Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

bàn về giá trị văn chương trong bình ngô đại cáo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.94 MB, 101 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

BỘ MÔN NGỮ VĂN




SƠN THỊ THANH TUYỀN

BÀN VỀ GIÁ TRỊ VĂN CHƯƠNG TRONG
BÌNH NGÔ ĐẠI CÁO

Luận văn tốt nghiệp Đại học
Ngành Ngữ Văn

Cán bộ hướng dẫn: Th.S LÊ THỊ NGỌC BÍCH

Cần Thơ, năm 2011


ĐỀ CƯƠNG TỔNG QUÁT
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề
3. Mục đích nghiên cứu
4. Phạm vi nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. TÁC GIẢ - TÁC PHẨM


1.1. Nguyễn Trãi - cuộc đời và sự nghiệp sáng tác văn chương
1.1.1. Cuộc đời Nguyễn Trãi
1.1.2. Sự nghiệp văn chương
1.1.2.1. Tác phẩm bằng Hán văn
1.1.2.2. Tác phẩm bằng Việt văn
1.2. Tác phẩm Bình ngô đại cáo
1.2.1. Tìm hiểu về thể loại cáo
1.2.2. Hoàn cảnh ra đời của Bình Ngô đại cáo
1.2.3. Nhan đề Bình Ngô đại cáo
1.2.4. Một số vấn đề văn bản và chữ nghĩa trong Bình Ngô đại cáo
1.2.4.1. Một số vấn đề về văn bản Hán văn
1.2.4.2. Một số vấn đề về chữ nghĩa trong Bình Ngô đại cáo

CHƯƠNG 2. GIÁ TRỊ NỘI DUNG TRONG
BÌNH NGÔ ĐẠI CÁO
2.1. Đại Việt là một đất nước có truyền thống nhân nghĩa cao đẹp
2.1.1. Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn nêu cao ngọn cờ nhân nghĩa
2.1.2. Nguồn gốc của nhân nghĩa Đại Việt là nền văn hiến lâu đời
2.2. Bình Ngô đại cáo là bản cáo trạng đanh thép, đầy căm thù tội ác quân
“cuồng Minh”
2.2.1. Tác giả đứng trên quan điểm nhân nghĩa mà lên án quân xâm lược
2.2.2. Tội ác của giặc Minh chồng chất như núi, đầy mưu mô xảo quyệt
2.3. Nguồn sức mạnh nhân nghĩa Đại Việt
2.3.1. Lãnh tụ nghĩa quân là một anh hùng xuất chúng
2.3.2. Sức mạnh của lòng căm thù giặc và tinh thần đại đoàn kết dân tộc để
chiến thắng quân xâm lược
2.4. Quá trình phản công và toàn thắng
2.4.1. Nguồn gốc của chiến thắng là sức mạnh nhân nghĩa
2.4.2. Giặc Minh bị hoàn toàn thất bại thảm hại
2.4.3. Quân ta càng đánh càng thắng to



Luận văn tốt nghiệp

2.5. Lời tuyên bố chiến thắng

CHƯƠNG 3. GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT CỦA TÁC PHẨM
BÌNH NGÔ ĐẠI CÁO
3.1. Bình Ngô đại cáo - áng văn chính luận
3.2. Bình Ngô đại cáo mang đậm sắc thái tự sự
3.3. Đặc điểm trữ tình trong Bình Ngô đại cáo
3.4. Giọng văn hùng biện trong Bình Ngô đại cáo
3.5. Nghệ thuật sử dụng văn biền ngẫu
3.5.1. Thế nào là văn biền ngẫu
3.5.2. Bình Ngô đại cáo - lối văn biền ngẫu

PHẦN KẾT LUẬN
PHỤ LỤC
Văn bản Bình Ngô đại cáo
 Bình Ngô đại cáo bản phiên âm Hán Việt
 Bình Ngô đại cáo bản dịch của Bùi Kỉ
 Bình Ngô đại cáo bản dịch của Bùi Văn Nguyên

TÀI LIỆU THAM KHẢO
NHẬN XÉT
PHẦN MỞ ĐẦU
---oOo--1. Lý do chọn đề tài
Bình Ngô đại cáo 平 吳 大 誥 là một tuyệt tác bất hủ trong nền văn chương trung
đại và cả trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Đây là một “hùng văn trong
thiên hạ không ai hơn được”, có thể nói mười năm kháng chiến chống quân Minh,

mười năm chiến đấu đọa đày, gian khổ nhưng rất anh hùng của dân tộc đến nay chỉ
còn được gói gọn lại trong tác phẩm chính luận này. So với thơ văn kháng chiến giai
đoạn từ 1945 – 1975 thì không sao kể hết số lượng của nó. Vì vậy, ngoài “hùng văn”
tác phẩm còn được xem là “bản tuyên ngôn của nước Việt Nam độc lập”. [12; 322]
Đây chính là chiến tích lừng lẫy của ông cha ta, là mạch máu nóng xối vào trái tim của
mỗi con người Việt Nam hiện đại, không thể có hòa bình nếu không có những tháng
ngày “quật khởi”. Không thể khai sinh ra một đất nước nếu không có bản “tuyên ngôn
độc lập”. Những lời văn hùng hồn ấy không phải đợi đến ngày 2 – 9 – 1945 mới được
vang lên, mà nó đã được tuyên cáo rộng rãi khắp thiên hạ sau cuộc kháng Minh thắng
CBHD: Th.S Lê Thị Ngọc Bích

Trang 2

SVTH: Sơn Thị Thanh Tuyền


Luận văn tốt nghiệp

lợi “Bá cáo hà nhĩ, hàm sử văn tri” 播 誥 遐 邇 咸 使 聞 知 khẳng định đất nước, con
người Đại Việt ta đã có rất lâu. Vì thế, trong quá trình chọn đề tài, tôi quyết định
hướng đến đề tài “Bàn về giá trị văn chương trong Bình Ngô đại cáo” để có cơ hội
nghiên cứu sâu hơn giá trị của tác phẩm, vốn là niềm tự hào của dân tộc. Mặt khác,
đến với đề tài này chúng tôi cũng dễ dàng tiếp cận được nhiều lí giải về tác phẩm của
các tác giả đi trước để có thể mở rộng thêm cách hiểu cho mình trong việc tiếp cận và
lí giải vấn đề. Qua nghiên cứu đề tài chúng tôi cũng đề cao vai trò của Nguyễn Trãi vị
anh hùng của dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới.
Nghiên cứu văn học ở phương diện giá trị văn chương là một phương hướng
nghiên cứu quen thuộc có tính truyền thống. Tuy không phải là mới, song hướng
nghiên cứu này khi áp dụng với tác phẩm Bình Ngô đại cáo 平 吳 大 誥 sẽ cung cấp
cho chúng ta có một cái nhìn đầy đủ hơn về nội dung tư tưởng cũng như quan niệm

nghệ thuật của tác giả để hiểu rõ hơn về “áng thiên cổ hùng văn muôn đời bất hủ”
này.

CBHD: Th.S Lê Thị Ngọc Bích

Trang 3

SVTH: Sơn Thị Thanh Tuyền


Luận văn tốt nghiệp

2. Lịch sử vấn đề
Kể từ khi ra đời đến nay đã hơn 500 năm, Bình Ngô đại cáo 平 吳 大 誥 đã tạo
nên một sức ảnh hưởng rộng lớn trong toàn quân dân Việt Nam bởi lời văn hùng hồn,
đầy nhiệt huyết nên thu hút rất nhiều công trình nghiên cứu về tác phẩm. Đặc biệt là
sau lễ kỉ niệm 600 năm ngày sinh của Nguyễn Trãi (1980), có rất nhiều công trình
nghiên cứu, tập sách, bài viết được công bố liên quan đến tác giả cũng như về tác
phẩm Bình Ngô đại cáo nhưng số lượng đề cập đến vấn đề một cách có hệ thống tương
đối ít. Chúng tôi xin đưa ra một số công trình mà các nhà nghiên cứu đã thể hiện.
 Công trình nghiên cứu Văn chương Nguyễn Trãi của Bùi Văn Nguyên là một
công trình nghiên cứu đầy tâm huyết của tác giả về thơ văn Nguyễn Trãi. Đây là cái
nhìn tổng quát và toàn diện của Bùi Văn Nguyên cả về cuộc đời, con người, thời đại
văn chương Nguyễn Trãi nói chung. Đặc biệt trong công trình nghiên cứu này Bùi Văn
Nguyên đưa ra bài viết Bình Ngô đại cáo, bản hùng ca lẫm liệt, bốc lên truyền thống
kiên cường bất khuất của dân tộc, bản tuyên ngôn độc lập sáng ngời, ánh lên tinh
thần nhân nghĩa chân chính của lòng người. Trong bài viết tác giả đã lí giải được
những nội dung chính mà nhan đề nhắc đến. Qua đó tác giả còn khẳng định “Bình Ngô
đại cáo, ngoài ý nghĩa là bản tuyên ngôn độc lập trong phạm vi quốc gia, còn mang
yếu tố một bản tuyên ngôn nhân nghĩa hoặc nói theo thuật ngữ hiện đại là bản tuyên

ngôn nhân quyền ở phạm vi quốc tế” [22; 320].
 Trần Đình Hựu với công trình nghiên cứu Nho giáo và văn học Việt Nam
trung cận đại đã có phần tìm hiểu mối quan hệ giữa Nguyễn Trãi và Nho giáo, qua
các mặt hoạt động và qua cuộc đời phong phú nhiều chìm nổi của Nguyễn Trãi. Bên
cạnh việc lý giải các vấn đề trên tác giả đã làm rõ tư tưởng “nhân nghĩa” trong Bình
Ngô đại cáo với tấm lòng ưu dân ái quốc, ngoài ra bài viết còn nói lên khí thế đấu
tranh anh dũng và chiến thắng oanh liệt của dân tộc ta trong hành trình mười năm
chống quân Minh xâm lược.
 Mai Quốc Liên trong bài viết Bình Ngô đại cáo, hùng văn muôn thuở đã vận
dụng những giá trị nội dung của tác phẩm để tôn vinh lên “áng hùng văn” này. Có thể
thấy rằng trong bài viết Mai Quốc Liên đã khái quát lên những nội dung cốt yếu của
bài cáo; Bình Ngô đại cáo là sự tổng kết ngắn gọn lịch sử chiến đấu chống xâm lược
của nghĩa quân Lam Sơn, sự tiếp nối những kiệt tác và tư tưởng lớn của Thiên đô chiếu
của Lí Công Uẩn, Nam Quốc sơn hà của Lí Thường Kiệt và Hịch tướng sĩ của Trần
Quốc Tuấn. Ngoài ra ông còn khẳng định “nhạc điệu, từ ngữ và cả cú pháp nữa đã
CBHD: Th.S Lê Thị Ngọc Bích

