ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------
NGUYỄN THỊ HỒNG PHƯỢNG
THỰC HIỆN CHỨC NĂNG GIÁM SÁT, PHẢN BIỆN
XÃ HỘI CỦA BÁO CHÍ Ở HÀ TĨNH HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC
Hà Nội - 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------
NGUYỄN THỊ HỒNG PHƯỢNG
THỰC HIỆN CHỨC NĂNG GIÁM SÁT, PHẢN BIỆN
XÃ HỘI CỦA BÁO CHÍ Ở HÀ TĨNH HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60 31 02 01
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Lê Minh Quân
Hà Nội - 2014
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .........................................................................................................1
Chƣơng 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BÁO CHÍ VÀ CHỨC NĂNG
GIÁM SÁT, PHẢN BIỆN XÃ HỘI CỦA BÁO CHÍ .....................................7
1.1. Khái niệm báo chí, chức năng và vai trò của báo chí ...............................7
1.2. Chức năng giám sát và phản biện xã hội của báo chí ...............................21
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG VIỆC THỰC HIỆN CHỨC NĂNG GIÁM SÁT,
PHẢN BIỆN XÃ HỘI CỦA BÁO CHÍ Ở HÀ TĨNH HIỆN NAY .................37
2.1. Khái quát về Hà Tĩnh, báo chí ở Hà Tĩnh và ảnh hƣởng đối với việc
thực hiện chức năng giám sát, phản biện xã hội của báo chí ở Hà Tĩnh
hiện nay ............................................................................................................37
2.2. Đánh giá thực hiện chức năng giám sát, phản biện xã hội của báo chí
ở Hà Tĩnh hiện nay ..........................................................................................49
Chƣơng 3. NHỮNG PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI NHẰM THỰC HIỆN
CHỨC NĂNG GIÁM SÁT, PHẢN BIỆN XÃ HỘI CỦA BÁO CHÍ Ở
HÀ TĨNH HIỆN NAY .....................................................................................70
3.1. Những phƣơng hƣớng thực hiện có hiệu quả chức năng giám sát,
phản biện xã hội của báo chí Hà Tĩnh hiện nay...............................................70
3.2. Những giải pháp về thực hiện có hiệu quả chức năng giám sát,
phản biện xã hội của báo chí Hà Tĩnh hiện nay...............................................74
KẾT LUẬN ......................................................................................................79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................83
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
- CNXH:
Chủ nghĩa xã hội
- Nxb:
Nhà xuất bản
- PGS,TS:
Phó giáo sƣ, tiến sỹ
- PT - TH:
Phát thanh – truyền hình
- UBND:
Ủy ban nhân dân
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xƣớng và lãnh đạo, đất
nƣớc đã đạt đƣợc nhiều thành tựu trên tất cả các lĩnh vực. Chính trị ổn định,
kinh tế tăng trƣởng, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng
đƣợc nâng lên, văn hóa xã hội có nhiều bƣớc tiến vững chắc, quốc phòng an
ninh đƣợc giữ vững, vị thế của Việt Nam ngày càng đƣợc khẳng định trên
trƣờng quốc tế. Những thành quả to lớn này có sự đóng góp hết sức tích cực
của báo chí nƣớc ta.
Trong những năm qua, báo chí Việt Nam đã không ngừng phát triển
nhanh chóng và toàn diện, cả về tổ chức, quy mô, số lƣợng cũng nhƣ chất
lƣợng. Vai trò to lớn của báo chí đối với sự phát triển của xã hội không chỉ
thể hiện ở năng lực cung cấp thông tin, khai tâm, khai trí; xây dựng và bảo vệ
chế độ chính trị, mà còn tham gia vào quá trình phát triển kinh tế, văn hóa và
xã hội, giữ vững an ninh, quốc phòng, nâng cao đời sống nhân dân.
Báo chí nƣớc ta đã góp phần quan trọng trong việc tuyên truyền đƣờng
lối, chủ trƣơng, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nƣớc, phản ánh quá
trình thực hiện đƣờng lối, chính sách; định hƣớng dƣ luận xã hội, cổ vũ động
viên, biểu dƣơng những việc làm tốt, những cách làm hay; phê bình, góp ý
những việc làm chƣa tốt, đấu tranh với những hành vi tiêu cực trong xã hội;
góp phần nâng cao dân trí, hình thành niềm tin và thúc đẩy quá trình dân chủ
hóa đời sống xã hội. Đây là một bƣớc tiến quan trọng mà báo chí nƣớc ta
mang lại cho một xã hội.
Thực hiện chức năng giám sát, phản biện xã hội, với thông tin nhanh
chóng, chính xác, trung thực, khách quan và đa chiều, báo chí Việt Nam đã
trở thành diễn đàn của đông đảo quần chúng nhân dân, là nơi trao đổi ý kiến,
luận bàn các vấn đề quan trọng của cuộc sống, vừa để giám sát, vừa phản biện
1
hoạt động của các cơ quan công quyền nói riêng và của toàn xã hội nói chung,
tạo ra những hiệu quả quan trọng trong việc phát huy tính dân chủ trong xã
hội, thúc đẩy sự tham gia của nhân dân vào các quá trình chính trị, chính sách;
vào các sinh hoạt của đất nƣớc.
Ở Hà Tĩnh, báo chí đang không ngừng phát triển cả về số lƣợng và chất
lƣợng. Ngoài các báo đài của Trung ƣơng, trên địa bản Hà Tĩnh hiện nay còn
có các cơ quan báo chí của địa phƣơng nhƣ Báo Hà Tĩnh, Đài Phát thanh Truyền hình Hà Tĩnh, Tạp chí tƣ tƣởng Hà Tĩnh, Tạp chí Văn hóa Hà Tĩnh,
Tạp chí Hồng Lĩnh, Đặc san Hà Tĩnh Ngƣời làm báo, v.v.. Ở Hà Tĩnh hiện có
đến 5 văn phòng đại diện, 11 phóng viên thƣờng trú, 9 phóng viên, 1 cộng tác
viên của các cơ quan báo chí Trung ƣơng và tỉnh bạn. Toàn tỉnh hiện có 151
phóng viên, biên tập viên đƣợc cấp Thẻ Nhà báo. Các cơ quan báo chí ở Hà
Tĩnh đều hoạt động đúng tôn chỉ, mục đích và định hƣớng tuyên truyền của
tỉnh, đáp ứng nhu cầu thông tin của nhân dân; bám sát cơ sở, phản ánh kịp
thời diễn biến mọi mặt của đời sống xã hội, phản ánh tâm tƣ, nguyện vọng
chính đáng nhân dân, phát hiện, nêu gƣơng các nhân tố mới, điển hình tiên
tiến trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc, phát triển kinh tế; góp phần làm
chuyển biến nhận thức, tạo đƣợc sự đồng thuận, giúp tỉnh thực hiện thắng lợi
các nhiệm vụ chính trị. Báo chí Hà Tĩnh cũng đã tập trung phản ánh những
vấn đề dƣ luận xã hội quan tâm, từ đó có những phân tích, đánh giá và đề xuất
giải các pháp khắc phục những tồn tại, hạn chế, không ngừng nâng cao hiệu
lực của pháp luật và hiệu quả kinh tế - xã hội.
