MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Tất thảy chúng ta đều lớn lên từ những câu hát ru đằm thắm tình người,
những câu chuyện hấp dẫn giàu tính nhân văn của bà, của mẹ. Như một bản
năng, trẻ em rất thích nghe kể chuyện, “Buổi tối, tôi thường nghe chuyện cổ
tích và lấy việc đó bù đắp những thiếu sót trong sự giáo dục đáng nguyền rủa
của mình. Mỗi truyện cổ tích ấy mới đẹp đẽ làm sao! Mỗi truyện là một bài
ca” (Puskin). Trẻ em ngây thơ và tâm hồn trong sáng, luôn luôn hướng thiện,
mỗi câu chuyện đến với các em bao giờ cũng được đón nhận nồng hậu, sâu
sắc, đặc biệt là học sinh tiểu học. Chính vì thế, việc dạy học sinh tiểu học biết
cách kể chuyện là rất cần thiết. Quả thực tâm lý chung của các em tiếp nhận
các bài học lời khuyên trong cuộc sống qua các câu chuyện bao giờ cũng
thấm thía, nhẹ nhàng đi vào lòng các em hơn là các triết lí, giáo huấn khô
cứng. Học sinh tiểu học luôn có nhu cầu giao tiếp với thế giới xung quanh.
Mỗi câu chuyện là một không gian, một thế giới đẹp đẽ để giúp các em hiểu
biết và nhận thức cuộc sống bên ngoài.
Kho tàng văn học dân gian xưa nay vốn là kho kinh nghiệm sống quý
báu của ông cha. Nhân dân ta, từ xưa đến nay vẫn thường dùng các câu
chuyện kể để giáo dục nhẹ nhàng, từ nhỏ là những câu chuyện ngắn đầy ý
nghĩa giáo dục, lớn lên là những câu chuyện lao động. Truyện trở thành thứ
không thể thiếu ở mỗi người, con đường lựa chọn tốt nhất để chúng ta tiếp
xúc với thế giới là qua những câu chuyện. Mỗi chuyện luôn là kho tàng mới lạ
mở ra những điều kì diệu, lí thú và hấp dẫn về sự ngộ nghĩnh và đầy ý nghĩa
của các nhân vật, cốt truyện. Nhưng ngày nay, cuộc sống hiện đại chạy đua
theo thời gian khiến các em không được tiếp xúc nhiều với những câu chuyện
mà chủ yếu là vi tính, điện tử, truyện tranh, những câu chuyện đời thường
trong cuộc sống và gia đình. Trẻ em có khi bắt buộc phải nắm được kiến thức,
3
tri thức khoa học, không còn thời gian để nghe những câu chuyện bình dị đơn
giản mà giáo dục nhẹ nhàng sâu sắc.
Điều mà chúng ta có thể nhận thấy rõ ràng là việc tiếp thu những bài học
từ câu chuyện kể là dễ dàng hơn so với việc nghe một giáo lí khô cứng một
cách đơn thuần. Nhưng mỗi một thể loại truyện lại có một “không khí” riêng
cho việc tiếp thu nó, và chính những môi trường sinh hoạt tập thể đã tạo nên
một không khí riêng cho việc tiếp thu một câu chuyện. Hãy so sánh việc đọc
truyện thần thoại, truyền thuyết trên những trang sách với việc được nghe kể
chuyện trong một buổi tối quây quần mùa đông, bên bếp lửa bập bùng với
một giọng kể hào hùng của những già làng, trưởng bản. Hay việc đọc truyện
cổ tích đơn thuần so với việc vào buổi tối, ngồi bên bà và nghe bà kể chuyện,
ba bốn đứa trẻ vòng quanh trước mặt bà và cùng bình luận về ý nghĩa của mỗi
câu chuyện mà ta được nghe bà kể.
Tuy nhiên, việc tạo ra được những môi trường sinh hoạt như vậy là rất
khó với cuộc sống hiện đại. Người giáo viên tiểu học, những người giữ vai trò
làm cầu nối giữa học sinh với các câu chuyện phải biết cách giúp học sinh
cảm thấy gần gũi với những câu chuyện ấy. Để học sinh có thể yêu thích kể
chuyện và lĩnh hội được nội dung câu chuyện cũng như phát triển được trí
tưởng tượng, óc sáng tạo, thẩm mĩ và nhân cách thông qua môn học kể
chuyện thì đòi hỏi giáo viên phải biết cách kể chuyện theo đúng đặc trưnng
của từng thể loại. Vì khi trẻ nắm được cách kể chuyện theo đúng đặc trưng
thể loại thì câu chuyện sẽ hay hơn, sinh động hơn. Từ đó, trẻ có hứng thú với
việc tìm hiểu các câu chuyện và nội dung của nó. Muốn câu chuyện đến với
trẻ thật hấp dẫn, đọng lại trong tâm trí trẻ thì những biện pháp dạy học sinh kể
chuyện phải như một cầu nối giữa trẻ với câu chuyện.
Như vậy, việc dạy học sinh tiểu học kể chuyện theo đúng đặc trưng thể
loại là điều kiện quan trọng giúp các em nắm rõ nội dung, ý nghĩa của từng
4
câu chuyện bởi mỗi thể loại truyện khác nhau lại có những cách thể hiện khác
nhau giúp người nghe dễ dàng lĩnh hội được toàn bộ nội dung và ý nghĩa của
câu chuyện. Từ đó, hình thành nên những đức tính tốt đẹp của con người. Các
câu chuyện đó sẽ giúp các em thư giãn, kích thích hứng thu học tập và hình
thành nhân cách cho trẻ em, góp phần bảo tồn và phát huy kho tàng văn học
dân gian của dân tộc. Chính vì những lí do trên mà chúng tôi lựa chọn đề tài:
“Dạy học sinh tiểu học kể chuyện theo đặc trưng thể loại” để đi sâu nghiên
cứu, đề xuất một số biện pháp dạy học sinh tiểu học kể chuyện nhằm xây
dựng kĩ năng kể chuyện cho học sinh.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Kể chuyện ở tiểu học là một phân môn học lí thú và hấp dẫn. Vấn đề kể
chuyện và dạy kể chuyện cho học sinh tiểu học đã được rất nhiều tác giả đề
cập đến.
