Tiểu luận: Rủi ro thanh khoản của các NHTM Việt Nam
GVHD: TS. Bùi Diệu Anh
MỤC LỤC
MỤC LỤC ................................................................................................................. 1
LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 2
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ RỦI RO THANH KHOẢN ........................ 4
1.1.
Rủi ro trong kinh doanh ngân hàng .............................................................. 4
1.1.1.
Các khái niệm: ........................................................................................ 4
1.1.2.
Các loại rủi ro trong kinh doanh ngân hàng ........................................... 4
1.2. Rủi ro thanh khoản trong kinh doanh ngân hàng ............................................. 5
1.2.1. Bản chất của rủi ro thanh khoản ................................................................ 5
1.3.
Nguyên nhân gây ra rủi ro ............................................................................ 7
1.4.
Ảnh hưởng của rủi ro thanh khoản ............................................................. 10
CHƯƠNG 2. MỘT SỐ TRƯỜNG HỢP VỀ RỦI RO ... THANH KHOẢN TẠI
VIỆT NAM .............................................................................................................. 12
2.1. Ngân hàng Việt Nam giai đoạn 1986 – 1990 và sự đổ vỡ của các Hợp tác xã
tín dụng, quỹ tín dụng ........................................................................................... 12
2.2. Rủi ro thanh khoản của Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB) ........................... 14
2.2.1.
Diễn biến sự việc: ................................................................................. 14
2.2.2.
Một số nhận định:................................................................................. 15
2.3.
Rủi ro thanh khoản tại Ngân hàng Phương Nam chỉ nhánh Hà Nội: ......... 16
2.3.1.
Diễn biến sư viêc: ................................................................................. 16
2.3.2.
Một số nhận định:................................................................................. 16
2.4. Căng thẳng thanh khoản trên toàn hệ thống NHTMCP Việt Nam đầu năm
2008 17
2.4.1.
Một số sự kiện ...................................................................................... 17
2.4.2. Nguyên nhân: ........................................................................................... 19
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP HẠN CHẾ RỦI RO THANH KHOẢN .. 21
3.1.
Giải pháp về phía các ngân hàng thương mại: ............................................ 21
3.2.
Giải pháp về phía cơ quan quản lý nhà nước: ............................................. 23
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 25
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................... 26
Lớp bồi dưỡng kiến thức sau đại học tại Bình Thuận
Trang 1
Tiểu luận: Rủi ro thanh khoản của các NHTM Việt Nam
GVHD: TS. Bùi Diệu Anh
LỜI MỞ ĐẦU
Từ nhiều thế kỉ nay, ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng thương mại (NHTM)
luôn là định chế tài chính có tốc độ phát triển mạnh mẽ nhất trong nền kinh tế. Các
NHTM được ví như “chất dầu nhờn” để vận hành cỗ máy kinh tế của một quốc gia.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của ngân hàng thương mại là
đảm bảo khả năng thanh khoản đầy đủ. Một ngân hàng thương mại được xem là có
khả năng thanh khoản nếu nó tiếp cận dễ dàng các nguồn vốn khả dụng ở chi phí hợp
lý và đúng lúc càn thiết.
Những lợi ích mà hệ thống các NHTM đem đến cho nền kinh tế nói chung cũng
như mức lợi nhuận mà nó mang lại cho những người chủ sở hữu nói riêng là vô cùng
to lớn. Tuy nhiên, hoạt động ngân hàng đồng thời lại là một trong những hoạt động
kinh tế mang lại nhiều rủi ro nhất và một nhà quản trị ngân hàng tốt là người phải biết
làm thế nào để giảm đến mức tối thiểu những rủi ro ấy.
