TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM.
THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP
LỜI MỞ ĐẦU
Gia nhập WTO đồng nghĩa với việc các doanh nghiệp Việt Nam phải tham gia vào
một sân chơi quốc tế với nhiều “luật chơi” mới khắc nghiệt mà nếu không thực hiện đúng
chúng ta sẽ bị loại khỏi cuộc chơi đó. Bên cạnh đó, việc người tiêu dùng trên toàn thế
giới ngày nay không chỉ quan tâm tới chất lượng sản phẩm dịch vụ mà càng ngày càng
quan tâm tới việc bảo vệ sức khỏe, môi trường và trách nhiệm với cộng động. Việc tiêu
dùng những sản phẩm sạch, thân thiện với môi trường đã hình thành và sẽ trở thành một
xu hướng tiêu dùng tất yếu trong tương lai. Do đó, các doanh nghiệp nếu muốn tồn tại và
phát triển sẽ không chỉ phải đặt mục tiêu lợi nhuận lên hàng đầu mà cồn phải quan tâm
tới khía cạnh trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp.
Ở Việt Nam, trong những năm gần đây dư luận cũng bắt đầu quan tâm chặt chẽ và
bức xúc đối với hàng loạt các vụ vi phạm đạo đức kinh doanh, xâm hại môi trường và sức
khỏe con người ở mức độ nghiêm trọng. Bài toán về trách nhiệm xã hội của các doanh
nghiệp ở Việt Nam lại được đặt ra như một câu hỏi khó cần phải được trả lời.
Vì vậy trong bàì tiểu luận môn Tâm lý đạo đức kinh doanh, nhóm Smile liên thông
K7 sẽ bàn về “ Trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp ở Việt Nam. Thực trạng và
một số giải pháp”. Bài tiểu luận có bố cục gồm 3 chương.
Chương 1: Lý thuyết chung về trách nhiệm xã hội
Chương 2: Trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp ở Việt Nam và ví dụ về công
ty Vedan Việt Nam
1
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp ở
Việt Nam hiện nay.
CHƯƠNG I. LÝ THUYẾT CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI
I.
Khái niệm trách nhiệm xã hội (CSR)
1. Khái niệm
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp(CSR).
Mỗi tổ chức, công ty, chính phủ nhìn nhận CSR duới những góc dộ và quan điểm riêng,
phụ thuộc vào điều kiện, đặc điểm và trình độ phát trển của mình. Một số quan điểm
chính về CSR:
Theo Ủy ban thương mại thế giới về phát triển bền vững thì “trách nhiệm xã
hội của “Doanh nghiệp” là sự cam kết liên tục của doanh nghiệp thông qua hoạt động
kinh doanh bằng cách cư xử có đạo đức và đóng góp và sự phát triển kinh tế trong khi
cải thiện chất lương cuộc sống của lực lượng lao động và gia đình họ cũng như cộng
đồng địa phương và toàn xã hội nói chung. Doanh nghiệp không chỉ đơn thuần là một tổ
chức thu lợi nhuận mà còn cần phải trở thành một phần của cộng đồng. Họ không chỉ
thúc đẩy lợi ích của các cổ đông mà còn hướng tới lợi ích của tất các những bên hữu
quan
Chính phủ Anh: “CSR là hành động do doanh nghiệp tự nguyện thực hiện ngoài việc
tuân thủ các quy định pháp lý tối thiểu, nhằm thỏa mãn nhu cầu cạnh tranh của doanh
nghiệp và lợi ích của toàn xã hội.
HSBC: “CSR là quản lý công việc kinh doanh của chúng ta một cách có trách nhiệm và
nhạy cảm, vì mục tiêu dài hạn. Chúng ta không bao giờ theo đuổi lợi nhuận, vì biết rằng
thành công ngày mai phụ thuộc vào uy tín chúng ta xây.
2
Có thể nói CSR là một khái niệm động luôn được thử thách trong từng bối cảnh
kinh tế, chính trị, xã hội đặc thù.
2. Sự hình thành và phát triển của CSR
2.1.Nguồn gốc của CSR
Thuật ngữ trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp mới chính thức xuất hiện cách đây
hơn 50 năm, khi H.R.Bowen công bố cuốn sách của mình với nhan đề “Trách nhiệm xã
hội của doanh nhân” (Social Responsibilities of the Businessmen) (1953) nhằm mục đích
tuyên truyền và kêu gọi người quản lý tài sản không làm tổn hại đến các quyền và lợi ích
của người khác, kêu gọi lòng từ thiện nhằm bồi hoàn những thiệt hại do các doanh nghiệp
làm tổn hại cho xã hội. Tuy nhiên, từ đó đến nay, thuật ngữ trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp đang được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Một số người xác định “trách nhiệm
xã hội hàm ý nâng hành vi của doanh nghiệp lên một mức phù hợp với các quy phạm, giá
trị và kỳ vọng xã hội đang phổ biến” (Prakash, Sethi, 1975: 58 – 64). Một số người khác
hiểu “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp bao gồm sự mong đợi của xã hội về kinh tế,
luật pháp, đạo đức và lòng từ thiện đối với các tổ chức tại một thời điểm nhất định”
(Archie. B Carroll, 1979).
2.2. Quá trình phát triển của CSR
2.2.1. Hai quan điểm đối lập nhau về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
Cuộc tranh luận về CSR Ðại diện nổi bật nhất cho chủ thuyết quản trị “dại diện” là
Milton Friedman .Theo quan điểm của Milton Friedman : “Doanh nghiệp chỉ có một
trách nhiệm duy nhất là tối đa hóa lợi nhuận, gia tăng giá trị cổ đông, trong khuôn khổ
luật chơi của thị truờng là cạnh tranh trung thực và công bằng.” Theo ông, nguời quản lý
doanh nghiệp (thành viên hội dồng quản trị và ban giám dốc) là những nguời đại diện cho
chủ sở hữu/ cổ đông đứng ra quản lý công ty. Họ đuợc bầu hoặc đuợc thuê để dẫn dắt
công ty theo cách mà các cổ đông muốn, đa phần là làm ra lợi nhuận càng nhiều càng tốt,
đồng thời tuân thủ các quy tắc xã hội cơ bản vốn đã đuợc thể hiện trong luật và các
3
nguyên tắc đạo đức phổ biến. Ðó chính là bản chất vì- lợi nhuận (for-profit) của doanh
nghiệp.Thứ hai, công ty vốn là một chủ thể “vô tri vô giác” do con nguời tạo ra; do đó
công ty không thể tự nhận thức và gánh vác nghĩa vụ đạo đức vốn chỉ có con nguời mới
có. Bởi vì chỉ có từng cá nhân con nguời mới có luơng tâm để nhận thức sự việc đúngsai.Hơn nữa, các trách nhiệm xã hội thuộc lĩnh vực của nhà nuớc, là chủ thể cung cấp các
dịch vụ công, vì lợi ích công cộng và phi lợi nhuận. Chỉ có nhà nuớc mới có đủ thông tin
để quyết định đúng đắn trong việc phân bổ các nguồn lực một cách hiệu quả. Và cấu trúc
tam quyền phân lập đã đảm bảo sự phân bổ đó duợc công bằng và có kiểm soát. Trách
nhiệm của doanh nghiệp là tạo ra giá trị gia tăng, phát triển công nghệ (bởi vì doanh
nghiệp là chủ thể vì lợi nhuận duy nhất trong xã hội), đem lại lợi nhuận, tạo ra việc làm
và thu nhập cho nguời lao động. Trách nhiệm chính của doanh nghiệp đối với nhà nuớc là
đóng góp thuế. Và trách nhiệm của nhà nuớc là làm sao sử dụng tiền thuế đó hiệu quả
nhất vì lợi ích công cộng. Như vậy, nếu doanh nghiệp cũng thực hiện các trách nhiệm xã
hội thì sẽ có sự trùng lặp và doanh nghiệp sẽ trở thành nguời vừa đóng thuế, vừa quyết
định việc chi tiêu khoản thuế đó ra sao. Nguời quản lý doanh nghiệp khi ấy sẽ trở thành
một nhân viên công vụ hơn là một nguời đại diện cho lợi ích của cổ đông.Từ quan điểm
này, truờng phái phản đối CSR cho rằng các chương trình của doanh nghiệp lấy tên
“trách nhiệm xã hội” chỉ là những chương trình PR đạo đức giả, mà thực chất mục tiêu
cuối cùng vẫn là vì lợi nhuận của doanh nghiệp mà thôi.