Trang 4

SVTH: Sơn Thị Thanh Tuyền


Luận văn tốt nghiệp

góp phần tạo cho Bình Ngô đại cáo một sự đa dạng mà nhất quán, dứt khoát mạnh mẽ
mà liên tục, xuôi thoát tạo nên sự truyền cảm, sự lôi cuốn tạo nên sự khẳng khái, sự
mãnh liệt, tạo nên “áng văn hùng tráng muôn đời” [18; 294]. Qua đó chúng ta thấy
rằng tài văn chương của Nguyễn Trãi trong việc vận dụng câu chữ vào việc cách tân
thể loại cáo – một thể loại hoàn toàn mới cho dân tộc.
 Trong Những bài viết giảng văn đại học của GS. Lê Trí Viễn khi viết về

Bình Ngô đại cáo ông đã trình bày khá rõ nội dung bố cục từng phần của bài cáo: Nêu
luận đề cính nghĩa (từ đầu cho đến chứng cớ còn ghi); Bản cáo trạng về tội ác của
giặc Minh (vừa rồi…chịu được); Quá trình kháng chiến (ta đây…chưa thấy xưa nay);
Tuyên bố kết thúc (xã tắc…ai nấy điều hay) [29; 49]. Tiếp đó ông còn trình bày một số
vấn đề chưa thỏa đáng ở bản dịch trước đó và ông cũng đưa ra cách lí giải thỏa đáng
thuyết phục người đọc.
 Tác giả Tầm Vu với bài viết Sự phát triển của tư tưởng yêu nước Việt Nam
qua ba áng văn Nam quốc sơn hà, Hịch tướng sĩ và Bình Ngô đại cáo đã khẳng định
“ba tác phẩm trên như ba áng văn có giá trị đánh dấu các bước phát triển trọng yếu
của tư tưởng yêu nước Việt Nam” [20; 143]. Đến Bình Ngô đại cáo, tác giả đánh giá
đây là đỉnh cao nhất của tư tưởng yêu nước, ngoài ra còn đề cập những nét kế thừa
cũng như những nét mới về mặt tư tưởng có trong tác phẩm như “sự có mặt dân nhất
là tầng lớp “manh lệ” được Nguyễn Trãi coi như là lực lượng quan trọng nhất trong
cuộc kháng chiến” [20; 143]. Ngoài ra Tầm Vu còn làm sáng tỏ tư tưởng “nhân
nghĩa” theo quan niệm của Nguyễn Trãi là gắn với nhân dân, làm cho nhân dân có
cuộc sống an bình, hạnh phúc.
 Trong bài viết Nhân nghĩa, từ hứng vị siêu hình trong Dịch truyện Nho gia
đến tư tưởng chủ đạo trong Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi, tác giả Nguyễn
Thạch Giang đã khái quát bốn phần chính của tác phẩm Bình Ngô đại cáo trong đó
ông dành hẳn 22 trang (175 – 196) để bàn về khái niệm “nhân nghĩa”. Ở phần kết luận,
tác giả đã khẳng định “Bình Ngô đại cáo thấm nhuần tư tưởng nhân nghĩa. Nhân
nghĩa không còn là một khái niệm luân lí đơn thuần. Nó trở thành một tư tưởng triết
học, một phương châm chỉ đạo chiến lược quán xuyến trong mọi hành động của ông
khi kháng chiến Bình Ngô cũng như khi xây dựng đất nước” [11; 217].
 Theo Tạp chí Văn học, số 5 – 1996, tác giả Hưng Hà có bài viết Nên hiểu hai
từ “mưu phạt” và “tâm công” như thế nào? Sau khi phân tích, bàn sâu về ý nghĩa
hai từ này, tác giả đã khẳng định “Chỉ với bốn từ “mưu phạt, tâm công”, Nguyễn Trãi
CBHD: Th.S Lê Thị Ngọc Bích

Trang 5


SVTH: Sơn Thị Thanh Tuyền


Luận văn tốt nghiệp

đã thâu tóm được cả linh hồn, đã nêu bật được cùng một lúc cả hai điều cốt tử điều
được gọi là “thượng sách” trong chỉ đạo chiến tranh”. Đây là chiến lược, chiến thuật
cốt lõi trong cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược của nghĩa quân Lam Sơn
mà Nguyễn Trãi đã nêu rõ trong Bình Ngô đại cáo. Đánh địch, trước hết là phá vỡ âm
mưu của địch, dù đã hình thành hay còn trong trứng nước; cách làm tan rã kẻ thù một
cách hiệu quả nhất là đập tan được tinh thần chiến đấu của giặc. Đó là sự tổng kết kinh
nghiệm chỉ đạo chiến tranh của các nhà lãnh đạo nghĩa quân Lam Sơn và cũng là sự
kết tinh nguyện vọng hòa bình của dân chúng, là sự biểu hiện cụ thể của truyền thống
tư tưởng yêu nước Việt Nam.
Qua khảo sát các bài nghiên cứu trên, chúng tôi thấy rằng các tác giả chỉ mới tìm
hiểu hoặc giới thiệu sơ lược một số nội dung, nghệ thuật của tác phẩm chứ chưa hệ
thống hóa một cách toàn diện và đi sâu vào phân tích, đánh giá trọn vẹn về nội dung
tiêu biểu cũng như những đóng góp nghệ thuật đặc sắc của Nguyễn Trãi trong Bình
Ngô đại cáo 平 吳 大 誥. Thấy được điều đó nên trong đề tài này chúng tôi sẽ đi sâu
nghiên cứu và tiến hành phân tích giá trị nội dung và nghệ thuật của Bình Ngô đại cáo.
Trên cơ sở đó, chúng tôi sẽ đưa ra sự đánh giá toàn diện về tác gia Nguyễn Trãi cũng
như tác phẩm Bình Ngô đại cáo ở phương diện văn học và cả lịch sử nhằm xác định rõ
hơn những đóng góp và tầm vóc của Nguyễn Trãi trong nền văn chương dân tộc.

3. Mục đích nghiên cứu
Với bài nghiên cứu này, chúng tôi đi vào giải quyết những yêu cầu sau:
Một là, tìm hiểu đôi nét về tác giả Nguyễn Trãi và tác phẩm Bình Ngô đại cáo 平
吳 大 誥 để có được những hiểu biết cơ bản về cuộc đời, sự nghiệp văn chương của tác
giả cũng như khái quát về “bản thiên cổ hùng văn” này.

Hai là, chúng tôi sẽ đi sâu vào tìm hiểu giá trị nội dung của bài cáo để thấy rõ
hơn những tư tưởng cốt lõi mà tác giả thể hiện; Đại Việt là một đất nước có truyền
thống nhân nghĩa cao đẹp; Bình Ngô đại cáo là bản cáo trạng đanh thép, đầy lòng
căm thù giặc; Nguồn sức mạnh nhân nghĩa Đại Việt; Quá trình phản công và toàn
thắng của quân dân ta và cuối cùng là Lời tuyên bố chiến thắng.
Ba là, bên cạnh những giá trị về nội dung Bình Ngô đại cáo còn là áng văn chính
luận với những nét nghệ thuật đặc sắc, vì thế khi đi vào “phân tích giá trị văn chương
trong Bình Ngô đại cáo”chúng tôi cũng sẽ đi sâu vào tìm hiểu những giá trị nghệ thuật
mà tác giả đã sử dụng trong tác phẩm.

CBHD: Th.S Lê Thị Ngọc Bích

Trang 6

SVTH: Sơn Thị Thanh Tuyền


Luận văn tốt nghiệp

4. Phạm vi nghiên cứu
Đến với đề tài “Bàn về giá trị văn chương trong Bình Ngô đại cáo” chúng tôi
chủ yếu đi sâu vào nghiên cứu giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Để thực
hiện nhiệm vụ này, chúng tôi chọn khảo sát, nghiên cứu trên văn bản chữ Hán kết hợp
với bản dịch được sử dụng rộng rãi nhất hiện nay là bản dịch của Bùi Văn Nguyên.

5. Phương pháp nghiên cứu
Để giúp cho việc nghiên cứu đề tài một cách khoa học, dễ tiếp nhận. Ở đề tài này
người viết sử dụng một số phương pháp lịch sử, thu thập tài liệu, bài nghiên cứu có
liên quan đến tác phẩm Bình Ngô đại cáo 平 吳 大 誥. Từ đó chúng tôi tiến hành tổng
hợp, phân tích để làm sáng tỏ giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.


