Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

bổ sung chế phẩm vime senarex vào nước uống cho gà nòi lai nuôi thương phẩm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.91 MB, 85 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP & SINH HỌC ỨNG DỤNG
BỘ MÔN CHĂN NUÔI

TRẦN NGỌC ĐỨC

BỔ SUNG CHẾ PHẨM VIME SENAREX
VÀO NƢỚC UỐNG CHO GÀ NÒI LAI
NUÔI THƢƠNG PHẨM

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH CHĂN NUÔI – THÚ Y

2014


TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP & SINH HỌC ỨNG DỤNG
BỘ MÔN CHĂN NUÔI

TRẦN NGỌC ĐỨC

BỔ SUNG CHẾ PHẨM VIME SENAREX
VÀO NƢỚC UỐNG CHO GÀ NÒI LAI
NUÔI THƢƠNG PHẨM

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH CHĂN NUÔI – THÚ Y

CÁN BỘ HƢỚNG DẪN
Ts. Nguyễn Minh Thông



2014


TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP & SINH HỌC ỨNG DỤNG
BỘ MÔN CHĂN NUÔI

BỔ SUNG CHẾ PHẨM VIME SENAREX
VÀO NƢỚC UỐNG CHO GÀ NÒI LAI
NUÔI THƢƠNG PHẨM

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH CHĂN NUÔI – THÚ Y

Cần Thơ, ngày tháng năm 2014

Cần Thơ, ngày tháng năm 2014

CÁN BỘ HƯỚNG DẪN

DUYỆT CỦA BỘ MÔN

Ts. Nguyễn Minh Thông
Cần Thơ, ngày

tháng

năm 2014


DUYỆT CỦA KHOA NÔNG NGHIỆP VÀ SINH HỌC ỨNG DỤNG

2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân. Các số liệu,
kết quả trình bày trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào trước đây.
Tác giả luận văn

Trần Ngọc Đức

i


LỜI CẢM ƠN
Con xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đối với ông bà, cha mẹ, người đã sinh
thành, nuôi dạy con khôn lớn và đã hy sinh một đời vì con.
Tôi xin chân thành biết ơn quý thầy cô trường Đại học Cần Thơ. Đặc biệt là
các thầy cô trong bộ môn Chăn Nuôi – Thú Y thuộc khoa Nông Nghiệp và
Sinh Học Ứng Dụng đã hết lòng giảng dạy, truyền đạt những kiến thức và
kinh nghiệm quý báu trong suốt quá trình tôi học tập tại trường.
Xin chân thành cảm ơn thầy TS. Nguyễn Minh Thông đã hết lòng quan tâm,
dạy bảo và hướng dẫn trong quá trình học tập cũng như hoàn thành đề tài.
Xin chân thành cảm ơn thầy TS. Hồ Quảng Đồ cố vấn học tập lớp Chăn Nuôi
– Thú Y khóa 37B đã tận tình động viên và định hướng cho tôi trong suốt quá
trình học tập.
Xin chân thành cảm ơn ThS. Huỳnh Hữu Chí và ThS. Huỳnh Minh Trí đã hết
lòng hướng dẫn, chỉ bảo trong suốt quá trình thực hiện đề tài.

Xin chân thành cảm ơn Giám đốc công ty TNHH MTV Chăn nuôi Vemedim
Trần Ngọc Mong, các cô chú, anh chị công tác tại trại đã tận tình giúp đỡ,
hướng dẫn và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi tiến hành và hoàn thành tốt
đề tài thí nghiệm.
Tôi xin chân thành cảm ơn các anh chị Chăn Nuôi – Thú Y khóa 36 và các bạn
lớp Chăn Nuôi – Thú Y khóa 37 đã chia sẽ kinh nghiệm, động viên và giúp đở
tôi vượt qua khó khăn trong quá trình học tập cũng như trong quá trình thực
hiện đề tài.
Cuối cùng, xin chúc tất cả mọi người luôn mạnh khỏe và thành công!
Xin chân thành cảm ơn!
Cần Thơ, Ngày........ Tháng......... Năm 2014
Sinh viên thực hiện

Trần Ngọc Đức

ii


MỤC LỤC
Lời cam đoan ................................................................................................. i
Lời cảm ơn .................................................................................................... ii
Danh sách bảng ............................................................................................vi
Danh sách biểu đồ ...................................................................................... vii
Danh sách hình .......................................................................................... viii
Danh sách từ viết tắt ....................................................................................ix
Tóm lƣợc ........................................................................................................ x
Chƣơng 1: Đặt vấn đề ................................................................................... 1
Chƣơng 2: Cơ sở lý luận ............................................................................... 2
2.1 Sơ lược về các giống gà thịt ở Việt Nam ...................................................2
2.1.1 Gà Nòi ....................................................................................................2

2.1.2 Gà Tàu Vàng ..........................................................................................2
2.1.3 Gà Ác .....................................................................................................2
2.1.4 Gà Tam Hoàng .......................................................................................3
2.1.5 Gà Lương Phượng ..................................................................................3
2.2 Đặc điểm tiêu hóa của gà ..........................................................................4
2.2.1 Mỏ ..........................................................................................................4
2.2.2 Xoang miệng ..........................................................................................4
2.2.3 Diều........................................................................................................5
2.2.4 Dạ dày tuyến ..........................................................................................5
2.2.5 Dạ dày cơ ...............................................................................................6
2.2.6 Ruột non .................................................................................................7
2.2.7 Ruột già ..................................................................................................8
2.2.8 Lỗ huyệt .................................................................................................9
2.3 Nhu cầu dinh dưỡng của gia cầm ..............................................................9
2.3.1 Nhu cầu năng lượng................................................................................9
2.3.2 Nhu cầu protein và acid amin ............................................................... 11
2.3.3 Nhu cầu của chất béo ............................................................................ 14
iii


2.3.4 Nhu cầu xơ ........................................................................................... 15
2.3.5 Nhu cầu khoáng .................................................................................... 16
2.3.6 Nhu cầu vitamin ................................................................................... 17
2.4 Tổng quan về một số acid hữu cơ được khảo sát ..................................... 20
2.4.1 Acid citric ............................................................................................. 20
2.4.2 Acid lactic ............................................................................................ 20
2.4.3 Acid phosphoric ................................................................................... 20
2.4.4 Acid malic ............................................................................................ 21
2.4.5 Acid tartaric .......................................................................................... 21
2.4.6 Muối ..................................................................................................... 22

2.5 Vi khuẩn E. coli ...................................................................................... 22
2.5.1 Tổng quan về vi khuẩn E. coli .............................................................. 22
2.5.2 Cơ chế tác động của acid hữu cơ lên vi khuẩn ...................................... 24
Chƣơng 3: Phƣơng tiện và phƣơng pháp thí nghiệm ................................ 26
3.1 Thời gian và địa điểm.............................................................................. 26
3.2 Phương tiện thí nghiệm ........................................................................... 26
3.2.1 Đối tượng thí nghiệm............................................................................ 26
3.2.2 Chuồng trại ........................................................................................... 26
3.2.3 Thức ăn ................................................................................................ 29
3.2.4 Thú y .................................................................................................... 31
3.2.5 Dụng cụ thí nghiệm .............................................................................. 31
3.3 Phương pháp thí nghiệm ......................................................................... 31
3.3.1 Bố trí thí nghiệm................................................................................... 31
3.3.2 Quy trình chăm sóc hàng ngày .............................................................. 33
3.3.3 Phương pháp định lượng vi khuẩn E. coli trong phân............................ 33
3.3.4 Các chỉ tiêu theo dõi ............................................................................. 38
Chƣơng 4: Kết quả và thảo luận ................................................................ 39
4.1 Ghi nhận tổng quát .................................................................................. 39
4.2 Những ảnh hưởng của Vime Senarex ...................................................... 40
iv