Những người ủng hộ CSR không bác bỏ toàn bộ những lập luận trên. Nhưng họ
đưa ra một lập luận khác cũng hết sức thuyết phục là bản thân công ty khi đi vào hoạt
động đã là một chủ thể của xã hội, sử dụng nguồn lực của xã hội và môi trường, do đó có
thể tác động tiêu cực tới xã hội và môi truờng. Vì vậy, doanh nghiệp phải có ý thức về
những tác động từ hoạt động sản xuất kinh doanh của mình và có trách nhiệm với chính
hành vi của mình truớc xã hội. Có thể nói bản chất của doanh nghiệp không thể chỉ vì lợi
nhuận mà doanh nghiệp ngay từ đầu đã đóng vai trò của một “công dân” trong xã hội với
tất cả nghĩa vụ và quyền lợi thích hợp của mình trong đó. Thực vậy, nếu chỉ nhìn nhận
4
đơn giản khi cho rằng doanh nghiệp hoạt động duy nhất vì lợi nhuận và bù đắp lại chi phí
xã hội, cũng như “trả tiền” cho các dịch vụ công mà doanh nghiệp huởng lợi thông qua
việc đóng thuế, chúng ta sẽ thấy những ô nhiễm môi truờng và chi phí xã hội mà doanh
nghiệp gây ra có thể lớn hơn rất nhiều lần lợi ích mà công ty này mang lại từ tiền thuế
hay tạo việc làm (như trường hợp công ty Vedan). Doanh nghiệp không thể kêu gọi sự
“trung tính” của mình. Tất cả sự kiện của doanh nghiệp như khai truơng dòng sản phẩm
mới, đặt một nhà máy, đóng cửa một chi nhánh…. đều kéo theo những hệ quả xã hội nhất
định. Do dó, không thể tách rời hoàn toàn giữa tính chất kinh tế và xã hội khi nhìn nhận
bản chất và hoạt động của doanh nghiệp.
2.2.2 Phong trào CSR ở các nuớc phát triển
CSR đã trở thành một phong trào thực thụ và trưởng thành, phát triển rộng khắp
thế giới. Nguời tiêu dùng tại các nuớc Âu-Mỹ hiện nay không chỉ quan tâm đến chất
luợng sản phẩm mà còn coi trọng cách thức các công ty làm ra sản phẩm đó, có thân
thiện với môi trường sinh thái, cộng đồng, nhân đạo, và lành mạnh. Nhiều phong trào bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng và môi trường phát triển rất mạnh, chẳng hạn như phong
trào tẩy chay thực phẩm gây béo phì nhằm vào các công ty sản xuất đồ ăn nhanh, nước
giải khát có ga; phong trào thương mại công bằng FairTrade (bảo đảm điều kiện lao động
và giá mua nguyên liệu của nguời sản xuất ở các nước thế giới thứ 3), phong trào tẩy
chay sản phẩm sử dụng lông thú, tẩy chay sản phẩm bóc lột lao động trẻ em (nhằm vào
công ty Nike, Gap), phong trào tiêu dùng theo lương tâm … Truớc áp lực từ xã hội, hầu
hết các công ty lớn đã chủ dộng đưa CSR vào chương trình hoạt động của mình một cách
nghiêm túc. Hàng nghìn chương trình đã đuợc thực hiện như tiết kiệm năng luợng, giảm
khí thải carbon, sử dụng vật liệu tái sinh, năng lượng mặt trời, cải thiện nguồn nuớc sinh
hoạt, xóa mù chữ, xây dựng trường học, cứu trợ, ủng hộ nạn nhân thiên tai, thành lập quỹ
và trung tâm nghiên cứu vắc-xin phòng chống Aids và các bệnh dịch khác ở các nước
nhiệt đới, đang phát triển. Có thể kể đến một số tên tuổi đi đầu trong các hoạt động này
5
như TNT, Google, Intel, Unilever, CocaCola, GE, Nokia, HSBC, Levi Strauss,
GlaxoSmithKline, Bayer, DuPont, Toyota, Sony, UTC, Samsung, Gap, BP,
ExxonMobil…
Theo tổ chức Giving USA Foundation, số tiền các doanh nghiệp đóng góp cho các hoạt
động xã hội trên tòan thế giới lên đến 13,77 tỷ USD (năm 2005) và gần 1.000 công ty
đuợc đánh giá là “công dân doanh nghiệp tốt”. Nổi bật là truờng hợp ngân hàng Grameen
do TS. Muhammad Yunus dã cung cấp tín dụng vi mô cho 6,6 triệu người, trong dó 97%
là phụ nữ nghèo ở Bangladesh vay tiền để cải thiện cuộc sống (ông đã được trao giải
Nobel hòa bình năm 2006). Hiện nay, hầu hết các công ty đa quốc gia dều xây dựng các
bộ quy tắc ứng xử (code of conduct) có tính chất chuẩn mực áp dụng đối với nhân viên
của mình trên tòan thế giới. Lợi ích đạt được qua những cam kết CSR đã đuợc ghi nhận.
Không những hình ảnh công ty được cải thiện trong mắt công chúng và nguời dân địa
phương giúp công ty tăng doanh số bán hàng hay thực hiện các thủ tục đầu tư được thuận
lợi hơn, mà ngay trong nội bộ công ty, sự hài lòng và gắn bó của nhân viên với công ty
cũng tăng lên cũng như các chương trình tiết kiệm năng luợng giúp giảm chi phí hoạt
động cho công ty không nhỏ.