Nổi bật trong số đó là tác giả Chu Huy với cuốn: “Dạy kể chuyện ở
trường tiểu học”, xuất bản năm 2000, Nxb Giáo dục. Trong cuốn sách này,
tác giả đề cập đến cơ sở lí luận và thực tiễn của việc dạy kể chuyện, về nhu
cầu kể chuyện của trẻ, về các loại truyện dùng trong trường tiểu học. Đặc biệt,
tác giả còn đề cập đến những biện pháp dạy phân môn Kể chuyện ở các lớp
bậc tiểu học. Đây là cuốn sách hỗ trợ đắc lực cho các giáo viên tiểu học.
Tác giả Đàm Hồng Quỳnh trong cuốn “Phương pháp dạy học Tiếng Việt
1” đã đề cập đến phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học
Tiếng Việt 1, trong đó có Kể chuyện lớp 1.
Với cuốn “Phương pháp dạy học Tiếng Việt” của Bộ Giáo dục vào Đào
tạo phát hành năm 1993, các tác giả Lê A – Thành Thị Yên Mĩ – Lê Phương
Nga – Nguyễn Trí đã đưa ra vị trí, vai trò của phân môn Kể chuyện đối với
5
học sinh tiểu học. Từ đó, nhóm tác giả cũng đưa ra ý kiến của mình về
phương pháp dạy học hiệu quả cho phân môn Kể chuyện.
Tác giả Nguyễn Long Hải đã xây dựng đề tài: “Dạy học kể chuyện sáng
tạo cho học sinh lớp 2,3” nhằm giúp học sinh biết cách kể, kể đúng kể hay
một câu chuyện. Hơn thế nữa, các em biết cách kể chuyện sáng tạo như nhập
vai một nhận vật kể lại chuyện, thay tác giả kể lại chuyện,… Các em có rất
nhiều hình thức để kể chuyện theo giọng tự nhiên của mình.
Quá trình dạy học là một quá trình nghệ thuật, khoa học, phức tạp, tinh
tế, độc đáo. Đối với phân môn Kể chuyện thì đặc điểm này càng được bộc lộ
đầy đủ, rõ ràng. Người giáo viên dạy Kể chuyện phải tìm hiểu và khám phá
được đặc trưng của phân môn này. Vì thế, tìm ra biện pháp dạy học sinh Kể
chuyện là đã tìm ra con đường để học sinh tìm được tri thức, nhân cách cho
mình.
3. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu nhằm mục đích tìm ra những biện thủ thuật kể
chuyện theo đúng đặc trưng thể loại.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4. 1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những biện pháp dạy học Kể
chuyện.
4. 2. Phạm vi nghiên cứu
Do thời gian có hạn nên phạm vi nghiên cứu của chúng tôi chỉ dừng lại
ở những biện pháp dạy học sinh tiểu học kể chuyện theo đặc trưng thể loại.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, đề tài cần thực hiện một số nhiệm
vụ sau:
6
- Tìm hiểu các vấn đề lí thuyết có liên quan đến đề tài
- Đưa ra một số biện pháp kể chuyện diễn cảm hấp dẫn theo đặc trưng
thể loại.
- Thể nghiệm sư phạm.
6. Giả thuyết khoa học
Nếu đưa ra được những biện pháp dạy học sinh tiểu học kể chuyện theo
đúng đặc trưng thể loại sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy học phân môn
Kể chuyện nói riêng và môn học Tiếng Việt nói chung.
7. Phương pháp nghiên cứu
-
Phương pháp nghiên cứu tài liệu
-
Phương pháp quan sát
-
Phương pháp phân tích
-
Phương pháp tổng hợp
-
Phương pháp thực nghiệm sư phạm
8. Cấu trúc khoá luận
Ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận, phần Nội dung gồm có hai
chương sau:
Chương 1: Một số vấn đề liên quan đến dạy kể chuyện ở tiểu học
Chương 2: Dạy học sinh Tiểu học kể chuyện theo đặc trưng thể loại.
7
NỘI DUNG
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN DẠY HỌC KỂ
CHUYỆN Ở TIỂU HỌC
1.1. Khái niệm kể chuyện
Kể là một động từ biểu thị hành động nói. Theo từ điển Tiếng Việt (Văn
Tân chủ biên) kể là nói rõ đầu đuôi.
Tác giả Chu Huy đã đưa ra ý kiến của mình về kể chuyện như sau:
Khi ở vị trí một thuật ngữ, kể chuyện bao hàm bốn phạm trù ngữ
nghĩa sau:
a) Chỉ loại hình tự sự trong văn học (phân biệt với loại hình trữ tình,
loại hình hài kịch) – còn gọi là truyện hoặc tiểu thuyết.
b) Chỉ tên một phương pháp nói trong diễn giảng.
c) Chỉ tên một loại văn thuật chuyện trong phân môn Tập làm văn.
d) Chỉ tên một phân môn học ở các lớp trong trường Tiểu học.
Ở phạm trù ngữ nghĩa (a) văn kể chuyện là văn trong truyện hoặc tiểu
thuyết. Do đó, đặc điểm của văn kể chuyện cũng là đặc điểm của truyện. Đặc
trưng cơ bản của truyện là tình tiết, tức là có sự việc đang xảy ra, đang diễn
biến, có nhân vật với ngôn ngữ, tâm trạng, tính cách riêng.
Ở phạm trù ngữ nghĩa (b) kể chuyện là một phương pháp trực quan sinh
động bằng lời nói. Khi cần thay đổi hình thức diễn giảng nhằm thu hút sự chú
ý của người dùng xen kẽ phương pháp kể chuyện. Với các môn khoa học tự
nhiên, kể chuyện thường được dùng trong phần kể về tiểu sử tác giả, miêu tả
quá trình phát minh, sáng chế, quá trình phản ứng hóa học .
Ở phạm trù ngữ nghĩa (c) văn kể chuyện là một loại văn học mà học sinh
phải được luyện tập diễn đạt bằng miệng hoặc viết thành bài theo những quy
tắc nhất định. Vì tính chất phổ biến và ứng dụng rộng rãi của loại văn này nên
8
nó trở thành loại hình cần được rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo bên cạnh các loại
hình văn miêu tả, văn nghị luận.
Ở phạm trù ngữ nghĩa (d) kể chuyện là một môn học của lớp Tiểu học
trường phổ thông. Có người hiểu đơn giản kể chuyện chỉ là kể chuyện dân
gian, kể chuyện cổ tích. Thực ra không hẳn vậy, kể chuyện bao gồm việc kể
nhiều loại truyện khác nhau, kể cả truyện cổ tích và truyện hiện đại nhằm mục
đích giáo dục, giáo dưỡng, rèn kĩ năng nhiều mặt của một con người.