Trong vai trò giám sát và phản biện xã hội của mình, báo chí ở Hà Tĩnh
không chỉ là một kênh thông tin, là diễn đàn của cán bộ, Đảng viên và các
tầng lớp nhân dân, là cầu nối giữa Đảng và dân, giữa dân với Đảng, mà còn
thể hiện chính kiến của mình đối với các vấn đề của cuộc sống là một kênh
giám sát, phản biện công khai hiệu quả. Với chức năng giám sát và phản biện
2
xã hội báo chí Hà Tĩnh đã cung cấp thông tin chân thực, khách quan theo cả
hai chiều, từ chủ thể quản lý đến khách thể quản lý và ngƣợc lại. Tuy nhiên,
một số bài viết chỉ phản ánh mà không nắm rõ bản chất của sự việc dẫn đến
thiếu khách quan, làm cho độc giả hiểu nhầm, tác động xấu đến tâm lý nhân
dân, thậm chí có những bài viết gây bất lợi cho sự ổn định xã hội, gây phƣơng
hại đến lợi ích quốc gia; làm cho các thế lực chính trị thù địch trên thế giới lợi
dụng, xuyên tạc, bóp méo, phát tán thông tin với mục đích phá hoại.
Để có cách nhìn đúng đắn và đánh giá đầy đủ hơn về hoạt động của báo
chí Hà Tĩnh trong việc thực hiện chức năng giám sát và phản biện xã hội, việc
nghiên cứu, tổng kết thực tiễn một cách nghiêm túc, khoa học, rút ra những
bài học kinh nghiệm, nêu ra đƣợc những cơ chế, giải pháp phù hợp cho các cơ
quan báo chí ở Hà Tĩnh hoạt động ngày càng có hiệu quả, thực hiện tốt chức
năng giám sát và phản biện xã hội là rất cần thiết. Từ những yêu cầu trên, tác
giả cho rằng việc nghiên cứu đề tài: “Thực hiện chức năng giám sát, phản
biện xã hội của báo chí ở Hà Tĩnh hiện nay” là rất cần thiết và có ý nghĩa lý
luận, thực tiễn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X ( 2006), đã có nhiều bài viết,
công trình nghiên cứu của nhiều tác giả về phản biện xã hội và phản biện xã
hội của báo chí. Tiêu biểu nhƣ cuốn Phản biện xã hội của tác giả Trần Đăng
Tuấn do Nhà xuất bản Đà Nẵng phát hành năm 2007, cuốn Phản biện xã hội
và phát huy dân chủ pháp quyền do Tiến sỹ Hồ Bá Thâm và Cử nhân Nguyễn
Tôn Thị Tƣờng Vân đồng chủ biên, v.v..
Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài giám sát đƣợc đề cập nhiều
trong các công trình và diễn đàn khoa học, trên các sách, báo, tạp chí và
đƣợc phổ biến khá rộng rãi trong xã hội. Có thể nêu một số công trình tiêu
biểu sau đây:
3
a) Sách
Về quyền giám sát tối cao của Quốc hội”, Sách chuyên khảo (1996) của
tiến sỹ Phạm Ngọc Kỳ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Tổ chức và hoạt
động thanh tra, kiểm tra, giám sát của một số nước trên thế giới, sách tham
khảo (2001), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Giám sát và cơ chế giám sát
việc thực hiện quyền lực nhà nước, của Đào Trí Úc và Võ Khánh Vinh (đồng
chủ biên) (2003), v.v..
b) Bài báo, tạp chí
Trong thời gian gần đây cũng đã có nhiều bài viết về phản biện xã hội
của báo chí xuất hiện trên các báo, tạp chí nhƣ: Báo chí và phản biện của tác
giả Nguyễn Quang A, Báo Tiền phong ngày 22/6/2010. Vai trò giám sát của
báo chí của tác giả Hà Nhân - Cao Nhật báo Tiền phong Oline ngày 12-012012. Vai trò của báo chí trong phản biện, giám sát thực thi quyền lực nhà
nước ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí lý luận chính trị và truyền thông số tháng
7 -2009. Nâng cao năng lực giám sát xã hội của báo chí, Tạp chí lý luận
chính trị và truyền thông số xuân Đinh Hợi. Nhận thức đúng về phản biện xã
hội trên báo chí, Báo Quân đội nhân dân ngày 21/6/2010. Về vai trò giám sát
xã hội và phản biện xã hội của báo chí Việt Nam của tiến sỹ Đặng Thị Thu
Hƣơng, v.v..
Nhìn chung, những công trình trên đã nghiên cứu đề cập đến giám sát và
phản biện nói chung, giám sát và phản biện xã của báo chí nói riêng. Tuy
nhiên, chƣa có một đề tài nào nghiên cứu về vai trò giám sát và phản biện xã
hội của báo chí một cách chuyên sâu theo hƣớng chính trị học, đặc biệt là
nghiên cứu về thực hiện chức năng giám sát và phản biện xã hội của báo chí
Hà Tĩnh. Tiếp thu những kết quả trên, luận văn nghiên cứu một cách hệ
thống, toàn diện vấn về thực hiện chức năng giám sát, phản biện xã hội của
báo chí ở Hà Tĩnh hiện nay.
4
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở những vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản, cần thiết và có
liên quan về giám sát và phản biện xã hội của báo chí, luận văn xác định
những quan điểm và giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả chức năng giám
sát và phản biện xã hội của báo chí ở Hà Tĩnh hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ khái niệm báo chí, vai trò, chức năng và tiêu chí đánh giá thực
hiện chức năng giám sát, phản biện xã hội của báo chí ở Việt Nam hiện nay.
- Đánh giá (theo các tiêu chí xác định) thực trạng thực hiện chức năng
giám sát, phản biện xã hội của báo chí ở Hà Tĩnh hiện nay.