Có thể nói CSR đã có chỗ đứng khá vững chắc trong nhận thức của giới doanh
nghiệp. Một số trung tâm, viện nghiên cứu về trách nhiệm doanh nghiệp đã được các
truờng đại học ở Mỹ thành lập.
II. Ý nghĩa của việc doanh nghiệp thực hiện trách nhiệm xã hội
1. Ý nghĩa đối với doanh nghiệp
Việc triển khai thực hiện trách nhiệm xã hội sẽ có tác dụng tích cực về nhiều mặt
đối với doanh nghiệp.Một là, trách nhiệm xã hội sẽ góp phần quảng bá và phát triển
thương hiệu cho doanh nghiệp.Hai là, việc thực hiện trách nhiệm xã hội trong doanh
6
nghiệp luôn gắn với việc đảm bảo chế độ lương bổng, đảm bảo an toàn lao động, tăng
cường sự tự do hiệp hội, …, qua đó có tác dụng kích thích tính sáng tạo của người lao
động, cải tiến liên tục trong quản lý và trong việc nâng cao năng suất, chất lượng lao
động, cải tiến mẫu mã hàng hoá, qua nâng cao hiệu quả công việc trong toàn doanh
nghiệp, tạo ra nhiều lợi nhuận cho doanh nghiệp.Ba là, tăng khả năng cạnh tranh trên thị
trường.Bốn là, việc thực hiện trách nhiệm xã hội sẽ giúp doanh nghiệp tồn tại và phát
triển trong sự cạnh tranh gay gắt hiện nay.
2. Ý nghĩa đối với người lao động
Trước hết, người lao động sẽ được làm việc trong một môi trường làm việc mà ở
đó, pháp luật lao động được tuân thủ nghiêm ngặt, những quy định của pháp luật của
nước sở tại đối với quyền và lợi ích của người lao động sẽ được thực thi nghiêm túc, qua
đó, tạo ra được động cơ làm việc tốt cho người lao động.Điều đáng quan tâm là, khi
doanh nghiệp cam kết thực hiện trách nhiệm xã hội, các vấn đề như lao động cưỡng bức,
sử dụng lao động trẻ em, quấy nhiễu và lạm dụng lao động, phân biệt đối xử sẽ bị hạn chế
và loại bỏ;Vấn đề thù lao lao động sẽ được thực hiện tốt, đảm bảo tái sản xuất sức lao
động cho người lao động;Vấn đề an toàn và sức khoẻ của người lao động được doanh
nghiệp chú trọng đầu tư, chế độ làm việc – nghỉ ngơi khoa học sẽ được thực hiện, qua đó
tạo ra môi trường làm việc an toàn, chế độ làm việc hợp lý cho người lao động…
3. Ý nghĩa đối với khách hàng
Thoả mãn những yêu cầu cơ bản mà họ đặt ra với doanh nghiệp: những sản phẩm
có chất lượng cao, có giá trị sử dụng tốt, đảm bảo độ an toàn cao khi sử dụng; được sống
trong một môi trường trong sạch, một xã hội mà các vấn đề xã hội được giải quyết ở mức
độ tốt nhất.
4. Ý nghĩa đối với cộng đồng và xã hội
7
• Bảo vệ môi trường.
• Giảm tệ nạn xã hội.
• Tăng cường các hoạt động từ thiện, góp phần giảm gánh nặng cho xã hội.
III. Nội dung của CSR
Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) hiện nay đã phổ biến nhưng vẫn còn
nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm, nội dung và phạm vi của CSR. Trong số đó,
mô hình “kim tự tháp” của A. Carroll (1999) có tính toàn diện và được sử dụng rộng rãi
nhất. Theo đó, CSR bao gồm trách nhiệm kinh tế, pháp lý, đạo đức và từ thiện.
CSR: mô hình kim tự tháp của A. Carroll
1.Trách nhiệm kinh tế
Nghĩa vụ kinh tế trong trách nhiệm xã hội của một tổ chức quan tâm đến cách thức
phân bổ trong hệ thống xã hội các nguồn lực được sử dụng để làm ra sản phẩm dịch vụ.
8
Đối với người lao động, trách nhiệm kinh tế của doanh nghiệp là tạo công ăn việc
làm với mức thù lao tương ứng, có cơ hội phát triển nghề và chuyên môn ngang nhau,
được hưởng môi trường lao động an toàn và vệ sinh, đảm bảo quyền riêng tư, cá nhân nơi
làm việc. Nó còn bao gồm cả việc tìm kiếm nguồn lực mới, thúc đẩy tiến bộ công nghệ,
phát triển sản phẩm.
Đối với người tiêu dùng, nghĩa vụ kinh tế của doanh nghiệp là cung cấp hàng hóa,
dịch vụ. Ngoài ra còn lien quan đến vấn đề về chất lượng, an toàn sản phẩm, định giá,
thong tin sản phẩm, phân phối, bán hàng, cạnh tranh.
Còn với mọi đối tượng liên quan, nghĩa vụ kinh tế của doanh nghiệp là mang lại
lợi ích tối đa và công bằng cho họ bằng cách cung cấp trực tiếp những lợi ích này như:
hàng hóa, việc làm, giá cả, lợi tức đầu tư…
Trong khi thực hiện những nghĩa vụ này, các doanh nghiệp đã góp phần tăng thêm
phúc lợi xã hội, đồng thời đảm bảo sự tồn tại và phát triển của bản than doanh nghiệp.
2. Trách nhiệm pháp lý
Nghĩa vụ về pháp lý trong trách nhiệm xã hội đòi hỏi các doanh nghiệp phải tuân
thủ đầy đủ các quy định của pháp luật như một yêu cầu tối thiểu trong hành vi xã hội của
tổ chức , tập thể hay cá nhân. Chúng liên quan đến năm khía cạnh: Điều tiết cạnh tranh,
bảo vệ người tiêu dùng, bảo vệ môi trường, an toàn và bình ddarngr, khuyến khích phát
hiện hành vi sai trái.
Điều tiết cạnh tranh: khuyến khích cạnh tranh và đảm bảo môi trường cạnh tranh lành
mạnh để điều tiết quyền lực độc quyền, kiểm soát độc quyền.
Bảo vệ người tiêu dùng: doanh nghiệp phải có trách nhiệm cung cấp các thông tin chính
xác về sản phẩm, tuân thủ các tiêu chuẩn về an toàn thực phẩm.
9
Bảo vệ môi trường: Việc kinh doanh sản xuất của doanh nghiệp phải đặc biệt quan tâm
đến những vấn đề ô nhiễm môi trường do: thải chất độc hại trong sản xuất vào không khí,
nước , đất đai và tiếng ồn.