CBHD: Th.S Lê Thị Ngọc Bích

Trang 7

SVTH: Sơn Thị Thanh Tuyền


Luận văn tốt nghiệp

PHẦN NỘI DUNG
---oOo--Chương 1: TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM
1.1. Nguyễn Trãi - cuộc đời và sự nghiệp văn chương
1.1.1. Cuộc đời Nguyễn Trãi
Nguyễn Trãi 阮 廌 hiệu Ức Trai 抑 齋, sinh năm 1380 ở Thăng Long 昇 龍 tại
gia đình họ ngoại là quan tư đồ Trần Nguyên Đán 陳 元 旦. Tổ tiên của Nguyễn Trãi
ở làng Chi Ngại 支 礙, huyện Phượng Sơn 鳳 山 (tức Phượng Nhãn 鳳 眼 nay thuộc
huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương) sau dời về làng Nhị Khê 蕊 溪 , huyện Thường Tín
tỉnh Hà Tây.
Thân phụ của Nguyễn Trãi là Nguyễn Ứng Long 阮 應 龍 (1336 -1408) một Nho
sinh xuất thân từ gia đình nghèo khó nhưng rất thông minh, ham học và nổi tiếng hay
chữ. Năm Long Khánh thứ ba (1374) đời Trần Duệ Tông, Nguyễn Ứng Long thi đỗ
Nhị giáp tiến sĩ. Thế nhưng ông là con nhà bình dân mà lại lấy con gái Hoàng tộc nên
dù đậu cao cũng không được làm quan, nên ông đành về quê ở làng Nhị Khê làm nghề
dạy học.
Mẹ của Nguyễn Trãi là Trần Thị Thái 陳 氏 太, con gái thứ ba của quan tư đồ
Trần Nguyên Đán (cháu bốn đời của Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải, quyền
ngang tể tướng lúc bấy giờ). Trần Nguyên Đán là người thuộc dòng dõi Hoàng tộc,
tính tình điềm đạm, khẳng khái, có nhiều công lao đối với nhà Trần nên được giữ chức
vụ quan trọng trong triều đình. Tuy nhiên khi ông lên nắm quyền thì cơ nghiệp nhà

Trần đã bắt đầu suy vong chán nản thời thế ông xin về ở ẩn tại Côn Sơn năm 1385.
Nguyễn Trãi là con thứ của Nguyễn Ứng Long (có sách nói là con trưởng). Năm
ông 6 tuổi thì mẹ mất. Nguyễn Trãi về Côn Sơn 崑 山 ở với ông ngoại đến năm 10 tuổi
(1390) ông ngoại mất, Nguyễn Trãi về sống với cha ở làng Nhị Khê và theo nghiệp
đèn sách.
Tuổi thơ Nguyễn Trãi vô cùng vất vả và thanh bần. Tuy gặp nhiều khó khăn
nhưng Nguyễn Trãi vẫn cố công học tập nổi tiếng là một người học rộng, tài cao, có
kiến thức uyên bác về nhiều lĩnh vực. Không chỉ nghiên cứu Nho giáo Nguyễn Trãi
còn quan tâm học hỏi từ giáo lý nhà Phật đến tư tưởng Lão Trang, từ sách của các tác

CBHD: Th.S Lê Thị Ngọc Bích

Trang 8

SVTH: Sơn Thị Thanh Tuyền


Luận văn tốt nghiệp

giả thời Tiên, Tần cho đến những sách mới nhất được du nhập có thể nói: “Bộ óc vĩ
đại của nhà trí thức ấy đã tiếp thu toàn bộ kiến thức đương thời” [27; 14].
Năm 1400, Hồ Quý Ly 胡 季 犛 lên ngôi mở khoa thi đầu tiên của nhà Hồ để
tuyển chọn nhân tài. Nguyễn Trãi dự khoa thi này và đổ Thái học sinh (tiến sĩ).
Năm 1401, Nguyễn Trãi được bổ sung chức quan Ngự sử đài chính chưởng, một
cơ quan có nhiệm vụ can giám nhà vua và thanh tra quan lại. Cũng năm nay, Nguyễn
Ứng Long đổi tên thành Nguyễn Phi Khanh ra nhận chức Hàn lâm học sĩ kiêm Quốc
tử giám tư nghiệp, chuyên giúp nhà vua coi việc văn từ và giáo dục.
Như vậy, cả hai cha con Nguyễn Trãi ra làm quan với nhà Hồ nhưng không được
bao lâu. Năm 1407, giặc Minh sang xâm lược nước ta, Hồ Quý Ly thua trận gần như
toàn bộ triều đình nhà Hồ bị bắt đưa về Trung Quốc trong số đó có Nguyễn Phi

Khanh. Nguyễn Trãi cùng em là Nguyễn Phi Hùng cải trang theo hầu cha sang Trung
Quốc. Đến ải Nam Quan 南 關, Nguyễn Phi Khanh khuyên con nên trở về “Con là
người có học, có tài, nên tìm cách rửa nhục cho nước, trả thù cho cha. Như thế mới là
đại hiếu. Lọ là cứ phải đi theo cha khóc lóc như đàn bà mới là hiếu hay sao?”.
Nguyễn Trãi đành từ biệt cha và em rồi quay trở về. Đến thành Đông Quan 東 關 thì
bị giặc Minh bắt, tướng Trương Phụ 張 輔 dỗ ông ra làm quan nhưng ông từ chối.
Trương Phụ định đem ông ra chém nhưng thượng thư Hoàng Phúc 黃 福 muốn dụ dỗ
ông tiếp nên can Trương Phụ tha cho chết ông nhưng quản thúc ông ở thành Đông
Quan. Trong thời gian này Nguyễn Trãi sống cuộc sống vô cùng bần hàn, thanh đạm
trong vòng quây của kẻ thù nhưng ông vẫn giữ tấm lòng sắt son với nước luôn nung
nấu chí căm thù giặc.
Năm 1416, Nguyễn Trãi trốn khỏi thành Đông Quan tìm đường vào Lỗi Giang
(Thanh Hóa) dâng Bình Ngô sách 平 吳 策 cho Lê Lợi 黎 利. Đây là cuốn sách vạch
ra đường lối cứu nước “không nói đánh thành mà giỏi bàn về cách đánh lòng” [15;
216] rất được Lê Lợi tán thành, trọng dụng. Từ đó Nguyễn Trãi đã gắn bó với phong
trào khởi nghĩa Lam Sơn, sát cánh cùng Lê Lợi và nghĩa quân tham gia xây dựng
đường lối quân sự, chính trị phù hợp, Nguyễn Trãi còn đảm đương nhiệm vụ quan
trọng như soạn thảo thư từ, địch vận, tham mưu, vạch ra chiến lược, chiến thuật cho
nghĩa quân.
Tháng 12 năm 1427, Vương Thông xin hòa và rút quân về nước. Kháng chiến
mười năm gian khổ của nghĩa quân Lam Sơn thắng lợi hoàn toàn. Nguyễn Trãi được

CBHD: Th.S Lê Thị Ngọc Bích

Trang 9

SVTH: Sơn Thị Thanh Tuyền


Luận văn tốt nghiệp


ban Quốc tính (Lê Trãi), tước Quan Phục hầu 冠 服 侯, giữ chức Nhập nội hành khiến
Lại bộ thượng thư kiêm hành Khu mật viện sự. Sau khi lên ngôi, Lê Thái Tổ 黎 太 祖
lại tỏ ra nghi kị những công thần nghe lời sàm tấu mà giết hại nhiều người đã cùng Lê
Lợi đồng cam cộng khổ trong cuộc kháng chiến chống quân Minh đầy gian khổ. Bản
thân Nguyễn Trãi cũng bị bắt giam một thời gian, sau đó ông được thả ra nhưng không
được trọng dụng như trước nữa.
Tháng 2 năm 1433, Lê Thái Tổ mất, Nguyễn Trãi soạn bài Văn bia Vĩnh Lăng
nổi tiếng ca ngợi và ghi lại công đức của Lê Lợi.
Đến tháng 9 năm 1433 Thái tử Nguyên Long 元 龍 lên ngôi (tức vua Lê Thái
Tông) Nguyễn Trãi vẫn được trọng dụng làm Phụ chính đại thần. Ngày 01/09/1442 sau
khi Thái Tông duyệt quân ở thành Chí Linh, Nguyễn Trãi mời vua ngự chùa Côn Sơn
ở hương của ông. Nguyễn Trãi có người thiếp là Nguyễn Thị Lộ 阮 氏 路 vừa đẹp,
vừa hay chữ, từng được Thái Tông mời vào triều phong chức Lễ nghi học sĩ dạy dỗ
cung nhân. Khi vua rời Côn Sơn thì Thị Lộ cũng được lệnh theo vua về Thăng Long.
Ngày 07/09/1442, xa giá vua về đến Lệ Chi Viên 荔 枝 園, vua thức suốt đêm với
Nguyễn Thị Lộ rồi băng. Sau đó Nguyễn Thị Lộ bị bắt. Nguyễn Trãi đang đi tuần ở
Đông Bắc hay tin liền trở về Thăng Long cũng bị bắt. Bọn gian thần đã buộc tội ông
và Thị Lộ đã giết vua. Toàn bộ gia quyến Nguyễn Trãi bị bắt giam.
Ngày 19/09/1442, án tru di tam tộc đã đổ xuống đầu Nguyễn Trãi. Đến hơn hai
mươi năm sau, năm 1464 Lê Thánh Tông 黎 聖 宗 mới xuống chiếu giải oan cho ông
và truy tặng ông tước Tán trù bá, ban cho Nguyễn Anh Vũ 阮 鸚 鵡 người con trai duy
nhất trốn khỏi nạn tru di năm xưa làm Đồng tri châu. Năm 1467, Lê Thánh Tông cho
người sưu tập lại di cảo thơ ông.
Cuộc đời Nguyễn Trãi là cuộc đời xoay quanh những giai thoại kỳ lạ, là một
cuộc đời đầy hào hùng và lừng danh nhưng không kém phần bi kịch. Tuy nhiên,
Nguyễn Trãi vẫn là “bậc đại anh hùng dân tộc và là một nhân vật toàn tài hiếm có của
lịch sử Việt Nam trong thời đại phong kiến” [14; 14]. Ta thấy, công lao quý giá nhất
và sự nghiệp vĩ đại nhất của Nguyễn Trãi là tấm lòng yêu nước, yêu dân tha thiết và sự
nghiệp đánh giặc cứu nước vô cùng vẻ vang. Ông đã đem hết cả trí tuệ, tâm hồn và tài