- Nêu những phƣơng hƣớng và giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả
chức năng giám sát và phản biện xã hội của báo chí ở Hà Tĩnh hiện nay và
những năm tới.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu luận văn
4.1. Cơ sở lý luận
Luận văn đƣợc thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tƣ tƣởng Hồ Chí Minh; đƣờng lối, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc ta về
báo chí và chức năng giám sát và phản biện xã hội của báo chí.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài đƣợc thực hiện trên cơ sở phƣơng pháp luận của chủ nghĩa duy
vật lịch sử, kết hợp phƣơng pháp lô gíc, khảo sát, thống kê, phân tích, tổng
hợp và những phƣơng pháp nghiên cứu chuyên ngành của chính trị học.
5. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của luận văn
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu là việc thực hiện chức năng giám sát và phản
biện xã hội và việc thực hiện chức năng giám sát và phản biện xã hội của báo
chí hiện nay.
Khách thể nghiên cứu báo chí Hà Tĩnh hiện nay.
5
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu chức năng giám sát và phản biện xã hội và việc thực hiện
chức năng phản biện xã hội của báo chí ở Hà Tĩnh (báo chí địa phƣơng) từ
năm 2005 đến nay.
6. Đóng góp của luận văn
Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về báo chí, vai trò của báo
chí, chức năng và tiêu chí đánh giá thực hiện chức năng giám sát và phản biện
xã hội của báo chí ở Hà Tĩnh hiện nay.
Nêu những phƣơng hƣớng và giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả
chức năng giám sát và phản biện xã hội của báo chí ở Hà Tĩnh hiện nay và
những năm tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,
luận văn đƣợc bố cục thành 3 chƣơng 6 tiết.
6
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BÁO CHÍ
VÀ CHỨC NĂNG PHẢN BIỆN XÃ HỘI CỦA BÁO CHÍ
1.1. Khái niệm báo chí, chức năng và vai trò của báo chí
1.1.1. Khái niệm báo chí
Với xu thế phát triển nhƣ hiện nay, hoạt động thông tin tuyên truyền
nói chung và báo chí nói riêng đóng vai trò hết sức quan trọng trong đời sống
xã hội. Cũng nhƣ thế giới, báo chí Việt Nam đã có những bƣớc phát triển
vƣợt bậc, cả về số lƣợng và chất lƣợng, góp phần quan trọng vào mọi mặt của
đời sống xã hội, phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh.
Thực hiện đƣờng lối đổi mới do Đảng khởi xƣớng và lãnh đạo, các
phƣơng tiện truyền thông đại chúng đóng vai trò hết sức quan trọng trên các
lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và đấu tranh phòng chống tội
phạm, tai tệ nạn xã hội.
Theo các nhà nghiên cứu nói chung, báo chí là một mặt của đời sống xã
hội, từ khi ra đời đến nay đã tồn tại song hành cùng quá trình phát triển của
loài ngƣời. Trong quá trình đó, báo chí có những tác động to lớn đối với xã
hội loài ngƣời đƣợc thể hiện trên nhiều phƣơng diện kinh tế, chính trị, văn
hoá, lối sống, v.v..
Do vậy, việc nhận thức vai trò của báo chí là một vấn đề bức thiết trong
mọi thời đại, mọi hình thái Nhà nƣớc. Nó có ý nghĩa rất lớn góp phần vào
việc điều hoà các mối quan hệ xã hội theo định hƣớng chung của Nhà nƣớc,
tạo ra một môi trƣờng ổn định để phát triển kinh tế, xã hội. Chính vì thế, trong
quá khứ cũng nhƣ hiện tại có nhiều học giả nghiên cứu và đƣa ra những khái
niệm khác nhau về báo chí dƣới những góc độ khác nhau.
7
Theo triết học cổ Hy Lạp: “Chữ báo chí xuất phát từ chữ information
có nghĩa là thông tin, thông báo, báo tin và được hiểu như việc tạo ra hình
thái giúp cho sự hiểu biết của con người về thế giới xung quanh đang tồn tại
bằng việc lấy hiện thực khách quan để phản ánh một cách liên tục, xuyên suốt
trong quan hệ chặt chẽ giữa nhà báo - tác phẩm - công chúng”.
Trong khi đó, chính các tác giả quyển sách này lại cho rằng: “Báo chí
là bao gồm tất cả các tổ chức thông tin thuật những loại hình khác nhau
(xuất bản, radio, vô tuyến truyền hình, v.v.) và ở những cấp độ khác nhau từ
trung ương đến địa phương, với ý nghĩa là tất cả các phương tiện thông tin
đại chúng”.
Một số quan điểm khác thì không định nghĩa báo chí riêng biệt mà gắn
liền báo chí với truyền thông. Ở cách hiểu này, trong Từ điển tiếng Việt của Viện
Ngôn ngữ học định nghĩa báo chí truyền thông hiểu theo nghĩa chung nhất và
trừu tƣợng nhất là “quá trình truyền dữ liệu giữa các đơn vị chức năng”.
Trong Từ điển xã hội học do G.Nedruweit và G.Trommsdorff chủ biên,
định nghĩa Báo chí truyền thông là “sự tạo ra mối liên hệ giữa hai đối tượng
có thể mang bản chất sự sống hay không”.
Còn tác giả Trần Hữu Quang trong cuốn Xã hội học truyền thông đại
chúng thì khẳng định: “Báo chí truyền thông là một quá trình truyền đạt, tiếp
nhận và trao đổi thông tin nhằm thiết lập các mối liên hệ giữa con người với
con người”. Theo đó, tác giả này định nghĩa, “truyền thông đại chúng là quá
trình truyền đạt thông tin một cách rộng rãi đến mọi người trong xã hội thông
qua các phương tiện truyền thông đại chúng như phát thanh, truyền hình”.
Nhìn chung, các tác giả trên bằng cách này hay cách khác, đã cố gắng
đƣa ra những định nghĩa chung nhất về báo chí và tựu trung lại đều xem báo
chí nhƣ một phƣơng tiện diễn đạt, chia sẻ thông tin giữa các chủ thể khác
nhau trong xã hội.
8
Luật Báo chí nƣớc Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1989,
đƣợc Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 5 sửa đổi, bổ sung và thông qua ngày 12
tháng 6 năm 1999 (sau đây được gọi là Luật Báo chí sửa đổi, bổ sung 1999)
trong phần định nghĩa về báo chí đã không tập trung vào giải thích rõ nội hàm
của báo chí mà chỉ làm công tác liệt kê các loại hình báo chí. Điều 3 Luật Báo
chí quy định: Báo chí nói trong luật này là báo chí Việt Nam, bao gồm: báo in
(báo, tạp chí, bản tin thời sự, bản tin thông tấn), báo nói (chƣơng trình phát
thanh), báo hình (chƣơng trình truyền hình, chƣơng trình nghe - nhìn thời sự
đƣợc thực hiện bằng các phƣơng tiện kỹ thuật khác nhau), báo điện tử (đƣợc
thực hiện trên mạng thông tin máy tính) bằng tiếng Việt, tiếng các dân tộc
thiểu số Việt Nam, tiếng nƣớc ngoài.