Có thể xác định kể chuyện là một thuật ngữ vì nó có một kết cấu âm tiết
ổn định, một phạm trù ngữ nghĩa (còn gọi là một khái niệm) nhất định. Lâu
nay thuật ngữ kể chuyện vẫn được dùng với ý nghĩa kể một câu chuyện bằng
lời, kể cả chuyện có hình thức hoàn chỉnh, được in trên sách báo.
Kể chuyện theo tác giả Chu Huy đã được phản ánh một cách rõ ràng và
đầy đủ về các phạm trù ngữ nghĩa. Đây là khái niệm đã được các tác giả khác
công nhận. Vì vậy, trong khóa luận tốt nghiệp này, chúng tôi xin phép trình
bày theo quan điểm của Chu Huy.
1.2. Khái niệm đặc trưng thể loại
Theo Từ điển tiếng Việt (do tác giả Văn Tân chủ biên), đặc trưng (danh
từ) là nét riêng biệt và tiêu biểu được xem là dấu hiệu để phân biệt với sự vật
khác, (đồng nghĩa với đặc thù). Với vai trò là tính từ, đặc trưng là có tính chất
riêng biệt và tiêu biểu, làm cho phân biệt được với sự vật khác. Còn theo Từ
điển Tiếng Việt (nhà xuất bản đại học Bách khoa), đặc trưng (tính từ) là tính
chất riêng không giống với tính chất của sự vật khác. Đặc trưng theo tác giả
Văn Tân đã được phản ánh một cách đầy đủ, rõ ràng về các phạm trù ngữ
nghĩa.
Cũng theo tác giả Văn Tân, thể loại (danh từ) là hình thức sáng tác văn
học, nghệ thuật được phân chia theo phương thức phản ánh hiện thực, sự vận
9
dụng ngôn ngữ, phong cách thể hiện. Theo Từ điển Tiếng Việt (nhà xuất bản
đại học Bách khoa), thể loại là toàn bộ những tác phẩm có chung đặc tính nội
dung, giọng văn, phong cách. Tác giả Văn Tân đã phản ánh một cách rõ ràng,
đầy đủ các phạm trù của thể loại.
Như vậy, trên bình diện ngôn ngữ, đặc trưng thể loại (theo tác giả Văn
Tân) là nét riêng biệt và tiêu biểu được coi là dấu hiệu để phân biệt các thể
loại văn học với nhau theo các phương thức phản ánh hiện thực, sự vật ngôn
ngữ, phong cách thể hiện.
Dựa vào các bài học trong phân môn Kể chuyện ở tiểu học, chúng tôi
phân chia các thể loại truyện trong phân môn Kể chuyện ở tiểu học như sau:
- Truyện truyền thuyết
- Truyện cổ tích
- Truyện ngụ ngôn
- Truyện đồng thoại
- Truyện hiện đại
Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, thần thoại và truyện cười là
hai thể loại phổ biến. Tuy nhiên, trong chương trình phân môn Kể chuyện ở
tiểu học không có những tác phẩm thuộc hai thể loại này. Hai thể loại này chỉ
xuất hiện với tư cách là văn bản tập đọc.
1.3. Truyện và chuyện
1.3.1. Chuyện là gì?
Chuyện là chỉ tất cả sự việc diễn ra trong đời sống (việc, sự việc,
chuyện). Những sự việc đó thông thường tồn tại trong đời sống thì là việc
nhưng khi người ta kể cho nhau nghe thì chuyển thành chuyện. Chuyện là gốc
tạo nên tất cả thể hiện ở việc: có chuyện đời thường mới tạo nên tiền đề cho
các tác phẩm sau này.
10
Phạm vi chuyện tùy thuộc vào mỗi người đánh giá, đối với người này
thì có thể là “chuyện” nhưng đối với người khác thì lại không.
1.3.2. Truyện là gì?
Chuyện đời thường khi viết lại trong văn bản chữ thì sản phẩm được
viết ra đó gọi là truyện. Truyện là tên gọi một tác phẩm thuộc thể loại tự sự
(truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn…) Truyện cũng là một sản phẩm từ ngôn
ngữ nói ghi chép lại thành văn bản. Truyện bao gồm cốt truyện, tình tiết, lời
kể, nhân vật. Nếu thiếu một trong bốn yếu tố trên thì không thể thành Truyện.
1.3.3. Từ truyện đọc đến kể chuyện
“Truyện” gắn liền với văn bản chữ gọi là “truyện” để đọc. Tất cả các
sự việc trong đời sống được tả lại bằng lời nói miệng được gọi là kể chuyện.
Ví dụ: chuyện trò, câu chuyện, nói chuyện… Còn truyện nếu kể lại bằng
miệng cũng được gọi là kể chuyện và nội dung của truyện gọi là câu chuyện.
Từ văn bản truyện đọc đến kể chuyện, người kể được quyền thoát ly
văn bản, dựa vào cốt truyện kể lại theo lời kể của mình sao cho lôi cuốn người
nghe.
1.4. Vai trò của kể chuyện
1.4.1. Kể chuyện làm thỏa mãn nhu cầu nghe kể chuyện của trẻ em
Từ tuổi lên ba, bập bẹ biết nói, trẻ em đã thích nghe kể chuyện. Cho
đến khi tới tuổi mẫu giáo, tiểu học, những câu chuyện vẫn có sức hút đặc biệt
với các em. Trẻ em chưa nhận biết được xung quanh với bao điều kì diệu và
mới mẻ, vì vậy các em luôn luôn mong ước được khám phá cuộc sống bằng
những câu chuyện vừa ngộ nghĩnh, đáng yêu với những bài học nhẹ nhàng về
xã hội, con người. Mỗi một nội dung lý thú, một nguồn tưởng tượng giàu có,
những hình tượng nghệ thuật trong sáng là những cái lôi cuốn sự chú ý của
các em, đem lại cho các em nguồn vui và đồng thời có tác dụng giáo dục các
em, đem lại cho các em nguồn vui và đồng thời có tác dụng giáo dục các em.
11
Những câu chuyện là một trong những hình thức nhận thức thế giới của trẻ,
giúp các em chính xác hóa những biểu tượng đã có về thực tế xã hội xung
quanh, từng bước cung cấp thêm những khái niệm mới và mở rộng kinh
nghiệm sống.