năng phục vụ cho lợi ích của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm
lược. Tư tưởng chính trị, quân sự ưu tú và tài ngoại giao kiệt xuất của ông đã dẫn
đường cho phong trào khởi nghĩa Lam Sơn đi tới thắng lợi.
CBHD: Th.S Lê Thị Ngọc Bích

Trang 10

SVTH: Sơn Thị Thanh Tuyền


Luận văn tốt nghiệp

Ngoài ra, Nguyễn Trãi còn có công đóng góp rất lớn, không chỉ riêng về tổng kết
và phát triển nền văn hóa Việt Nam trong năm thế kỉ dựng nước và giữ nước (kể từ khi
Ngô Quyền đuổi quân Nam Hán khôi phục nền độc lập đến khi Lê Lợi đuổi quân
Minh) mà Nguyễn Trãi còn sáng tác rất nhiều tác phẩm, ở nhiều thể loại nhằm xây
dựng và phát triển nền văn hóa dân tộc có nội dung yêu nước và yêu nhân dân tha
thiết.
Công lao và sự nghiệp của Nguyễn Trãi thật là huy hoàng và vĩ đại, Nguyễn Trãi
đã để lại trong lòng người đọc bao thế hệ sự ngưỡng mộ, lòng kính trọng về một nhân
cách đầy đức tin và tình yêu. Tiếp thu tất cả những gì tinh túy nhất của tri thức đạo
Khổng – Mạnh. Nguyễn Trãi trở thành một bậc quân tử chân chính hết lòng vì dân, vì
nước. Với những cống hiến to lớn đó Nguyễn Trãi đã làm rạng danh cho cả dân tộc
Việt Nam, vì thế năm 1980 ông là người Việt Nam đầu tiên được Unesco công nhận
và tôn vinh là danh nhân văn hóa thế giới, cùng với niềm tôn vinh cao quý này một lần
nữa đã khẳng định rõ ràng vẻ đẹp rạng ngời của Nguyễn Trãi. Cố thủ tướng Phạm Văn
Đồng cũng từng đánh giá: “Nguyễn Trãi là khí phách, là tinh hoa của dân tộc. Nhưng
chính ông cũng lại là người đã phải hứng chịu những oan khiên thảm khốc do xã hội
cũ gây nên tới mức độ thật hiếm có trong lịch sử phong kiến nước nhà”.[8; 14]


1.1.2. Sự nghiệp văn chương
Việc tìm hiểu về cuộc đời, sự nghiệp và các tác phẩm của Nguyễn Trãi đã có một
quá trình lịch sử lâu dài. Kể từ khi Nguyễn Trãi được minh oan các thế hệ người Việt
Nam đã bỏ công sức để sưu tầm, biên tập lại các tác phẩm của ông. Những công trình,
bài nghiên cứu, phiên âm và dịch nghĩa tác phẩm của Nguyễn Trãi số lượng có thể ước
tính lên tới hàng ngàn. Ở thế kỷ XV, năm 1467 Trần Khắc Kiệm người lĩnh ý chỉ của
vua Lê Thánh Tông đi sưu tầm các tác phẩm của Nguyễn Trãi. Sau 13 năm cố công
tìm kiếm Trần Khắc Kiệm đã biên tập các tác phẩm của Nguyễn Trãi còn lưu giữ lại
thành hai tập sách là: Ức Trai thi tập 抑 齋 詩 集 và Quân trung từ mệnh tập 軍 中 詞
命 集 vào năm 1480. Rất đáng tiếc là hai tác phẩm của Nguyễn Trãi mà Trần Khắc
Kiệm sưu tầm được đã không được các quan lại triều đình phong kiến sau này quan
tâm lưu giữ, nên không bao lâu lại bị thất lạc. Vào thời kỳ này mặc dù Nguyễn Trãi bị
một nghi án là âm mưu giết hại vua nhưng thân thế, sự nghiệp và văn thơ của ông luôn
được người đương thời đánh giá cao. Vua Trần Nhân Tông đã nhận xét về Nguyễn
Trãi: “Nguyễn Trãi là người trung thành giúp Đức Thái Tổ dẹp loạn, giúp Đức Thái

CBHD: Th.S Lê Thị Ngọc Bích

Trang 11

SVTH: Sơn Thị Thanh Tuyền


Luận văn tốt nghiệp

Tông sửa sang nền thái bình. Văn chương và đức nghiệp của Nguyễn Trãi các danh
tướng bản triều là không ai sánh bằng”. [13; 21]
Vào thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX, Dương Bá Cung (1794 – 1868) người đồng
hương với Nguyễn Trãi lại tiếp tục đi tìm kiếm, sưu tầm lại các tác phẩm của Nguyễn
Trãi. Dương Bá Cung đã bỏ ra nhiều năm, đi nhiều nơi, gặp nhiều người để tìm kiếm

lại các tác phẩm đã bị thất lạc. Sau khi tìm được các tác phẩm của Nguyễn Trãi,
Dương Bá Cung đã cùng Nguyễn Năng Tĩnh, Ngô Thế Vinh tham gia biên tập, phân
loại và đề tựa. Với việc cho khắc in các tác phẩm của Nguyễn Trãi đã đánh dấu một
bước quan trọng trong việc sưu tầm và giữ gìn các tác phẩm được xem là “bất hủ” của
dân tộc.

1.1.2.1. Tác phẩm bằng Hán văn
Hầu hết các tác phẩm bằng Hán văn còn truyền lại hiện nay được in trong tập Ức
Trai thi tập 抑 齋 詩 集, gồm 6 quyển.
Ức Trai thi tập 抑 齋 詩 集 (quyển 1) có hơn 100 bài thơ ngũ ngôn và thất ngôn.
Nội dung phong phú và trữ tình từ tình yêu thiên nhiên, đất nước (Mộ xuân tức sự,
Quan hải…) đến tình cảm với cha, với vua, với dân… Tình cảm của ông gắn liền với
tuổi thơ bên cạnh mẹ và ông ngoại cùng với những tháng ngày ở Côn Sơn – nơi hữu
cảnh hữu tình.
Tuế nguyệt vô tình song mấn bạch
Quân thân tại niệm thốn tâm đan
“Tháng lại ngày qua chòm tóc bạc
Tôi trung con hiếu tấm lòng son”
Hải khẩu dạ bạc hữu cảm – bài 1
Thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi về hình thức khá đơn giản phần lớn là các bài thơ
thất ngôn bát cú như các bài: Kí hữu, Mạn hứng, Oan thán,… Ngoài ra còn các bài ngũ
ngôn bát cú: Dục Thúy sơn, Du Sơn tự, Tặng hữu nhân… và thất ngôn tứ tuyệt gồm
các bài: Mộng sơn trung, Vãn lập, Đề Đông Sơn tự. Nhìn chung thơ chữ Hán của
Nguyễn Trãi theo thể Đường luật, niêm, luật, vần rất chỉnh, câu chữ đối nhau rất xứng.
Nhật mộ viên thanh cấp
Sơn không trúc ảnh trường
“Chiều tối vượn kêu gầy