Mặc dù điều 3 Luật Báo chí chƣa đƣợc xem nhƣ một định nghĩa chính
thức về báo chí nhƣng với cách liệt kê nhƣ trên đã chỉ rõ các loại hình báo chí
của nƣớc ta hiện nay.
1.1.2. Chức năng của báo chí
a) Khái niệm chức năng
Chức năng, tiếng La tinh là function, đƣợc hiểu là sự tổng hợp vị trí,
vai trò, bổn phận, nghĩa vụ, tác dụng của cái gì đó đối với sự vật, hiện tƣợng
nào đó. Mỗi một sự vật, hiện tƣợng tồn tại và vận động đều nhằm thực hiện
những mục đích nhất định nào đó. Lý thuyết chức năng chỉ ra tác động của
các đặc tính của một hệ thống khách thể đối với các hệ thống môi trƣờng cùng
nằm trong một hệ thống các quan hệ với khách thể đang xem xét một hệ
thống các quan hệ nhất định; Kết quả đối với một hệ thống xã hội của một
hiện tƣợng, sự kiện, yếu tố, thể chế xã hội có tác dụng góp phần vào sự vận
hành, duy trì hệ thống xã hội đó.
Từ sự phân tích trên, có thể đƣa ra khái niệm chức năng của báo chí
nhƣ sau: Chức năng của báo chí là sứ mệnh và bổn phận hay nghĩa vụ và
9
trách nhiệm vốn có của báo chí, là cái báo chí sinh ra để làm, thông qua đó
hiểu được vị trí, vai trò, tác dụng của báo chí trong đời sống xã hội. Tổng
hợp vai trò, vị trí và tác dụng của báo chí cũng chính là chức năng của báo
chí. Chức năng của báo chí đƣợc hình thành không phải do sự áp đặt chủ
quan, mà nó tồn tại một cách khách quan trên cơ sở những qui luật nội tại của
báo chí.
b) Chức năng của báo chí
Báo chí có chức năng, vai trò ngày càng quan trọng trong đời sống xã
hội. Đó là các chức năng thông tin, chức năng tƣ tƣởng, chức năng khai sáng giải trí, chức năng tổ chức - quản lý, giám sát và phản biện xã hội, chức năng
kinh tế - dịch vụ. Trong đó:
Thông tin là chức năng cơ bản, chức năng khởi nguồn của báo chí. Báo
chí ra đời là để đáp ứng, thỏa mãn nhu cầu thông tin giao tiếp của con ngƣời
và xã hội. Xã hội càng phát triển, con ngƣời càng văn minh thì nhu cầu thông
tin giao tiếp càng cao, càng đa dạng phong phú. Quá trình đáp ứng nhu cầu
này làm cho báo chí phát triển nhanh chóng. Một số yêu cầu của chức năng
thông tin.
Chức năng tư tưởng là chức năng xuyên suốt, thể hiện tính mục đích
của báo chí. Với chức năng này, theo quan điểm của Đảng ta, báo chí là công
cụ, phƣơng tiện quan trọng dùng để truyền bá hệ tƣ tƣởng của Đảng, giáo dục
lý luận Mác – Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và làm cho hệ tƣ tƣởng - lý luận
này trở thành chủ đao, chiếm ƣu thế trong đời sống tinh thần, tƣ tƣởng của
đông đảo nhân dân. Báo chí là một binh chủng xung kích, đi đầu trong công
tác tƣ tƣởng của Đảng.
Chức năng khai sáng - giải trí đƣợc hiểu rằng, báo chí không chỉ là
kênh thông tin - truyền thông quan trọng cung cấp thông tin, kiến thức, mà
10
còn là diễn đàn trao đổi, chia sẻ kỹ năng và kinh nghiệm phong phú nhằm
nâng cao trình độ dân trí, đáp ứng nhu cầu phát triển bền vững. Báo chí là
kênh quan trọng cung cấp thông tin, kiến thức, giáo dục, giao lƣu, truyền tải,
tiếp biến văn hóa có hiệu quả nhất. Trên các loại hình báo chí và các dạng
thức truyền thông hiện đại ngày càng có nhiều phƣơng thức giải trí thú vị và
hữu ích, nhất là truyền hình, phát thanh, báo mạng điện tử và mạng xã hội.
Giải trí cũng là cách thức phổ biến, bảo vệ hệ giá trị văn hóa.
Chức năng quản lý, giám sát và phản biện xã hội của báo chí thể hiện ở
chỗ, báo chí duy trì và phát triển mối liên hệ chặt chẽ giữa chủ thể và khách
thể quản lý thông qua việc duy trì và phát triển dòng thông tin hai chiều, bảo
đảm cho các quyết định quản lý đƣợc thông suốt và thực thi, v.v.. Giám sát có
thể đƣợc hiểu là “theo dõi, kiểm tra xem có thực hiện đúng những điều quy
định không”. Điều đó có nghĩa là, giám sát bao gồm hai quá trình, theo dõi và
kiểm tra. Giám sát có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo đảm cho hoạt
động đƣợc thực hiện đúng mục đích và đạt hiệu quả tốt nhất trong điều kiện
có thể, theo mục tiêu, chƣơng trình, kế hoạch đã đề ra.
Giám sát xã hội của báo chí là quá trình báo chí bằng mọi phƣơng thức
huy động sức lực, trí tuệ và cảm xúc của đông đảo nhân dân với tinh thần
trách nhiệm chính trị cao nhất trong việc theo dõi, kiểm tra quá trình thực hiện
đƣờng lối, chủ trƣơng chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nƣớc, bảo đảm
đạt đƣợc mục đích cao nhất trong điều kiện có thể. Giám sát xã hội của báo
chí bao gồm các bình diện khác nhau, nhƣ theo dõi, kiểm tra phát hiện những
nơi làm đúng, làm tốt để biểu dƣơng và nhân rộng; theo dõi và kiểm tra để
phát hiện những nơi làm sai lệch, để uốn nắn và đấu tranh, bảo đảm cho
đƣờng lối, chính sách chủ trƣơng của Đảng, pháp luật Nhà nƣớc đƣợc thực thi
đúng trong thực tế…
11
Chức năng kinh tế - dịch vụ của báo chí thể hiện ở việc báo chí tham
gia vào một số hoạt động sản xuât, kinh doanh có liên quan, nhất là trong điều
kiện kinh tế thị trƣờng và kinh tế tri thức, thông qua các hoạt động quảng cáo,
thông tin dịch vụ… Chức năng này xuất phát từ đòi hỏi khách quan của hoạt
động báo chí trong nền kinh tế thị trƣờng; đồng thời theo quan điểm chỉ đạo
của các văn kiện chính trị của Đảng và Nhà nƣớc, nhƣ Nghị quyết TW 5
(khóa VIII), các văn bản dƣới luật, v.v..