4.2.1 Tiêu tốn thức ăn .................................................................................... 40
4.2.2 Tăng trọng của gà thí nghiệm .............................................................. 42
4.2.3 Tỷ lệ hao hụt......................................................................................... 47
4.2.4 Định lượng vi khuẩn E. coli trong phân ................................................ 47
4.3 Hiệu quả kinh tế ...................................................................................... 50
Chƣơng 5: Kết luận và đề nghị ................................................................... 52
5.1 Kết luận ..................................................................................................52
5.2 Đề nghị ................................................................................................... 52

Tài liệu tham khảo ...................................................................................... 53
Phụ lục ......................................................................................................... 56

v


DANH SÁCH BẢNG
Bảng

Nội dung

Trang
5

2.1

Kích thước hạt sỏi bổ sung cho gà

2.2

Một số enzyme được tìm thấy trong ống tiêu hóa của gia cầm

8

2.3

Nhu cầu acid amin lý tưởng đối với gà thịt theo một số tác giả

13


2.4

Một số acid béo có trong thức ăn và mô động vật

15

2.5

Nhu cầu dinh dưỡng cho gà thả vườn nuôi lấy thịt

17

2.6

Nhu cầu các vitamin trong 1 kg thức ăn của gia cầm

19

3.1

Thành phần các nguyên liệu thức ăn của gà thí nghiệm

29

3.2

Thành phần dinh dưỡng của thức ăn

30


3.3

Lịch tiêm phòng vaccine cho gà

31

3.4

Hàm lượng các nguyên liệu của chế phẩm Vime Senaret

32

4.1

Nhiệt độ và ẩm độ của khu vực gà thí nghiệm

39

4.2

Tiêu tốn thức ăn

40

4.3

Khối lượng gà thí nghiệm

42


4.4

Khối lượng gà qua các tuần

45

4.5

Tỉ lệ hao hụt

47

4.6

Định lượng vi khuẩn E. coli qua các thời điểm

47

4.7

Hiệu quả thí nghiệm

50

vi


DANH SÁCH BIỂU ĐỒ
Biểu đồ


Nội dung

Trang

3.1

Sơ đồ trại gà thí nghiệm

27

3.2

Quy trình pha loãng mẫu

35

4.1

Hệ số chuyển hóa thức ăn

41

4.2

Khối lượng gà cuối thí nghiệm

43

4.3


Tăng trọng tuyệt đối của gà thí nghiệm

44

4.4

Khối lượng gà qua các tuần thí nghiệm

46

4.5

Số lượng E. coli trung bình trong 1 g phân ở giai đoạn 15
ngày và 60 ngày thí nghiệm.

48

Sơ đồ

Nội dung

Trang

3.1

Sơ đồ trại gà thí nghiệm

27

3.2


Quy trình pha loãng mẫu

35

vii


DANH SÁCH HÌNH
Hình

Nội dung

2.1

Acid citric

Trang
20

2.2

Acid lactic

20

2.3

Acid phosphoric


21

2.4

Acid malic

21

2.5

Acid tartaric

21

2.6

Vi khuẩn bệnh bị ức chế hoạt động ở pH thấp

24

2.7

Cơ chế tiêu diệt vi khuẩn bệnh

25

3.1

Trại gà thí nghiệm


27

3.2

Hệ thống làm mát

28

3.3

Hệ thống quạt hút của trại

28

3.4

Bóng đèn chiếu sáng trong trại

29

3.5

Máng uống pha thuốc

33

3.6

Máng uống tự động


33

3.7

Máng ăn

33

3.8

Vi khuẩn E. coli trong môi trường MC

34

4.1

Thử nghiệm sinh hóa

48

viii


DANH SÁCH TỪ VIẾT TẮT
NT1:

Nghiệm thức thí nghiệm liệu trình sử dụng Vime Senarex liên
tục trong 8 tuần

NT2:


Nghiệm thức 2 liệu trình sử dụng Vime Senarex cách tuần (Sử
dụng ở tuần 1, 3, 5, 7; tuần 2, 4, 6, 8 không sử dụng)

ĐC:

Nghiệm thức không sử dụng Vime Senarex (Đối chứng)

TTTĂ:

Tiêu tốn thức ăn

TTTĂBQ:

Tiêu tốn thức ăn bình quân

HSCHTĂ:

Hệ số chuyển hóa thức ăn

ix


TÓM LƢỢC
Đề tài nghiên cứu “Bổ sung chế phẩm Vime Senarex vào nước uống
cho gà Nòi lai nuôi thương phẩm” được bố trí theo thể thức hoàn toàn ngẫu
nhiên với 3 nghiệm thức, mỗi nghiệm thức 3 lần lập lại theo dõi trong suốt 8
tuần. Trong đó, nghiệm thức 1 (NT1) sử dụng Vime Senarex (chế phẩm chứa
acid hữu cơ) bổ sung vào nước uống liên tục trong 8 tuần thí nghiệm, nghiệm
thức 2 (NT2) sử dụng Vime Senarex các tuần (cho uống ở tuần 1, 3, 5, 7; tuần

2, 4, 6, 8 không sử dụng) và nghiệm thức 3 (ĐC) không sử dụng Vime
Senarex.
Các chỉ tiêu theo dõi bao gồm tiêu tốn thức ăn, tăng trọng, hệ số chuyển
hóa thức ăn và tỉ lệ hao hụt.
Kết quả thí nghiệm
Tiêu tốn thức ăn toàn đợt thí nghiệm ở NT2 là cao nhất (4283 g/con) kế
đến là nghiệm thức ĐC (4228 g/con) và thấp nhất ở NT1 (4143 g/con). Tuy
nhiên, sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (P>0,05).
Mức tăng trọng tích lũy trong thời gian thí nghiệm thấp nhất ở nghiệm
thức ĐC (755,1 g/con), kế đến là NT2 (887,8 g/con) và cao nhất ở NT1 (910,2
g/con). Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (P<0,05). Tăng trọng tuyệt đối
cao nhất ở NT1 16,3 g/con/ngày kế đến là NT2 15,7 g/con/ngày và thấp nhất
là nghiệm thức ĐC với 13,5 g/con/ngày, đồng thời chúng khác biệt nhau có ý
nghĩa thống kê (P<0,05)
Hệ số chuyển hóa thức ăn cho kết quả là thấp nhất là ở NT1 (2,61), kế
đến là NT2 (2,63) và cao nhất là ở ĐC (2,99). Có sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê giữa các nghiệm thức có bổ sung acid hữu cơ với nghiệm thức đối
chứng (P<0,05).
Tỷ lệ hao hụt gà thí nghiệm giữa các nghiệm thức là khác nhau nhưng
khác biệt không quá lớn. Tỷ lệ hao hụt cao nhất ở nghiệm thức ĐC là 6,67% ,
kế đến ở NT1 là 5,71% và thấp nhất ở NT2 là 5,24%. Sự khác nhau về tỷ lệ
hao hụt giữa các nghiệm thức khác biệt nhau không có ý nghĩa thống kê
(P>0,05).
Chênh lệch thu chi cao nhất ở NT1 là (11.661.223 đồng) và thấp nhất ở
nghiệm thức ĐC (9.447.802 đồng), ở NT2 chênh lệch không quá lớn so với
NT1 (11.225.817 đồng). Khi so sánh với đối chứng thì hiệu quả của việc sử
dụng acid hữu cơ càng thấy rõ. Ở NT1 là 123,4% và NT2 là 118,8% chênh
lệch so với nghiệm thức đối chứng (100%).

