu nước ngoài. Tuy vậy
hầu như các nhà thầu Việt Nam Ýt được làm tổng thầu, tỷ lệ thầu chính thấp,
đa số làm thầu phụ. Mà giá cả thầu phụ thường bị nhà thầu chính nước ngoài
bắt chẹt dưới các hình thức gọi phiếu chào giá từmg công việc tới nhà thầu
Việt Nam, rồi sau đó chọn giá thấp nhất để hợp đồng giao việc. Có nhà thầu
của ta tham gia đấu thầu bằng văn bản ghi nhớ, những khi thắng thầu chỉ
được làm một phần, còn lại nhà thầu nước ngoài giao cho nhà thầu phụ Việt
Nam khác với giá thấp hơn. Có trường hợp nhà thầu nước ngoài đơn phương
cắt hợp đồng đối với nhà thầu Việt Nam hoặc nhà thầu thắng thầu bán lại cho
các nhà thầu khác.

g/ Kết quả đấu thầu còn chịu nhiều áp lực từ phía người góp vốn
Để có thể đáp ứng được nhu cầu đầu tư xây dựng đất nước thì lượng
vốn cần phải huy động là rất lớn. Một trong các nguồn vốn đầu tư chủ yếu
vào nước ta những năm gần đây đều có xuất xứ từ nguồn vốn cho vay phát
triển chính thức (ODA) của các tổ chức tài chính Quốc tế, điển hình là Ngân
hàng thế giới (WB) và Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB).
Khi nhận những nguồn vốn này đồng thời phía Việt Nam cũng phải
đảm đương nghĩa vụ tổ chức các cuộc đấu thầu cạnh tranh nhằm tối đa hoá
hiệu quả của đồng vốn đầu tư. Những chính các hiện tượng tiêu cực lại bắt
nguồn từ đây và đang tồn tại trên tầm vĩ mô. Sở dĩ như vậy là do, phần lớn
ODA mà chúng ta xin được đều nhờ các công ty hay tập đoàn khổng lồ và từ
đó vô hình đã hình thành nên một chuỗi liên kết chặt chẽ hay mét chu trình


khép kín giữa nhà thầu, người cấp vốn đến chủ đầu tư mà chúng ta khó có thể
cưỡng lại nổi. Cho nên nhiều khi đấu thầu chỉ là vỏ bọc bên ngoài, còn kết
quả của nó thường bị quay ngược 180 khi càng đi vào tới những vòng trong

cùng. Về mặt nguyên tắc, điều này là bất hợp lý. Song nó vẫn đang tồn tại và
trở thành nỗi lo âu đè nặng lên vai các nhà quản lý hoạt động đấu thầu Quốc
tế ở nước ta.

II. THỰC TRẠNG THAM GIA ĐẤU THẦU NHẬP KHẨU TẠI CÔNG TY
MACHINO - IMPORT HÀ NỘI
1- Quá trình hình thành và phát triển của Công ty Machino-Import Hà
Nội
a/ Quá trình hình thành và phát triển của Công ty
Từ khi chuyển sang cơ chế thị trường, Chính phủ đã cho phép nhiều
đơn vị được kinh doanh xuất nhập khẩu máy móc thiết bị nên Tổng công ty
Máy và Phụ tùng không còn giữ vị trí độc quyền trong lĩnh vực này. Cùng với
các doanh nghiệp quốc doanh khác, Tổng công ty chuyển sang hạch toán độc
lập, lời ăn, lỗ chịu, Nhà nước không bao cấp hoàn toàn như trước đây. Đứng
trước những khó khăn đó, ban lãnh đạo Tổng công ty đã quyết định thành lập
thêm một công ty thành viên thứ 10. Và Quyết định số 1930/ QĐ/ TM- TC
của Bộ thương mại ban hành ngày 19/ 12/ 1995 với chủ trương tách các
phòng kinh doanh từ văn phòng Tổng công ty Máy và Phụ tùng đã cho ra đời
Công ty Machino-Import Hà Nội. Nhưng mãi đến ngày 1/ 4/ 1996, Công ty
Machino- Import Hà Nội mới chính thức đi vào hoạt động.
Mặc dù xuất hiện muộn nhất so với nhiều đơn vị trực thuộc khác, song
Machino-Import Hà Nội luôn được coi là hình ảnh tiêu biểu cho Tổng công ty
Máy và Phụ tùng. Công ty có trên 90% cán bộ của Công ty có trình độ đại
học, trong đó có trên 50% cán bộ là kỹ sư kỹ thuật được đào tạo trong và


ngoài nước về các lĩnh vực: Cơ khí chế tạo, động lực ô tô, tàu hoả, tàu thuỷ,
máy bay, điện tử tin học, máy công nghiệp nhẹ, thực phẩm, máy móc thiết bị
và dây chuyền sản xuất đồng bộ…Ngoài ra đội ngò cán bộ công nhân viên
trong Công ty còn có trình độ và khả năng làm việc trong lĩnh vực thiết kế,

công nghệ. Do thường xuyên có sự thay đổi cơ bản trong cung cách quản lý
lãnh đạo, cũng như có sự cải tiến trong bộ máy tổ chức nên mặc dù vẫn còn
nhiều tồn tại và hạn chế song Công ty cũng đã gặt hái được những thành công
nhất định thể hiện ở tổng doanh thu, tổng lợi nhuận và thu nhập bình quân của
Công ty ngày càng gia tăng, đời sống của cán bộ công nhân viên ngày càng
cải thiện. Có được thành tích như vậy là nhờ Công ty Machino-Import luôn
thực hiện triệt để các chính sách đổi mới mà Đảng và Nhà nước đề ra, cộng
thêm việc tích cực, chủ động trong sản xuất kinh doanh, đa dạng hoá lĩnh vực
và mặt hàng kinh doanh, đa phương hoá các mối quan hệ bạn hàng.
Hiện nay, tuy phụ thuộc trực tiếp vào Tổng công ty Máy và Phụ tùng
nhưng Công ty Machino-Import Hà Nội vẫn hoạt động theo chế độ hạch toán
kinh tế tự chủ, có tư cách pháp nhân và có tài khoản riêng tại Ngân hàng.
- Tại Ngân hàng Ngoại thương