Các câu chuyện đến với các các em có khi là thế giới thiên nhiên màu
sắc của đồng hoa, của cây cỏ với những con vật đáng đáng yêu. Lại có khi là
thế giới xã hội ở một gia đình, một xóm làng hay một đất nước nào đó. Trẻ
như lạc vào thế giới vừa thật, vừa ảo, lại phù hợp với lứa tuổi, ước mơ. Bởi vì
những nhân vật trong các câu chuyện có khi là bác Gấu, bạn Thỏ, bạn Rùa,…
hoặc người em, người anh, người con, người mẹ, cô bé quành khăn đỏ,…
Những câu chuyện này luôn mang đầy nét kì ảo, tình tiết đơn giản, dễ
hiểu, dễ đi vào tâm trí các em, phù hợp với tư duy, suy nghĩ còn non nớt, mộc
mạc, giản dị. Những nhân vật đều nhân cach hóa sống động và phản ánh
những mối quan hệ mà trẻ thường gặp. Chính vì vậy, trẻ rất thích nghe kể
chuyện, đọc truyện và kể chuyện cho người khác nghe.
1.4.2. Phân môn Kể chuyện góp phần rèn các kĩ năng và năng lực về tiếng
Việt
Kể chuyện có vị trí đặc biệt trong dạy học tiếng mẹ đẻ, trước hết vì
hành động “kể” là một hành động “nói” đặc biệt trong hoạt động giao tiếp.
Kể chuyện vận dụng một cách tổng hợp các kĩ năng tiếng Việt như nghe, đọc,
nói trong hoạt động giao tiếp.
Trước hết, phân môn Kể chuyện phát triển kĩ năng nói cho học sinh.
Giờ Kể chuyện rèn cho học sinh kĩ năng nói trước đám đông dưới dạng độc
thoại thành bài theo phong cách nghệ thuật. Nghĩa là trẻ phải có lời nói mạch
lạc, hay là sự diễn đạt mở rộng nội dung xác định, được thể hiện một cách
logic, tuần tự, chính xác, đúng ngữ pháp và có tình biểu cảm. Sự mạch lạc của
lời nói chính là sự mạch lạc tư duy. Lời nói mạch lạc phản ánh tư duy logic
12
của trẻ, kĩ năng suy nghĩ về cái tiếp nhận được và phản ánh nó một cách đúng
đắn.
Khi kể lại câu chuyện, trẻ cố gắng sử dụng những từ, câu có hình tượng
học được từ các tác phẩm nghệ thuật. Các em thể hiện suy nghĩ của mình một
cách chặt chẽ, tuần tự, chính xác và có hình ảnh.
Trẻ có kĩ năng kể lại chuyện một cách hào hứng và lôi cuốn người nghe
bằng sự diễn đạt của mình, giúp trẻ trở nên thích giao tiếp hơn, khắc phục
được những tình trạng rụt rè, giúp trẻ tự tin hơn. Kĩ năng kể chuyện là một kĩ
năng có tính tổng hợp kĩ năng nói và kĩ năng diễn cảm.
Một trong những kĩ năng mà kể chuyện rèn cho học sinh là kĩ năng
nghe và phân tích truyện. Việc rèn luyện kĩ năng này được thực hiện ngay tại
lớp khi giáo viên hướng dẫn học sinh cách ghi nhớ, cách kể lại, cách diễn đạt
ngôn ngữ, cách phối hợp điệu bộ và nét mặt tại lớp chứ không phải đợi các
em về nhà mới làm bài tập. Các câu chuyện ở tiểu học thường đến với học
sinh qua lời kể của giáo viên, của các bạn trong lớp. Do đó, kĩ năng nghe cũng
được phát triển rõ rệt.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thường dạy: “Tiếng nói là thứ của cải vô cùng
lâu đời và vô cùng quý báu. Chúng ta phải biết quý trọng nó, giữ gìn nó, phát
triển nó. ” Cùng với sự rèn luyện các kĩ năng ngôn ngữ tư duy cũng được
phát triển. Đặc biệt, sống trong thế giới các nhân vật, thâm nhập vào tình tiết
của câu chuyện, tiếp xúc với nghệ thuật ngôn từ kể chuyện, tư duy hình tượng
và cảm xúc thẩm mỹ của trẻ cũng được phát triển.
1.4.3. Kể chuyện góp phần hình thành nhân cách cho học sinh
Giờ Kể chuyện giúp học sinh tiếp xúc với tác phẩm văn học. Đó là
những tác phẩm có giá trị của Việt Nam và thế giới. Nhờ đó mà vốn văn học
của học sinh được tích lũy dần và trở thành hành trang quý báu cho các em
trong suốt cuộc đời mình. Ngoài ra, mỗi câu chuyện còn mở rộng tầm hiểu
13
biết, trí tưởng tượng phong phú cho học sinh, làm tăng vốn kinh nghiệm về
cuộc sống xã hội, thúc đẩy sự sáng tạo và ước mơ của các em.
Những câu chuyện giúp trẻ em xác lập thái độ với các hiện tượng của
đời sống xung quanh, đối với con người và từ đó dần dần hình thành nhân
cách cho trẻ. Khi được nghe kể chuyện, trẻ sống trong các nhân vật, đồng tình
với cái thiện, lên án cái ác.
Có những chiến thắng của cái thiện, của những nhân vật nhỏ bé, yếu ớt
nhưng nhân ái và thông minh khiến các em vui mừng thích thú. Nhân vật đó
là chú Thỏ trong rừng đã dùng mưu kế của mình giết Sư Tử gian ác cứu muôn
loài trong rừng (Thỏ và Sư Tử). Hay Cừu non bé bỏng lừa Sói già đang định
ăn thịt mình để thoát thân trong Sói và Cừu. Những bài học về trí khôn, về sự
dũng cảm của các loài vật hay con người đều được thấm nhuần vào tư duy
của trẻ và giúp ích cho trẻ trong cuộc sống sau này.