x



CHƢƠNG 1: ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngành chăn nuôi gia cầm ở nước ta ngày càng phát triển với quy mô lớn
nhờ việc vận dụng được nhiều những tiến bộ của khoa học vào thực tiễn sản
xuất. Xây dựng một môi trường chăn nuôi thích hợp có kiểm soát, cùng với
việc phòng ngừa có hiệu quả các loại dịch bệnh nguy hiểm đã góp phần làm
tăng nhanh quy mô của đàn gia cầm, tạo ra các sản phẩm an toàn và đạt chất
lượng cao. Sản phẩm tạo ra không chỉ đáp ứng cho nhu cầu sản xuất tiêu dùng
trong nước mà còn xuất khẩu các hàng hóa sang các quốc gia khác trên thị
trường thế giới (Bùi Xuân Mến, 2007).
Ngành chăn nuôi gia cầm ngày càng phát triển mạnh, kéo theo đó là
không ít những rủi ro và nhiều dịch bệnh phát sinh. Trong chăn nuôi kháng
sinh được sử dụng phổ biến với mục đích phòng và trị bệnh cũng như kích
thích tăng trưởng cho gia cầm. Chúng thường được trộn vào thức ăn hay cho
uống nhằm mục đích ức chế, loại bỏ sự hoạt động của những vi khuẩn gây
bệnh đường tiêu hóa và hô hấp, giúp gia cầm khỏe mạnh và tăng trưởng tốt.
Tuy nhiên, sử dụng kháng sinh như một chất kích thích tăng trọng lại gây ra
những tác dụng xấu như hiện tượng kháng kháng sinh của các loại vi khuẩn
gây bệnh, gây khó khăn cho việc điều trị bệnh cũng như ảnh hưởng đến sức
khỏe con người do sự tồn dư kháng sinh trong các sản phẩm tiêu dùng. Hiện
nay acid hữu cơ là một trong những biện pháp thay thế cho kháng sinh trước
bối cảnh kháng sinh đang dần bị cấm sử dụng cho mục đích tăng trưởng trong
chăn nuôi. Các acid hữu cơ có tác dụng ức chế sự phát triển của vi khuẩn có
hại, giúp cho sự phát triển của các vi sinh vật có lợi nhằm duy trì sự cân bằng
vi khuẩn đường ruột, tiêu diệt vi khuẩn gây bệnh đồng thời hổ trợ sự tiêu hóa
và hấp thu các chất dinh dưỡng (Vũ Duy Giảng, 2009).
Vime Senarex là một chế phẩm chứa các acid hữu cơ như acid citric,
acid lactic, acid phosphoric… Chúng được sử dụng với mục đích kích thích sự
tiêu hóa tốt hơn đồng thời giảm tỉ lệ mắc một số bệnh ở gà. Tuy nhiên những

tác động của acid hữu cơ lên sức đề kháng, sự tiêu hóa đường ruột cũng như
tăng trọng của gà thì chưa được nghiên cứu rộng rãi. Gà thịt địa phương năng
suất thường thấp, thời gian nuôi dưỡng dài. Chúng dễ mẫn cảm với các bệnh
truyền nhiễm và tỷ lệ nuôi sống thấp. Vì vậy đề tài “Bổ sung chế phẩm Vime
Senarex vào nước uống cho gà Nòi lai nuôi thương phẩm” được thực hiện
với mục tiêu khảo sát những ảnh hưởng của các acid hữu cơ đến tốc độ sinh
trưởng và năng suất của gà Nòi lai nuôi thịt.

1


CHƢƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN
2.1 Sơ lƣợc về các giống gà thịt ở Việt Nam
2.1.1 Gà Nòi
Đây là giống gà được nuôi lâu đời ở các tỉnh Nam Bộ có màu sắc lông
rất đa dạng như gà lông màu đen gọi là gà ô, gà lông màu đỏ gọi là gà điều, gà
lông màu trắng gọi là gà nhạn, lông màu gạch gọi là gà khét, lông màu lem
luốc như chim gọi là gà ó… Lúc trưởng thành gà trống nặng 2,8-3,2 kg, gà
mái nặng 2,0-2,2 kg, năng suất trung bình 40-50 quả/năm, mỗi lứa đẻ 10-12
trứng ấp, da gà hồng hào thịt thơm ngon, giá bán cao gấp 2-3 lần gà công
nghiệp. Hiện nay giống gà này được người dân ở ĐBSCL rất ưa chuộng vì
những ưu điểm trên, trong đàn gà người ta chọn ra những con gà trống tốt để
bán gà đá giá rất cao có thể vài triệu đồng/gà trống (Nguyễn Mạnh Dũng và
Huỳnh Hồng Hải, 2007).
2.1.2 Gà Tàu Vàng
Lê Minh Hoàng (2002) cho rằng giống gà Tàu Vàng xuất xứ từ Trung
Quốc. Giống gà này được đưa vào miền Nam rất lâu và được nuôi rộng rãi ở
các tỉnh như Tiền Giang, Bình Dương, Tây Ninh, Long An…
Gà Tàu Vàng có tầm vóc lớn hơn gà Ta, đặc điểm của giống gà là dọc
bàn chân có hàng lông nhỏ mọc phía ngoài chân và hướng xuống dưới. Gà

Tàu Vàng có màu lông phổ biến là màu vàng rơm, vàng đậm, có đốm đen ở
cổ, cánh và đuôi. Phần lớn gà Tàu Vàng có mào đơn đỏ tươi, một số có màu
kép. Gà Tàu Vàng mọc lông chậm, ở gà trống 3 tháng tuổi bộ lông vẫn chưa
hoàn thiện. Tuổi đẻ quả trứng đầu tiên vào 180 ngày tuổi, tỉ lệ đẻ là 26% bình
quân sản lượng trứng 100 quả/mái/năm, trọng lượng trứng 50 g/quả, trứng có
phôi là 80%, tỉ lệ ấp nở là 88%, gà sơ sinh có trọng lượng khoảng 60 g lúc
trưởng thành gà mái nặng 2,1 kg, gà trống 3,0 kg (Đặng Vũ Bình, 2007).
Đặc tính quan trọng nhất của gà Tàu Vàng là ở chất lượng thịt thơm ngon
nên người tiêu dùng rất ưa chuộng và chấp nhận giá cao. Tập quán nuôi và bán
gà mái dầu, gà trống thiến vẫn tồn tại ở các tỉnh Nam Bộ. Gà Tàu Vàng mái
dầu thưởng có giá cao gấp 2 lần gà Lương Phượng. Gà Tàu Vàng là đặc sản
của vùng đất Nam Bộ còn giữ được trong quá trình công nghiệp hóa (Đinh
Công Tiến và Nguyễn Quốc Đạt, 2010).
2.1.3 Gà Ác
Gà có nguồn góc ở miền nam Việt Nam. Tầm vóc nhỏ lông màu trắng
tuyền, lông mọc cả ở ngón…mào gà trống thuộc mào cờ, đỏ nhạt và pha màu
xanh đen. Chân thường có năm ngón (ngũ trảo). Mỏ, chân, da, thịt và xương
2