1.1.3. Vai trò của báo chí (báo chí cách mạng)
Quan điểm về báo chí và vai trò của báo chí cách mạng của Đảng Cộng
sản Việt Nam đƣợc xây dựng trên nền tảng tƣ tƣởng chính trị của Đảng, trong
đó trƣớc hết phải kể đến quan điểm của V.I.Lênin và Hồ Chí Minh.
Quan điểm của V.I.Lênin về vai trò của báo chí:
Kế thừa và phát triển quan điểm báo chí của C.Mác, V.I.Lênin cho
rằng, đối với mỗi Đảng vô sản thì việc lập ra tờ báo hàng ngày là mốc quan
trọng đầu tiên lên phía trƣớc. Ngƣời khẳng định, đó chính là trận địa ban đầu
để từ đó, Đảng sẽ tiến hành cuộc đấu tranh với giai cấp tƣ sản.
V.I.Lênin khẳng định: điểm xuất phát của hoạt động, bƣớc thực tiễn
đầu tiên để tiến tới thành lập cái tổ chức mong muốn, và cuối cùng là sợi dây
chính mà nếu nắm đƣợc nó thì chúng ta sẽ có thể không ngừng phát triển,
củng cố và mở rộng tổ chức ấy thì phải là việc thành lập tờ báo toàn Nga.
Chúng ta cần trƣớc hết là tờ báo, nếu không có nó thì không thể tiến hành
đƣợc một cách hệ thống cuộc tuyên truyền, cổ động hết sức có nguyên tắc và
toàn diện [22,tr.10].
Lênin cho rằng, tờ báo không chỉ có vai trò phổ biến tƣ tƣởng, giáo dục
chính trị, mà còn là nơi thu hút các đồng minh, tờ báo “Không những là ngƣời
tuyên truyền tập thể và cổ động tập thể mà còn là ngƣời tổ chức tập
thể”.[22,tr.210]. Đọc và phát hành rộng rãi các tờ báo cách mạng tức là đã
12
ủng hộ cách mạng, tiếp thu tƣ tƣởng của Đảng. Báo chí cách mạng càng phát
hành rộng rãi càng chứng tỏ khả năng của một ngƣời tổ chức tập thể.
V.I.Lênin khẳng định, báo chí “là ngƣời lãnh đạo tƣ tƣởng của Đảng, phát
triển các chân lý về lý luận, các nguyên lý về sách lƣợc các tƣ tƣởng tổ chức
chung, nhƣng nhiệm vụ chung của toàn Đảng trong một thời kỳ này hay một
thời kỳ khác” [23,tr.8].
V.I.Lênin chỉ rõ, trong thời kỳ đầu, báo chí là một cơ quan lãnh đạo,
thậm chí là cơ quan lãnh đạo thứ nhất, cùng với Ban chấp hành Trung ƣơng Cơ quan lãnh đạo thứ 2, trong đó, “cơ quan thứ nhất phải lãnh đạo tƣ tƣởng”
[23,tr.8]. Và sự thống nhất về tƣ tƣởng trong Đảng, bắt đầu từ cơ quan báo chí
của Đảng, là điều kiện đầu tiên tiến tới thống nhất về mặt tổ chức, trong đó
điều kiện có chính quyền, vai trò của báo chí không hề giảm đi mà tiếp tục
tăng lên theo tiến trình phát triển của cách mạng. Báo chí vẫn tiếp tục thực
hiện các chức năng tuyên truyền, cổ động và tổ chức, là vũ khí, tƣ tƣởng
mạnh mẽ nhất của Đảng, nhƣng nội dung phản ánh, đối tƣợng tuyên truyền
của báo chí có sự thay đổi căn bản, lúc này báo chí phải trở thành cơ quan
giáo dục chính trị và kinh tế cho quần chúng, là ngƣời tuyên truyền tất cả
những cái mới, tiên tiến nãy sinh từ sự sáng tạo của quần chúng.
V.I.Lênin còn viết rằng, báo chí phải làm công cụ để xây dựng chủ
nghĩa xã hội, báo chí phải giới thiệu hết sức tỷ mỷ những thành công của các
công xã kiểu mẫu; phải nghiên cứu những nguyên nhân thành công, những
phƣơng pháp làm việc và quản lý của các công xã đó; Mặt khác, báo chí đƣa
lên “bảng đen” những công xã nào cứ khƣ khƣ những “truyền thống của chủ
nghĩa tƣ bản”, nghĩa là những truyền thống vô chính phủ, lƣời biếng, vô trật
tự, đầu cơ, ...[24,tr.234].
Trong thời kỳ mới, các nhà báo, nhà văn, nhà tuyên truyền, hãy bớt nói
suông về chính trị, mà quan tâm nhiều hơn đến những công việc kiến thiết xã
13
hội mới, những sự việc bình thƣờng nhất, nhƣng sinh động, rút ra trong đời
sống và đƣợc cuộc sống kiểm nghiệm; phải tập trung vào vấn đề kinh tế, vì
chỉ có kinh tế mạnh, mới có chủ nghĩa xã hội hiện thực. Ở lĩnh vực kinh tế,
báo chí phải thu thập kiểm tra, phản ánh đầy đủ, nghiên cứu những biến đổi
trong đời sống. Báo chí phải tìm xem trong tất cả các ngành kinh tế “thực tế
có đƣợc những thành tựu nào không? Những thành tựu đó là gì? Những thành
tựu đó đã đƣợc xác nhận chƣa? Thành tựu đạt đƣợc nhƣ thế nào? Làm thế nào
để mở rộng những thành tựu ấy?” [24,tr.107]. Báo chí phải làm rõ sự thật, trả
lời chính xác các câu hỏi đó với phƣơng pháp đánh giá khách quan, toàn diện.