An toàn và bình đẳng: Bảo vệ người lao động trước tình trạng phân biệt, đối xử.Ngăn
chặn việc sa thải người lao động một cách tùy tiện và bất hợp lý. Doanh nghiệp phải tạo
môi trường lao động an toàn và trả lương tương xứng với công sức của người lao động.
Khuyến khích phát hiện và ngăn chặn hành vi sai trái: thông qua việc khuyến khích
phát hiện sớm những hàh vi sai trái tiềm tang để có thể khắc phục, giảm thiểu hậu quả
3. Trách nhiệm đạo đức
Nghĩa vụ về đạo đức của tổ chức được thể hiện thông qua các nguyên tắc và giá trị đạo
đức được trình bày trong bản sứ mệnh và chiến lược của họ. Nó không được thể chế hóa
thành luật mà được thể hiện thông qua các tiêu chuẩn, các quan điểm, kỳ vọng của các
doanh nghiệp về đúng sai, công bằng, quyền lợi được bảo vệ của người tiêu dung, người
lao động, đối tác, chủ sở hữu, cộng đồng.
4. Trách nhiệm từ thiện
Nghĩa vụ từ thiện của doanh nghiệp liên quan đến đóng góp cho cộng đồng và xã
hội trên bốn phương diện: nâng cao chất lượng cuộc sống, san sẻ bớt gánh nặng cho
chính phủ, nâng cao năng lực lánh đạo cho nhân viên và phát triển nhân cách đạo đức cho
người lao động.
CHƯƠNG II. TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA CÁC DOANH NGHIỆP
Ở VIỆT NAM VÀ VÍ DỤ VỀ CÔNG TY VEDAN
I. Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp tại Việt Nam
10
1. Vấn đề trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp tại Việt Nam
Không phải đến bây giờ, tại Việt Nam, vấn đề trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
mới được đặt ra; mà trái lại, ngay trong thời bao cấp, người ta cũng đã nói nhiều về trách
nhiệm xã hội của các xí nghiệp đối với nhà nước và người lao động, cũng như đối với
cộng đồng nói chung. Nhưng, trong những năm gần đây, trách nhiệm xã hội được hiểu
một cách rộng rãi hơn, không chỉ từ phương diện đạo đức, mà cả từ phương diện pháp lý.
Những tác hại về môi trường do một số doanh nghiệp gây ra trong thời gian qua không
những bị dư luận lên án về phương diện đạo đức, mà quan trọng hơn là cần phải được xử
lý nghiêm khắc về phương diện pháp lý. Do đó, trong những năm gần đây, trên sách báo
và nhiều diễn đàn ở Việt Nam, thuật ngữ trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đã và
đang được sử dụng ngày càng phổ biến.
Ở Việt Nam, trong những năm gần đây, người ta thường sử dụng định nghĩa của
Nhóm phát triển kinh tế tư nhân của Ngân hàng thế giới về trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp. Theo đó, “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (Corporate Social Responsibility
– CSR) là sự cam kết của doanh nghiệp đóng góp vào việc phát triển kinh tế bền vững,
thông qua những hoạt động nhằm nâng cao chất lượng đời sống của người lao động và
các thành viên gia đình họ, cho cộng đồng và toàn xã hội, theo cách có lợi cho cả doanh
nghiệp cũng như phát triển chung của xã hội”.
Nói cách khác, doanh nghiệp muốn phát triển bền vững luôn phải tuân theo những
chuẩn mực về bảo vệ môi trường, bình đẳng về giới, an toàn lao động, quyền lợi lao
động, trả lương công bằng, đào tạo và phát triển nhân viên và phát triển cộng đồng. Trách
nhiệm xã hội của doanh nghiệp được thể hiện một cách cụ thể trên các yếu tố, các mặt,
như: 1. Bảo vệ môi trường; 2. Đóng góp cho cộng đồng xã hội; 3. Thực hiện tốt trách
nhiệm với nhà cung cấp; 4. Bảo đảm lợi ích và an toàn cho người tiêu dùng; 5. Quan hệ
tốt với người lao động; và 6. Đảm bảo lợi ích cho cổ đông và người lao động trong doanh
nghiệp. Trong đó, bốn yếu tố đầu tiên thể hiện trách nhiệm bên ngoài của doanh nghiệp,
11
còn hai yếu tố cuối thể hiện trách nhiệm bên trong, nội tại của doanh nghiệp. Tất nhiên,
sự phân chia thành trách nhiệm bên ngoài và trách nhiệm bên trong chỉ có ý nghĩa tương
đối và không thể nói trách nhiệm nào quan trọng hơn trách nhiệm nào.
Với những nội dung cụ thể như vậy về trách nhiệm xã hội thì việc thực hiện trách
nhiệm xã hội của doanh nghiệp không chỉ làm cho doanh nghiệp phát triển bền vững, mà
còn
góp
phần vào
sự
phát triển
bền
vững
của
xã
hội
nói
chung.
Như chúng ta đều biết, ở Việt Nam, phát triển bền vững đã trở thành mục tiêu chiến lược
và được đề ra từ những năm 80 của thế kỷ XX. Cùng với thời gian, khái niệm phát triển
bền vững đã có sự thay đổi về nội hàm và ngày càng được bổ sung thêm những nội dung
mới.
Xét về nguồn gốc, thuật ngữ phát triển bền vững ra đời từ những năm 70 của thế
kỷ XX và bắt đầu thu hút sự chú ý của các nhà nghiên cứu về môi trường và phát triển
quốc tế nhờ sự ra đời của công trình Chiến lược bảo tồn thế giới(1980). Sau đó, tư tưởng
về phát triển bền vững được trình bày trong một loạt công trình, như Tương lai chung
của chúng ta (1987), Chăm lo cho trái đất (1991)… Khi nói về sự phát triển bền vững,
người ta thường sử dụng hai định nghĩa đã được nêu ra trong các cuốn sách nói trên.
Trong cuốn Tương lai chung của chúng ta, phát triển bền vững được hiểu là sự phát triển
đáp ứng những nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của
các thế hệ tương lai; còn trong cuốn Chăm lo cho trái đất, phát triển bền vững được xác
định là việc nâng cao chất lượng đời sống con người khi đang tồn tại trong khuôn khổ
bảo đảm các hệ sinh thái. Nhìn chung, cả hai định nghĩa đó đều quy phát triển bền vững
về việc sử dụng một cách hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi truờng sao cho thế
hệ hôm nay vẫn phát triển được mà không làm ảnh hưởng đến tương lai của các thế hệ
sau.
Như vậy, nếu xét theo nguồn gốc của thuật ngữ, phát triển bền vững là một sự phát
triển bảo đảm tăng trưởng kinh tế trên cơ sở sử dụng một cách hợp lý tài nguyên thiên
12
nhiên và bảo vệ được môi trường tự nhiên nhằm vừa có thể thỏa mãn được nhu cầu của
thế hệ hôm nay, vừa không làm ảnh hưởng đến điều kiện thỏa mãn nhu cầu và môi
trường sống của các thế hệ mai sau. Thực chất của sự phát triển bền vững là giải quyết
mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường tự nhiên, bảo đảm sự công
bằng giữa các thế hệ trong việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường.