đều đen. Khối lượng gà con mới nở khoảng 18-20 g/con. Lúc trưởng thành gà
trống nặng khoảng 700-750 g/con, gà mái nặng khoảng 550-600 g/con. Gà bắt
đầu đẻ trứng lúc 110-120 ngày tuổi, nếu để gà đẻ rồi tự ấp, một năm đẻ 90100 quả trứng. Khối lượng trứng là là 30 g/quả. Hàm lượng acid glutamic
trong thịt gà Ác khá cao, thịt hơi tanh do hàm lượng sắt cao, được xem là gà
thuốc, thịt ngon và hơi dai (Atlas giống vật nuôi ở Việt Nam, 2007).
Đào Đức Long (2004) cho rằng sản lượng trứng của gà Ác 80-90
quả/mái/năm, tỷ lệ trứng có phôi 90%, tỷ lệ nở trên tổng số trứng ấp tự nhiên
70-80%. Tỷ lệ sống gà con 90%, khối lượng cơ thể lúc giết thịt được 50-60
ngày tuổi là 250-300 g, tiêu tốn thức ăn để tăng 1kg thể trọng đến lúc giết thịt
là 0,8-3,2 kg.

2.1.4 Gà Tam Hoàng
Gà Tam Hoàng có nguồn gốc từ Quảng Đông - Trung Quốc, được nhập
vào nước ta vào năm 1992. Gà Tam Hoàng có đặc điểm lông vàng, chân vàng,
da vàng. Cơ thể hình tam giác, thân ngắn, lưng bằng, ngực nở, thịt ức nhiều,
hai đùi phát triển. Gà Tam Hoàng dễ lẫn với gà Ta (gà Ri). Thịt khá thơm
ngon, phù hợp với điều kiện nuôi chăn thả ở Việt Nam cũng như nuôi công
nghiệp và bán công nghiệp. Gà Tam Hoàng nuôi 70-80 ngày tuổi có thể đạt
khối lượng 1,5-1,75 kg. Để tạo mỗi kg thịt tiêu tốn 2,8-3 kg thức ăn. Con mái
125 ngày tuổi bắt đầu đẻ trứng. Sản lượng trứng đạt 135 quả/mái/năm. Khối
lượng con trống trưởng thành nặng 2,2-2,8 kg, con mái nặng 1,8-2 kg. Gà Tam
Hoàng được nhập vào nước ta theo nhiều nguồn, thường ít khi được thuần
nhất và đạt tiêu chuẩn giống. Do đó người nuôi phải hiểu biết và mua đúng
giống thì nuôi mới đảm bảo. Gà Tam Hoàng còn có tên khác là gà Thạch Kỳ,
882 Jangcun. Gà Tam Hoàng thích hợp cho điều kiện chăn nuôi gia đình, chăn
nuôi chăn thả, phù hợp với thị hiếu tiêu dùng của người Việt Nam (Nguyễn
Hữu Vũ và Nguyễn Đức Lưu, 2007).
2.1.5 Gà Lƣơng Phƣợng
Gà Lương Phượng có nguồn gốc từ Trung Quốc, loại gà này có ngoại
hình đẹp, lớp lông vũ màu vàng dày bóng mượt. Gà Lương Phượng bề ngoài
rất giống gà Ri, màu lông tuyền vàng đốm hoa hoặc đen đốm hoa. Mào và
phần đầu màu đỏ. Da màu vàng, chất thịt mịn, vị đậm. Gà trống có màu vàng
hoặc tía sẫm, mào đơn, hông rộng, lưng thẳng, lông đuôi dựng đứng, đầu và cổ
gà gọn dẹp, chân thấp và nhỏ (Nguyễn Hữu Vũ và Nguyễn Đức Lưu 2007).
Ngô Quốc Trịnh (2006) cho rằng, gà Lương Phượng mái đầu thanh, thể
hình săn chắc, chân thấp nhỏ, màu đen chủ yếu đen đốm hoa. Gà trống lưng
rộng, ngực phẳng, lông vàng tía trên 80%. Gà có tỉ lệ sống cao 96-98%, khối
3


lượng của trứng 55-56 g/quả. Gà nuôi thịt 70 ngày tuổi con trống 1,87 kg, con

mái 1,58 kg, nuôi sống 93%, thức ăn tiêu tốn 2,53 kg/kg tăng trọng.
2.2 Đặc điểm tiêu hóa của gà
2.2.1 Mỏ
Mỏ gia cầm được cấu tạo bởi chất sừng, trong đó nhiều sợi dây thần kinh
bao bọc. Dây thần kinh còn có ở trên vòm miệng cứng và dưới lớp sừng biểu
bì của lưỡi. Lưỡi gia cầm nằm ở dưới đáy khoang miệng toàn bộ mặt lưỡi
được phủ bởi biểu mô hình vẩy, xếp thành tầng dầy hướng về cổ họng để đưa
thức ăn về phía thực quản. Thị giác và xúc giác kiểm tra tiếp nhận thức ăn.
Đối với loài thủy cầm, mép lưỡi có những mẫu sừng hình kim cùng với những
tấm nhỏ bên cạnh nằm ngang, mục đích để giữ thức ăn lại và đẩy nước ra khi
mò thức ăn (Nguyễn Khắc Thị, 2005).
Gia cầm mổ thức ăn bằng mỏ, hình dáng và độ lớn của mỏ ở các loài gia
cầm rất khác nhau. Gà thực hiện động tác mổ và nuốt thức ăn nhờ động tác
nâng lên hạ xuống của đầu. Gà thực hiện 180-240 động tác mổ trong một phút
và ở gà tây là 60 lần/phút. Số lượng thức ăn mà gà ăn được trong một đơn vị
thời gian phụ thuộc vào mức độ hấp dẫn của thức ăn, loài và tuổi gia cầm. Khi
đói gia cầm mổ nhanh và ăn nhiều. Gia cầm tiếp nhận thức ăn lỏng và nước
bằng cách nâng đầu lên rất nhanh rồi ngửa cổ lên để nuốt (Nguyễn Thị Mai và
ctv., 2009).
2.2.2 Xoang miệng
Trong xoang miệng có lưỡi và một hệ thống tuyến nước bọt rất phong
phú và phức tạp hơn động vật có vú. Về mặt giải phẩu có thể phân biệt thành 8
loại tuyến khác nhau bao gồm tuyến hàm trên, tuyến cạnh lỗ mũi, tuyến trên
hầu, tuyến giữa miệng và hầu, tuyến sau xoang miệng, tuyến dưới lưỡi, tuyến
trước thanh quản và tuyến khóe miệng. Hệ thống tuyến nước bọt này phân tiết
ra một số lượng lớn nước bọt. Ở gà trưởng thành trung bình khoảng 12 ml
trong một ngày đêm (biến động từ 7 đến 25 ml tùy theo tính chất và lượng
thức ăn ít hay nhiều). Hệ thống này khác với động vật có vú ở chỗ trong nước
bọt không có enzyme tiêu hóa tinh bột và độ pH khoảng 6,75. Tác dụng chủ
yếu của tuyến nước nước bọt là làm trơn để dễ nuốt thức ăn (Dương Thanh

