TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA SƯ PHẠM
BỘ MÔN NGỮ VĂN
LƯU THỊ LOAN
THIÊN NHIÊN TRONG THƠ
HỒ CHÍ MINH
Luận văn tốt nghiệp Đại học
Ngành Sư phạm Ngữ văn
Cán bộ hướng dẫn: HỒ THỊ XUÂN QUỲNH
Cần Thơ, năm 2012
CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
LỜI CẢM ƠN
Trải qua bốn năm rèn luyện và học tập trên giảng đường Đại
học, được sự dìu dắt và truyền thụ kiến thức của thầy, cô. Đó là
hành trang bổ ích giúp chúng tôi bước vào đời. Có thể khẳng định
rằng: luận văn tốt nghiệp này là công trình nghiên cứu có giá trị đầu
tiên đối với mỗi sinh viên mới ra trường. Với công trình nghiên cứu
này, chúng tôi có dịp vận dụng toàn bộ những kiến thức đã được
học tập xuyên suốt bốn năm đại học. Gần một năm tìm tòi, nghiên
cứu, cùng với sự tận tình hướng dẫn của cô: Hồ Thị Xuân Quỳnh và
sự nổ lực cố gắng của bản thân đến nay đề tài nghiên cứu “Thiên
nhiên trong thơ Hồ Chí Minh” đã được hoàn thành.
Tôi xin gởi lời cảm ơn đến cô hướng dẫn: Hồ Thị Xuân
Quỳnh – người đã rất tận tình động viên, chỉ dẫn cho tôi phương
pháp nghiên cứu đề tài này. Cảm ơn các thầy cô trong bộ môn Ngữ
văn trường Đại học Cần Thơ đã trang bị cho tôi vốn kiến thức nền
tảng để hoàn thành luận văn này. Cảm ơn gia đình và bạn bè đã
động viên, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua.
Với công lao to lớn ấy, chúng tôi xin kính chúc quý thầy cô
trường Đại học Cần Thơ nói chung, các thầy cô trong bộ môn Ngữ
văn nói riêng và cô Hồ Thị Xuân Quỳnh được dồi dào sức khỏe và
thành công trong sự nghiệp trồng người.
Mặc dù đã rất cố gắng trong việc đi sâu vào nghiên cứu từng
khía cạnh của đề tài để thấy được nét độc đáo, cái mới, cái hay của
đề tài. Nhưng chúng tôi tự thấy kinh nghiệm, kiến thức của mình
còn quá ít ỏi, hạn hẹp đối với đề tài này. Cho nên cuốn luận văn này
ắt hẳn không thể không tránh khỏi những thiếu sót. Chúng tôi rất
mong được sự đóng góp ý kiến của quý thầy cô và các bạn để luận
văn này được hoàn thiện hơn.
Cần Thơ, tháng 5 năm 2012
Sinh viên
Lưu Thị Loan
ĐỀ CƯƠNG TỔNG QUÁT
PHẦN MỞ ĐẦU
1.
2.
3.
4.
5.
Lý do chọn đề tài
Lịch sử vấn đề
Mục đích nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
PHẦN NỘI DUNG
Chương I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TÁC GIA
HỒ CHÍ MINH
1.1
1.2
1.3
1.4
Đôi nét về cuộc đời
Sự nghiệp văn chương
Quan điểm sáng tác văn chương
Sự nghiệp sáng tác hoàn toàn thống nhất với sự nghiệp cách mạng
Chương II: HÌNH ẢNH THIÊN NHIÊN TRONG THƠ
HỒ CHÍ MINH
2.1 Sự phong phú và đa dạng về hình ảnh thiên nhiên trong thơ Hồ Chí Minh
2.1.1 Hình ảnh trăng
2.1.2 Hình ảnh hoa
2.1.3 Hình ảnh núi
2.1.4 Hình ảnh mây
2.1.5 Hình ảnh gió
2.1.6 Hình ảnh sông
2.1.7 Những hình ảnh thiên nhiên khác
2.2 Thiên nhiên trong thơ Hồ Chí Minh mang màu sắc tươi sáng
2.3 Thiên nhiên trong thơ Hồ Chí Minh vừa hiện thực vừa lãng mạn
2.4 Thiên nhiên trong thơ Hồ Chí Minh có sự vận động
Chương III: NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN HÌNH ẢNH THIÊN
NHIÊN TRONG THƠ HỒ CHÍ MINH
3.1 Bút pháp chấm phá phác họa
3.2 Thiên nhiên thường được miêu tả bằng nghệ thuật nhân hóa
3.3 Thiên nhiên trong thơ Hồ Chí Minh mang tính biểu tượng
PHẦN KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong thơ xưa, thiên nhiên là một yếu tố quan trọng. Hầu hết các nhà thơ
xưa đều có những sáng tác viết về thiên nhiên với một tình cảm yêu chuộng.
Chính thái độ ấy của các nhà thơ xưa mà trong bài “Cảm tưởng đọc Thiên gia
thi”, Hồ Chí Minh đã viết:
“Thơ xưa thường chuộng thiên nhiên đẹp
Mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông”
Từ thực tế đó và trong hoàn cảnh hiện tại, Hồ Chí Minh đã đề nghị: bên
cạnh việc miêu tả thiên nhiên thì “Nay ở trong thơ nên có thép”. Chính sự kết hợp
nhuần nhuyễn này nên thơ Hồ Chí Minh đã có được vẻ đẹp mang phong cách, tâm
hồn Người. Đó là vẻ đẹp của sự giao hòa giữa chất “thép” và chất “tình” trong
thơ Bác. Đọc “Nhật kí trong tù” của Hồ Chủ tịch, nhà thơ Hoàng Trung Thông
viết:
“Tôi đọc trăm bài trăm ý đẹp
Ánh đèn tỏa rạng mái đầu xanh
Vần thơ của Bác vần thơ thép
Mà vẫn mênh mông bát ngát tình.”
Khi viết về thiên nhiên, Hồ Chí Minh bao giờ cũng dành cho thiên nhiên
một tình cảm ưu ái dù bất kì trong hoàn cảnh nào. Nhiều khi trong thơ Người,
thiên nhiên là đối tượng thẩm mĩ nhưng nhiều khi lại là phương tiện để nhà thơ gửi
gắm nỗi lòng, bộc bạch tâm sự của mình. Do vậy, thiên nhiên trong thơ Người có
nhiều tầng bậc ý nghĩa.