Tuy nhiên, ở Việt Nam, ngoài nội dung trên đây, khái niệm phát triển bền vững
còn được bổ sung thêm nhiều nội dung mới. Việt Nam đang chủ trương xây dựng chiến
lược phát triển bền vững phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của đất nước. Nội dung
cơ bản của chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam bao gồm:
Một là, phát triển nhanh phải đi đôi với tính bền vững. Điều đó phải được kết hợp ở cả
tầm vĩ mô lẫn vi mô, ở cả tầm ngắn hạn lẫn dài hạn.
Hai là, tăng trưởng về số lượng phải đi liền với nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức
cạnh tranh của nền kinh tế.
Ba là, trong khi khai thác các yếu tố phát triển theo chiều rộng, phải đặc biệt coi trọng
các
yếu
tố
phát
triển
theo
chiều
sâu,
phát
triển
kinh
tế
tri
thức.
Bốn là, phải gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, phát triển toàn diện con
người, thực hiện dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội, tạo nhiều việc làm, cải thiện đời
sống, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói giảm nghèo.
Năm là, phải coi trọng bảo vệ và cải thiện môi trường ngay trong từng bước phát triển.
Sáu là, phát triển kinh tế phải đi đôi với việc bảo đảm ổn định chính trị – xã hội, coi đây
là tiền đề, điều kiện để phát triển nhanh và bền vững.
Mặt khác, khi tiếp cận trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, chúng ta cần tiếp cận
cả trên phương diện đạo đứclẫn phương diện pháp lý. Chúng ta không nên chỉ hiểu trách
nhiệm của doanh nghiệp ở khía cạnh đạo đức của chủ doanh nghiệp, ở công tác từ thiện
của doanh nghiệp, mà cần hiểu cả ở khía cạnh pháp lý, tức thực thi trách nhiệm xã hội là
một yêu cầu bắt buộc đối với các doanh nghiệp. Việc kết hợp cả hai phương diện đạo đức
13
và pháp lý là cơ sở quan trọng để đề xuất các giải pháp nâng cao trách nhiệm xã hội của
doanh nghiệp.
2. Thực tiễn về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp tại Việt Nam
2.1 Những bước đầu thành công trong việc thực hiện CSR
Trên thực tế, ở Việt Nam, vấn đề trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp mặc dù là vấn
đề mới mẻ, nhưng bước đầu đã được một số bộ, ngành quan tâm, chú ý. Bằng chứng là,
từ năm 2005, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Bộ Lao động Thương binh
và Xã hội, Bộ Công thương cùng với các hiệp hội Da giày, Dệt may trao giải thưởng
“Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp hướng tới sự phát triển bền vững” nhằm tôn vinh
các doanh nghệp thực hiện tốt trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong bối cảnh hội
nhập. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp lớn ở Việt Nam đã nhận thấy rằng, trách nhiệm xã
hội của doanh nghiệp đã trở thành một trong những yêu cầu không thể thiếu được đối với
doanh nghiệp, bởi lẽ, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, nếu doanh nghiệp
không tuân thủ trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp sẽ không thể tiếp cận được với thị
trường thế giới. Nhiều doanh nghiệp khi thực hiện trách nhiệm xã hội đã mang lại những
hiệu quả thiết thực trong sản xuất kinh doanh. Kết quả khảo sát gần đây do Viện Khoa
học lao động và xã hội tiến hành trên 24 doanh nghiệp thuộc hai ngành Giầy da và Dệt
may cho thấy, nhờ thực hiện các chương trình trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp,
doanh thu của các doanh nghiệp này đã tăng 25%, năng suất lao động cũng tăng từ 34,2
triệu đồng lên 35,8 triệu đồng/1 lao động/năm; tỷ lệ hàng xuất khẩu tăng từ 94% lên 97%.
Bên cạnh hiệu quả kinh tế, các doanh nghiệp còn củng cố được uy tín với khách hàng, tạo
được sự gắn bó và hài lòng của người lao động đối với doanh nghiệp, thu hút được lực
lượng lao động có chuyên môn cao.
Do nhận thức được tầm quan trọng và ích lợi của việc thực hiện trách nhiệm xã
hội trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, một số doanh nghiệp lớn của Việt
Nam, ngoài trách nhiệm đóng thuế cho nhà nước, đã đăng ký thực hiện trách nhiệm xã
14
hội dưới dạng các cam kết đối với xã hội trong việc bảo vệ môi trường, với cộng đồng địa
phương nơi doanh nghiệp đóng và với người lao động.
2.2 Những tồn tại trong việc thực hiện CSR
Tuy nhiên, bên cạnh đó, phải thừa nhận rằng, trong thời gian qua ở Việt Nam, nhiều
doanh nghiệp đã không thực hiện một cách nghiêm túc trách nhiệm xã hội của mình.
Điều đó thể hiện ở các hành vi gian lận trong kinh doanh, báo cáo tài chính, không bảo
đảm an toàn lao động, sản xuất, kinh doanh hàng kém chất lượng, cố ý gây ô nhiễm môi
trường. Điển hình là các vụ xả nước thải không qua xử lý gây ô nhiễm môi trường
nghiêm trọng cho các dòng sông và cộng đồng dân cư của các Công ty Vedan, Công ty
thuộc da Hào Dương, Công ty Giấy Việt Trì, công ty Hyundai Vinashin (Khánh Hòa),
các vụ sản xuất thực phẩm chứa chất có hại cho sức khỏe con người, như nước tương có
chứa chất 3-MCPD gây ung thư, bánh phở chứa phormol, thực phẩm chứa hàn the, sữa có
chứa melamine. Ngoài ra, nhiều doanh nghiệp vi phạm các quy định pháp luật về lương
bổng, chế độ bảo hiểm, vấn đề an toàn lao động cho người lao động cũng không còn là
hiện tượng hiếm thấy, đã và đang gây bức xúc cho xã hội.