Trong số những rủi ro mà các ngân hàng phải đối mặt, rủi ro thanh khoản được
xem là đặc biệt nguy hiểm, có thể gây ra hàng loạt những tác hại nghiêm trọng cho
hoạt động ngân hàng mà tác hại lớn nhất là ngân hàng bị phá sản (bị quốc hữu hoá
hoặc sáp nhập). Chính vì vậy, quản trị rủi ro thanh khoản luôn là mối quan tâm hàng
đàu của các nhà quản lý ngân hàng không chỉ ở Việt Nam mà còn ở bất kì ngân hàng
nào trên thế giới. Mặc dù vậy, thực tế lịch sử đã chứng minh, không phải tất cả các
ngân hàng đều có chiến lược quản trị rủi ro thanh khoản họp lý. Đặc biệt ở Việt Nam,
phương pháp thực hiện việc quản lý thanh khoản còn bộc lộ nhiều yếu kém, bất cập và
chưa theo kịp với trình độ công nghệ, trình độ quản lý của hệ thống ngân hàng hiện đại
Ngày nay, quản trị thanh khoản trở nên quan trọng hơn so với trước đây rất
nhiều, bởi vì một ngân hàng có thể bị đóng cửa nếu không đáp ứng đủ nhu cầu thanh
khoản, mặc dù về kỹ thuật, nó vẫn còn khả năng trả nợ. Hơn nữa, năng lực quản trị
thanh khoản của một ngân hàng là thước đo quan trọng về tính hiệu quả tổng thể để đạt
đến các mục tiêu dài hạn của ngân hàng.
Hậu quả của rủi ro thanh khoản đối với mỗi ngân hàng nói riêng và cả hệ thống
ngân hàng thương mại nói chung là vô cùng nghiêm trọng. Rủi ro thanh khoản xảy ra
Lớp bồi dưỡng kiến thức sau đại học tại Bình Thuận
Trang 2
Tiểu luận: Rủi ro thanh khoản của các NHTM Việt Nam
GVHD: TS. Bùi Diệu Anh
nhẹ sẽ làm suy giảm mức sinh lợi của ngân hàng, còn nêú nặng có thể đưa ngân hàng
đến chỗ phá sản. Vi vậy mà quản trị thanh khoản luôn là hoạt động xuyên suốt trong
quá trình hoat động của mỗi ngân hàng.
Trước thực tế đó, Nhóm quyết định chọn đề tài “Rủi ro thanh khoản của các
NHTM Việt Nam”
Lớp bồi dưỡng kiến thức sau đại học tại Bình Thuận
Trang 3
Tiểu luận: Rủi ro thanh khoản của các NHTM Việt Nam
GVHD: TS. Bùi Diệu Anh
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ RỦI RO THANH KHOẢN
1.1.
Rủi ro trong kinh doanh ngân hàng
1.1.1. Các khái niệm:
a.
Khái niệm rủi ro:
Theo định nghĩa chung, rủi ro là “xác suất gặp nguy hiểm từ bất kỳ một sự cố
tiêu cực nào như bị thương, mất cắp… do tác động của các yếu tố gây nguy hiểm bên
trong hoặc bên ngoài gây nên và điều này có thể phòng ngừa hạn chế được bằng những
dự tính từ trước”. Muốn tồn tại và phát triển trong thế giới cạnh tranh, các nhà kinh
doanh cần tiên lượng được cái gì đang chờ đón để có những giải pháp ngăn ngừa được
rủi ro và chấp nhận rủi ro ở mức độ hợp lý chứ không né tránh nó.
b.
Rủi ro trong kinh doanh ngân hàng:
Dưới góc độ tài chính, rủi ro được hiểu là “xác suất lợi nhuận thực tế thu được
từ một khoản đầu tư thấp hơn so với mong đợi”.
Ngân hàng cũng là một doanh nghiệp nên cũng phải đối diện với rủi ro. Rủi ro
trong kinh doanh ngân hàng được hiểu là “những sự kiện xảy ra ngoài ý muốn và ảnh
hưởng xấu đến hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại”. Rủi ro có thể được
đo lường cho các loại sản phẩm dịch vụ khác nhau của ngân hàng. Thông thường mức
lợi nhuận mong đợi càng cao thì xác suất xảy ra rủi ro càng lớn.
1.1.2. Các loại rủi ro trong kinh doanh ngân hàng
a.