Biểu dƣơng các điển hình tiên tiến, đồng thời báo chí phải kiên quyết đấu
tranh chống các hiện tƣợng tiêu cực đang diễn ra trong công cuộc xây dựng
đất nƣợc. Báo chí phải dám “vạch mặt” những kẻ có hành vi tiêu cực trong
lao động. Nhƣng, là “cơ quan của nền chuyên chính của một giai cấp”, báo
chí phải cụ thể, thận trọng khi tiến hành đấu tranh chống tiêu cực, chứ không
bằng giọng điệu hành chính, quan liêu, chung chung, thiếu trách nhiệm.
Trong xã hội có giai cấp, V.I.Lênin khẳng định, không thể có thứ “tự
do tuyệt đối” nhƣ giai cấp tƣ sản thƣờng rêu rao hòng lừa bịp quần chúng.
Vấn đề đặt ra là: “Hãy xem đó là thứ tự do báo chí nào? Để làm gì? Cho giai
cấp nào?” [24,tr.96]. Về cái gọi là tự do báo chí tƣ sản, Lênin vạch rõ: Trong
các nƣớc tƣ bản, tự do báo chí là tự do mua chuộc các nhà báo để tạo “dƣ
luận” có lợi cho giai cấp tƣ sản. Trong điều kiện có chính quyền, nếu tự do
báo chí không xuất phát từ tính đảng cộng sản thì chỉ đƣa đến các hệ quả là
“tăng cƣờng lực lƣợng của giai cấp tƣ sản thế giới ”, không những không giúp
loại trừ khỏi Đảng các nhƣợc điểm, các sai lầm, các tai họa, các bệnh tật; trái
lại, “trở thành một vũ khí trong tay giai cấp tƣ sản” [24,tr 98].
Từ vai trò, chức năng của báo chí đối với sự nghiệp cách mạng, các nhà
sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định: Đảng phải lãnh đạo báo chí; đó là
14
nguyên tắc “ bất di bất dịch”. Sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí gắn liền
với các nguyên tắc hoạt động của báo chí cách mạng. Báo chí phải xứng đáng
là công cụ tuyên truyền, cổ động chính trị của Đảng; đồng thời, cũng chính là
vì lợi ích của báo chí.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của báo chí:
Trong cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của mình, chủ tịch Hồ Chí
Minh là ngƣời đã khai sinh ra nền báo chí cách mạng Việt Nam. Ngƣời để lại
kho tàng báo chí đồ sộ với hơn 2.000 bài báo các loại. Từ thực tiễn hoạt động
cách mạng và hoạt động báo chí, Ngƣời đã có những tƣ tƣởng, quan điểm
toàn diện và sâu sắc về vị trí, vai trò, chức năng và nhiệm vụ, tính chất của
báo chí trong sự nghiệp cách mạng, về quan hệ giữa Đảng và báo chí, về
nghĩa vụ và trách nhiệm của ngƣời làm báo, về đạo đức báo chí và phong
cách làm báo, viết báo.
Kế thừa và phát triển những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về
báo chí vô sản, với quan điểm báo chí cách mạng là một mặt trận của cách
mạng, Hồ Chí Minh luôn coi báo chí là vũ khí sắc bén trong sự nghiệp đấu
tranh giành độc lập dân tộc, xây dựng cuộc sống mới của nhân dân. Hồ Chí
Minh bắt đầu sự nghiệp cách mạng cũng bằng làm báo, viết báo và tuyên
truyền bằng báo. Cuộc đời hoạt động cách mạng của Ngƣời không tách rời
hoạt động của báo chí. Ngƣời làm báo để làm cách mạng và Ngƣời trở thành
một nhà báo cách mạng. Ngƣời quan điểm công việc viết báo và làm báo là
“công tác cách mạng” để “phụng sự tổ quốc”, “phụng sự nhân dân”, “phụng
sự giai cấp và nhân loại”.
Nhận thức rất sâu sắc về vai trò, chức năng, nhiệm vụ của báo chí cách
mạng đối với đời sống xã hội, Ngƣời khẳng định “Báo chí cộng sản chủ nghĩa
có nhiệm vụ làm cho các chiến sỹ của chúng ta hiểu rõ vấn đề thuộc địa, làm
thức tĩnh sự đồng tình, hƣởng ứng của quần chúng nhân dân lao động ở các
15
nƣớc thuộc địa, tranh thủ họ tham gia sự nghiệp của chủ nghĩa cộng
sản”.[35,tr.278] Ngay khi sáng lập tờ báo Thanh niên - tờ báo cách mạng đầu
tiên của nƣớc ta, Hồ Chí Minh đã tố cáo chế độ thực dân phong kiến, tuyên
truyền, cổ động cho chủ nghĩa Mác - Lênin. Có thể khẳng định, từ tờ báo đầu
tiên Hồ Chí Minh đã đặt nền móng cho sự ra đời của nền báo chí cách mạng
Việt Nam và giúp báo chí cách mạng Việt Nam thể hiện đầy đủ vai trò là
ngƣời tuyên truyền tập thể, ngƣời cổ động tập thể và ngƣời tổ chức tập thể với
tinh thần chiến đấu rất cao.
Để chuẩn bị cho việc thành lập Đảng cộng sản tại Việt Nam và chỉ đạo
quá trình hoạt động của phong trào cách mạng, Hồ Chí Minh đã sáng lập,
tham gia sáng lập, hoạt động của các tờ báo: Ngƣời cùng khổ (Le Paria năm
1922); Quốc tế nông dân (1924); Thanh niên (1925); Công nông (1925); Lính
Kách mệnh (1925); Thân ái (1928); Đỏ (1929); Việt Nam độc lập (1941);
Cứu quốc (1942), v.v..
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Báo chí là một mặt trận”, “cây bút là vũ khí
sắc bén, bài báo là tờ hịch cách mạng”[ 40,tr.441]. Báo chí không chỉ có
vai trò quan trọng trong quá trình tuyên truyền đƣờng lối, chủ trƣơng chính
sách của Đảng và nhà nƣớc. Điều quan trọng hơn nữa là báo chí phải phản
ánh một cách tích cực quá trình đó. Báo chí không thể đứng ngoài những
vấn đề, những sự kiện của đời sống chính trị, xã hội. Bằng những hoạt
động cách mạng của mình, báo chí góp phần vào việc chuyển tải những
thông tin, làm sáng tỏ những giá trị đúng đắn học thuyết của chủ nghĩa Mác
- Lênin, khẳng định và tiếp thu những giá trị của nhân loại, vận dụng sáng
tạo vào điều kiện, hoàn cảnh của cách mạng Việt Nam làm cho những giá
trị ấy đƣợc tôn vinh. Bằng chính thực tiễn báo chí, thông qua báo chí, Hồ
Chí Minh đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề có tính lý luận và thực tiễn của cách
mạng Việt Nam.