Đặc biệt, truyện còn là những bài học đơn giản có tính giáo dục cao. Ví
dụ : không chủ quan, kiêu ngạo, phải biết kiên trì và nhẫn nại (Rùa và Thỏ),
phải vâng lời mẹ, đi đến nơi về đến chốn, không la cà dọc đường dễ bị kẻ xấu
là hại (Cô bé trùm Khăn đỏ), phải biết quý tình bạn (Cô chủ không biết quý
tình bạn), biết nói năng lịch sự (Hai tiếng kì lạ), biết tự lực cánh sinh ( Sự tích
dưa hấu),…
Tính nhân văn trong các câu chuyện cũng được thể hiện rất rõ. “Bông
hoa cúc trắng” là một bài ca xúc động về tình mẫu tử thiêng liêng, sự hiếu
thảo của người con vượt qua bao khó khăn để lấy được bông hoa chữa bệnh
cho mẹ. Nhưng hơn thế nữa, cô bé còn muốn mẹ sống lâu hơn nên cô bé cứ
xé mãi những cánh hoa thành những cánh nhỏ hơn. Tính nhân văn có khi lại
là niềm vui bất ngờ của các bạn nhỏ khi gặp được Bác Hồ, được Bác dặn dò,
khen thưởng, động viên trong truyện “Niềm vui bất ngờ”. Các câu chuyện
còn làm hiện lên triết lý “ ở hiền gặp lành”, thể hiện rõ nhất là “Sư Tử và
14
Chuột Nhắt”. Đó là câu chuyện về chú Chuột Nhắt bị rơi vào tay Sư Tử
nhưng được Sư Tử tha cho. Sau này khi Sư Tử gặp nạn, chính Chuột Nhắt đã
gọi bạn bè đến cứu Sư Tử để đèn ơn cứu mạng khi xưa. Và còn rất nhiều câu
chuyện về tình bạn đẹp đẽ, cao quý. Cuối cùng chúng đọng lại trong trẻ
những cách đối nhân xử thế, những tấm lòng nhân hậu, biết yêu thương con
người.
Vai trò của kể chuyện đối với học sinh tiểu học là vô cùng to lớn. Nó
góp phần tạo nên những cái đẹp, cái nhân trong trẻ và những chuẩn mực xã
hội mà con người vươn tới.
Một điều quan trọng là làm sao ngay từ thời thơ ấu, các em biết yêu mến
và bảo vệ thiên nhiên học hỏi những cái hay, cái đẹp, lên án những cái xấu xa,
tội lỗi. Đó cũng là một mặt trong xây dựng nhân cách con người mới, con
người của thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
1.5. Yêu cầu, nội dung chương trình phân môn Kể chuyện ở tiểu học
Chương trình Kể chuyện ở tiểu học được phân bố theo các lớp như sau:
Ở lớp 1, trong phần Học vần chưa có giờ kể chuyện riêng, nhưng từ phần
Luyện tập tổng hợp (bắt đầu từ tuần 23), mỗi tuần có 1 tiết Kể chuyện.
Ở lớp 2, mỗi tuần có 1 tiết Kể chuyện.
Ở lớp 3, mỗi tuần 0,5 tiết Kể chuyện, học chung trong 1 tiết với bài tập
đọc đầu tuần.
Ở lớp 4, 5, mỗi tuần có 1 tiết Kể chuyện.
1.5.1. Bài học kể chuyện ở lớp 1
Dựa vào nguồn tư liệu được dùng để kể, các bài học Kể chuyện được
chia làm ba loại: kể chuyện theo tranh, kể chuyện đã nghe, đã đọc (loại bài
này được chia làm hai dạng: kể chuyện đã nghe và kể chuyện đã đọc), kể
chuyện được chứng kiến, tham gia.
15
Ở lớp 1, trong giai đoạn Học vần, cuối mỗi tiết ôn tập, HS đã bắt đầu
được nghe kể những câu chuyện đơn giản có tên truyện gắn với với các vần
mới học và tập kể một vài câu về nội dung câu chuyện dựa theo tranh minh
họa. Đó là các truyện: Hổ, Cò đi lò dò, Thỏ và Sư tử, Tre ngà, Khỉ và Rùa,
Cây khế, Sói và Cừu, Chia phần, Quạ và Công, Chuột nhà và Chuột đồng,
Anh chàng ngốc và con ngỗng vàng.
Phần Luyện tập tổng hợp được học trong 13 tuần, trừ tuần ôn tập, mỗi
tuần có 1 tiết kể chuyện, đó là những truyện sau: Rùa và Thỏ, Cô bé trùm
khăn đỏ, Trí khôn, Sư tử và Chuột nhắt, Bông hoa cúc trắng, Niềm vui bất
ngờ, Sói và Sóc, Dê con nghe lời mẹ, Con rồng cháu tiên, Tình bạn, Hai tiếng
kì lạ, Sự tích dưa hấu.
Những câu chuyện được kể ở lớp 1 có nội dung giản dị, dễ hiểu nhằm
bồi dưỡng cho HS những phẩm chất, những nét tính cách quan trọng, đưa ra
những lời khuyên cần thiết và bổ ích. Ví dụ: không chủ quan, kiêu ngạo, phải
biết kiên trì và nhẫn nại (Rùa và Thỏ), phải vâng lời cha mẹ, đi đến nơi về
đến chốn, không la cà dọc đường dễ bị kẻ xấu làm hại (Cô bé trùm khăn đỏ),
phải biết quý tình bạn (Cô chủ không biết quý tình bạn), biết nói năng lịch sự
(Hai tiếng kì lạ), biết tự lực cánh sinh (Sự tích dưa hấu). . .