Lòng yêu người, yêu thiên nhiên của Bác đã được nhà thơ Tố Hữu ghi
nhận:
“Ôi lòng Bác vậy, cứ thương ta
Thương cuộc đời chung, thương cỏ hoa
Chỉ biết quên mình cho hết thảy
Như dòng sông chảy nặng phù sa”
Và:
“Bác sống như trời đất của ta
Yêu từ ngọn lúa, mỗi nhành hoa”
Vì vậy, khi chọn đề tài “Thiên nhiên trong thơ Hồ Chí Minh” cũng là cách
để người viết tiếp cận những hình ảnh thiên nhiên trong thơ Người một cách sâu
sắc và toàn vẹn hơn. Đồng thời, đề tài này còn giúp người viết hiểu biết thêm về
cuộc đời, sự nghiệp văn chương, quan điểm sáng tác cũng như những đức tính tốt
đẹp của Người. Chính vì vậy, tôi đã quyết định chọn đề tài “Thiên nhiên trong thơ
Hồ Chí Minh” để làm luận văn tốt nghiệp cho mình.
2. Lịch sử vấn đề
Trong sự nghiệp văn chương của Hồ Chí Minh, Người đã sáng tác với
nhiều thể loại: văn chính luận, truyện kí, thơ ca và ở thể loại nào Người cũng đạt
được thành công rực rỡ. Người được rất nhiều nhà nghiên cứu, nhà phê bình quan
tâm trong tất cả các lĩnh vực: văn hóa, chính trị, tư tưởng,văn chương,…nhưng ở
đây chúng tôi chỉ đi sâu vào nghiên cứu ở lĩnh vực văn chương của Người mà cụ
thể đó là “Thiên nhiên trong thơ Hồ Chí Minh” (gồm những bài thơ được Bác
sáng tác trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp và tập thơ “Nhật kí trong
tù”). Chúng tôi xin điểm qua một số công trình nghiên cứu, bài viết, tham luận về
vấn đề này:
Trong sự nghiệp văn chương của Bác, độc giả Việt Nam và thế giới biết
đến nhiều hơn hết vẫn là tập thơ “Nhật kí trong tù”. Bởi “Nhật kí trong tù” là một
tập thơ độc đáo không chỉ ở hoàn cảnh sáng tác mà còn ở giá trị nội dung và nghệ
thuật. Ngay từ khi mới công bố, tác phẩm đã thu hút được sự quan tâm của đông
đảo độc giả, giới phê bình, nghiên cứu, trong đó có cả những nhà văn, nhà thơ ở
khắp mọi miền đất nước. Trong các công trình nghiên cứu về “Nhật kí trong tù”,
chúng ta phải kể đến công trình “Suy nghĩ mới về Nhật kí trong tù” của Nguyễn
Huệ Chi (chủ biên). Đây là công trình tập hợp rất nhiều bài viết về tác gia Hồ Chí
Minh. Những bài viết này đã góp phần khái quát được tập thơ của Người cả về
phương diện nội dung lẫn nghệ thuật. Tập thơ đã có sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố
hiện thực và lãng mạn, giữa “xiềng xích” với tự do, giữa truyền thống và hiện đại,
thơ và chính trị, tính dân tộc và tính đảng.
Nguyễn Đăng Mạnh khi viết về phong cách thơ Hồ Chí Minh trong cuốn
“Mấy vấn đề về phương pháp tìm hiểu phân tích thơ Chủ tịch Hồ Chí Minh” có
nói: “Bác Hồ giản dị mà không đơn giản. Giản dị là nét phong cách dễ thấy nhất
nhưng cũng phong phú nhất, thật khó nắm bắt cho hết những khía cạnh, những
sắc thái muôn hình muôn vẻ của nó. Người ta ví Bác và thơ văn của Bác như ánh
sáng ban ngày: ánh sáng trong suốt không màu, nhưng thực ra mang đủ cả mọi
sắc cầu vồng. Người ta cũng ví Bác và thơ văn Bác như cây đàn bầu: chỉ có một
dây nhưng là cả thế giới âm thanh, có lẽ đó là cách diễn đạt hơn cả nét phong
cách này của thơ Bác chăng”[17;tr.71].
Bàn về thiên nhiên trong thơ Hồ Chí Minh cũng được nhiều nhà nghiên
cứu, phê bình quan tâm và tiếp nhận những sáng tác của Bác với một thái độ trân
trọng, thiết tha và nghiêm túc. Trong quyển “Văn học Việt Nam (1900 – 1945)”,
Nhà xuất bản Giáo dục, năm 1997 do Phan Cự Đệ (chủ biên), tác giả nhận định:
“Hồ Chí Minh mang tâm hồn nghệ sĩ. Tình cảm đối với thiên nhiên chiếm một vị
trí đặc biệt trong thơ Người. Thiên nhiên trong thơ Người ở mỗi thời kì có một ý
nghĩa, một sắc thái riêng…những bài thơ mang cảm xúc trữ tình trước thiên
nhiên, thơ nói đến trăng, đến hoa cũng là “thơ thép”[4; tr.634].
Tác giả Minh Tranh trong bài viết “Sống như Bác đã sống”, đăng trên Báo
Tiền Phong, năm 1960, đã nhận xét về chất tình và chất thép trong thơ Bác: “Tâm
tình, cảm xúc mà chúng ta được gặp trên một trăm bài thơ của Bác là một tâm
tình, một xúc cảm rất chân thật. Ở đây là lòng yêu thiên nhiên, lòng yêu đời, lòng
tin tưởng ở tự do của khối nhân dân bình thường, của khối nhân dân bao la trong
đó thi sĩ là một phần tử gắn bó thật là tha thiết. Thơ và thép ở đây đã thống nhất
thành những thanh âm, nhạc điệu diễn nổi lên lòng tin của một chiến sĩ cách mạng
lão thành đã được rèn luyện trong nhiều thử thách của một đời chiến đấu, đã đánh
bại gian khổ”[26; tr.305].
Còn trong quyển “Hồ Chí Minh nhà thơ lớn của dân tộc”, Nhà xuất bản
Giáo dục, năm 1997 do Hà Minh Đức biên soạn, bên cạnh việc bàn về quan điểm
cách mạng của Bác về thơ, chất thép trong thơ, vẻ đẹp trí tuệ và chiều sâu cảm xúc
trong thơ Hồ Chí Minh thì tác giả còn đề cập đến tình cảm thiên nhiên trong thơ
Bác. Trong bài viết, tác giả nhận định:“Thiên nhiên, tạo vật trong thơ Hồ Chí
Minh luôn mang theo ý nghĩa của cuộc đời qua một hàm ý của nội dung, hoặc một
liên tưởng sâu xa. Cảm hứng với thiên nhiên bộc lộ một tầm nhìn, một quan niệm
triết lý và nhân sinh tiến bộ và những cảm xúc thẩm mĩ cao đẹp”[5;tr.144]. Như
vậy, khi viết về thiên nhiên không chỉ dừng lại ở việc Bác xem thiên nhiên như đối
tượng thẩm mĩ, thiên nhiên mang lại nhiều xúc cảm đặc biệt cho con người, thiên
nhiên là nơi để ta thưởng ngoạn, chiêm ngưỡng…mà đến với thiên nhiên Bác còn
như muốn gửi gắm, bộc bạch, giãi bày một tâm sự, nỗi niềm riêng. Thiên nhiên
trong thơ Người còn mang một ý nghĩa, biểu tượng khác. Nhà thơ mượn hình ảnh
thiên nhiên như một cái cớ để nói về những vấn đề xã hội.