16
Về nội dung phản ánh của báo chí cách mạng, Hồ Chí Minh nhấn mạnh
“Viết để nêu những cái hay, cái tốt của dân ta, của bộ đội ta, của cán bộ ta,
của bạn ta. Đồng thời cũng để phê bình những khuyết điểm của chúng ta, của
cán bộ, của nhân dân, của bộ đội”.[ 37,tr.118] Báo chí không chỉ phản ánh và
bảo vệ cái hay, cái tốt, cái đúng, mà báo chí còn phải phê phán, phản biện
những vấn đề liên quan đến vận mệnh của đất nƣớc, đến đời sống của con
ngƣời, những vấn đề có tính nhạy cảm trong xã hội, tham gia chuyển tải
những thông tin, góp ý kiến của ngƣời dân về những hoạt động diễn ra trong
đời sống, những chủ trƣơng, quyết định của Đảng và nhà nƣớc.
Theo Hồ Chí Minh, các nhà báo của chúng ta không chỉ là những ngƣời
chép sử trung thực, mà còn là những ngƣới chiến sỹ cách mạng, những ngƣời
lính xung kích trên mặt trận tƣ tƣởng của Đảng “Cán bộ báo chí cũng là chiến
sỹ cách mạng. Cây bút, trang giấy là vũ khí sắc bén của họ”.[ 39, tr.616] Nói
về những quan điểm liên quan đến nhà báo, Hồ Chí Minh nhiều lần nhắc nhở:
“Vì ai mà mình viết?, “Viết để làm gì?”, “Mục đích viết làm gì?”, “Viết cho
ai?”, Hồ Chí Minh luôn quan tâm và sử dụng báo chí nhƣ một kênh thông tin
quan trọng để điều hành xử lý các công việc nhằm thực hiện các quyết sách
của mình.
Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò của báo chí:
Kế thừa, phát huy và vận dụng sáng tạo nhuần nhuyển chủ nghĩa Mác Lênin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về báo chí, Đảng ta đã hình thành nên hệ
thống các quan điểm lãnh đạo, chỉ đạo, định hƣớng đối với báo chí, nhất là
trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.
Đảng lãnh đạo báo chí Việt Nam là một nguyên tắc tối thƣợng, tiên
quyết. Đảng lãnh đạo báo chí bằng cƣơng lĩnh, chiến lƣợc, các định hƣớng về
chính sách và chủ trƣơng công tác, bằng tuyên truyền thuyết phục, vận động,
tổ chức, kiểm tra. Đảng lãnh đạo báo chí thông qua các cơ quan nhà nƣớc, thể
17
chế hóa, cụ thể hóa đƣờng lối, quan điểm của Đảng thành luật pháp, chính
sách đối với báo chí, v.v..
Báo cáo chính trị tại Đại hội VI khẳng định vị trí, tầm quan trọng, vai
trò của báo chí dƣới sự lãnh đạo của Đảng “ Báo chí là tiếng nói của Đảng,
đồng thời cũng phản ánh tiếng nói của quần chúng”.
Nhằm cụ thể hoá Nghị quyết Đại hội VI của Đảng, Ban Bí thƣ Trung
ƣơng Đảng đã ra Chỉ thị 63-CT/TW, ngày 25-7-1990 về tăng cƣờng sự lãnh
đạo của Đảng đối với công tác báo chí, xuất bản. Có thể nói rằng, đây là văn
kiện quan trọng đầu tiên nêu rõ nội dung, phƣơng thức lãnh đạo của Đảng đối
với báo chí; đồng thời, xác định các công việc mà Đảng, Nhà nƣớc cần thực
hiện để lãnh đạo, quản lý báo chí; trách nhiệm của cơ quan chủ quản; trách
nhiệm, quyền hạn của ngƣời phụ trách cơ quan báo chí và việc thành lập các
tổ chức đảng trong các cơ quan báo chí.
Trƣớc yêu cầu mới của sự nghiệp báo chí, ngày 31/3/1992, Ban Bí thƣ
Trung ƣơng Đảng ra Chỉ thị 08-CT/TW về tăng cƣờng sự lãnh đạo và quản lý
nhằm nâng cao chất lƣợng và hiệu quả công tác báo chí, xuất bản; Ban Chấp
hành Trung ƣơng (khóa VII) ra Nghị quyết 09-NQ/TW, ngày 18-2-1995 về
một số định hƣớng lớn trong công tác tƣ tƣởng. Trong đó, Đảng yêu cầu phải:
nâng cao chất lƣợng, hiệu quả của báo chí; coi trọng công tác bồi dƣỡng cán
bộ, nhất là cán bộ phụ trách báo chí, nắm vững và chủ động thực hiện đúng
đắn, sáng tạo các định hƣớng chính trị, tƣ tƣởng của Đảng; đấu tranh có hiệu
quả chống tham nhũng, tiêu cực, chống âm mƣu "Diễn biến hoà bình" của các
thế lực thù địch...
Đến Đại hội VIII, lần đầu tiên Đảng đề ra chủ trƣơng sớm hoạch định
một chiến lƣợc quốc gia về thông tin, theo hƣớng: coi trọng việc nâng cao
chất lƣợng thông tin đại chúng, tính chân thật, tính chiến đấu và tính đa dạng
của thông tin; phát hiện và đề cao các nhân tố mới, đấu tranh phê phán các
hiện tƣợng tiêu cực, tăng cƣờng công tác thông tin đối ngoại.
18
Sau 10 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nƣớc, dƣới sự lãnh đạo
của Đảng, sự quản lý của Nhà nƣớc, báo chí nƣớc ta có những khởi sắc đáng
mừng; song, cũng còn bộc lộ những hạn chế trƣớc yêu cầu mới của thực tiễn.
Để khắc phục tình trạng đó, ngày 17-10-1997, Bộ Chính trị (khoá VIII) ban
hành Chỉ thị số 22-CT/TW về tiếp tục đổi mới và tăng cƣờng sự lãnh đạo,
quản lý công tác báo chí; trong đó, xác định các quan điểm và định hƣớng
lớn; đồng thời, yêu cầu các cơ quan lãnh đạo, quản lý báo chí nhận rõ và chủ
động khắc phục các yếu kém, khuyết điểm. Trong Nghị quyết Trung ƣơng 5
(khoá VIII), Đảng yêu cầu: phải hiện đại hoá hệ thống thông tin đại chúng;
sắp xếp hợp lý nhằm tăng hiệu quả thông tin; xây dựng và từng bƣớc thực
hiện chiến lƣợc truyền thông quốc gia phù hợp đặc điểm nƣớc ta và xu thế
phát triển của truyền thông thế giới; ngăn chặn, hạn chế thông tin độc hại, tiêu
cực qua mạng internet; không ngừng nâng cao trình độ chính trị và nghiệp vụ,
chất lƣợng tƣ tƣởng, văn hoá của hệ thống thông tin đại chúng; khắc phục
khuynh hƣớng "thƣơng mại hoá" trong hoạt động báo chí; chăm lo đặc biệt về
định hƣớng chính trị, tƣ tƣởng, văn hoá cũng nhƣ kỹ thuật đối với báo chí.