CBHD: Th.S Lê Thị Ngọc Bích


Trang 12

SVTH: Sơn Thị Thanh Tuyền


Luận văn tốt nghiệp

Núi quang bóng trúc dài”
Du Sơn tự
 Văn loại 文 類 (quyển 3) Gồm:
Bình Ngô đại cáo 平 吳 大 誥 ( năm 1428)
Lam Sơn Vĩnh Lăng thần đạo bi kí (bia lăng vua Lê Thái Tổ, 1433) sách ghi lại
gia thế, sự nghiệp của Lê thái Tổ sau ngày mất và những bài chiếu, dụ, tấu có nội dung
thời sự thời kì đó.
Băng Hồ di sự lục 冰 壺 遺 事 錄 (chép việc sót lại của Băng Hồ hiệu của Trần
Nguyên Đán, ông ngoại của tác giả, 1428)
 Quân trung từ mệnh tập 暈 中 詞 命 集 (quyển 4, năm 1423 – 1427)
Tác phẩm tập hợp những thư từ, công văn mà Nguyễn Trãi thay mặt Lê Lợi soạn
thảo để giao tiếp với các tướng Minh, triều đình nhà Minh và các ngụy quan làm tay
sai cho giặc từ năm 1423 – 1427, đồng thời tập thư còn chứa đựng các lời kêu gọi,
động viên, khích lệ tinh thần chiến đấu của quân dân ta trong suốt thời gian kháng
chiến chống quân Minh (1418 –1427).
Nội dung chính của các lá thư là những lời đối đáp, biện luận giữa bên ta và bên
giặc nhằm mục đích dàn xếp cuộc chiến tranh lặp lại hòa bình cho hai nước (Thư tố
oan). Qua những lá thư gửi các tướng lĩnh Vương Thông, Sơn Thọ, Phương Chính ta
thấy Nguyễn Trãi đã vận dụng những bút pháp tu từ học trong Hán học và những
nguyên lí của Khổng giáo nhân, nghĩa, thành, tín, những khái niệm đạo đức được xem
là nhân sinh quan của người Trung Hoa để đối đáp với chúng. Nguyễn Trãi đã nhấn
mạnh quan hệ giữa người với người, giữa chính nghĩa và phi nghĩa đồng thời giảng
giải cho chúng biết thế nào là dũng, thế nào là trí. Đặc biệt Nguyễn Trãi đã không

ngừng khuyên răn hòa giải là hạnh phúc (Thư gửi thái giám Sơn Thọ, Lại thư trả lời
Phương Chính).
Với những bọn Việt gian tay sai Nguyễn Trãi kêu gọi họ hãy thức tỉnh với tình
yêu quê hương đất nước, yêu dân tộc. Ngoài ra, ông còn viết nhiều bài chiếu, dụ để
kêu gọi hào kiệt, nhân tài ra tay giúp nước (Chiếu khuyến dụ hào kiệt).
Quân trung từ mệnh tập có kết cấu hết sức chặt chẽ có khả năng thuyết phục rất
cao với những lập luận và phân tích đầy tính logic. Chính vì thế tác phẩm đã thuyết
phục được các tướng lĩnh nhà Minh ra hàng, cuộc kháng chiến kết thúc nhanh chóng

CBHD: Th.S Lê Thị Ngọc Bích

Trang 13

SVTH: Sơn Thị Thanh Tuyền


Luận văn tốt nghiệp

hạn chế rất nhiều tổn thất về người và của. Tác phẩm còn thể hiện lòng yêu nước nồng
nàn, ý chí quyết chiến, quyết thắng của dân tộc và tinh thần yêu hòa bình tha thiết.
Quân trung từ mệnh tập vừa là một vũ khí chiến đấu, vừa là một phương tiện trữ
tình. Nó thực hiện chức năng xã hội đồng thời góp phần bộc lộ tâm trạng của tác giả.
Đúng như lời nhận xét của Phan Huy Chú “có sức mạnh của 10 vạn quân”.
 Dư địa chí 輿 地 志 (quyển 6, năm 1435)
Với tài năng bác học uyên thâm của mình, Nguyễn Trãi viết Dư địa chí để tóm
tắt lại lịch sử các triều đại nước ta trước khi nhà Lê thành lập và những chính sách đối
nội, đối ngoại, những vấn đề về kinh tế, chính trị, xã hội của triều Lê cho nhà vua trẻ
tuổi Lê Thái Tông nắm vững.
Dư địa chí được ông viết theo thể văn của thiên Vũ Cống 禹 貢 trong Kinh Thư
vì thế tác phẩm còn có tên gọi là An Nam Vũ Cống 安 南 禹 貢.

Vũ Cống là một thiên sách cô đọng giống thể loại văn bia kể lại công lao trị thủy
của vua Vũ ở Trung Quốc từ thời vua Thuấn vào thế kỉ XI trước Công Nguyên. Người
đầu tiên thành công trong việc trị thủy nhằm ổn định đời sống người Hán trên lưu vực
sông Hoàng Hà, sự nghiệp mà lịch sử Trung Quốc mấy ngàn năm vẫn còn ca ngợi.
Nguyễn Trãi đã xem sự nghiệp dựng nước của Lê Thái Tổ đáng được ghi nhớ và ca
ngợi như công lao của vua Vũ.
Đến nay Dư địa chí được xem là bộ sách cổ nhất nước ta. Nó thể hiện niềm yêu
mến quê hương, niềm tự hào về khí thiên sông núi và sự giàu có của đất nước
Ức Trai thi tập 抑 齋 詩 集 (quyển 2) nói về phụ lục thơ, văn của Nguyễn Phi
Khanh.
Ức Trai thi tập 抑 齋 詩 集 (quyển 5) khảo về sự trạng của Nguyễn Trãi và các
lời bình.

1.1.2.2. Tác phẩm bằng Việt văn
 Quốc âm thi tập 國 音 詩 集
Đây được xem là tập thơ Nôm xưa nhất, dài nhất và tiêu biểu nhất cho bước khai
sáng thời đại thơ tiếng Việt và cho đại nghiệp văn chương Nguyễn Trãi, tác giả đầu
tiên dùng tiếng mẹ đẻ vừa nôm na, bình dị vừa văn vẻ để thổ lộ tâm huyết, chí hướng
của lòng mình.
Sách có 254 bài thơ Nôm được xếp theo bốn chủ đề: Vô đề, Thời lệnh môn, Hoa
mộc môn và Cầm thú môn.
CBHD: Th.S Lê Thị Ngọc Bích

Trang 14

SVTH: Sơn Thị Thanh Tuyền


Luận văn tốt nghiệp


Thơ Nôm Nguyễn Trãi chủ yếu bộc lộ tâm sự, nỗi niềm của ông khi về ở ẩn tại
Côn Sơn đó là:
Lòng yêu thiên nhiên tha thiết, Nguyễn Trãi quan niệm văn chương khởi phát từ
cuộc sống, từ thiên nhiên. Vì thế, thiên nhiên trong thơ ông là bức tranh tuyệt đẹp đậm
đà phong vị dân tộc, phong vị đồng quê với những ngôn ngữ miêu tả thiên nhiên độc
đáo và có giá trị nhất trong dòng thơ Nôm đầu tiên:
“Con lều be bé đẹp sao,
Trần thế chăng cho bén mỗ hào”
Thuật hứng – bài 7
Bức tranh thiên nhiên trong thơ Nôm Nguyễn Trãi cũng chính là bóng dáng đẹp
đẽ phản ánh một cốt cách, một con người góp phần làm sáng tỏ thân thế, sự nghiệp,
tâm hồn người anh hùng dân tộc, đại thi hào dân tộc.
“Hai chữ mơ màng việc quốc gia
Quân thân chưa báo lòng canh cánh
Tình phụ cơm trời áo cha”
Ngô chí – bài 7
Băn khoăn về nền đạo đức, luân lí. Có thể nói Nguyễn Trãi như một triết gia
sống cho lí tưởng, cho đạo đức. Điều này thể hiện ở tinh thần, trách nhiệm của ông đối
với vận mệnh của nước nhà biết hi sinh không bao giờ từ nan, trốn tránh.
“Bui một tấc lòng ưu ái cũ
Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông”
Thuật hứng – bài 5
Thơ thiên nhiên của Nguyễn Trãi đã kết tinh đầy đủ những khuynh hướng thẩm
mĩ của văn hóa cổ Việt Nam: nhãn quan tôn giáo của nhà Phật, tâm trạng thoát ly của
nhà Nho, truyền thống yêu nước anh hùng, cảm hứng nhân đạo chủ nghĩa của dân tộc.
Đó được xem như một niềm tiên ưu của ông trong suốt cuộc đời vì dân, vì nước.

 Gia huấn ca 傢 訓 歌
Đây là tập thơ Nôm đầu tiên của Nguyễn Trãi được tìm thấy và sưu tập lại ở thế
kỉ XV khi sách báo, quốc văn được phổ biến. Tập thơ được rút gọn lại từ tên: Lê triều

Nguyễn Trãi tướng công gia huấn ca (bài ca dạy bảo người nhà của Tướng công họ
Nguyễn triều Lê). Tập này gồm 6 bài ca: 1. Dạy vợ con, 2. Dạy con ở cho có đức, 3.
Dạy con gái, 4. Vợ khuyên chồng, 5. Dạy học trò ở cho có đạo, 6. Khuyên học trò phải
chăm học.
CBHD: Th.S Lê Thị Ngọc Bích

Trang 15

SVTH: Sơn Thị Thanh Tuyền


Luận văn tốt nghiệp

Các bài ca được viết ra với gần 800 câu lục bát và song thất lục bát. Ngụ ý của
tác giả là đem các đạo lí cốt yếu trong đời thường diễn ra lời Nôm cho đàn bà, trẻ con
đọc. Lời văn rất giản dị, êm ái và lưu loát.