Trong quyển “Nhật kí trong tù và những lời bình” (nhiều tác giả), Nhà
xuất bản Văn hóa – thông tin, năm 1997, trong bài viết “Lời bạt cuốn: Suy nghĩ
mới về nhật kí trong tù”, tác giả Vũ Khiêu nêu ra ý kiến: “Qua lời thơ trong bài
“Cảm tưởng đọc Thiên gia thi” tưởng như Người không làm thơ về thiên nhiên.
Không ngờ thiên nhiên lại tràn ngập trong nhiều bài thơ của Người. Chỉ có điều là
Người yêu thiên nhiên, nhưng không dừng lại ở mô tả “cái đẹp” của thiên nhiên
tách khỏi đời sống xã hội. Trong thơ của Người, nếu như bông hoa cười, con chim
hót, nắng xuyên vào ngục, mây trôi trên tầng không…thì đó không chỉ là đối tượng
xã hội của nhà thơ mà còn là những cảnh ngộ, những tâm trạng, những phương
tiện tự thể hiện của con người”[33;tr.574]. Cũng trong bài viết này, tác giả còn
đưa ra nhận xét: “Qua Nhật kí trong tù, chúng ta thấy nổi lên những quan hệ đẹp
nhất giữa con người với xã hội và con người với thiên nhiên. Hồ Chí Minh, con
người gắn bó mật thiết với nhân dân lao động lại là người thích sống với thiên
nhiên, làm bạn với thiên nhiên” [31;tr.576].
Lòng yêu thiên nhiên, gắn bó với thiên nhiên tạo vật của Bác còn được
Giáo sư Đặng Thai Mai đề cập đến trong bài “Tình cảm thiên nhiên trong “Ngục
trung nhật kí” in trong quyển “Nhật kí trong tù, những lời bình” (nhiều tác giả),
Nhà xuất bản Văn hóa – thông tin, năm 2006. Trong bài viết này, tác giả nhận xét:
“Đọc tập Ngục trung nhật kí, chúng ta luôn luôn có cái cảm giác khoan khoái là
mình đang bắt gặp một nghệ sĩ, một tâm hồn nghệ sĩ, một con người yêu thiên
nhiên, yêu con người, yêu cái đẹp của thiên nhiên và của con người. Tình cảm
thiên nhiên dạt dào, lai láng trên tập thơ…tập Ngục trung nhật kí đã dành cho
thiên nhiên một địa vị danh dự. Trong số một trăm mười bốn bài có tới vài chục
bài thơ tả cảnh. Ấn tượng khá sâu sắc, khá rõ rệt của người đọc là thiên nhiên
trong tập thơ rất khăng khít với đời sống nội tâm của con người” [30;tr.168].
Còn trong quyển “Nhật kí trong tù, tác phẩm và dư luận”, Nhà xuất bản
Văn học, năm 1983, qua bài thơ “Tảo giải” của Hồ Chí Minh, Hoàng Dung nêu ra
nhận xét: “Một cảnh thực: một thiên nhiên sinh động, vui, ấm. Và đẹp đẽ hơn, ấm
hơn là tâm hồn tràn đầy lạc quan, tin tưởng, sảng khoái hào hung của nhà thơ.
Bác đã đứng trên đau khổ mà đến với thiên nhiên – chớ quên rằng Người vẫn là
một người tù – vui với cảnh đẹp của thiên nhiên nhưng cũng hòa vào thiên nhiên
tâm hồn cao đẹp của mình và sưởi ấm thiên nhiên bằng nhiệt tình cách mạng rực
lửa của mình”[19;tr.376].
Hay Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh trong bài “Phong cách thơ Chủ tịch Hồ
Chí Minh” có viết: “Đọc thơ thiên nhiên của Bác, nhất là trong “Nhật kí trong
tù”, phải thấy cái phong thái ung dung tự tại của nhân vật trữ tình trước thiên
nhiên kia thực ra cũng là một phương diện của chất thép, chất cách mạng trong
thơ Hồ Chủ tịch. Và chính vì gắn liền với một tinh thần thép như thế nên thiên
nhiên trong thơ Bác không bao giờ ảm đạm, hiu quạnh, dù đó là thiên nhiên bắt
gặp giữa đêm khuya vắng vẻ trên đường đi đày (“Giải đi sớm”) hay lúc chiều
muộn sau một ngày dầm mưa dãi nắng (“Chiều tối”)”[17;tr.81].
Bên cạnh những công trình nghiên cứu trên, còn có rất nhiều những bài
viết, bài nghiên cứu về “Thiên nhiên trong thơ Hồ Chí Minh”. Tiêu biểu như: bài
“Giữa đường đáp thuyền đi huyện Ung”; “Ngắm trăng” của Hà Minh Đức in
trong quyển“Tác phẩm văn học – bình giảng và phân tích”, Nhà xuất bản Văn
học, năm 2001; bài “Chiều tối” của Trần Khánh Thành in trong “Giảng văn văn
học Việt Nam”, Nhà xuất bản Giáo dục, năm 2000; bài “Mặt trời và nhành mai”
(tìm hiểu bài Thượng sơn) của Nguyễn Xuân Nam trích từ “Thơ, tìm hiểu và
thưởng thức”, Nhà xuất bản Tác phẩm mới, tháng 4.1985;…ngoài ra, còn có rất
nhiều những bài nghiên cứu, phê bình khác viết về các bài thơ trong tập “Nhật kí
trong tù” và một số bài thơ được Bác sáng tác trong thời kì kháng chiến chống
thực dân Pháp. Tuy nhiên, nó còn riêng lẻ từng vấn đề, chỉ là những bài viết, phân
tích ở từng bài cụ thể chứ không phân tích nó theo một hệ thống nhất định.
Tóm lại, tình hình nghiên cứu về sự nghiệp thơ văn của Hồ Chí Minh hiện
nay rất phong phú, nhưng hiếm có những bài viết về “Thiên nhiên trong thơ Hồ
Chí Minh” có tính chất như một chuyên luận. Trên thực tế, chúng ta thấy có rất
nhiều công trình nghiên cứu, bài phê bình về vấn đề “Thiên nhiên trong thơ Hồ
Chí Minh” nhưng nó còn riêng lẻ từng vấn đề. Có nhiều bài nghiên cứu, phê bình
về các bài thơ trong tập “Nhật kí trong tù” và một số bài thơ được Bác sáng tác
trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp nhưng nó chỉ là những bài viết,
phân tích ở từng bài cụ thể chứ không phân tích theo một hệ thống nhất định như
nội dung mà đề tài yêu cầu. Cũng có khi người nghiên cứu chỉ nêu ra được một
góc độ, khía cạnh nào đó của tập “Nhật kí trong tù”…chúng tôi nhận ra rằng: đối
với Hồ Chí Minh – một tác gia lớn của dân tộc thì vấn đề nghiên cứu về thơ văn
của Người luôn là một vấn đề lớn, có nhiều sức gợi cho thế hệ hôm nay và mai sau
nghiên cứu, học tập.