II: Bài học từ vụ xả chat thải ra môi trường của công ty VEDAN Việt Nam
1. Quá trình hình thành và phát triển
Công ty cổ phần hữu hạn Vedan Việt Nam (Vedan Việt Nam) được thành lập theo
giấy phép đầu tư số 171A/GP do Ủy ban nhà nước về hợp tác và đầu tư (nay là Bộ Kế
hoạch - Đầu tư) cấp ngày 1-8-1991, với 100% vốn của Tập đoàn các xí nghiệp liên hợp
Vedan Đài Loan, có trụ sở tại xã Phước Thái, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai, cách
thành phố Hồ Chí Minh 70km, tổng diện tích 120ha, gồm một khu công nghiệp tổng hợp
15
chế biến thực phẩm và công nghệ sinh học hiện đại với các công trình bao gồm: Nhà máy
tinh bột nước đường, Nhà máy bột ngọt, Nhà máy tinh bột biến đổi, Nhà máy Xút-axít,
Nhà máy Lysine, Nhà máy phát điện có trích hơi, Nhà máy PGA, Nhà máy phân bón hữu
cơ khoáng Vedagro dạng viên. Hiện nay, Công ty Vedan Việt Nam đã mở rộng đầu tư
phát triển với các cơ sở chi nhánh tại các tỉnh thành trong cả nước như: có 4 đơn vị chi
nhánh tại Hà Nội, Phước Long (Bình Phước), Bình Thuận, Hà Tĩnh, và 02 công ty con là
Công ty TNHH ORSAN Việt Nam tại TP. Hồ Chí Minh và Công ty TNHH VEYU tại
tỉnh Gia Lai.
Công ty Vedan được xây dựng cạnh bờ sông Thị Vải, một nơi thuận tiện cho việc
vận chuyển nguyên liệu và sản phẩm của công ty bằng đường thủy. Vì lợi nhuận và tiết
kiệm chi phí sản xuất - hoạt động kinh doanh, Vedan đã tận dụng triệt để địa thế nhiều
thuận lợi này để xả nước thải trực tiếp ra dòng sông gây bức xúc dư luận trong một thời
gian dài, gây ra không ít ảnh hưởng xấu đến kinh tế - xã hội và môi sinh gần sông Thị
Vải. Câu nói “Yêu quý môi trường - Kinh doanh lâu dài” của công ty có lẽ chỉ là
những lời lẽ Vedan đưa ra để tạo cái vỏ bọc bề ngoài che đậy cho những hành động bên
trong không thể chập nhận được.
2. Quan điểm của Vedan về bảo vệ môi trường
Nếu có dịp ghé thăm webside của Vedan Việt Nam, người đọc có thể dễ dàng tìm thấy
những phát biểu dõng dạc, những quan điểm rõ ràng của Vedan về bảo vệ môi trường
“Bảo vệ môi trường và phát triển bền vững là hai yếu tố không thể tách rời nhau đối với
quá trình phát triển của một nền kinh tế - xã hội tiên tiến hiện đại, vì vậy, trong quá trình
kinh doanh lâu dài, đòi hỏi doanh nghiệp phải có những cam kết và nỗ lực duy trì thực
hiện liên tục. Sự phấn đấu xây dựng thành một doanh nghiệp phát triển bền vững gắn liền
với bảo vệ môi trường trong thời gian tới là mục tiêu nỗ lực và lâu dài của Công ty cổ
phần hữu hạn Vedan Việt Nam. Để đạt được mục tiêu đó, công ty đã thiết lập chính sách
môi trường nhằm định hướng cho mọi nhân viên trong công ty phải luôn đề cao quan
16
niệm về yêu quý môi trường, tuân thủ các quy định của pháp luật, ngăn ngừa ô nhiễm
môi trường, yêu quý tài nguyên thiên nhiên. Thêm vào đó, ngay từ khi bắt đầu xây dựng
nhà máy, Vedan đã xác định mục tiêu “Cắm rễ tại Việt Nam - Kinh doanh lâu dài” làm
phương châm hoạt động. Thế nhưng, đằng sau những lời lẽ bóng bẩy, đầy tính nhân văn
như vậy lại là những hành đông trái ngược hoàn toàn khi Vedan đã lừa dối, phản bội
người tiêu dùng, quay lưng với xã hội trong suốt 14 năm trước khi bị phát hiện xả thải
trực tiếp chất thải ra sông Thị Vải. Hành động của Vedan đã gây ra nhiều ảnh hưởng xấu
đến môi trường sinh thái khu vực xung quanh sông Thị Vải và đời sống của người dân
nơi đây.
3. Diễn biến và sai phạm của vụ việc Vedan xả chất thải ra môi trường
3.1 Diễn biến sự kiện Vedan xả chất thải
Trước khi bị phát hiện vi phạm về xả chất thải chưa qua xử lý ra môi trường,
Vedan luôn tự hào đã xây dựng hệ thống xử lý nước thải bằng công nghệ tiên tiến, nhưng
để xây dựng hệ thông xử lý nước thải đủ khả năng xử lý lượng chất thải xả ra mỗi ngày
của mình, công ty Vedan sẽ phải đầu tư chi phí ban đầu khoảng 143 tỷ đồng và chi phí
vận hành hàng năm để các hệ thống xử lý này hoạt động theo quy chuẩn về nước thải cần
số tiền là 210 tỷ đồng. và để “tiềt kiệm” khoản tiền khổng lồ ấy, Vedan đã nghĩ ra
phương pháp “xử lý nước thải” nhanh chóng, tận dụng lợi thế gần sông Thị Vải để xả
trực tiếp chất thải ra dòng sông này. Công ty Vedan thiết kế, lắp đặt các hệ thống bồn
chứa, bể chứa dịch thải sau lên men bột ngọt và lysine được đặt lẫn trong khu bồn chứa
nguyên liệu mật rỉ đường, nguyên liệu và hoá chất sản xuất. Hệ thống đường ống chằng
chịt hầu hết chìm dưới đất, các van khoá chỉ mở được bằng cờ-lê và mỏ-lết rất khó phát
hiện. Đồng thời, Vedan xây dựng hệ thống máy bơm áp lực cao với các van được điều
khiển theo ý của người vận hành, được nguỵ trang rất tinh vi, làm cho người xem tưởng
là hệ thống máy bơm nước từ sông Thị Vải vào hoặc bơm dịch thải sau lên men lên khu
cô đặc để sản xuất phân bón. Nhờ hành vi gian trá ấy, Vedan đã qua mặt được các cơ
17
quan chức năng trong suốt 14 năm liền. Theo tính toán, Công ty Vedan đã "trốn" nộp phí
bảo vệ môi trường đối với nước thải công nghiệp khoảng 127 tỷ đồng.
3.2 Sai phạm của Vedan trong việc xả nước thải ra sông Thị Vải
Sau khoảng thời gian dài xả thải ra môi trường. những ảnh hưởng nghiêm trọng
của hành động này đã gây ra nhiều bức xúc của người dân địa phương. Do đó, sự việc
này được tố cáo lên các cơ quan có thẩm quyền, sau hơn 3 tháng theo dõi, ngày 13 tháng
9 năm 2008, đoàn kiểm tra liên ngành đã bắt quả tang Công ty Vedan đóng tại
huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai xả một lượng nước thải lớn chưa qua xử lý ra sông
Thị Vải. Theo ước tính, Vedan có thể xả nước thải tới 5.000 m3/ngày ra sông. Theo nhận
định ban đầu, việc lắp đặt hệ thống xả dịch thải của Công ty Vedan là vi phạm các quy
định của pháp luật về bảo vệ môi trường. Theo Đại tá Lương Minh Thảo, hành vi vi
phạm này là đặc biệt nghiêm trọng. Tại hiện trường, Phó Giám đốc phụ trách văn phòng
Công ty Vedan Việt Nam đã thừa nhận hành vi vi phạm của công ty.