1.5.2. Bài học kể chuyện lớp 2
Kể chuyện ở lớp 2 gắn bó chặt chẽ với phân môn Tập đọc. Ở lớp 2, nội
dung cả 31 tiết Kể chuyện đều là kể lại những câu chuyện HS đã học trong
bài Tập đọc ở hai tiết mở đầu mỗi tuần. Hệ thống 31 văn bản tập đọc - kể
chuyện chọn vào SGK Tiếng Việt 2 đều có nội dung phù hợp với chủ điểm
của từng đơn vị học, với tâm lí trẻ lớp 2 và được biên soạn lại cho phù hợp
với trình độ của các em. Các bài học kể chuyện ở lớp 2 được phân bố theo
từng tuần như sau:
Học kì I:
16
1. Có công mài sắt có ngày nên kim
2. Phần thưởng
3. Bạn của Nai Nhỏ
4. Bím tóc đuôi sam
5. Chiếc bút mực
6. Mẩu giấy vụn
7. Người thầy cũ
8. Người mẹ hiền
9. Ôn tập
10. Sáng kiến của bé Hà
11. Bà cháu
12. Sự tích cây vú sữa
13. Bông hoa niềm vui
14. Câu chuyện bó đũa
15. Hai anh em
16. Con chó nhà hàng xóm
17. Tìm ngọc
18. Ôn tập
Học kì II:
19. Chuyện bốn mùa
20. Ông Mạnh thắng Thần Gió
21. Chim Sơn Ca và bông Cúc Trắng
22. Một trí khôn hơn trăm trí khôn
23. Bác sĩ Sói
24. Quả tim khỉ
25. Sơn Tinh Thủy Tinh
26. Tôm Càng và Cá Con
17
27. Ôn tập
28. Kho báu
29. Những quả đào
30. Ai ngoan sẽ được thưởng
31. Chiếc rễ đa tròn
32. Chuyện quả bầu
33. Bóp nát quả cam
34. Người làm đồ chơi
35. Ôn tập
Những câu chuyện trong các bài học góp phần quan trọng hình thành ở
trẻ nhận thức đúng đắn về thế giới xung quanh và trách nhiệm của bản thân
các em, từ những chuyện lớn lao như quan hệ giữa con người với thiên nhiên
(con người biết chinh phục thiên nhiên nhưng cũng phải biết sống hòa hợp
với thiên nhiên: Ông Mạnh thắng Thần Gió), bảo vệ môi trường (chim chóc,
hoa cỏ cũng có cuộc sống riêng của chúng, đừng làm hại chúng: Chim sơn ca
và bông cúc trắng), đoàn kết dân tộc (các anh em trên đất nước ta đều chung
một gốc: Chuyện quả bầu) đến tình cảm gia đình (biết quan tâm đến ông bà:
Sáng kiến của bé Hà; biết vâng lời cha mẹ: Sự tích cây vú sữa; anh em phải
yêu thương, đùm bọc nhau: Câu chuyện bó đũa, Hai anh em), bạn bè (bạn tốt
là người dám hi sinh vì bạn: Bạn của Nai Nhỏ; những kẻ giả dối, bội bạc thì
không có bạn: Quả tim khỉ; không nên đùa ác với bạn, cần đối xử tốt với các
bạn gái: Bím tóc đuôi sam); đức kiên trì, nhẫn nại (kiên trì nhẫn nại thì sẽ
thành công: Có công mài sắt có ngày nên kim),. . .
1.5.3. Bài học kể chuyện lớp 3
Kể chuyện ở lớp 3 cũng gắn bó chặt chẽ với phân môn Tập đọc. Ở lớp
3, các bài kể chuyện được học trong 0,5 tiết, đều là kể lại những câu chuyện
18
HS đã học trong bài tập đọc đầu mỗi tuần. Các bài học Kể chuyện ở lớp 3
được phân bố theo từng tuần như sau:
Học kì I:
1. Cậu bé thông minh
2. Ai có lỗi?
3. Chiếc áo len
4. Người mẹ
5. Người lính dũng cảm
6. Bài tập làm văn
7. Trận bóng dưới lòng đường
8. Các em nhỏ và cụ già
9. Ôn tập
10. Giọng quê hương
11. Đất quý đất yêu
12. Nắng phương Nam
13. Người con của Tây Nguyên
14. Người liên lạc nhỏ
15. Hũ bạc của người cha
16. Đôi bạn
17. Mồ côi xử kiện
18. Ôn tập
Học kì II:
19. Hai Bà Trưng
20. ở lại với chiến khu
21. Ông tổ nghề thêu
22. Nhà bác học và bà cụ
23. Nhà ảo thuật
19
24. Đối đáp với vua
25. Hội vật
26. Sự tích lễ hội Chử Đồng Tử
27. Ôn tập
28. Cuộc chạy đua trong rừng
29. Buổi học thể dục
30. Gặp gỡ ở Lúc-xăm-bua
31. Bác sĩ Y-éc-xanh
32. Người đi săn và con vượn
33. Cóc kiện trời
34. Sự tích chú Cuội cung trăng
35. Ôn tập
So với lớp 2, những câu chuyện học ở lớp 3 có nội dung rộng hơn và
tình tiết phức tạp hơn. Bên cạnh những truyện về tình cảm gia đình, thầy trò,
bạn bè, làng xóm, HS còn được học về gương chiến đấu của các anh hùng liệt
sĩ trong lịch sử, gương lao động của các nhà khoa học, các nghệ sĩ, các vận
động viên thể thao, về tình hữu nghị của các dân tộc, về công cuộc chinh phục
thiên nhiên và bảo vệ môi trường… Qua những câu chuyện này, HS có được
vốn từ phong phú, đa dạng hơn, hiểu biết và năng lực suy nghĩ của các em
cũng được nâng lên một mức cao hơn hẳn lớp 2.
1.5.4. Các dạng bài học Kể chuyện ở lớp 4, 5
Ở lớp 4, 5 có ba dạng bài học kể chuyện: kể chuyện đã nghe thầy cô kể
trên lớp; kể chuyện đã nghe, đã đọc; kể chuyện đã được chứng kiến, tham gia.
Kiểu bài nghe - kể lại câu chuyện vừa nghe thầy, cô kể trên lớp được thực
hiện ở tuần thứ nhất trong một chủ điểm 3 tuần học. Trong trường hợp này,
câu chuyện (có độ dài khoảng trên dưới 500 chữ) được in trong SGV, trình
20
bày thành tranh hoặc tranh kèm lời dẫn giải ngắn gọn trong SGK. Câu chuyện
được thầy, cô kể cho HS nghe, rồi HS kể lại. Bên cạnh mục đích chung là rèn
kĩ năng cho HS, kiểu bài này còn có mục đích rèn kĩ năng nghe. Ở nhiều bài
có thêm điểm tựa để nhớ truyện là tranh minh họa và gợi ý dưới tranh. Kiểu
bài kể lại câu chuyện đã nghe, đã đọc ngoài giờ kể chuyện yêu cầu HS phải tự
sưu tầm trong sách báo hoặc trong đời sống hằng ngày (nghe người thân hoặc
ai đó kể) để kể lại. Kiểu bài này trước đây chỉ có trong giờ TLV. Bên cạnh
mục đích chung là rèn kĩ năng nói cho HS, kiểu bài kể lại câu chuyện đã
nghe, đã đọc ngoài giờ kể chuyện còn có mục đích kích thích HS ham đọc
sách. Kiểu bài kể lại câu chuyện đã được chứng kiến hoặc tham gia yêu cầu
HS kể những chuyện người thật, việc thật có trong cuộc sống xung quanh mà
các em đã biết, đã thấy, cũng có khi chính các em là nhân vật của câu chuyện.