 Bài thơ “Hỏi ả bán chiếu”:
Cùng với Gia huấn ca thì bài thơ Hỏi ả bán chiếu cũng được xem là một trong
những bài thơ Nôm đầu tiên của Nguyễn Trãi. Bài thơ gắn với giai thoại đối đáp tình
tứ giữa ông và Nguyễn Thị Lộ. Theo giai thoại tương truyền Nguyễn Trãi một hôm đi
chầu về giữa đường gặp một người con gái đẹp gánh chiếu bán. Ông bèn đọc bỡn bài
thơ này:
“Ả ở đâu nay bán chiếu gon?
Chẳng hay chiếu ấy hết hay còn?
Xuân thu nay độ bao nhiêu tuổi?
Đã có chồng chưa, được mấy con?
Người con gái họa lại:
“Tôi ở Tây Hồ bán chiếu gon
Nỗi chi ông hỏi hết hay còn

Xuân thu tuổi mới trăng tròn lẻ
Chồng còn chi có, có chi con!”
Ông thấy người ấy thông minh, hỏi tên gì, người ấy nói tên là Thị Lộ ông mới
lấy làm nàng hầu.
Ngoài các tập thơ, văn được tìm thấy và công bố thơ của Nguyễn Trãi còn có
trong các sách như: Đại Việt sử ký toàn thư 大 越 史 記 全 書, Nguyễn Phi Khanh thi
văn tập 阮 飛 卿 詩 文 集, Hoàng Việt tùng vịnh 皇 越 叢 詠, Hoàng Việt địa dư chí
皇 越 地 輿 志, Hoàng Việt thi tuyển 皇 越 詩 選, Hoàng Việt văn tuyển 皇 越 文 選,
Toàn Việt thi lục 全 越 詩 錄, Việt âm thi tập 越 音 詩 集...
Thơ Nôm Nguyễn Trãi không phải bài nào, câu nào cũng hay. Nhưng nhìn chung thì
thấy rất ít bài sa vào khuôn sáo. Hầu hết, thơ Nôm Nguyễn Trãi là những lời tâm sự chân
thành bộc lộ ra một cách thoải mái, hồn nhiên. Nếu lời thơ còn có chỗ khúc mắc, nhịp thơ còn
có phần chập chững thì đó là vì ngôn ngữ thơ và thể thơ còn đang trong quá trình rèn giũa. Và
chính Nguyễn Trãi đã góp phần vào quá trình rèn giũa ấy, ông được xem là người mở

đường cho cả một giai đoạn mới của thơ viết bằng tiếng Việt. Thơ văn Nguyễn Trãi

CBHD: Th.S Lê Thị Ngọc Bích

Trang 16

SVTH: Sơn Thị Thanh Tuyền


Luận văn tốt nghiệp

hội tụ đủ hai nguồn cảm hứng lớn của văn học dân tộc là lòng yêu nước và tinh thần
nhân văn sâu sắc.
Sự nghiệp văn chương của Nguyễn Trãi rất xứng đáng với cuộc đời tươi đẹp của
ông, đây được xem là một cống hiến to lớn cho sự phát triển của văn học nước ta. Thơ

văn của Nguyễn Trãi đúc kết những truyền thống tốt đẹp nhất của dân tộc, đặc biệt là
những truyền thống được khẳng định trong công cuộc phục hưng dân tộc từ thế kỉ X
đến thế kỉ XIV. Có thể nói, thơ văn của ông là tấm kính hội tụ những ánh hào quang
của quá khứ và là tấm gương phản chiếu những ánh hào quang rực rỡ nhất của thế kỉ
XV. Ta thấy Nguyễn Trãi đã phát huy những truyền thống tốt đẹp của quá khứ trong
hoàn cảnh đương thời, khi mà nhân dân ngày càng có vai trò quan trọng hơn đối với
lịch sử của đất nước. Đúng như Phạm Văn Đồng đã viết: “Nguyễn Trãi là khí phách
dân tộc, là tinh hoa của dân tộc. Sự nghiệp và tác phẩm của Nguyễn Trãi là một bài ca
yêu nước và tự hào dân tộc”. Với tư cách là nhà văn, nhà thơ, Nguyễn Trãi đã đem
văn học phục vụ cuộc sống và qua bản thân mình, ông đã chứng minh hùng hồn rằng
chỉ có bắt nguồn từ cuộc đấu tranh vì lợi ích của nhân dân thì lợi ích của văn nghệ mới
có thể phát huy mạnh mẽ và lớn lao. Thơ văn của Nguyễn Trãi mãi mãi là di sản quý
báu của dân tộc ta.

1.2. Tác phẩm Bình Ngô đại cáo 平 吳大 誥
1.2.1. Tìm hiểu về thể loại Cáo
Cáo 誥 là thể loại văn học xuất hiện từ thời xa xưa ở Trung Quốc thường được
các vua chúa hoặc thủ lĩnh dùng để trình bày một chủ trương, một sự nghiệp hay tuyên
ngôn một sự kiện để mọi người cùng biết. “Theo Từ Sư Tăng đời Minh trong Văn thể
minh biện người dưới báo cáo với người trên thì viết là cáo 告 (không có bộ ngôn 言
bên cạnh), còn người trên báo cho người dưới biết thì viết cáo có bộ ngôn bên cạnh

誥. Trong thể cáo 誥, có loại văn cáo 文 誥 thường ngày như chiếu sách của vua chúa
truyền xuống về một vấn đề nào đó, có loại văn đại cáo mang ý nghĩa một sự kiện
trọng đại có tính chất quốc gia” [7; 290]. Cáo 誥 được viết bằng văn xuôi, văn vần
nhưng phần nhiều viết bằng văn biền ngẫu, có vần hoặc không có vần, câu dài ngắn
khác nhau, mỗi cặp hai vế đối nhau. Lời lẽ trong cáo 誥 rất đanh thép lí luận sắc bén,
kết cấu chặt chẽ, mạch lạc.

CBHD: Th.S Lê Thị Ngọc Bích


Trang 17

SVTH: Sơn Thị Thanh Tuyền


Luận văn tốt nghiệp

Cáo 誥 du nhập vào nước ta khá sớm. Tuy nhiên cáo 誥 không được phát triển
thành thể loại lớn trong tiến trình văn học nhưng tính chất của thể văn này được thể
hiện trong văn chính luận có tính chất tuyên cáo.
Bình Ngô đại cáo 平 吳 大 誥 của Nguyễn Trãi – một tác phẩm có tính chất luận
chiến, một quy tắc không thành văn nhưng người cầm bút nào cũng phải tuân thủ ngay
trong nhan đề phải ghi rõ loại hình thể loại của chúng. Nguyên tắc này được xem là bất
di bất dịch đối với tất cả các tác phẩm mang tính chính luận và nghi lễ ở thế kỉ X –
XIV. Chẳng hạn, các tác phẩm như Thiên đô chiếu của Lí Công Uẩn người đọc biết là
thể chiếu 詔, Dụ chư tì tướng hịch văn của Trần Quốc Tuấn cho người đọc biết thể loại
là hịch văn 檄 文, Thất trảm sớ của Chu An cho biết được là thể sớ 疏,…Cho nên
nhan đề Bình Ngô đại cáo cũng không nằm ngoài quy luật ấy, hai chữ đại cáo 大 誥
thể hiện thể loại của tác phẩm.
Vậy đại cáo 大 誥 là thể loại gì và ý nghĩa của nó?
Theo Hán ngữ đại từ điển giải thích: Đại cáo là tên một thiên trong sách Thượng
Thư. Lời tựa thiên Đại cáo có đoạn: “Vũ Vương mất, Tam Giám cùng Hoài Di làm
phản. Chu Công giúp Thành Vương trừ bỏ nhà Ân, viết Đại cáo”. Khổng truyện rằng:
“Trình bày đại đạo 大 導 để cáo với thiên hạ (Trần đại đạo dĩ cáo thiên hạ) nên lấy
làm tên thiên, sau dùng để xưng những bài văn có tính chất điển cáo 典 誥. Như vậy,
ban đầu đại cáo do hai chữ mang ý nghĩa quan trọng nhất trong mệnh đề “Trần đại
đạo dĩ cáo thiên hạ” ghép lại dùng để gọi tên một thiên trong Kinh Thư, rồi thành một
từ cố định để chỉ một loại đặc biệt của thể cáo. Đây là ý nghĩa Đại cáo gắn với thời
Tây Chu của Trung Hoa cổ đại.

Vào đời Minh Đại cáo được xem là những văn kiện pháp luật ban bố năm Hồng
Vũ 洪 武 thứ 18.
Vậy Nguyễn Trãi dùng hai chữ “đại cáo” nhằm mục đích gì và ý nghĩa như thế
nào?
Thứ nhất, chiến thắng giặc Minh là một sự kiện quan trọng đánh dấu bước ngoặc
vĩ đại trong lịch sử dân tộc. Nó không chỉ đánh dấu sự thảm bại của bọn giặc hung tàn
và cường bạo mà còn khẳng định sự tất thắng của một dân tộc biết lấy đại nghĩa và chí
nhân làm nền tảng tư tưởng. Vì thế nhân dịp này Nguyễn Trãi muốn bày tỏ để nhân
loại thấy được cái đạo lí lớn nhất của dân tộc Việt Nam, một dân tộc biết lấy “đại
nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo” đúng như lời của Khổng Tử
CBHD: Th.S Lê Thị Ngọc Bích

Trang 18

SVTH: Sơn Thị Thanh Tuyền


Luận văn tốt nghiệp

“trần đại đạo dĩ cảo thiên hạ”. Đây vừa là một tư tưởng lớn của dân tộc Việt Nam vừa
là mục đích mà thiên đại cáo trong Kinh Thư – một trong năm bộ Ngũ Kinh của Trung
Hoa hằng giương cao. Có như thế ta mới hiểu thấu đáo được tư tưởng chủ đạo Bình
Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi. Khi đánh Vũ Canh, Chu Thành Vương truyền Đại cáo,
dẹp xong giặc Minh, Lê Lợi cũng tuyên Đại cáo. Tác giả muốn sánh Lê Lợi với Chu
Thành Vương, gia sư của Lê Lợi với Chu Công Đán và muốn bài Bình Ngô đại cáo
thời đại của ông ngang tầm với thiên Đại cáo đánh Vũ Canh thời Tây Chu của Trung
Hoa cổ đại.
Thứ hai, như đã biết vào đời nhà Minh đại cáo được xem là văn kiện pháp luật
vô cùng quan trọng dùng để trị nước. Viết Bình Ngô đại cáo Nguyễn Trãi muốn người
đọc thấy rằng đây chính là một văn kiện pháp luật có ý nghĩa trọng đại ngang với văn

kiện pháp luật mà Minh Thái Tổ ban bố suốt 3 năm: năm Hồng Vũ 18, Hồng Vũ 19,
Hồng Vũ 20. Nếu văn kiện pháp luật đại cáo của nhà Minh tượng trưng cho uy quyền
để bảo vệ nước nhà thì Nguyễn Trãi viết đại cáo dùng để bình Ngô. Hai chữ “đại cáo”
mang ý nghĩa thâm túy và sâu sắc, có nắm được như vậy mới có thể hiểu được tư
tưởng cốt lõi của áng thiên cổ hùng văn này.