Liêm, 2003).
Nguyễn Khắc Thị (2005) cho rằng trong xoang miệng có những mẫu thị
giác. Ở gia cầm nhỏ có khoảng 12 mẫu, đến khi được hai tháng tuổi số mẫu vị
giác tăng gấp đôi. Gia cầm nuốt thức ăn nhờ lưỡi chuyển động nhanh, thức ăn
xuống lưỡi được đẩy vào thực quản. Mặt trong thực quản được phủ một lớp vỏ
4


dày, trong đó có các tuyến nhày làm thức ăn di chuyển dễ dàng khi gia cầm ăn
vào.
2.2.3 Diều
Lã Thị Thu Minh (2000) cho rằng thức ăn theo thực quản xuống đoạn
phình to của thực quản còn gọi là diều. Ở gà diều được hình thành một cái túi
rất phát triển nhưng ở thủy cầm diều hình thoi chỉ phình hơi rộng hơn thực
quản chút ít nên gọi diều giả. Diều không có tác dụng tiết dịch tiêu hóa mà chỉ
có tác dụng dự trữ, thấm ướt và làm mềm thức ăn. Tuy nhiên, trong diều vẫn
có quá trình tiêu hóa nhờ men trong thức ăn thực vật và nhờ vào hệ vi sinh vật.
Các sản vật tiêu hóa không được hấp thu ở diều. Thời gian thức ăn ở lại trong
diều phụ thuộc vào số lượng, độ cứng và tính chất của thức ăn, ước chừng
khoảng 3-4 giờ cũng có khi lên đến 16-18 giờ. Tuy nhiên khi gia cầm ăn cũng
có một phần thức ăn không dừng lại ở diều mà đi thằng xuống dạ dày (thường
là khi trong diều của gia cầm không có thức ăn dự trữ).
Nguyễn Đức Hưng (2006) cho rằng sức chứa của diều từ 100-200 g.
Thức ăn được giữ ở diều với thời gian phụ thuộc vào loài gia cầm và các loại
thức ăn. Thức ăn cứng khoảng 10-15 giờ, thức ăn mềm và bột khoảng 3-4 giờ.
Thức ăn từ diều được chuyển dần xuống dạ dày tuyến. Nếu chúng ta làm thí
nghiệm cắt bỏ diều của gà thì thức ăn đi qua ống tiêu hóa nhanh hơn nhưng sự
tiêu hóa lại giảm đi một cách đáng kể và gà đẻ bị sụt cân. Sau một thời gian cơ
thể sẽ tạo ra lại một cái diều mới, bên trên chỗ diều cũ (Nguyễn Thị Mai và
ctv., 2009).

2.2.4 Dạ dày tuyến
Hội chăn nuôi Việt Nam (2002) cho rằng dạ dày tuyến của gà có cấu tạo
từ cơ trơn, là dạng ống ngắn, có vách dày nói với dạ dày cơ bằng eo nhỏ. Khối
lượng dạ dày tuyến tuyến từ 3,5-6 g. Dạ dày tuyến có chứa acid HCl pepsin,
men bào tử và musin. Sự tiết dịch ở dạ dày tuyến là không ngừng, sau khi ăn
càng được tăng cường. Ở dạ dày tuyến sự thủy phân protein được thực hiện
như sau:
Protein + nước + pepsin và HCl → albumozoa + pepton
Dạ dày tuyến nằm trước dạ dầy cơ, nó có dung tích rất nhỏ. Thời gian
thức ăn dừng lại ở đây cũng rất ngắn. Ở đây có các tuyến tiết ra HCl và
enzyme pepsin để bắt đầu tiêu hóa protein. Trong dạ dày tuyến có nhiều mục
nhỏ, mắt thường có thể nhìn thấy. Đó là cửa đổ ra của ống tuyến dịch vị. Mỗi
đơn vị tuyến cũng có cấu tạo giống như tuyến dịch vị của động vật có vú.
Trong nang tuyến cũng có 2 loại tế bào là loại thật to tiết ra acid HCl và một
5


loại nhỏ tiết ra men pepsinogen. Thức ăn đi qua đây được thấm ướt bởi dịch vị
và tiếp tục được chuyển xuống dạ dày cơ để tiêu hóa tiếp. Một khi dạ dày
tuyến bị tổn thương như ở bệnh dịch tả, gumboro thì khả năng tiêu hóa protein
cũng giảm (Dương Thanh Liêm, 2003).
2.2.5 Dạ dày cơ
Dạ dày cơ (còn được gọi là mề) có dạng hình đĩa, hơi bị bóp ở hai bên,
nằm ở phía sau thùy trái của gan và lệch về khoang bụng trái. Ở một số gia
cầm ăn hạt (gà Tây, gà Thi), dạ dày cơ lớn hơn một cách đáng kể so với dạ
dày của loài thủy cầm. Lối vào và lối ra của dạ dày cơ rất gần nhau nên thức
ăn được giữ lại ở đây lâu hơn. Dịch tiêu hóa không được tiết ra ở dạ dày cơ
(Nguyễn Thị Mai và ctv., 2009).
Lớp trong niêm mạc dạ dày cơ có nhiều tuyến nhỏ tiết ra chất keo dính
phủ lên lớp biểu bì niêm mạc của dạ dày cơ tạo thành một lớp màng sừng dầy

cứng gọi là mô sừng (cutin). Chúng có tác dụng bảo vệ niêm mạc thành dạ dày
khỏi bị tổn thương khi nghiền nát thức ăn cứng như thóc hoặc sạn sỏi. Màng
sừng này luôn luôn bị bong ra do cọ xát khi hoạt động và cũng luôn được bổ
sung do sản phẩm của tuyến tiết ra (Nguyến Đức Hưng, 2006).
Dạ dày cơ có dung tích lớn hơn dạ dày tuyến. Trong niêm mạc dạ dày cơ
có lót bởi lớp tế bào sừng hóa rất cứng để chống lại sự va đập, xay xát khi mề
nghiền thức ăn. Phần dưới của lớp tế bào này là lớp tế bào tăng sinh để thay
thế cho lớp tế bào bên trên bị bào mòn. Trên bề mặt của lớp tế bào này có
nhiều gai nhỏ nhô lên làm cho niêm mạc trở nên nhám. Người ta gọi những
gai nhỏ này là răng mề. Dưới kính hiển vi mỗi “răng mề” có một tuyến nhờn
rất nhỏ ở cạnh. Qua khỏi lớp tế bào tăng sinh thì có mô cơ rất phát triển, màu
đỏ sậm. Nhờ có hệ thống cơ này giúp cho mề co bóp rất mạnh, nghiền nát thức
ăn chuẩn bị cho tiêu hóa tiếp theo ở ruột. Mề co bóp có chu kỳ, tùy theo tính
chất thức ăn mà chu kỳ co bóp có thay đổi. Để giúp cho việc nghiền thức ăn,
loài chim thường ăn những hạt sỏi. Nếu thiếu sỏi sẽ làm giảm khả năng tiêu
hóa thức ăn hạt trên 10%. Khi gà ăn nhiều sơ hoặc ăn lông thì sỏi giúp nghiền
nát nhanh hơn, gà tiêu thụ thức ăn nhiều hơn (Dương Thanh Liêm, 2003).
Bùi Xuân Mến (2007) cho rằng chức năng của mề là hoạt động cơ học
trộn và nghiền thức ăn. Vì gia cầm không có răng và nuốt luôn nguyên thức ăn
nên mề được xem là cơ quan chủ yếu nghiền thức ăn. Hạt sỏi có vai trò kích
thích sự vận động trong mề cũng như cung cấp thêm diện tích bề mặt trong khi
nghiền thức ăn. Khi cho gia cầm ăn thức ăn hổn hợp ở dạng bột thì vai trò của
hạt sỏi trong mề là không đáng kể.