Kiểu bài này trước đây chỉ có trong giờ TLV. Các bài kể chuyện được chứng
kiến hoặc tham gia rất đa dạng vì chúng gắn với các chủ điểm của sách. Bên
cạnh mục đích rèn luyện kĩ năng nói, kiểu bài kể chuyện được chứng kiến,
tham gia còn có mục đích rèn cho HS thói quen quan sát, ghi nhớ. So với các
câu chuyện ở lớp 2, 3 thì các chuyện ở lớp 4, 5 có độ dài lớn hơn, tình tiết
phức tạp hơn, nội dung sâu sắc hơn. Những câu chuyện này nói về những
phẩm chất tốt đẹp mà con người cần phải rèn luyện gắn với các chủ điểm
học tập.
Các bài học Kể chuyện lớp 4 được phân bố theo các tuần học như sau:
Học kì I:
1. Kể chuyện đã nghe thầy cô kể trên lớp (Sự tích hồ Ba Bể)
2. Kể chuyện đã nghe, đã đọc (Đọc bài thơ Nàng tiên ốc và kể lại)
3. Kể chuyện đã nghe, đã đọc (Kể một câu chuyện về lòng nhân hậu)
4. Kể chuyện đã nghe thầy cô kể trên lớp (Một nhà thơ chân chính)
21
5. Kể chuyện đã nghe, đã đọc (Kể một câu chuyện về tính trung thực)
6. Kể chuyện đã nghe, đã đọc (Kể một câu chuyện về lòng tự trọng)
7. Kể chuyện đã nghe thầy cô kể trên lớp (Lời ước dưới trăng)
8. Kể chuyện đã nghe, đã đọc (Kể một câu chuyện về những ước mơ đẹp
hoặc những ước mơ viển vông, phi lí)
9. Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia (Kể về một ước mơ đẹp
của em hoặc của bạn bè, người thân)
10. Ôn tập
11. Kể chuyện đã nghe thầy cô kể trên lớp (Bàn chân kì diệu)
12. Kể chuyện đã nghe, đã đọc (Kể một câu chuyện về một người có
nghị lực)
13. Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia (Kể một câu chuyện thể
hiện tinh thần kiên trì, vượt khó)
14. Kể chuyện đã nghe thầy cô kể trên lớp (Búp bê của ai)
15. Kể chuyện đã nghe, đã đọc (Kể một câu chuyện có nhân vật là những
đồ chơi của trẻ em hoặc những con vật gần gũi với trẻ em)
16. Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia (Kể một câu chuyện có
liên quan đến đồ chơi của em hoặc của các bạn xung quanh)
17. Kể chuyện đã nghe thầy cô kể trên lớp (Một phát minh nho nhỏ)
18. Ôn tập
Học kì II:
19. Kể chuyện đã nghe thầy cô kể trên lớp (Bác đánh cá và gã hung
thần)
20. Kể chuyện đã nghe, đã đọc (Kể câu chuyện về một người có tài)
21. Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia (Kể một câu chuyện về
người có khả năng hoặc sức khỏe đặc biệt mà em biết)
22. Kể chuyện đã nghe thầy cô kể trên lớp (Con vịt xấu xí)
22
23. Kể chuyện đã nghe, đã đọc (Kể một câu chuyện ca ngợi cái đẹp hay
phản ánh cuộc đấu tranh giữa cái đẹp với cái xấu, cái thiện với cái ác)
24. Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia (Kể một câu chuyện về
việc em (hoặc người xung quanh đã làm gì để góp phần giữ gìn xóm làng
(đường phố, trường học) xanh, sạch, đẹp)
25. Kể chuyện đã nghe thầy cô kể trên lớp (Những chú bé không chết)
26. Kể chuyện đã nghe, đã đọc (Kể một câu chuyện nói về lòng dũng
cảm)
27. Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia (Kể một câu chuyện về
lòng dũng cảm mà em được chứng kiến hoặc tham gia)
28. Ôn tập
29. Kể chuyện đã nghe thầy cô kể trên lớp (Đôi cánh của ngựa trắng)
30. Kể chuyện đã nghe, đã đọc (Kể một câu chuyện về du lịch hay thám
hiểm)
31. Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia (Kể câu chuyện về một
cuộc du lịch hoặc cắm trại mà em được tham gia)
32. Kể chuyện đã nghe thầy cô kể trên lớp (Khát vọng sống)
33. Kể chuyện đã nghe, đã đọc (Kể một câu chuyện về tinh thần lạc quan
yêu đời)
34. Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia (Kể câu chuyện về một
người vui tính mà em biết)
35. Ôn tập.
Các bài học Kể chuyện lớp 5 được phân bố theo các tuần học như sau:
Học kì I:
1. Kể chuyện đã nghe thầy cô kể trên lớp (Lí Tự Trọng)
2. Kể chuyện đã nghe, đã đọc (Kể một câu chuyện về các anh hùng, danh
nhân của nước ta)
23
3. Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia (Kể việc làm tốt góp phần
xây dựng quê hương đất nước của một người mà em biết)
4. Kể chuyện đã nghe thầy cô kể trên lớp (Tiếng vĩ cầm ở Mĩ Lai)
5. Kể chuyện đã nghe, đã đọc (Kể một câu chuyện ca ngợi hòa bình
chống chiến tranh)
6. Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia (Chọn một trong hai đề:
Kể một câu chuyện em đã chứng kiến hoặc một việc em đã làm thể hiện tình
hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các nước/Nói về một nước mà em
được biết qua truyền hình, phim ảnh)
7. Kể chuyện đã nghe thầy cô kể trên lớp (Cây cỏ nước Nam)
8. Kể chuyện đã nghe, đã đọc (Kể một câu chuyện nói về quan hệ giữa
con người với thiên nhiên)
9. Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia (Kể một câu chuyện về
một lần em đi thăm cảnh đẹp ở địa phương em hoặc ở nơi khác)
10. Ôn tập
11. Kể chuyện đã nghe thầy cô kể trên lớp (Người đi săn và con nai)
12. Kể chuyện đã nghe, đã đọc (Kể một câu chuyện có nội dung bảo vệ
môi trường)
13. Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia (Chọn một trong hai đề:
Kể một việc làm tốt của em hoặc một người xung quanh để bảo vệ môi
trường/ Kể về một hành động dũng cảm bảo vệ môi trường)