Tài khoản đồng Việt Nam: 001.1.00.0019630



Tài khoản ngoại tệ (USD): 001.1.37.0086444



Tài khoản ngoại tệ (DEM): 001.1.40.0090942



Tài khoản ngoại tệ (FRF): 001.1.38.0088761

- Tại Ngân hàng Eximbank Hà Nội



Tài khoản đồng Việt Nam: 4311.01.000102771



Tài khoản ngoại tệ (USD): 4321.01.371102771

- Tại Ngân hàng Công thương Hà Nội- chi nhánh Ngân hàng Công
thương khu vực II- Quận Hai Bà Trưng- Hà Nội


Sè tài khoản: 710A.00118



- Tên giao dịch của Công ty: Công ty xuất nhập khẩu Máy Hà Nội ( Hà
Nội Machinery Import- Export Company)
Tên viết tắt: MACHINOIMPORT HANOI



- Vốn đăng ký kinh doanh: 5.100.000.000 VNĐ ( Năm tỷ một trăm
triệu đồng Việt Nam)
Trong đó  Vốn cố định: 2.100.000.000 ( Hai tỷ một trăm triệu đồng Việt
Nam)


Vốn lưu động: 3.000.000.000 ( Ba tỷ đồng Việt Nam)


- Mã thuế VAT: 0100107701-1
Cho đến nay, sau 15 năm đổi mới, Công ty Machino – Import đã tìm được
chỗ đứng cho mình trên thị trường Quốc gia và thị trường Quốc tế. Năm 2001,
năm chuyển giao thiên niên kỷ, trải qua biết bao thăng trầm trong con đường
phát triển của mình, Công ty đã tự rót ra nhiều bài học kinh nghiệm quý báu từ
thực tiễn sản xuất kinh doanh và luôn luôn phát huy sáng kiến, nghiên cứu tìm
tòi các biện pháp mới để không ngừng thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu đi lên.
2- Đặc điểm hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty
Machino-Import Hà Nội
Là một Công ty đa chức năng, phạm vi hoạt động rộng lớn trên nhiều
lĩnh vực cho nên các mặt hàng kinh doanh của Công ty cũng rất phong phú.
Nếu như trước những năm 1990, Công ty chỉ chuyên môn hoá xuất nhập khẩu
máy móc , thiết bị lẻ, phụ tùng, sau đó mở rộng sang cả thiết bị toàn bộ, tư
liệu sản xuất, thì đến nay, trong cơ chế kinh tế mới, Công ty kinh doanh bất
kể hàng hoá gì mà thị trường có nhu cầu và khả năng của Công ty có thể đáp
ứng được. Tuy nhiên, phải khẳng định rằng, xuất nhập khẩu máy móc thiết bị,
phụ tùng vẫn là thế mạnh, là hoạt động kinh doanh chủ yếu của Công ty.


Không giống như những ngành nghề khác, các mặt hàng xuất nhập
khẩu của Công ty Machino-Import thường có giá trị rất lớn, đồng thời chúng
đòi hỏi phải đảm bảo các tiêu chuẩn, thông số kỹ thuật nhất định, phải đồng
bộ và phù hợp với tiến độ thi công của khách hàng. Trong khi đó, thị trường
cung ứng thường là một chiều, tức là đa số từ phía các quốc gia tiên tiến. Do
những đặc điểm trên nên buộc Công ty phải nắm chắc các nghiệp vụ xuất
nhập khẩu và có chiến lược kinh doanh đúng đắn để đem lại hiệu quả kinh tế
cao cho Công ty và cho đất nước.
3- Thực trạng tham gia đấu thầu nhập khẩu của Công ty MachinoImport Hà Nội
a/ Tổ chức hoạt động đấu thầu của Công ty
Như đã đề cập ở chương II, với quyết định số 1930/ QĐ/ TM- TC ngày

19/ 12/ 1995 của Bộ thương mại, Công ty Machhino-Import Hà Nội chính
thức ra đời. Đến ngày 16/ 7/ 1996, Nhà nước ban hành Quy chế đấu thầu kèm
Nghị định 43/ CP là cơ sở pháp lý đầu tiên cho hoạt động đấu thầu tại Việt
Nam. Nhận thức được tầm quan trọng của phương thức giao dịch mua bán
Quốc tế này đối với sự phát triển của hoạt động ngoại thương của đất nước
nói chung và Công ty nói riêng trong tương lai, ngày 25/ 11/ 1997 ban lãnh
đạo Công ty Machino-Import đã triệu tập cuộc họp có sự tham gia của Hội
đồng quản trị Tổng công ty Máy & Phô tùng để phê duyệt việc tổ chức, điều
hành công tác đấu thầu trong Công ty, cụ thể là thành lập Ban quản lý hoạt
động đấu thầu, đồng thời quán triệt đây sẽ là một hoạt động kinh doanh chủ
đạo của Công ty thời gian tới.
Chức năng của Ban quản lý hoạt động đấu thầu là giúp Giám đốc cùng
các trưởng phòng kinh doanh xem xét tất cả những vấn đề liên quan tới lĩnh
vực đầu thầu ở Công ty, đặc biệt là việc ký kết hợp đồng thương mại khi
Công ty tróng thầu. Nhiệm vụ này rất quan trọng bởi vì chỉ một sơ xuất nhỏ


×