1.2.2. Hoàn cảnh ra đời của Bình Ngô đại cáo
Tháng 12 năm 1427 Vương Thông xin hòa và rút quân về nước. Cuộc kháng
chiến mười năm chống quân Minh gian khổ của nghĩa quân Lam Sơn đã thắng lợi vẻ
vang.
Đầu năm 1428 Nguyễn Trãi thay mặt Lê Lợi viết Bình Ngô đại cáo để tuyên cáo
rộng rãi cho toàn dân biết công cuộc cứu nước do nhà vua lãnh đạo đã thắng lợi đồng
thời mở ra một kỉ nguyên hòa bình, độc lập lâu dài cho dân tộc.

1.2.3. Nhan đề Bình Ngô đại cáo
Bình Ngô đại cáo được xem là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của nước ta sau
Nam quốc sơn hà của Lí Thường Kiệt. Thế nhưng tại sao chống giặc Minh mà Nguyễn
Trãi lại viết Bình Ngô 平 吳 mà không viết là Bình Minh 平 明 .
Nhà Minh là nhà nước phong kiến hùng mạnh trị vì Trung Quốc 277 năm gồm
16 đời hoàng đế (1368 – 1644). Minh Thái Tổ là vị vua khai sáng nhà Minh, tên thật là
Chu Nguyên Chương 朱 元 璋. Năm 1363, Chu Nguyên Chương đánh tan đạo quân
Nguyên và xưng hiệu là Ngô Vương 吳 王. Năm 1368, Chu Nguyên Chương lên ngôi
hoàng đế đặt quốc hiệu là Minh. Đời vua Minh Thành Tổ 明 成 祖 (con trai của Minh

CBHD: Th.S Lê Thị Ngọc Bích

Trang 19

SVTH: Sơn Thị Thanh Tuyền



Luận văn tốt nghiệp

Thái Tổ) đem quân sang xâm lược nước ta. Đến đời Minh Tuyên Tổ (cháu cố của
Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương) thì thất bại rút quân về phương Bắc. Dù nhà
Minh tự xưng là “Minh” (chữ minh có nghĩa là sáng) nhưng vì đó là giặc xâm lược
nên dân ta lấy danh hiệu của cha đẻ – người sáng lập ra nhà Minh mà gọi chửi. Đó là
giặc Ngô chứ không gọi giặc Minh. Nhưng cách gọi như thế lại là điều không đúng.
Thứ nhất, trong sách sử Trung Quốc không bao giờ người ta gọi triều Minh là
triều Ngô, nước Minh là nước Ngô. Thứ hai, Nguyễn Trãi viết Bình Ngô đại cáo
(1428) vết tích sự kiện ông vua sáng lập nhà Minh xưng là Ngô vương đã lùi xa vào dĩ
vãng thì nhắc lại có ích gì. Nguyễn Trãi người đã hiến dâng Bình Ngô sách cho Lê
Lợi, người viết Bình Ngô đại cáo hơn ai hết Nguyễn Trãi sẽ hiểu về điều này.
Từ xa xưa, “Ngô” là tên gọi truyền thống của dân tộc ta đối với bọn người đã
đến nước ta đông nhất, đã hoạt động mạnh mẽ và để lại ấn tượng sâu đậm nhất là vào
thời Ngô (trong Tam Quốc). Từ đất Ngô (vùng Đông Nam Trung Quốc) thuận đường
biển chúng đến nước ta như những tên đi chinh phục, cai trị và ăn cướp. Nhân dân ta
quen gọi chúng là giặc Ngô, thằng Ngô,… và khi căm giận hơn thì chửi là chó Ngô.
Dần dần quân Ngô, giặc Ngô trở thành tên gọi khái quát và là hình tượng của văn học
dân gian. “Ngô” được dùng theo tư tưởng dân gian để bày tỏ sự khinh ghét, căm thù
bọn giặc xâm lược. Vì vậy Nguyễn Trãi viết Bình Ngô đại cáo là đã tiếp thu nền văn
hóa dân gian, vừa thể hiện tính gần gũi vừa tăng tính thuyết phục. Với nhan đề đó còn
thể hiện trọn vẹn được mục đích bài cáo là tuyên cáo cho toàn dân biết ta đã đánh đuổi
được giặc xâm lược, ta đã bình Ngô phục quốc.

1.2.4. Một số vấn đề về văn bản và chữ nghĩa trong Bình Ngô đại cáo
Bình Ngô đại cáo 平 吳 大 誥 không chỉ là văn kiện trọng đại của quốc gia mà
còn là kiệt tác văn chương được xem là mẫu mực nhất cho thể loại văn chính luận ở
nước ta thời trung đại. Vì thế tác phẩm được tôn vinh “Bản hùng ca lẫm liệt, bốc lên
truyền thống kiên cường bất khuất của dân tộc, bản tuyên ngôn độc lập sáng ngời, ánh

lên tinh thần nhân nghĩa chân chính của loài người” [22; 306]. Từ những ý trên tác
phẩm đã được đưa vào chương trình giảng dạy từ rất sớm: Quốc văn cụ thể của Bùi Kỉ
năm 1932, Việt Nam văn học sử yếu của Dương Quảng Hàm, Nha học chính Đông
Pháp xuất bản năm 1943, Văn học lớp 9 tập 1 NXBGD năm 2002, Văn học lớp 10 tập
1 NXBGD năm 2002. Tuy nhiên vấn đề nan giải là mỗi sách chọn một văn bản khác
nhau nên không có sự thống nhất về văn bản, về cách giải thích tác phẩm, chú giải về
từ ngữ, điển cố,…Như trong Tổng tập Văn học Việt Nam (tập 4) NXBKHXH. HN.
CBHD: Th.S Lê Thị Ngọc Bích

Trang 20

SVTH: Sơn Thị Thanh Tuyền


Luận văn tốt nghiệp

1995, các nhà biên soạn có đưa ra hai văn bản Bình Ngô đại cáo 平 吳 大 誥, một bản
dịch của Bùi văn Nguyên và một văn bản chữ Hán có câu “Đại thiên hành hóa, hoàng
thượng nhược viết” 代 天 行 化 皇 上 若 曰, trong khi đó bản dịch của Bùi Văn
Nguyên lại bắt đầu “Từng nghe, việc nhân nghĩa cốt ở yên dân” nghĩa là không phải
bắt đầu bằng câu “Thay trời hành hóa, hoàng thượng truyền rằng”, chỗ này khiến cho
bạn đọc lúng túng vì không biết bản dịch lấy từ đâu và tại sao không dịch đầy đủ như
phần nguyên tác?
Để tiến tới sự nhất quán đó, trong phần này chúng tôi đề cập đến hai vấn đề: thứ
nhất là việc lựa chọn văn bản Hán văn, thứ hai là một số vấn đề về chữ nghĩa mà đến
nay chưa có sự thống nhất trong các bản dịch.

1.2.4.1. Một số vấn đề về văn bản Hán văn
Xét về văn bản Hán văn Bình Ngô đại cáo 平 吳 大 誥 có mặt trong nhiều văn
bản chép tay cũng như khắc in. Tuy nhiên những bản chép tay do quá trình sao chép

phần nhiều bị sai lạc, ít đảm bảo độ chính xác. Vì vậy chúng ta chỉ nên chọn những
bản khắc in. Chúng hiện còn ba văn bản là Trùng san Lam Sơn thực lục, Đại Việt sử kí
toàn thư và Hoàng Việt văn tuyển.
Ta có thể chia hệ thống văn bản trên thành 2 loại: Loại có đầy đủ toàn văn bài
Bình Ngô đại cáo và loại không có đầy đủ toàn văn Bình Ngô đại cáo.
Loại không có đầy đủ toàn văn bài Bình Ngô đại cáo 平 吳 大 誥: Loại này chỉ
có một văn bản đó là bản trong sách Trùng san Lam Sơn thực lục. Bản trùng san này
đã bị mất tờ có phần đầu bài Bình Ngô đại cáo.
Loại có đầy đủ toàn văn bài Bình Ngô đại cáo 平 吳 大 誥: hiện còn hai văn bản
Đại Việt sử kí toàn thư và Hoàng Việt văn tuyển.
Hoàng Việt văn tuyển do Bùi Huy Bích (1744 – 1818) biên soạn, Hy Văn Đường
khắc in năm Minh Mệnh thứ 6 (1825) Tồn Am gia tàng bản. Đại Việt sử kí toàn thư
được khắc in năm Chính Hòa thứ 18 (1697) dưới sự chỉ đạo trực tiếp của nhà vua và
do các sử quan biên soạn. Bài Bình Ngô đại cáo nằm trong phần Bản kỷ thực lục mà
Lê Hồng Đức giao cho Ngô Sĩ Liên biên soạn. Ngô Sĩ Liên đã hoàn thành nó vào năm
1478. Như vậy, Bản kỷ thực lục ra đời trước Hoàng Việt văn tuyển trên dưới 300 năm
và được khắc in trước Hoàng Việt văn tuyển 128 năm. Hơn nữa Đại Việt sử kí toàn thư
là công trình nghiên cứu của nhóm sử quan còn Hoàng Việt văn tuyển là công trình
nghiên cứu của một cá nhân mang tính chất trước thuật. Những thông số trên cho phép

CBHD: Th.S Lê Thị Ngọc Bích

Trang 21

SVTH: Sơn Thị Thanh Tuyền


Luận văn tốt nghiệp

chúng ta nghĩ rằng văn bản bài Bình Ngô đại cáo trong Đại Việt sử kí toàn thư có độ

chính xác cao hơn trong Hoàng Việt văn tuyển. Vì thế khi lựa chọn văn bản Hán văn
để khảo cứu và giảng dạy nên chọn văn bản Bình Ngô đại cáo trong Bản kỷ thực lục
của Đại Việt sử kí toàn thư.