14. Kể chuyện đã nghe thầy cô kể trên lớp (Pastơ và em bé)
15. Kể chuyện đã nghe, đã đọc (Kể một câu chuyện nói về những người
đã góp sức mình chống lại đói nghèo, lạc hậu vì hạnh phúc của nhân dân)
16. Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia (Kể một buổi sum họp
đầm ấm trong gia đình)
24
17. Kể chuyện đã nghe, đã đọc (Kể một câu chuyện về những người biết
sống đẹp, biết mang lại niềm vui, niềm hạnh phúc cho những người xung
quanh)
18. Ôn tập
Học kì II:
19. Kể chuyện đã nghe thầy cô kể trên lớp (Chiếc đồng hồ)
20. Kể chuyện đã nghe, đã đọc (Kể một câu chuyện về những tấm gương
sống và làm việc theo pháp luật, theo nếp sống văn minh)
21. Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia (Chọn một trong các đề
bài sau: Kể một việc làm của những công dân nhỏ thể hiện ý thức bảo vệ các
công trình công cộng, các di tích lịch sử, văn hóa / Kể một việc làm thể hiện ý
thức chấp hành luật giao thông/ Kể một việc làm thể hiện lòng biết ơn các
thương binh, liệt sĩ)
22. Kể chuyện đã nghe thầy cô kể trên lớp (Ông Nguyễn Khoa Đăng)
23. Kể chuyện đã nghe, đã đọc (Kể một câu chuyện về những người đã
góp sức mình bảo vệ trật tự an ninh)
24. Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia (Kể một việc làm tốt góp
phần bảo vệ trật tự an ninh nơi làng xóm, phố phường)
25. Kể chuyện đã nghe thấy cô kể trên lớp (Vì muôn dân)
26. Kể chuyện đã nghe, đã đọc (Kể một câu chuyện nói về truyền thống
hiếu học hoặc truyền thống đoàn kết của dân tộc Việt Nam)
27. Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia (Chọn một trong hai đề
bài sau: Kể một câu chuyện trong cuộc sống nói lên truyền thống tôn sư trọng
đạo của người Việt Nam/ Kể một kỉ niệm về thầy giáo hoặc cô giáo của em,
qua đó thể hiện lòng biết ơn của em với thầy cô)
28. Ôn tập
29. Kể chuyện đã nghe thầy cô kể trên lớp (Lớp trưởng lớp tôi)
25
30. Kể chuyện đã nghe, đã đọc (Kể về một phụ nữ anh hùng hoặc một
phụ nữ có tài)
31. Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia (Kể về một việc làm tốt
của bạn em)
32. Kể chuyện đã nghe thầy cô kể trên lớp (Nhà vô địch)
33. Kể chuyện đã nghe, đã đọc (Kể một câu chuyện nói về gia đình, nhà
trường và xã hội chăm sóc, giáo dục trẻ em hoặc trẻ em thực hiện bổn phận
với gia đình, nhà trường và xã hội)
34. Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia (Chọn một trong hai đề
bài sau: Kể một câu chuyện em biết về gia đình, nhà trường hoặc xã hội chăm
sóc, bảo vệ thiếu nhi/ Kể về một lần em cùng các bạn trong lớp hoặc trong chi
đội tham gia công tác xã hội)
35. Ôn tập.
1.6. Yêu cầu về kĩ năng kể chuyện
Yêu cầu về kĩ năng kể chuyện cho học sinh lớp 1 là sau khi nghe thầy cô
kể 2, 3 lần một câu chuyện đơn giản, phù hợp với trình độ và đặc điểm lứa
tuổi, các em phải nắm được nội dung chính của câu chuyện và dựa vào trí
nhớ, vào các tranh minh họa trong SGK, các câu hỏi dưới tranh, kể lại được
từng đoạn của câu chuyện.
Ở các lớp 2, 3 kĩ năng nghe kể vẫn tiếp tục được rèn luyện. Đó là các kĩ
năng độc thoại và hội thoại nhưng với yêu cầu cao hơn so với lớp 1. Ở lớp 2,
3, trong độc thoại có thêm yêu cầu HS kể bằng lời của mình, kể có thêm một
hai chi tiết sáng tạo. Trong hội thoại có thêm yêu cầu dựng lại câu chuyện đã
học theo vai, bước đầu sử dụng các yếu tố phụ trợ trong giao tiếp (nét mặt, cử
chỉ, điệu bộ. . . ). Ở lớp 3, khi rèn kĩ năng độc thoại có thêm yêu cầu kể lại
truyện theo lời một nhân vật.
26
Ở lớp 4, 5, HS vẫn tiếp tục được củng cố kĩ năng kể chuyện đã được
hình thành từ lớp dưới, đồng thời được hình thành những kĩ năng mới. Nội
dung các câu chuyện được kể ở lớp 4, 5 đã phong phú hơn, độ dài lớn hơn. So
với lớp 2, 3, có thêm yêu cầu mới là HS kể lại các truyện đã nghe, đã đọc
ngoài giờ Kể chuyện. Nhiều đề bài chỉ nêu ý nghĩa của câu chuyện mà không
chỉ rõ các chuyện cụ thể. Ngoài ra, HS còn phải kể lại được các chuyện đã
chứng kiến hoặc tham gia.
1.6.1. Đối với giáo viên
a, Chuẩn bị của giáo viên
Đọc truyện, tìm hiểu thâm nhập truyện
Để kể chuyện có nghệ thuật, hấp dẫn, rõ ràng thì trước tiên giáo viên
phải thì trước hết, giáo viên phải thuộc truyện, nắm vững tình tiết cốt truyện,
hiểu cặn kẽ ý nghĩa và bài học rút ra từ truyện. Đối với truyện mới, việc đọc
truyện là hết sức cần thiết, nhưng ngay cả với những truyện đã quen thuộc thì
giáo viên cũng không thể bỏ qua việc đọc truyện. Có đọc truyện mới biết
được từ đầu đến cuối, mới làm quen được nhân vật, với tình huống truyện,
mới so sánh được các dị bản khác nhau. Và quá trình đó sẽ giúp giáo viên
nắm vững được tình tiết và cốt truyện như mục đích đã nêu.
Việc đọc truyện cũng cần phải có phương pháp. Có hai phương pháp
đọc là đọc thầm và đọc thành tiếng.
1.
Đầu tiên phải đọc thầm rất kĩ câu chuyện
2.
Phân tích kĩ chuyện
- Xác định chủ đề nội dung truyện.
- Xem các tình tiết và xác định kết cấu của tác phẩm.
- Xác định tính cách nhân vật, đánh giá hành động của chúng.
- Lưu ý đến đặc trưng của thể loại truyện, ý nghĩa của chúng với việc
xây dựng hình tượng nhân vật.
27