3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài “Thiên nhiên trong thơ Hồ Chí Minh”, góp phần giúp
chúng tôi có cái nhìn toàn diện và sâu sắc hơn về hình ảnh thiên nhiên trong thơ
Hồ Chí Minh. Thiên nhiên trong thơ Bác rất đa dạng, nó không tĩnh tại mà luôn có
sự vận động hướng đến tương lai tươi sáng, với nghệ thuật thể hiện hình ảnh thiên
nhiên trong thơ Người rất mới mẻ nhưng cũng rất gần gũi. Đồng thời, nghiên cứu
đề tài này còn giúp người viết có thêm những hiểu biết về cuộc đời, sự nghiệp văn
chương, quan điểm sáng tác cũng như hiểu thêm về tư tưởng, đạo đức, tinh thần
của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Bên cạnh đó, đề tài này còn giúp chúng tôi có thêm những kiến thức bổ ích
về văn học Việt Nam giai đoạn 1930-1945 nói riêng và văn học Việt Nam nói
chung. Đặc biệt là các sáng tác của Hồ Chí Minh để phục vụ cho công tác giảng
dạy và học tập ở nhà trường về sau.
4. Phạm vi nghiên cứu
Hồ Chí Minh là một tác gia lớn của dân tộc, là nhà thơ tiêu biểu cho văn
học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945. Người sáng tác với nhiều thể loại: văn chính
luận, truyện kí và thơ ca nhưng vì đề tài mà chúng tôi nghiên cứu là “Thiên nhiên
trong thơ Hồ Chí Minh” nên ở đây người viết chỉ chủ yếu khảo sát, tập trung
nghiên cứu về thiên nhiên trong các sáng tác thơ ca của Người (gồm những bài thơ
được Bác sáng tác trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp và những bài
thơ trong tập “Nhật kí trong tù”).
Bên cạnh đó, người viết sẽ có sự so sánh giữa hình ảnh thiên nhiên trong
thơ Bác với hình ảnh thiên nhiên của một số nhà thơ khác, nhằm làm sáng tỏ cũng
như để tăng thêm sự phong phú cho nội dung đề tài.
5. Phương pháp nghiên cứu
Với đề tài “Thiên nhiên trong thơ Hồ Chí Minh”, người viết cần có những
phương pháp thích hợp trong quá trình nghiên cứu vấn đề. Từ đó, người viết có
thể đảm bảo được những yêu cầu mà đề tài đặt ra. Vì vậy, chúng tôi đã sử dụng
một số phương pháp như:
- Phương pháp tiểu sử: là phương pháp tiếp cận tác phẩm văn học thông
qua việc nghiên cứu tiểu sử tác giả qua tác phẩm đó. Sử dụng phương pháp này,
chúng tôi nhằm mục đích lý giải nguồn gốc cũng như sự tác động từ thân thế và
cuộc đời của Hồ Chí Minh đối với vấn đề thiên nhiên trong thơ của Người. Từ đó,
có thể thấy được sự phong phú, đa dạng của thiên nhiên trong thơ Bác, nhận thức
được tình cảm cũng như sự giao hòa giữa con người và thiên nhiên.
- Phương pháp thống kê: phương pháp này được sử dụng nhằm thu thập
những tư liệu có liên quan đến cuộc đời và sự nghiệp văn chương của Bác. Cũng
như thống kê những tác phẩm, những công trình nghiên cứu có liên quan đến nội
dung đề tài. Đồng thời, phương pháp này còn được sử dụng để thống kê những câu
thơ, bài thơ tiêu biểu của Người nhằm chứng minh cho một luận điểm cụ thể.
- Phương pháp so sánh, loại suy: sử dụng phương pháp này, người viết
nhằm so sánh, đối chiếu giữa những bài thơ viết về thiên nhiên trong thơ Hồ Chí
Minh với thơ viết về thiên nhiên trong thơ của một số nhà thơ khác. Từ đó, người
đọc có thể thấy được những nét đặc sắc trong thơ viết về thiên nhiên của Người.
- Phương pháp giải thích học: phương pháp này được vận dụng nhằm giải
thích, chú giải những dẫn chứng cụ thể, những vấn đề có liên quan đến nội dung
đề tài.
Ngoài những phương pháp trên, chúng tôi còn sử dụng một số thao tác như:
phân tích, chứng minh, bình giảng,…để làm bật nổi thiên nhiên trong thơ Bác
không chỉ đặc sắc ở phương diện nội dung mà còn ở phương diện nghệ thuật trong
những bài thơ tiêu biểu của Người. Cụ thể, người viết sẽ dẫn chứng những câu
thơ, bài thơ tiêu biểu để chứng minh cho vấn đề khi cần thiết. Điều đó nhằm tạo
sức thuyết phục hơn cho những lí lẽ vừa phân tích.
Như vậy: trong bài nghiên cứu này, người viết sẽ sử dụng nhiều phương
pháp khác nhau để làm nổi rõ hơn những vấn đề mà nội dung đề tài yêu cầu. Tất
cả những phương pháp này được thực hiện không phải một cách riêng lẻ, biệt lập
mà nó được vận dụng, phối hợp với nhau trong quá trình nghiên cứu, khảo sát và
phân tích thơ Hồ Chí Minh.
PHẦN NỘI DUNG
Chương I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TÁC GIA
HỒ CHÍ MINH
1.1 Đôi nét về cuộc đời
Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890 tại quê ngoại là
Hoàng Trù và lớn lên ở quê nội Kim Liên (làng Sen), huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ
An, là nơi có truyền thống yêu nước lâu đời và truyền thống văn học.
Người sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo yêu nước, gốc nông dân.
Thân sinh của Người là cụ phó bảng Nguyễn Sinh Huy (Nguyễn Sinh Sắc), một
nhà nho có tài và sống thanh bạch bằng nghề dạy học. Mẹ của Người là bà Hoàng
Thị Loan, một người phụ nữ hiền hậu, đảm đang, sống bằng nghề làm ruộng, dệt
vải và chăm lo dạy dỗ các con chu đáo. Chị của Bác là Nguyễn Thị Thanh và anh
là Nguyễn Sinh Khiêm, đều tham gia phong trào chống thực dân Pháp.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là con thứ ba trong gia đình. Lúc còn bé, Người tên
là Nguyễn Sinh Cung, về sau đổi tên là Nguyễn Tất Thành. Khi đi học, Người là
một học trò thông minh, chăm chỉ học tập và ham tìm hiểu những điều mới lạ.
Ngoài những sách phải học, Người còn ham đọc truyện thơ và thơ ca yêu nước.