Có hay không câu “Đại Thiên Hành Hóa, hoàng thượng nhược viết” 代 天
行 化 皇 上 若 曰?
Theo công trình khảo dị của Mai Quốc Liên thì trong Trùng san Lam Sơn thực
lục mở đầu có câu “Đại Thiên Hành Hóa, hoàng thượng nhược viết” 代 天 行 化 皇
上 若 曰” và không có hai chữ “cái văn” 蓋 聞 . Trong “Đại Việt sử kí toàn thư” và
“Hoàng Việt văn tuyển” ở hai văn bản này đều không có câu trên và không có chữ
“văn”.
Chúng ta biết Bình Ngô đại cáo 平 吳 大 誥 do Nguyễn Trãi thay mặt Lê Lợi
viết sau khi kháng chiến chống quân Minh thắng lợi. Vì thế ngôn ngữ dùng trong Bình
Ngô đại cáo khi kể về mình Lê Lợi xưng là dư 予 để chỉ cá nhân, còn xưng ngã 我 để
chỉ phía ta, bên ta và khi kể về Lê lợi với tư cách là nhân vật được trần thuật, người
viết dùng thêm đại từ đế 帝. Còn hai chữ hoàng thượng dùng để các thần dân gọi nhà
vua. Nhà vua không bao giờ tự xưng mình là hoàng thượng mà tự xưng là trẫm, quả
nhân.
Với cách hiểu như vậy, chúng tôi cho rằng trong văn bản Bình Ngô đại cáo
không hề tồn tại câu “Đại Thiên Hành Hóa, hoàng thượng nhược viết” mà đây chỉ là
một thủ tục, một lời của người chuyên đọc chiếu, tấu, truyền đạt ý chỉ của nhà vua.
Vấn đề đặt ra là tại sao lại xuất hiện bốn chữ “Đại thiên Hành Hóa”?
Theo “Đại Việt sử kí toàn thư” bốn chữ này xuất hiện khi Lê Lợi chiến thắng
quân Minh ở hai phủ Tân Bình và Thuận Hóa năm 1425 và được các tướng suy tôn là
“Đại Thiên Hành Hóa”, (bốn chữ đều được viết hoa bởi đây là tôn hiệu chứ không
phải từ ngữ thông thường). Từ đó các mệnh lệnh, dụ văn thường lấy bốn chữ ấy để
xưng. Tôn hiệu này được dùng đến khi quân Minh hoàn toàn bại trận- Bình Ngô đại
cáo ra đời (cuối 1427 đầu 1428).
Câu “Đại Thiên Hành Hóa, hoàng thượng nhược viết” nên dịch là Hoàng
thượng (có tôn hiệu là) Đại thiên hành hóa truyền rằng.


CBHD: Th.S Lê Thị Ngọc Bích

Trang 22

SVTH: Sơn Thị Thanh Tuyền


Luận văn tốt nghiệp

Tóm lại câu “Đại Thiên Hành Hóa, hoàng thượng nhược viết” chỉ là cái công
thức dùng trong các giấy tờ nhà vua đời Lê Thái Tổ. Bình Ngô đại cáo là tác phẩm viết
theo thể văn quan phương nên tính công thức thể hiện rất chặt chẽ.

1.2.4.2. Một số vấn đề về chữ nghĩa
Ai cũng biết Bình Ngô đại cáo 平 吳 大 誥 là một bản hùng ca của dân tộc. Từ
lúc ra đời đến nay đã mấy trăm năm mà tác phẩm vẫn tồn tại. Đặc biệt tác phẩm được
đưa vào giảng dạy trong chương trình phổ thông. Đây là tác phẩm viết bằng chữ Hán
nên rất khó nắm bắt. Do vậy đã có rất nhiều bản dịch Việt văn ra đời để bạn đọc dễ
tiếp nhận. Các tác giả đã tham gia dịch tác phẩm Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Bùi Văn
Nguyên, Mai Quốc Liên. Tuy nhiên qua khảo sát bản dịch của các tác giả chúng tôi
thấy rằng bản dịch của Bùi Văn Nguyên là bản dịch phù hợp hơn cả, tác giả đã dùng
những từ ngữ hiện đại, đương thời làm cho bạn đọc dễ cảm nhận. Tuy nhiên bản dịch
vẫn còn một số chỗ chưa thật xứng đáng với tinh thần của nguyên tác. Câu thơ:
與漢唐宋元而各帝一方
Dữ Hán, Đường, Tống, Nguyên, nhi các đế nhất phương
“Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương”
Câu thơ dịch về ý thì tạm được nhưng tinh thần chưa nêu lên được sự tự chủ, tự
cường của một đất nước độc lập. Nên dịch là “mỗi bên xưng đế một phương” vì từ
“đế” rất quan trọng. Vua Trung Quốc cho mình là Thiên tử nên xưng là đế, vua các

nước chư hầu chỉ được xưng là vương. Nay mình nói mỗi bên xưng đế một phương
nghĩa là mình sắp ngang hàng, bình đẳng với Trung Quốc, nước ta là một nước độc lập
có chủ quyền không phụ thuộc gì nước nó nữa.
敗義傷仁乾坤幾乎欲息
Bại nghĩa thương nhân, càn khôn cơ hồ dục tức
“Bại nhân nghĩa nát cả đất trời”
“Càn khôn cơ hồ dục tức” dịch là “nát cả đất trời” bản dịch đã dịch thoát ý,
chưa nói được ý sâu xa của nguyên văn. Theo quan niệm từ xưa thì trời đất, vũ trụ vận
động theo quy luật tự nhiên, quy luật ấy cũng như nhân nghĩa đối với xã hội con
người, nay giặc Minh làm tiêu tan nhân nghĩa chúng là kẻ bất nhân phi nghĩa, những
kẻ man di mọi rợ đã đàn áp dân tộc làm bại hoại nhân nghĩa khiến đất trời cũng không
vận động được phải ngừng lại. “Cơ hồ dục tức” cơ hồ muốn dừng lại, không vận
hành, chứ không phải là nát.

CBHD: Th.S Lê Thị Ngọc Bích

Trang 23

SVTH: Sơn Thị Thanh Tuyền


Luận văn tốt nghiệp

揭竿為旗氓隸之徒四集
Yết can vi kì, manh lệ chi đồ tứ tập
Mà ta thường dịch là: “Dựng gậy làm cờ, dân chúng bốn phương tụ họp”
hoặc: “Giơ gậy làm cờ, bốn phương dân cày tụ họp”
hay: “Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phất phới”
Các từ “dân chúng, dân cày, nhân dân” đều chưa diễn đạt trọn vẹn ý nghĩa của
hai từ manh lệ 氓 隸, họ không phải là dân đen, con đỏ chung chung mà manh 氓 ở

đây là dân cày, lệ 隸 là người đi ở. Đó là những dân mọn xóm làng, những người lao
động nghèo khổ ở khắp bốn phương đất nước. Khi tìm hiểu tác phẩm nên bám sát
nguyên văn “giương gậy làm cờ, manh lệ bốn phương tụ họp”
飲 象 而 河 水 乾,
磨刀而山石鈌
Ẩm tượng nhi hà thủy can, Ma
đao nhi sơn thạch khuyết “Gươm
mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn”
Câu thơ dịch không rõ nghĩa làm cho ý văn yếu đi và ẩn đi phần chủ ngữ quan
trọng của câu thơ, chủ ngữ ở đây phải hiểu là người, là nghĩa quân ta. Mài gươm thì đá
núi khuyết, cho voi uống nước thì nước sông cạn. Ý nói là nhiều gươm, nhiều voi
nhằm ca ngợi sức mạnh của quân ta.
一鼓而黥刳鱷斷
再 鼓 而 鳥 散 麇 驚。
Nhất cổ nhi kình khoa ngạc đạn
Tái cổ nhi điểu tán khuân kinh
“Đánh một trận sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông”
Câu thơ dịch thoát ý của nguyên tác chưa thể hiện được sức mạnh của quân ta
giống như đang miêu tả hai trận đánh khác nhau mất đi ý chí trong một trận đánh.
Theo nguyên văn nên hiểu nhất cổ là một hồi trống. Tái cổ hồi trống thứ hai. Ngày
xưa, các tướng lĩnh dùng trống làm lệnh tiến quân, tấn công, dùng chiên làm lệnh lui
quân, ngừng tấn công. Một hồi trống là một đợt tấn công trong một trận đánh. Câu văn
miêu tả sự tấn công đột kích của quân ta. Đánh hồi trống thứ nhất thì cá voi, cá sấu bị
CBHD: Th.S Lê Thị Ngọc Bích

Trang 24

SVTH: Sơn Thị Thanh Tuyền



×