6


Bảng 2.1: Kích thước hạt sỏi bổ sung cho gà
Tuần tuổi của gà
Gà con dưới 5 tuần tuổi

Gà giò từ 5 - 12 tuần tuổi
Gà trưởng thành

Kích thước đường kính hạt sỏi
1-2 mm
3-4 mm
4-6 mm

(Nguồn: Dương Thanh Liêm, 2003)

Trong dạ dày cơ, ngoài việc nghiền thức ăn cơ học còn xảy ra quá trình
hoạt động của các men dưới tác dụng của acid HCl thì protein trở nên căng
phồng và dễ bị phân giải (Dương Thanh Liêm, 2003).
2.2.6 Ruột non
Bùi Xuân Mến (2007) cho rằng ruột non được chia thành 3 phần là tá
tràng, không tràng và hồi tràng. Tá tràng bắt nguồn từ phần cuối ngoại biên
của mề. Thực tế cho thấy khó mà phân biệt giữa phần không tràng và hồi tràng
của gia cầm. Nhiều nhà nghiên cứu gọi chung hai phần này là phần ruột thấp
hơn hay ruột dưới. Chiều dài của ruột non thay đổi theo thói quen ăn vào của
loài chim. Toàn bộ bề mặt xoang của ruột non còn được mở rộng bởi hệ thống
chồi nhô lên rất nhỏ được gọi là các lông nhung. Mỗi lông nhung chứa một
mạch bạch huyết được gọi là ống dẫn dịch dưỡng và một loạt các mạch mao
dẫn. Trên bề mặt của lông nhung có cấu tạo một số lớn các vi lông nhung
(microvilli) để tăng thêm diện tích bề mặt giúp cho sự hấp thu. Ruột non có
dạng vận động có thể quan sát ở ruột non. Dạng thứ nhất được gọi là vận động
lắc. Những sóng này chỉ đơn thuần là làm ruột non ngắn lại và kéo dài ra như
đã được xác định để gây ra một sự vận hành trộn. Dạng thứ nhì của sự vận
động ruột là sự co thắt phân đoạn. Các cử động co thắt theo vòng ở các khoảng
đều đặn, nó dãn ra theo chu kỳ ở ngay vùng trước đó co lại. Dạng vận động
này tăng thêm khả năng trộn kết hợp với sự vận động lắc nêu trên. Dạng vận

động thứ ba của ruột là nhu động, có tác dụng như một phương tiện cho sự di
chuyển các chất trong ruột đi xuống phía dưới đường tiêu hóa.
Quá trình cơ bản phân tích men từng bước các chất dinh dưỡng đều được
tiến hành chủ yếu ở ruột non. Dịch ruột gà lỏng, đục, kiềm tính, pH = 7,42 với
độ đặc 1,0076 và chứa các men proteolyse, aminolytic, lypolitic và
enterokinaza. Dịch tuyến tụy - pancreatic - lỏng, không màu, hơi mặn, có phản
ứng hơi toan hoặc hơi kiềm (pH = 6 ở gà, 7,2-7,5 ở gia cầm khác). Dịch này
có men tripsin, carboxi peptidaza, amilaza, mantaza và lipaza. Trong chất khô
của dịch này có các acid amin, lipit và các chất khoáng như CaCl2, NaCl,
NaHCO3,… Tripsin được tiết ra ở dạng không hoạt hóa là tripsinogen và dưới
tác động của men dịch ruột enterokinaza trở thành men đã hoạt hóa có tác
dụng phân giải protein thức ăn thành các acid amin. Men proteolise khác là
7


carboxi peptidaza được tripsin hoạt hóa cũng có tính chất này. Men amilaza và
mantaza được mật hoạt hóa phân giải lipit ra glycerin và acid béo. Gà 1 năm
tuổi, lúc bình thường tuyến tụy tiết ra 0,4-0,8 ml/giờ, sau khi cho ăn 5-10 phút
lượng tiết tăng gấp 3-4 lần, giữ cho đến giờ thứ ba rồi giảm dần. Thành phần
thức ăn có ảnh hưởng đến các quá trình tiết dịch men của tuyến tụy: giàu
protein tăng hoạt tính proteolise lên 60%, giàu lipit tăng hoạt tính của
lipolytic… Mật của gia cầm được tiết liên tục từ túi mật vào đường ruột, lỏng,
màu xám hoặc xanh đậm, tính kiềm, pH = 7,3-8,5. Mật chứa acid mật (6002000 mg/%), các chất sắc tố (70 mg/%), cholesteron (115 mg/%), còn có
gluxit, các acid béo và các lipit trung tính, musin, khoáng chất và các sản
phẩm trao đổi chất có chứa nitơ, có men amilaza (Hội chăn nuôi Việt Nam,
2002).
Bảng 2.2: Một số enzyme được tìm thấy trong ống tiêu hóa của gia cầm
Vị trí ống
Dịch tiêu hóa Enzyme tiêu
Chất tiêu hóa

Sản phẩm thủy
tiêu hóa
hóa
phân cuối cùng
Miệng
Nước bọt
Ptyalin (ít)
Tinh bột
Maltose (rất ít)
Diều
Dịch diều
Lactase
Lactose
Glucose,
Lactose
Dạ dày tuyến Dịch vị, HCl
Pepsin
Protein
Peptone
Tuyến tụy
Dịch tụy
Amylase
Tinh bột
Glucose
Lypase
Lipit
Glycerine, acid
Trypsine
Peptone
béo

Acid amin
Ruột
Dịch ruột
Enterokinase
Trypsinogen
Trypsine
Disaccharase
Disaccharide
Monosaccharide
Nuclease
Acid Nucleic
Ribose,
desoxyribose,
purine,
purimidin
Gan

Dịch mật

Acid mật
Sắc tố mật

Lipid

Lipid nhũ hóa
thành hạt nhỏ,
hấp thụ trực tiếp

(Nguồn: Dương Thanh Liêm, 2009)