Người thường được cha cho tham dự những cuộc đàm luận về thời cuộc giữa ông
với những nhà yêu nước. Chính những yếu tố đó đã hun đúc tinh thần yêu nước,
thương nòi ở Người. Năm 15 tuổi, Người đã tham gia công tác bí mật, làm liên lạc
cho một số nhà Nho yêu nước lúc bấy giờ.
Bác lớn lên khi các phong trào yêu nước như: phong trào Cần Vương mà
tiêu biểu nhất là cuộc khởi nghĩa Yên Khê do Phan Đình Phùng lãnh đạo, cuộc
khởi nghĩa Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo đều bị thất bại.
Vào mùa hè năm 1908, Chủ tịch Hồ Chí Minh thôi học, rời Huế đi vào
Nam và Người đã dừng chân dạy học ở trường Dục Thanh – Phan Thiết một thời
gian. Tại đây, Người không chỉ truyền thụ những kiến thức văn hóa mà còn chú
trọng giáo dục tinh thần yêu nước thương dân cho học trò của mình.
Ít lâu sau, Người vào Sài Gòn. Và ngày 5 tháng 6 năm 1911, Người đã lên
tàu La touche Tréville ra nước ngoài với mong muốn thực hiện được hoài bão cứu
nước của mình. Người từng hoạt động ở nhiều nước thuộc: Châu Á, Châu Âu,
Châu Phi và Châu Mỹ nhưng chủ yếu nhất là ở Pháp. Năm 1919, thay mặt những
người Việt Nam ở Pháp, Người gửi tới Hội nghị hòa bình ở Vécxây bản yêu sách
“Quyền các dân tộc”. Năm 1920, Nguyễn Ái Quốc tham gia thành lập Đảng Cộng
sản Pháp. Và ngày 3.2.1930, Người chủ trì Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản
thành Đảng Cộng sản Đông Dương tại Hương Cảng (Trung Quốc). Tháng 2.1941,
Nguyễn Ái Quốc về nước và thành lập Mặt trận Việt Minh. Từ khi về nước,
Nguyễn Ái Quốc đã lấy tên là Hồ Chí Minh, lãnh đạo quân dân cả nước làm nên
cuộc Cách mạng tháng Tám lịch sử, và ngày 2 tháng 9 tại quảng trường Ba Đình
(Hà Nội), Người đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa. Bản tuyên ngôn nhằm tuyên bố với toàn thể dân tộc và các nước
trên thế giới nền độc lập của nước Việt Nam và quyết tâm bảo vệ độc lập tự do của
quân dân Việt Nam.
Ngày 6.1.1946, cuộc tổng tuyển cử đã diễn ra và Người được bầu làm Chủ
tịch nước. Từ đây với vai trò của một nguyên thủ quốc gia, Người đã sát cánh
cùng toàn dân đưa cách mạng Việt Nam vượt trăm nghìn thử thách, đánh bại Pháp,
Mỹ xâm lược và thực sự cách mạng Việt Nam đã giành được thắng lợi vẻ vang.
Thế nhưng, ước mơ được đi cùng nhân dân đến ngày độc lập, được tận mắt nhìn
thấy Nam Bắc thống nhất một nhà của Bác chưa làm được thì Người đã ra đi mãi
mãi vào ngày 2.9.1969. Sự ra đi của Bác là một tổn thất lớn, là nỗi đau không gì
bù đắp được của dân tộc Việt Nam. Và dù non sông Việt Nam không còn Bác thì
trong lòng mỗi người, Bác bao giờ cũng là vị lãnh tụ vĩ đại, là người cha kính yêu
của dân tộc Việt Nam, Bác vẫn sống mãi trong sự nghiệp của thế giới.
Ngoài tên gọi Hồ Chí Minh và tên Nguyễn Tất Thành do gia đình đặt, trong
cuộc đời hoạt động cách mạng, Bác còn có nhiều tên gọi và bí danh khác như: Văn
Ba (khi làm phụ bếp trên tàu biển, 1911); Paul Tất Thành (1912); Nguyễn Ái Quốc
(từ 1919); Lý Thụy (khi ở Quảng Châu,1924); Vương(Wang) (1925-1927, 1940);
Tống Văn Sơ (1931-1933); Lin (khi ở Liên Xô, 1934-1938); Hồ Quang (1938 1940); Trần (khi ở Trung Quốc, 1940); Chen Vang (trong giấy tờ đi đường từ
Pháp sang Liên Xô năm 1923); ông Già Thu (Khi ở Việt Bắc);…
Bác còn dùng hơn 50 bút danh khi viết sách, báo: Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn
A.Q, Ng. Ái Quốc, Lê Nhân, Lê Ba, Lê Nông, Tuyết Lan, N.A.Q, Wang, T.Lan, Thu
Giang, Trầm Lam, Nguyễn Kim,…
Năm 1990, nhân dịp kỉ niệm 100 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc (UNESCO) đã ghi nhận
và tôn vinh Người là “Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn”. Có thể nói,
ngoài sự nghiệp cách mạng vĩ đại, Bác còn để lại cho đời sau nhiều tác phẩm văn
chương có giá trị nghệ thuật mà trong số đó có tập “Nhật kí trong tù”.
1.2 Sự nghiệp văn chương
Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã để lại cho nhân dân ta một sự nghiệp
văn chương vô cùng lớn lao về tầm vóc, phong phú và đa dạng về thể loại và đặc
sắc về phong cách nghệ thuật sáng tạo. Từ lúc còn nhỏ Bác đã có năng khiếu về
văn chương, yêu thích văn chương dân gian, văn thơ cổ điển và thơ văn yêu nước.
Đặc biệt, Người am hiểu sâu sắc Hán học, thơ Đường, thơ Tống. Trong thời kì
hoạt động cách mạng ở: Pháp, Anh, Bác còn say mê tìm hiểu văn học nghệ thuật
phương Tây.
Có thể nói sự nghiệp văn chương của Bác gắn liền với sự nghiệp cách
mạng. Văn chương phục vụ cách mạng và cách mạng tạo điều kiện để văn chương
phát triển. Bác tìm đến với văn chương như một phương tiện để phục vụ cho sự
nghiệp cách mạng “Bác chưa bao giờ có ý định xây dựng cho mình một sự nghiệp
văn chương. Trong cảnh nước mất, nhà cách mạng dứt khoát từ chối con đường
“Văn chương khoa cử” để hiến dâng cuộc đời cho sự nghiệp cứu nước. Nhưng
trên con đường cứu nước văn chương lại đến với Người như một phương tiện, vũ
khí chiến đấu sắc bén được sử dụng thường xuyên và có hiệu quả” [8;tr.13].
Tác phẩm của Người được viết bằng nhiều thứ tiếng: Pháp, Hán, tiếng Việt.
Và ta có thể tìm hiểu sự nghiệp sáng tác của Người chủ yếu trên ba lĩnh vực: văn
chính luận, truyện kí và thơ ca.