Ngày 19 tháng 9 năm 2008, Bộ Tài nguyên và Môi trường công bố kết quả điều
tra 10 sai phạm của Vedan, bao gồm:
1. Xả nước thải vượt tiêu chuẩn cho phép từ 10 lần trở lên đối với nhà máy sản xuất tinh
bột biến tính của công ty.
2. Xả nước thải vượt tiêu chuẩn cho phép từ 10 lần trở lên đối với các nhà máy sản xuất
bột ngọt và lysin của công ty.
3. Xả nước thải vượt tiêu chuẩn cho phép từ 10 lần trở lên đối với các nhà máy khác của
công ty.Nộp không đầy đủ các số liệu điều tra, khảo sát, quan trắc và các tài liệu liên
quan khác cho cơ quan lưu trữ dữ liệu thông tin về môi trường theo quy định của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền.
4. Không đăng ký cam kết bảo vệ môi trường với cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ
môi trường đối với trại chăn nuôi heo.
18
5. Không lập báo cáo đánh giá tác động môi trường mà đã xây dựng và đưa công trình
vào hoạt động đối với dự án đầu tư nâng công suất phân xưởng sản xuất xút- axit từ
3.116 tấn/tháng lên 6.600 tấn/tháng.
6. Không lập báo cáo đánh giá tác động môi trường mà đã xây dựng và đưa công trình
vào hoạt động đối với dự án đầu tư nâng công suất các nhà máy bột ngọt từ 5.000
tấn/tháng lên 15.000 tấn/tháng, tinh bột biến tính từ 2.000 tấn/tháng lên 4.000 tấn/tháng,
lysin từ 1.200 tấn/tháng lên 1.400 tấn/ tháng, bột gia vị cao cấp 20 tấn/tháng, PGA 700
tấn/năm, phân Vedagro 70.000 tấn/năm (rắn), 280.000 tấn/năm (lỏng).
7. Thải mùi hôi thối, mùi khó chịu trực tiếp vào môi trường không qua thiết bị hạn chế
môi trường.
8. Quản lý chất thải nguy hại không đúng quy định về bảo vệ môi trường.
9. Công ty xả nước thải vào nguồn nước không đúng vị trí quy định trong giấy phép
4. Ảnh hưởng từ vụ xả chất thải đối với công ty Vedan Việt Nam
Tài chính
Công ty đã phải nộp phạt 267,5 triệu đồng do vi phạm hành chính về bảo vệ môi
trường (theo quyết định xử phạt của Chánh thanh tra Bộ Tài Nguyên Môi Trường ký
ngày 6 tháng 10 năm 2008) và buộc phải truy nộp phí bảo vệ môi trường hơn 127 tỉ đồng,
bồi thường cho nông dân 3 tỉnh Đồng Nai, Bà Rịa- Vũng Tàu và thành phố Hồ Chí Minh
tổng số tiền 219 tỷ đồng những thiệt hại kinh tế do ô nhiễm môi trường gây ra để tránh
phải ra tòa.
Sản xuất kinh doanh
Công ty bị tước quyền xả nước thải vào nguồn nước, đình chỉ hoạt động để khắc
phục ô nhiễm môi trường
Uy tín công ty
19
Sau khi sự việc được công bố, đồng loạt người tiêu dùng, các đại lý, các siêu thị đã
không mua sản phẩm của Vedan nữa. Vedan bị coi là kẻ đã giết chết sông Thị Vải và bị
người tiêu dùng ghét bỏ.
Môi trường có tầm quan trọng đặc biệt đối với đời sống, sản xuất và kinh doanh.
Do vậy, bảo vệ môi trường phải được xem là quyền lợi và nghĩa vụ của mọi người, không
chỉ nhà sản xuất, cơ quan chức năng mà mỗi cá nhân phải mạnh dạn lên tiếng cho các
hành động làm hủy hoại môi trường. Thông qua sự kiện này, chúng ta cũng thấy chữ
“Tâm” trong kinh doanh quan trọng đến thế nào, mỗi doanh nghiệp không thể vì lợi
nhuận trước mắt mà quên đi trách nhiệm bảo vệ môi trường, phát triển bền vững cho các
thế hệ sau.
CHƯƠNG III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI
CỦA DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
I.
Một số nguyên nhân ảnh hưởng đến việc thực hiện trách nhiệm xã hội của
doanh nghiệp ở Việt Nam.
Hiện nay khái niệm trách nhiệm xã hội đã được nói đến rất nhiều ở Việt Nam trên các
phương tiện thông tin truyền thông và hàng năm cũng có những chương trình lớn, giải
thưởng tôn vinh những doanh nghiệp thực hiện tốt trách nhiệm xã hội. Về phía doanh
nghiệp, đã có nhiều doanh nghiệp lớn quan tâm tới việc thực hiện trách nhiệm xã hội và
coi đó như là một nghĩa vụ của doanh nghiệp với người lao động, môi trường và cộng
đồng. Tuy nhiên, do đa số các doanh nghiệp ở nước ta hiện nay là doanh nghiệp vừa và
nhỏ, cách hiểu khái niệm trách nhiệm xã hội cũng chưa thực sự đúng đắn nên việc thực
hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp cũng chưa được quan tâm và thực hiện. Theo
nghiên cứu năm 2002 của Ngân hàng thế giới tại Việt Nam, những rào cản và thách thức
lớn nhất cho việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp bao gồm:
20
1. Nhận thức về trách nhiệm xã hội trong và giữa các doanh nghiệp Việt Nam còn có sự
khác nhau khá lớn.
2. Năng suất lao động bị ảnh hưởng khi phải thực hiện đồng bộ nhiều bộ quy tắc ứng xử
(CoC).
3. Thiếu nguồn tài chính và kỹ thuật để thực hiện các chuẩn mực trách nhiệm xã hội
doanh nghiệp (đặc biệt là đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ).
4. Sự khác biệt giữa Bộ luật lao động và bộ quy tắc ứng xử của khách đặt hàng gây nhầm
lẫn cho doanh nghiệp, chẳng hạn như vấn đề làm thêm hay hoạt động của công đoàn.
5. Sự thiếu minh bạch trong việc áp dụng trách nhiệm xã hội doanh nghiệp trên thực tế
đang cản trở lợi ích thị trường tiềm năng mang lại cho doanh nghiệp.
6. Mâu thuẫn trong các quy định của nhà nước khiến cho việc áp dụng bộ quy tắc ứng xử
không đem lại hiệu quả mong muốn, ví dụ như mức lương, phúc lợi và các điều kiện
tuyển dụng.