2.2.7 Ruột già
Nguyễn Khắc Thị (2005) cho rằng ruột già của gia cầm không phát triển,
nó được hình thành bởi đoạn trực tràng thô ngắn và hai manh tràng đổ vào đầu
trực tràng. Trong ruột già có hai quá trình lên men và thối rữa. Sự lên men này
mạnh ở manh tràng, thối rữa mạnh ở trực tràng. Ở gia cầm, chất xơ được tiêu
hóa là nhờ các vi sinh vật, nhưng ở mức độ thấp, khoảng từ 10-30%. Chất xơ
được tiêu hóa thành đường glucose và hấp thu vào máu qua màng manh tràng

8


và ruột. Manh tràng ngoài việc tiêu hóa chất xơ còn có quá trình tiêu hóa
protein, lipit, gluxit và quá trình sinh tổng hợp protein nhóm B.
Ruột già của gia cầm tương đối ngắn nên thức ăn lưu lại không quá một
ngày đêm. Đầu cuối của trực tràng đổ vào một xoang chung gọi là xoang tiết
niệu - sinh dục (do bốn bộ phận thông với nhau tạo thành). Trực tràng thông
với bộ phận lớn nhất gọi là bộ phận đường phân; tiếp theo về sau gọi là ngăn
bài tiết chung, ống dẫn tinh và ống dẫn nước tiểu đổ chung vào đây; tiếp theo
là hậu môn; và bộ phận thứ tư là túi Fabricius (Nguyễn Đức Hưng, 2006).
2.2.8 Lỗ huyệt
Dương Thanh Liêm (2003) cho rằng lỗ huyệt có cấu tạo gần giống như
cái túi. Ở đây gồm có các cửa đổ vào như ruột già, hai ống dẫn niệu, đường
sinh dục (tử cung ở gia cầm mái, ống dẫn tinh ở gia cầm trống).
Phân và nước tiểu nằm lại ở lỗ huyệt một thời gian, ở đây có quá trình tái
hấp thu muối và nước rất mạnh. Vì vậy làm cho phân gia cầm được khô đi.
Nước tiểu cũng bị cô động lại thành muối urat màu trắng ở đầu cục phân. Nếu
cho gia cầm ăn thừa chất đạm thì muối urat sinh ra nhiều làm cho phân có màu
trắng nhiều, nếu cho ăn thiếu chất đạm thì phân có màu đen nhiều hơn (Rose,
1997).
2.3 Nhu cầu dinh dƣỡng của gia cầm

2.3.1 Nhu cầu năng lƣợng
Nguyễn Đức Hưng (2006) cho rằng năng lượng rất cần thiết cho sự sinh
trưởng của mô tế bào, các hoạt động và duy trì thân nhiệt. Vì thế, năng lượng
được xem như là “ ngọn lửa của sự sống”. Chất bột đường có vai trò cung cấp
phần lớn năng lượng cần thiết cho mọi hoạt động sống duy trì thân nhiệt cho
cơ thể, tích lũy năng lượng dưới dạng glycogen trong gan, cơ và mỡ.
Nhờ quá trình trao đổi mà năng lượng trong các quá trình dinh dưỡng
được biến đổi thành các dạng năng lượng cần thiết cho hoạt động sống của cơ
thể. Việc thừa năng lượng sẽ gây tích lũy mỡ đối với các đàn gia cầm giống và
kết quả là làm giảm khả năng sinh sản của chúng. Năng lượng có ảnh hưởng
quyết định đến việc tiêu thụ thức ăn hay nói cách khác lượng thức ăn gà ăn
hàng ngày tương quan nghịch với hàm lượng năng lượng trong khẩu phần. Gà
sẽ ăn nhiều khi khẩu phần có năng lượng thấp và ngược lại ăn ít hơn khi khẩu
phần có năng lượng cao (John, 2000).
Robert (2008) cho rằng năng lượng được tạo ra khi thức ăn được tiêu hóa
ở ruột. Năng lượng được phóng thích như nhiệt và được hấp thu vào trong cơ
9


thể cho mục đích chuyển hóa. Nó có thể được tạo ra từ protein, lipid và
carbohydrate trong khẩu phần.
Nhu cầu năng lượng cho gia cầm người ta thường dựa vào năng lượng
trao đổi (ME). Giá trị năng lượng trong thức ăn của gia cầm được tính toán
bằng hiệu giữa năng lượng thô của thức ăn và năng lượng loại thải qua phân
và nước tiểu. Nhu cầu về năng lượng trao đổi của gia cầm được thể hiện bằng
số calo (Cal), kilocalo (kcal), megacalo (Mcal)…cho một con trong một ngày
đêm hay trong một kg thức ăn hỗn hợp (Nguyễn Thị Mai và ctv., 2009).
Năng lượng thô không được cơ thể gia cầm sử dụng vì qua quá trình tiêu
hóa, hấp thu và trao đổi thì một phần năng lượng bị tiêu hao hoặc bị thải ra
ngoài theo chất không tiêu hóa được trong nước tiểu và phân, năng lượng

trong thức ăn được cơ thể hấp thu và sử dụng gọi là năng lượng trao đổi. Nhu
cầu năng lượng của gia cầm thay đổi tùy theo nhiệt độ môi trường, giống loài,
giới tính và khả năng sản xuất của gia cầm (Nguyễn Đức Hưng, 2006).
Mức năng lượng trao đổi đối với gà thịt công nghiệp là 3100 kcal/kg
thức ăn, đối với gà thả vườn giai đoạn từ 1-21 ngày tuổi thì mức năng lượng
cần là 3000 kcal/kg, gia đoạn gà dò đến xuất chuồng là 2800 kcal/kg thức ăn.
(Dương Thanh Liêm, 2003). Lương Đức Phẩm (1982) cho rằng đối với gà
trong 5 tuần đầu cần khoảng 2900 kcal/kg thức ăn. Còn theo Đào Đức Long và
Trần Long (1995) nhu cầu trao đổi của 4 tuần đầu là 2500 kcal/kg thức ăn và
protein không được dưới 20%. Riêng Lê Hồng Mận và Bùi Đức Lũng (2004)
cho rằng nhu cầu năng lượng cho gà con là 3000-3300 kcal/kg thức ăn, gà đẻ
3000 kcal, thường là 2700-2900 kcal/kg thức ăn, mùa nóng 2700-2750 kcal
còn vào mùa rét 3000 kcal/kg thức ăn.
Mối tƣơng quan giữa năng lƣợng và protein
Thông thường protein không được xem là nguồn cung cấp năng lượng
trong khẩu phần nhưng nó đóng góp đáng kể vào nhu cầu năng lượng của gia
cầm. Khi lượng lipid và carbohydrate cung cấp không đủ thì protein sẽ được
sử dụng như nguồn cung cấp năng lượng chính cho gia cầm (John, 2000).
Việc tổng hợp protein trong cơ thể đòi hỏi số lượng lớn mức năng lượng,
khi trị số cal trong khẩu phần thấp, protein sẽ cung cấp phần thiếu này và như
vậy một phần protein được sử dụng không phải để sản xuất ra sản phẩm mà để
cung cấp năng lượng không có lợi về kinh tế. Cho nên mức độ xác định của
protein cần phải được tương ứng với mức độ năng lượng tối ưu của khẩu phần.
Sự tương ứng này được biểu thị bằng tỉ lệ năng lượng, protein. Nó chỉ ra rằng
có bao nhiêu năng lượng được trao đổi xảy ra trên 1% protein. Cách biểu thị
chỉ số quan hệ giữa năng lượng và protein là cách tính tỷ lệ (C: Calo; P:
10