● Văn chính luận
Những tác phẩm văn chính luận của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh được
viết ra chủ yếu với mục đích đấu tranh chính trị nhằm tiến vào trực diện kẻ thù, lên
án chế độ thực dân và chính sách bóc lột tàn bạo của chúng. Ngay từ những thập
niên đầu thế kỉ XX, các bài văn chính luận với bút danh Nguyễn Ái Quốc đăng
trên các tờ báo: “Người cùng khổ(Le Paria)” ,“Nhân đạo(L'Humanité)”, “Đời
sống thợ thuyền (Lavie Ouvriere)”,…đã có ảnh hưởng lớn đến công chúng Pháp
và nhân dân các nước thuộc địa. Đặc biệt, với tác phẩm “Bản án chế độ thực dân
Pháp” ra đời năm 1925, Bác đã tố cáo chính sách thực dân tàn bạo của Pháp, đề
cập đến phong trào đấu tranh của các dân tộc thuộc địa và kêu gọi thức tỉnh những
người nô lệ bị áp bức liên hiệp lại trong mặt trận đấu tranh chung. Đây là một
trong những tác phẩm bằng tiếng Pháp thành công của Người.
Bên cạnh tác phẩm trên,“Tuyên ngôn độc lập” là một áng văn chính luận
xuất sắc nhất của Người. Tác phẩm là lời tuyên bố hùng hồn trước cả nước và toàn
thế giới nền độc lập của dân tộc Việt Nam, khẳng định quyền làm chủ và quyết
tâm bảo vệ độc lập của dân tộc ta. Bằng lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc bén và ngôn
ngữ hùng hồn, “Tuyên ngôn độc lập” là bản án đanh thép có giá trị lịch sử to lớn
và giá trị văn học sâu sắc.
Tiếp nối sự phát triển của lịch sử dân tộc, các tác phẩm chính luận nổi tiếng
của Bác như: “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (1946)”, “Không có gì quý hơn
độc lập tự do (1966)”, đều thể hiện sâu sắc tiếng gọi của non sông đất nước trong
những giờ phút thử thách đặc biệt. Trong những ngày tháng cuối cùng của cuộc
đời, Người viết “Di chúc”. Bản di chúc là lời căn dặn thiết tha, chân tình đối với
đồng bào, đồng chí, vừa mang tính chiến lược trong hướng phát triển đất nước,
vừa thấm đượm tình thương yêu con người.
Tóm lại: nhìn một cách tổng thể nhất, văn chính luận của Hồ Chí Minh bộc
lộ tư duy sắc sảo, giàu tri thức văn hóa, gắn lí luận với thực tiễn, giàu tính luận
chiến, vận dụng có hiệu quả nhiều phương thức biểu hiện.
● Truyện và kí
Trong sự nghiệp sáng tác của Người, bên cạnh những tác phẩm chính luận
nổi tiếng còn phải kể đến mảng truyện và kí được Bác viết bằng tiếng Pháp đăng
báo từ khoảng 1922 đến 1925 ở Pari. Với các truyện ngắn như: “Pari (1922, Nhân
đạo), Lời than vãn của bà Trưng Trắc (1922, Nhân đạo), Con người biết mùi hun
khói (1922, Nhân đạo), Vi hành (1923, Nhân đạo); Đoàn kết giai cấp (1924,
Người cùng khổ), Con rùa (1925, Người cùng khổ), Những trò lố hay là Va-ren và
Phan Bội Châu (1925, Người cùng khổ)” đều gây ấn tượng sâu sắc trong lòng
người đọc. Trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp, truyện ngắn “Giấc
ngủ 10 năm (1949)” với bút danh Trần Lực là một sáng tác giàu tinh thần lạc quan
cách mạng của Bác.
Ngoài truyện ngắn, Hồ Chí Minh còn có những tác phẩm kí đặc sắc như:
“Nhật kí chìm tàu (1935)”,“Vừa đi đường vừa kể chuyện (1963,bút danh T.
Lan)”. Trong cuốn sách này, Hồ Chí Minh hóa thân thành một cán bộ trong đoàn
tùy tùng (T. Lan), đi công tác cùng với Hồ Chí Minh trong rừng núi Việt Bắc và
được Hồ Chí Minh vui miệng kể cho nghe nhiều câu chuyện.
Nhìn chung, truyện và kí của Người rất cô đọng, cốt truyện trong sáng, kết
cấu độc đáo, dễ gây ấn tượng cho người đọc. Mỗi truyện đều có cách thể hiện
riêng không lặp lại, ý tưởng thâm thúy, kín đáo, chất trí tuệ tỏa sáng trong hình
tượng và phong cách giàu tính hiện đại. Bác rất quan tâm đến lối kể chuyện truyền
thống và văn xuôi của dân tộc. Đồng thời, Người cũng chú ý đến việc vận dụng lối
biểu hiện mới mẻ của văn xuôi phương Tây. Các câu chuyện của Bác thường dựa
trên một câu chuyện có thật rồi hư cấu phát triển thêm để thực hiện được dụng ý
nghệ thuật của mình.
● Thơ ca
Đây là lĩnh vực nổi bật nhất trong sự nghiệp văn chương của Người. Về
lĩnh vực thơ ca, có thể kể đến ba tập thơ:
Tập “Nhật kí trong tù (1942 – 1943)” gồm 133 bài.
Tập “Thơ Hồ Chí Minh (1967)” gồm 86 bài.
Tập “Thơ chữ Hán Hồ Chí Minh (1990)” gồm 36 bài.
Với số lượng trên 250 bài thơ, Bác đã thực sự trở thành một nhà thơ lớn của
dân tộc. Trong đó tập “Nhật kí trong tù” là tập thơ tiêu biểu nhất trong di sản thơ
ca của Người.
“Nhật kí trong tù”, tập thơ được Bác viết trong thời gian bị chính quyền
Tưởng Giới Thạch giam cầm ở Quảng Tây (Trung Quốc) từ ngày 29.8.1942 đến
ngày 10.9.1943. Tập thơ đã phản ánh một tâm hồn, một nhân cách cao đẹp của
người tù cách mạng trong hoàn cảnh thử thách khắc nghiệt của chốn lao tù:
“Thân thể ở trong lao
Tinh thần ở ngoài lao.”