Để tiếp tục định hƣớng hoạt động của báo chí, xuất bản trong thời kỳ
mới, căn cứ vào tình hình cụ thể, Đảng ta cũng ban hành một số nghị quyết, chỉ
thị, thông báo quan trọng, đặc biệt là Nghị quyết Trung ƣơng 5 (khóa X) "Về
công tác tƣ tƣởng, lý luận, báo chí trƣớc yêu cầu mới"; trong đó, Đảng ta tiếp
tục khẳng định: Báo chí là tiếng nói của Đảng, Nhà nƣớc, của tổ chức chính trị
- xã hội và là diễn đàn của nhân dân, đặt dƣới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng,
sự quản lý của Nhà nƣớc, hoạt động trong khuôn khổ pháp luật; đảm bảo tính
tƣ tƣởng, tính chân thật, tính nhân dân, tính chiến đấu và tính đa dạng.
Trong báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, trong
phần phƣơng hƣớng, nhiệm vụ phát triển kinh tế 5 năm 2011 - 2015, tại mục
VI, chăm lo phát triển văn hóa, tại mục 3. Phát triển hệ thống thông tin đại
19
chúng đã nêu rõ: “Chú trọng nâng cao tính tƣ tƣởng, phát huy mạnh mẽ chức
năng thông tin, giáo dục, tổ chức và phản biện xã hội của các phƣơng tiện
thông tin đại chúng vì lợi ích của nhân dân và đất nƣớc; khắc phục xu hƣớng
thƣơng mại hóa hoạt động báo chí, xuất bản. Tập trung đào tạo, bồi dƣỡng,
xây dựng đội ngũ hoạt động báo chí, xuất bản vững vàng về chính trị, tƣ
tƣởng, nghiệp vụ và có năng lực đáp ứng tốt yêu cầu thời kỳ mới. Rà soát, sắp
xếp hợp lý mạng lƣới báo chí, xuất bản trong cả nƣớc theo hƣớng tăng cƣờng
hiệu quả hoạt động, đồng thời đổi mới mô hình, cơ cấu tổ chức, cơ sở vật chất
- kỷ thuật theo hƣớng hiện đại”.
Tiếp đó, tại Hội nghị Trung ƣơng 4 (Khóa XI) về xây dựng Đảng, một
thông điệp mạnh mẽ cũng đƣợc nêu ra, đó là: “Nâng cao sức chiến đấu của
các tổ chức cơ sở đảng; phát huy vai trò giám sát của nhân dân, các đoàn
thể, của báo chí, công luận”.
Trong mọi thời kỳ cách mạng, Đảng ta luôn coi trọng báo chí, báo chí
là công cụ vũ khí quan trọng trên mặt trận tƣ tƣởng - văn hóa của Đảng, là
vũ khí quan trọng của nhân dân ta trong cuộc đấu tranh chính trị và đồng
thời nó cũng tạo điều kiện cần thiết để cho mọi ngƣời dân tham gia vào đời
sống chính trị. Báo chí cách mạng ở nƣớc ta là tuyên truyền, phổ biến chủ
nghĩa Mác - Lê nin, Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, đƣờng lối, chính sách của Đảng
và nhà nƣớc, vừa là ngƣời phát hiện, khẳng định, nhân rộng những cái hay
cái đẹp, điển hình và những nhân tố mới, đồng thời tích cực phê phán cái
xấu, cái tiêu cực, những hành vi sai trái lệch lạc trong xã hội. Quan điểm của
Đảng ta về báo chí không phải chỉ dừng ở chủ trƣơng, chính sách mà còn
đƣợc thể hiện bằng Hiến pháp và Luật báo chí; Luật về chế độ báo chí năm
1957, luật báo chí và luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật báo chí năm
1999. Đây là bƣớc tiến quan trọng trên con đƣờng xây dựng nhà nƣớc pháp
quyền Việt Nam.
20
1.2. Chức năng giám sát và phản biện xã hội của báo chí
1.2.1. Khái niệm giám sát và phản biện xã hội
a) Khái niệm giám sát xã hội
Hiện nay có rất nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm giám sát. Theo
từ điển Tiếng Việt “giám sát” đƣợc hiểu là: “sự theo dõi, xem xét làm đúng
hoặc sai những điều đã quy định hoặc dùng để chỉ “một chức quan đảm nhận
việc theo dõi, xem xét một công việc nào đó”. Theo từ điển Luật học: “giám
sát” là sự theo dõi, quan sát hoạt động mang tính chủ động thƣờng xuyên, liên
tục và sẵn sàng tác động bằng các biện pháp tích cực để buộc và hƣớng các
hoạt động của đối tƣợng chịu sự giám sát đi đúng quỹ đạo, quy chế, nhằm đạt
đƣợc mục đích, hiệu quả từ trƣớc đảm bảo cho pháp luật đƣợc tuân theo
nghiêm chỉnh”. Theo từ điển Hán - Việt của Đào Duy Anh thì “giám sát là
xem xét và đàn hạch”.
Theo Luật hoạt động giám sát của Quốc hội, khái niệm giám sát đƣợc
giải thích: “Giám sát là việc Quốc hội, Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội, Hội đồng
dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và Đại biểu Quốc hội
theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự
giám sát trong việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp
lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội”.
Nhƣ vậy, tuy cách diễn đạt và biểu hiện ý nghĩa của từ “giám sát xã hội”
có khác nhau nhƣng các quan niệm trên đều đề cập đến nội dung cơ bản giống
nhau. Từ sự phân tích trên, có thể đƣa ra khái niệm giám sát xã hội nhƣ sau:
Giám sát xã hội là việc theo dõi, xem xét và kiểm tra một chủ thể nào đó về
một việc làm đã thực hiện đúng hoặc thực hiện chưa đúng những điều đã quy
định để từ đó có biện pháp điều chỉnh hoặc xử lý đối với việc làm sai, nhằm
đạt được những mục đích hiệu quả xác định từ trước, bảo đảm cho các quyết
định thực hiện đúng và đầy đủ.
21