Protein). Theo hệ thống quốc tế đo lường Châu Âu công thức được tính như

sau:
Năng lượng/Protein = Số kcalo ME trong 1 kg thức ăn/số % protein
trong thức ăn.
Chỉ số năng lượng/protein thay đổi tùy theo giống và tuổi gà. Các yếu tố
ảnh hưởng đến tỷ lệ năng lượng/protein như yếu tố cơ thể, yếu tố môi trường,
phương thức chăn nuôi và yếu tố thức ăn.
Mối quan hệ giữa năng lượng trao đổi và protein được biểu thị bằng hằng
số ME/%CP trong thức ăn. Bùi Đức Lũng và Lê Hồng Mận (2001) cho rằng
hằng số ME/CP cho thức ăn trong các lứa tuổi gà như 0-3 tuần tuổi (gà thịt) là
127-130 (kcal/ME/%CP); giai đoạn 4-6 tuần tuổi là 145-150 (kcal/ME/%CP)
và giai đoạn 7 tuần tuổi đến kết thúc là 160-165 (kcal/ME/%CP). Lã Thị Thu
Minh (2000) cho rằng tỉ lệ năng lượng trao đổi và protein đối với gà thịt
khoảng 90-110 (kcal/ME/%CP) là hợp lý.
2.3.2 Nhu cầu protein và acid amin
2.3.2.1 Nhu cầu protein
Protein là chất hữu cơ quan trọng nhất không một dưỡng chất dinh
dưỡng nào thay thế vai trò của nó trong tế bào sống, bởi vì khác với mỡ và bột
đường, cấu tạo của hai chất này chỉ có Carbon (C), Oxi (O), Hydro (H), còn
phân tử protein ngoài C, H, O còn có nitơ, lưu huỳnh và phosphorus. Nhìn
chung khả năng sử dụng protein trong thức ăn hoàn toàn phụ thuộc vào giống,
tuổi và tính năng sản xuất, ở gà con protein có ý nghĩa hơn nhiều so với gà
trưởng thành, Điều này cũng có ý nghĩa là đối với gà con thì yêu cầu về số
lượng protein và chất lượng protein cao hơn gà trưởng thành (Lê Hồng Mận
và Bùi Đức Lũng, 1995).
Nhu cầu protein cho gà thịt bao gồm nhu cầu cho duy trì, tăng trưởng và
tổng hợp lông. Nguyễn Đức Hưng (2006) trích từ Singh (1988) thì nhu cầu
protein tổng thể cho gà thịt được trình bày qua công thức sau.
Pr(g) = 0,0016 * KLCT(g) + (0,18 * TT(g) + (0,07 * KLCT(g) *
0,82)/0,64)
Pr(g): nhu cầu protein cần thiết (g/con/ngày); KLCT (g): khối lượng cơ

thể (g); TT: tăng trọng (g/ngày); 0,006: nhu cầu protein (g) cho duy trì 1 gam
KLCT; 0,18: tỷ lệ protein trong thịt là 18%; 0,07: tỷ lệ lông gà so với KLCT là
7%; 0,82: tỷ lệ protein trong lông là 82%; 0,64: hiệu quả sử dụng protein của
thịt gà.
11


Nhu cầu protein trong cơ thể là sự cân đối acid amin không thay thế. Đối
với gà con, gà dò, nhu cầu protein cho duy trì cơ thể và cho phát triển sinh
trưởng của các bộ phận mô cơ. Ở gà thịt mức sử dụng protein cho phát triển
đến 64% (Lê Hồng Mận, 2001).
Nguyễn Thị Mai và ctv. (2009) cho rằng nhu cầu protein của gia cầm
gồm hai phần là nhu cầu protein cho duy trì và nhu cầu protein cho sản xuất.
Nhu cầu protein cho gia cầm được tính bằng số gam protein cho mỗi con gia
cầm trong một ngày đêm. Tuy nhiên, gia cầm không thể nuốt trực tiếp số
lượng protein theo nhu cầu tính được mà nó phụ thuộc vào lượng thức ăn mà
gia cầm thu nhận hằng ngày. Vì vậy nhu cầu protein thường được biểu thị
bằng tỷ lệ phần trăm (%) protein thô.
Nhu cầu protein thô đối với gà lông màu là 22-23% trong giai đoạn 1-35
ngày tuổi, 20-21% trong gia đoạn từ 35 ngày tuổi đến xuất bán. Tuy nhiên để
có được chất lượng thịt tốt nhất, cần hạn chế sự tăng trọng bằng việc sử dụng
thức ăn có năng lượng và protein thấp hơn. Cụ thể từ 0-28 ngày tuổi là 2122%CP, từ 28-70 ngày tuổi là 17-18%CP, từ 70 ngày tuổi đến xuất bán là 1617%CP (Lê Hồng Mận và Bùi Đức Lũng, 2003).
Lã Thị Thu Minh (2000) cho rằng nhu cầu protein thô trong khẩu phần
gà con là 18-20%, gà lớn là 16-17%. Mức CP trong khẩu phần đối với gà công
nghiệp giai đoạn 0-3 tuần tuổi là 23%, giai đoạn 3-6 tuần tuổi là 20% , giai
đoạn 6 tuần tuổi đến xuất chuồng là 18%. Đối với gà Lương Phượng thả vườn,
mức CP trong giai đoạn từ 1-21 ngày tuổi là 20%, giai đoạn từ 22-42 ngày tuổi
là 17% (Dương Thanh Liêm, 2003). Leeson and Summer (1997), nhu cầu CP
trong khẩu phần gà thịt là 16-23%, tuy nhiên còn phải tùy thuộc vào mức năng
lượng (ME) của khẩu phần. Rose (1997) cho rằng nhu cầu CP trong khẩu

phần của gà thịt từ 35 ngày tuổi đến xuất chuồng là 18-22%.
Đào Đức Long và ctv. (1980) cho rằng lượng protein trong khẩu phần
thức ăn thay đổi tùy theo gà con được nuôi theo những phương thức khác nhau
như đối với gà thịt protein chiếm tỷ lệ 20-25%, năng lượng đảm bảo 2300
kcal/kg thức ăn (gà con từ 1-8 tuần tuổi), đối với gà trống cơ bản và sinh sản
từ 1-9 tuần tuổi protein chiếm 20-21%, năng lượng đảm bảo từ 1800-2300
kcal/kg. Đối với gà sản xuất hướng trứng protein chiếm 18-20%, với gà sản
xuất hướng thịt protein chiếm 20-25% và protein trong khẩu phần không được
phép nhỏ hơn 16%. Nếu thiếu protein gà sẽ chậm lớn, còi cọc, đẻ kém, sinh
bệnh tật…cần cân đối protein theo nhu cầu gà con, gà thịt, gà đẻ. Thức ăn giàu
protein là bột cá, bột thịt, bột sữa, đỗ tương, khô lạc. Thường bổ sung vào thức
ăn hai loại acid amin hay thiếu là lysine và methionine tổng hợp với tỉ lệ thấp.
12


×