Đó là sự thắng thế của những giá trị tinh thần, của lý tưởng Cộng sản. Đó
còn là lòng yêu nước, niềm tin tất thắng vào ngày mai. Đồng thời cũng vạch trần
bộ mặt tàn bạo của chế độ nhà tù Quốc dân đảng. Bên cạnh đó,“Nhật kí trong tù”
còn chứa chan một tấm lòng nhân đạo bao la, tình cảm ấy không chỉ dành cho
những kiếp cần lao trong xã hội ta mà còn vượt ra ngoài phạm vi biên giới quốc
gia; vượt qua mọi giới hạn về màu da, tôn giáo,…
Tập “Thơ Hồ Chí Minh” là những bài thơ được Bác sáng tác khi Bác được
trả tự do về nước và lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam. Thơ của Người thể
hiện tấm lòng yêu nước sâu nặng, đó còn là nỗi lo lắng của vị lãnh tụ trước tình
cảnh đất nước bị xâm lăng. Một số bài thơ tiêu biểu trong tập thơ này: “Cảnh
khuya”; “Đi thuyền trên sông Đáy”; “Rằm tháng giêng”,…
Bên cạnh hai tập thơ trên thì tập “Thơ chữ Hán” được Bác sáng tác trong
nhiều thời điểm khác nhau. Đó là những bài cổ thi với tứ thơ phóng khoáng, nhiều
đề tài. Những bài thơ tiêu biểu như: “Thu dạ”; “Nguyên tiêu”; “Đăng sơn”;
“Tặng Bùi Công”;…
Tóm lại, văn thơ của Hồ Chí Minh có sự đa dạng về phong cách thể hiện,
nhưng đều thống nhất.“Văn chương của Hồ Chí Minh đã kết hợp sâu sắc tự bên
trong mối quan hệ giữa chính trị và văn chương, giữa tư tưởng và nghệ thuật,
giữa truyền thống và hiện đại”[24;tr.111]. Văn thơ của Người thể hiện một tấm
lòng yêu thương sâu sắc và một tâm hồn cao cả. Đó là tiếng nói nhân danh những
người cùng khổ đấu tranh đòi quyền sống, nhân danh một dân tộc bảo vệ quyền
độc lập, tự do. Đó là tiếng nói của người cần lao, “Người đi dép lốp cao su” và
“Nhà chiến lược”(Katep Yaxin, Angieri) luôn lạc quan tin vào sức mạnh của chân
lí và của con người đang vươn tới những giá trị cao quý của Chân – Thiện – Mỹ.
Qua di sản văn chương quý báu đó, các thế hệ hôm nay và mai sau có thể tìm thấy
và cần học hỏi những bài học về giá trị tinh thần cao quý ấy ở Người.
1.3 Quan điểm sáng tác văn chương
Nhắc đến Hồ Chí Minh chúng ta không chỉ nhắc tới một danh nhân văn hóa
thế giới, một nhà chính trị tài giỏi mà Người còn là một nhà thơ, nhà văn lỗi lạc.
Người đã để lại cho thế hệ chúng ta một khối lượng tác phẩm văn chương khá lớn
dưới ánh sáng của một quan điểm nghệ thuật đúng đắn.
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh không nhận mình là nhà văn, nhà thơ mà
chỉ là một người bạn, người yêu văn nghệ. Trong “Nhật kí trong tù”, Người viết
“Lão phu nguyên bất ái ngâm thi”. Nhưng vì hoàn cảnh thôi thúc, nhiệm vụ cách
mạng yêu cầu, thiên nhiên gợi cảm cộng với tài năng nghệ thuật và tâm hồn nghệ
sĩ, Người đã sáng tác nên nhiều tác phẩm có giá trị. Những áng văn chính luận sắc
sảo, hùng hồn; những truyện ngắn độc đáo và hiện đại; cùng với hàng trăm bài thơ
giàu tình người, chứa chan thi vị đã được Bác viết bằng tất cả tài năng và tâm
huyết.
Bác xem văn nghệ là một hoạt động tinh thần phong phú và phục vụ có
hiệu quả cho sự nghiệp cách mạng. Nhà văn phải ở giữa cuộc đời, góp phần vào
nhiệm vụ đấu tranh và phát triển xã hội. Trong bài “Cảm tưởng đọc Thiên gia
thi”, Bác viết:
“Hiện đại thi trung ưng hữu thiết,
Thi gia dã yếu hội xung phong”.
Người quan niệm: “văn chương không chỉ là chuyện thù tạc, nhàn tản của
một tiểu số người cầm bút, mà văn nghệ phải là vũ khí sắc bén và người nghệ sĩ
phải là một chiến sĩ luôn mang tinh thần cách mạng tiến công”[3;tr.9]. Văn
chương của Người viết ra chủ yếu là để phục vụ cách mạng, phục vụ sự nghiệp
giải phóng dân tộc “Văn học trong tay của người cách mạng có khả năng trở
thành vũ khí rất lợi hại” [12;tr.18].
Nhận thấy được văn chương là thứ vũ khí sắc bén trong sự nghiệp đấu
tranh, tuyên truyền và giáo dục nên Bác đã đặt ra yêu cầu cho bản thân và các văn
nghệ sĩ: Văn chương phải hướng đến quảng đại quần chúng. Xem quần chúng là
đối tượng phục vụ chính, tức là Bác đã có sự chú ý đặc biệt đến đối tượng thưởng
thức. Mỗi sáng tác của Người bao giờ cũng nhằm một mục đích cụ thể (Viết để
làm gì?), mỗi đối tượng cụ thể (Viết cho ai?), trên cơ sở ấy, xác định một nội dung
cụ thể (Viết cái gì?) và một hình thức thích hợp (Viết thế nào?) để đạt tới kết quả
chắc chắn thiết thực. Đối tượng và mục đích phải quy định nội dung và hình thức.
Người chỉ rõ trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, đại đa số nhân dân có trình
độ thấp, không có thời gian để đọc nhiều, đọc dài nên người cầm bút càng viết
ngắn càng tốt. Bác yêu cầu các văn nghệ sĩ: tùy đối tượng thưởng thức, tiếp nhận
văn chương mà có những cách viết và những nội dung khác nhau.
Đối với nông dân là tầng lớp ít học, ít hiểu biết cho nên các tác phẩm của
Người thường ngắn, những câu hò, câu vè dễ thuộc, dễ nhớ. Để kêu gọi tinh thần
đoàn kết mà đối tượng của Bác muốn hướng đến nông dân, bài thơ “Hòn đá” của
Người đã đáp ứng đúng yêu cầu đã nói trên.
“Hòn đá to
Hòn đá nặng
Một người nhấc
Nhấc không đặng
Hòn đá to
Hòn đá nặng
Nhiều người nhấc
Nhấc lên đặng”
Với những áng văn chính luận như: “Tuyên ngôn độc lập”, “Lời kêu gọi
toàn quốc kháng chiến” để phục vụ cho đồng bào cả nước và tranh thủ dư luận thế
giới, bằng những cách lập luận chặt chẽ, lời lẽ đanh thép đã phần nào thuyết phục
được quần chúng.
Những tác phẩm viết bằng tiếng Pháp như: “Vi hành”, “Những trò lố hay
là Va-ren và Phan Bội Châu” dành cho độc giả là người Pháp. Cách viết của
Người mang đậm phong cách phương Tây. Chẳng hạn như cách viết truyện theo
lời viết thư trong truyện ngắn “Vi hành”, và những thành ngữ, cách chơi chữ bằng
tiếng Pháp của Người đã phần nào đả kích được bản chất xấu xa của tên vua bù
nhìn Khải Định và quan thầy thực dân Pháp.