Rủi ro tín dụng:
“ Là rủi ro phát sinh khi ngân hàng không thu được đầy đủ gốc và lãi của khoản
vay , hoặc là việc khách hàng thanh toán nợ gốc và lãi không đúng kỳ hạn như đã ký
kết với ngân hàng trong hợp đồng”. Như vậy, rủi ro tín dụng là hậu quả của việc ngân
hàng cấp tín dụng cho khách hàng mà không nhận được thanh toán cả gốc lãi đầy đủ
và đúng kỳ hạn cho ngân hàng như đã cam kết của khách hàng. Do đó, tại thời điểm
cấp tín dụng và chấp nhận giấy nợ có nghĩa là ngân hàng đã thừa nhận khã năng xảy ra
rủi ro tín dụng nhưng vẫn kỳ vọng khả năng thanh toán đầy đủ và đúng hạn của khách
hàng với một xác suất cao, còn xác suất mất khả năng thanh toán của khách hàng là
thấp hơn nhiều.
Lớp bồi dưỡng kiến thức sau đại học tại Bình Thuận
Trang 4
Tiểu luận: Rủi ro thanh khoản của các NHTM Việt Nam
b.
GVHD: TS. Bùi Diệu Anh
Rủi ro lãi suất:
“ Là khả năng xảy ra tổn thất cho ngân hàng khi lãi suất thay đổi ngoài dự tính”.
Lãi suất là yếu tố rất nhạy cảm với sự biến động của nền kinh tế, hơn nữa nó là công
cụ trong việc thực hiện chính sách tài chính tiền tệ của Chính phủ, vì vậy lãi suất
thường xuyên biến động ở mức độ khác nhau có thể dẫn đến những tổn thất cho ngân
hàng. Giá trị thị trường của các tài sản, các thu nhập từ có thể thay đổi khi lãi suất biến
động. Tuy nhiên, ngân hàng có thể phòng ngừa rủi ro lãi suất bằng cách sử dụng các
chứng khoán phát sinh hoặc kỹ thuật quản lý Tài sản Nợ, Tài sản Có.
c.
Rủi ro hối đoái:
“ Là khả năng xảy ra tổn thất với ngân hàng khi tỷ giá hối đoái thay đổi vượt
quá dự định của ngân hàng”
d.
Rủi ro thanh khoản (RRTK):
“ Là rủi ro liên quan đến ngân hàng thiếu ngân quỹ hoạc tài sản ngắn hạn mang
tính khả thi để đáp ứng nhu cầu của người gửi tiền và người đi vay”. Thiếu ngân quỹ ở
đây có thể là thiếu dự trữ tại ngân hàng hoặc không thể huy động nguồn vốn từ bên
ngoài ngay lập tức.
e.
Rủi ro hoạt động ngoại bảng:
Xuất phát từ tính chất của hoạt động ngoại bảng là ngân hàng thu được phí,
trong khi không sử dụng vốn kinh doanh nên đã khuyến khích phát triển các hoạt động
ngoại bảng này. Tuy nhiên những hoạt động này cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro. Chẳng hạn
trong trường hợp công ty phát hành trái phiếu phá sản thì ngân hàng phải đứng ra
thanh toán toàn bộ gốc và lãi chứng khoán do công ty này phát hành. Điều này dẫn đến
bảo lãnh thư đã trở thành một bộ phận trong bảng cân đối tài sản nội bảng – nghĩa là
ngân hàng phải sử dụng đến vốn kinh doanh của mình để trang trải những gì đã cam
kết trong thư bảo lãnh.