II.
Một số giải pháp nâng cao việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp ở Việt Nam.
Sau khi xem xét các nguyên nhân dẫn đến việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp ở Việt Nam còn hạn chế, nhóm Smile xin đưa ra một số biện pháp cụ thể như sau:
Một là: Nâng cao chất lượng các quy định pháp luật bằng cách áp dụng RIA trong quá
trình ban hành văn bản pháp luật. RIA là đánh giá tác động của văn bản luật, là công cụ
tiên tiến được các nước phát triển áp dụng trong quá trình thiết kế luật. Đánh giá RIA
giúp xác định giải pháp lập quy có phải là giải pháp cần thiết hợp lý. Nếu có RIA sẽ tìm
ra mức độ lập quy phù hợp nhất để đạt được mục tiêu với chi phí thấp nhất cho doanh
nghiệp. Một khi văn bản luật có tính chính xác cao, hiệu lực của các văn bản cũng sẽ
21
được cải thiện đáng kể. Bên cạnh đó, nhất thiết các cơ quan nhà nước cần phải tăng
cường trách nhiệm thực thi luật trong lĩnh vực của mình.
Hai là: cách thức xây dựng các hiệp hội cần được đổi mới. Cách tiếp cận “từ dưới lên”
cần thay thế cách tiếp cận cũ “từ trên xuống”. Việc tận dụng kinh nghiệm và kỹ năng của
các quan chức là cần thiết, nhưng lãnh đạo các hiệp hội nên là những người gắn bó với
thành viên từ cơ sở. Có như vậy họ mới đấu tranh một cách “ có lửa” cho quyền lợi của
thành viên hiệp hội.
Ba là: thực hiện các chương trình truyền thông, quảng cáo phi lợi nhuận. Điều này rất
phổ biến ở các nước phát triển và hiện nay được áp dụng cả ở các nước khu vực như
Singapore, Trung Quốc. Các đài truyền hình, truyền thanh ở nước ta vẫn thuộc sở hữu
nhà nước. Do dó, chính phủ có thể chỉ đạo các đài giành một tỉ trọng nhất định trong thời
lượng quảng cáo hàng ngày miễn phí cho các mục tiêu công cộng.
Bốn là: địa vị của người đóng thuế cần được nâng cao. Vinh dự đi đôi với trách nhiệm và
ngược lại cần có những bảng xếp hạng các doanh nghiệp nộp thuế thu nhập doanh nghiệp
cao nhất, các cá nhân nộp thuế thu nhập cá nhân nhiều nhất. Họ xứng đáng nhận được sự
vinh danh của xã hội
Năm là: nhà nước tập trung hoàn thiện luật và tính hiệu lực trong thực thi luật. Các trách
nhiệm ngoài luật ( đạo đức, từ thiện) cơ chế tự nguyện cần được khuyến khích vì đó là sự
tương tác giữa doanh nghiệp và xã hội, Nhà nước chỉ nên gián tiếp tác động thông qua
các cơ chế như NGOs, hiệp hội, mạng lưới cộng đồng, giáo dục nâng cao ý thức người
dân.
Sáu là: Thông qua nhiều hình thức truyền thông nâng cao nhận thức của doanh nghiệp về
trách nhiệm xã hội và giúp đỡ doanh nghiệp trở thành doanh nghiệp có trách nhiệm xã
hội. Đối với doanh nghiệp, khái niệm trách nhiệm xã hội phải được xây dựng từ nền tảng
22
sứ mệnh của doanh nghiệp và là một phần văn hóa doanh nghiệp. Chương trình CSR
thành công phải được dựa trên việc tạo dựng niềm tin và sự ủng hộ của khách hàng và
công chúng, tất cả cán bộ công nhân viên, các nhà cung cấp và phân phối, các nhà đầu tư
và ngân hàng, cuối cùng là các tổ chức chính quyền. CSR phải bắt nguồn từ người lãnh
đạo. nếu những nhà quản lý không tin tưởng vào tầm quan trọng của CSR, nếu họ không
chủ động tiên phong hay hỗ trợ các hoạt động CSR tại cơ sở, nếu họ không thể hiện tính
chính trực và trung thực trong công việc cũng như trong cuộc sống cá nhân thì CSR
không thể thành công. CSR cần được áp dụng trong mọi khía cạnh hoạt động của công ty
và tất cả các nhóm có quyền lợi liên quan.
Ở nước ta, mỗi khi có những vụ vi phạm đạo đức kinh doanh, ô nhiễm môi trường xảy ra,
người ta thường đổ tất cả tội lỗi cho doanh nghiệp. Tuy nhiên như đã được bàn đến,
doanh nghiệp nào cũng phải lấy lợi ích làm nền tảng, do đó họ luôn có khuynh hướng tối
thiểu hóa chi phí và tối đa hóa lợi nhuận. Trong bối cảnh khung khổ pháp luật không chặt
chẽ, thống nhất, hệ thống thực thi pháp luật bị buông lỏng, kém hiệu lực và người dân ở
trong tình trạng yếu thế, không có kiến thức và công cụ để bảo vệ lợi ích cộng đồng như
hiện nay, thì nhà nước thực chất vô tình rạo ra môi trường tốt để các công ty lợi dụng và
coi nhẹ trách nhiệm xã hội của mình. Muốn đảm bảo CSR nhà nước cần phải khuyến
khích và phát triển các cơ chế “xã hội dân sự” ở địa phương, để làm đối trọng với doanh
nghiệp. Đối trọng với doanh nghiệp không có nghĩa doanh nghiệp luôn xấu. Thực ra,
doanh nghiệp có tính trung lập trong khía cạnh họ luôn thích ứng với môi trường chính trị
pháp lý, xã hội. Tạo ra đối trọng ở đây không có nghĩa tạo ra cơ chế xã hội đủ sức mạnh
để giám sát CSR.
Tự cơ chế xã hội ở từng địa phương sẽ cho phép người dân có tiếng nói trọng lượng hơn
đối với doanh nghiệp trước những tác động tiêu cực doanh nghiệp có thể gây ra, để đảm
bảo quyền lợi chính đáng của cộng đồng được tôn trọng. Điều đó giúp giảm khối lượng
công việc và chi phí cho hệ thống các cơ quan quản lý hành chính của nhà nước từ trung
23
ương xuống địa phương trong việc giám sát và quản lý CSR. Khung khổ ba bên nhà
nước- xã hội- doanh nghiệp sẽ đảm bảo hoạt động CSR một cách tối ưu để doanh nghiệp
hoạt động trong một môi trường mà các lợi ích kinh tế của doanh nghiệp hòa nhập với lợi
ích xã hội của cộng đồng thành một chỉnh thể thống nhất.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.ThS.Nguyễn Thị Thu Trang. Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
2. http//www. Doanhnhan360.com/PortletBlank.aspx/44D1988963164E.
3.Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, 2006
4. />
24