Với bản thân, Người có những dòng thơ hết sức hữu tình, chan hòa cùng
thiên nhiên cảnh vật nhưng vẫn không quên nhiệm vụ cao cả, thiêng liêng của
mình với vận mệnh của đất nước:
“Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa
Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà”.
(Cảnh khuya)
Mặt khác, Người cũng quan niệm tác phẩm văn chương phải có tính chân
thật. Người yêu cầu các văn nghệ sĩ phải “miêu tả cho hay, cho chân thật, cho
hùng hồn”[15;tr.20]. Người dạy phải chú ý nêu gương “người tốt, việc tốt”, uốn
nắn và phê bình cái xấu. Tính chân thật vốn là cái gốc của văn chương xưa nay.
Nhà văn phải chú ý đến hình thức biểu hiện, tránh lối viết cầu kì, xa lạ, nặng nề.
Hình thức của tác phẩm phải trong sáng, hấp dẫn và ngôn từ phải có sự chọn
lọc.“Quần chúng mong muốn những tác phẩm có nội dung chân thật và phong
phú, có hình thức trong sáng và vui tươi”[17;tr.69]. Bên cạnh đó, Người còn đặc
biệt quan tâm đến việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Theo Bác, tác phẩm
văn chương phải thể hiện được tinh thần của dân tộc, của nhân dân và được nhân
dân yêu thích.
Có thể hiểu quan niệm của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh về văn nghệ
qua lời “Văn nghệ là một hoạt động xã hội nên không thể tách rời, không thể đứng
ngoài chính trị và kinh tế. Lãnh đạo văn nghệ có nghĩa là lãnh đạo những con
người là văn nghệ, tức là phải tranh thủ được sự tự nguyện của họ. Làm văn nghệ
là một công việc sáng tạo vì vậy người làm văn nghệ phải có sự độc lập chủ động
thì tác phẩm mới có giá trị”[24;tr.10]. Chủ tịch Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ vĩ đại
của dân tộc, người sáng lập ra Đảng cộng sản Việt Nam và khai sinh ra nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa, cũng là người đặt nền móng vững chắc đầu tiên cho nền
văn học Việt Nam thời kì hiện đại. Người đã đưa văn học Việt Nam vào quỹ đạo
mới của hệ tư tưởng vô sản, đem lại cho văn học một phương hướng, nội dung và
sức sống mới, một kiểu mẫu mới của sức sáng tạo nghệ thuật. Tác phẩm của
Người là nguồn sáng, là tinh hoa của văn học Việt Nam thời kì hiện đại. Nhà thơ
Phêlich Pita Rôđrighêt (Cuba) đã nhận xét Người là “Một trong những con người
kì diệu ít có, những con người như những tảng đá lớn làm nền cho nhân loại,
những con người qua cuộc đời mình đã dạy cho mọi người hiểu rằng: đối với con
người, không có đỉnh cao nào là không thể đạt tới”[4;tr.29].
1.4 Sự nghiệp sáng tác hoàn toàn thống nhất với sự nghiệp cách mạng
Trong sự nghiệp lớn lao của Hồ Chí Minh, văn thơ là một bộ phận gắn liền
với những hoạt động cách mạng phong phú của Người. Đọc thơ của Người,
Trường Chinh nhận xét: “Trong thơ của Hồ Chủ tịch, mỗi câu mỗi chữ đều mang
chất thép, đều toát ra tư tưởng và tình cảm của người chiến sĩ vĩ đại”[2;tr.9].
Những tác phẩm văn chính luận, truyện kí và thơ ca của Người dù viết
trong ngục tù hay khi còn hoạt động trong vòng bí mật, dù lời thơ nặng về tâm tình
hay trực tiếp tuyên truyền cho nhiệm vụ cách mạng, tất cả đều toát lên tinh thần
chiến đấu mạnh mẽ của người chiến sĩ vĩ đại của giai cấp vô sản.
Bác để lại cho dân tộc ta một sự nghiệp văn chương vô cùng lớn lao và
phong phú. Một sự nghiệp văn thơ được lớp lớp các thế hệ công chúng Việt Nam
truyền tụng. Một sự nghiệp văn thơ mà những người chuyên môn, những bậc thầy
văn hóa, văn nghệ trong nước và trên thế giới đều nhất trí xem trọng và ca ngợi.
Nhưng con người có đủ tư cách nghệ sĩ ấy, con người có cả một sự nghiệp
văn thơ ấy, lại chưa bao giờ muốn nhận mình là nhà thơ.“Ngâm thơ ta vốn không
ham”, đây là câu đầu bài Khai quyển của tập “Nhật kí trong tù” gồm hơn một
trăm bài thơ được Bác viết trong khoảng thời gian hơn một năm, từ tháng 8.1942
đến 9.1943. Người nói không ham theo cách nói ý tứ, khiêm nhường của một câu
thơ của người xưa:
“Lão phu nguyên bất ái ngâm thi”
(Nghiêu Phu – đời Thanh, Trung Quốc)
Hay:
“Lời quê chắp nhặt dông dài,
Mua vui cũng được một vài trống canh.”
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)
Hồ Chí Minh nói không ham, vì thực ra Người chỉ có một ham muốn “Ham
muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn
toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành” [9;tr.14].
Theo lời kể của cụ Phan Bội Châu, lúc còn thanh niên Hồ Chí Minh rất thích hai
câu thơ của Viên Mai:
“Mỗi phạn bất vong duy trúc bạch,
Lập thân tối hạ thị văn chương.”
Người xưa từng nói có ba điều bất hủ: cao nhất là lập đức, thứ đến lập công
và thấp nhất là lập ngôn. Nhưng Bác thì ngược lại, Bác không xem thường lập
ngôn, cũng như Bác không xem thường bất cứ một việc gì nếu như nó có ích ít
nhiều cho sự sống, cho cách mạng “mỗi một người, bất cứ làm công tác gì, ở đơn
vị nào đều là quan trọng. Công việc gì có ích cho Đảng, cho cách mạng cũng vẻ
vang”[9;tr.17].
Trả lời câu hỏi về tập “Nhật kí trong tù”, có lần Bác nói: “Các chú không
nhắc, thì Bác cũng không nhớ đến nữa. Bác không phải là người hay thơ, mà thơ
của Bác cũng không hay. Mười mấy tháng bị nhốt trong cái phòng u ám và quạnh
hiu, một mình một bóng, không được nói chuyện với ai, không có việc gì làm.
Muốn du lịch, thì đi dọc chỉ năm bước, đi ngang chỉ bốn bước. Để tiêu khiển ngày
giờ, chỉ một cách nghêu ngao vắn tắt ghi lại sinh hoạt của người tù cho khuây
khỏa, thế thôi, phải thơ phú gì đâu”[3;tr.12].