1.2. Rủi ro thanh khoản trong kinh doanh ngân hàng
1.2.1. Bản chất của rủi ro thanh khoản
a. Khái niệm thanh khoản
Dưới góc độ tài sản: “Thanh khoản là khả năng chuyển hóa thành tiền của tài
sản và ngược lại. Một tài sản được xem là thanh khoản khi đáp ứng các tiêu chí sau:
Lớp bồi dưỡng kiến thức sau đại học tại Bình Thuận
Trang 5
Tiểu luận: Rủi ro thanh khoản của các NHTM Việt Nam
GVHD: TS. Bùi Diệu Anh
Có sẵn số lượng để mua hoặc bán, có sẵn thị trường để giao dịch, có sẵn thời gian để
giao dịch, giá cả hợp lý”
Trong thực tế những tài sản có tính thanh khoản cao gồm các giấy tờ có giá
như: Tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi, lệnh phiếu, hối phiếu… những tài sản có
tính thanh khoản thấp như bất động sản, dây chuyền sản xuất, máy móc thiết bị…
Dưới góc độ ngân hàng, “Thanh khoản là khả năng ngân hàng đáp ứng đầy đủ
và kịp thời các nghĩa vụ tài chính phát sinh trong quá hoạt động giao dịch như chi trả
tiền gửi, cho vay, thanh khoán và các hoạt động giao dịch tài chính khác”
b. Bản chất của rủi ro thanh khoản
Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, thanh khoản là một thuật ngữ chuyên
ngành nói về khả năng đáp ứng các nhu cầu về vốn khả dụng phục vụ cho hoạt động
kinh doanh tại mọi thời điểm như chi trả tiền gửi, giải ngân cho vay, thực hiện chuyển
khoản thanh toán… Nếu một ngân hàng thương mại mất khả năng đáp ứng các nhu
cầu này thì có thể nói ngân hàng thương mại đã rơi vào tình trạng khó khăn thanh toán.
Đến nay, khi nghiên cứu về thanh khoản, đã có nhiều quan điểm khác nhau về
rủi ro thanh khoản. Theo tác giả cuốn sách Commercial banking – the management of
risk, Benton E.Gup thì: “Rủi ro thanh khoản là rủi ro về tổn thất phát sinh từ trạng thái
thiếu hụt tiền mặt và tài sản tương đương tiền, hay đặc biệt hơn là rủi ro vể tổn thất
phát sinh từ trạng thái thiếu khả năng thu xếp được nguồn tài trợ với mức độ hợp lý về
chi phí, bán hay thu xếp một tài sản với mức giá hợp lý, nhằm trang trãi một nghĩa vụ
đã được dự định hoặc bất định”
Theo tác giả cuốn sách Hoạt động kinh doanh ngân hàng, Chủ biên Tiến sĩ Bùi
Diệu Anh thì: “Khi một ngân hàng thiếu tiền để đáp ứng cho các nhu cầu rút tiền của
khách hàng gửi/vay tiền, nhu cầu thanh toán các khoản nợ trên thị trường liên ngân
hàng thì được xem là ngân hàng đó đang gặp phải rủi ro thanh khoản”
Như vậy, có nhiều ý kiến khác nhau về rủi ro thanh khoản, nhưng tổng hợp lại
và nhìn từ góc độ ngân hàng thương mại, có thể hiểu: “Rủi ro thanh khoản là rủi ro
phát sinh từ trạng thái mà ngân hàng thương mại không có được đủ vốn khả dụng –
cung thanh khoản vào thời điểm mà ngân hàng thương mại cần để đáp ứng cầu thanh
Lớp bồi dưỡng kiến thức sau đại học tại Bình Thuận
Trang 6
Tiểu luận: Rủi ro thanh khoản của các NHTM Việt Nam
GVHD: TS. Bùi Diệu Anh
khoản, trạng thái này tác động xấu tới uy tín, thu nhập và khả năng thanh toán cuối
cùng của ngân hàng thương mại”
c. Mối quan hệ rủi ro thanh khoản và các loại rủi ro khác
Rủi ro thanh khoản và các loại rủi ro khác có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Rủi ro thanh khoản là hệ quả với nhiều rủi ro khác. Rủi ro thanh khoản cũng là rủi ro
tài chính do tính lỏng của tài sản không ổn định. Một tổ chức tài chính có thể mất khả
năng thanh khoản nếu chỉ số tín nhiệm tín dụng của tổ chức này giảm sút, tổ chức này
đối mặt với tình trạng lượng tiền ra ồ ạt không dự kiến được trước hay một sự kiện nào
đó khiến cho các đối tác không muốn giao dịch hoặc cho vay đối với tổ chức đó. Nếu
một đối tác vay tiền của ngân hàng có nguy cơ vỡ nợ thì ngân hàng sẽ phải huy động
tiền từ những nguồn khác để thanh toán khoản đi vay của ngân hàng, bù đắp vào chi
trả này. Nếu ngân hàng không có khả năng huy động tiền từ các nguồn khác để thanh
toán khoản nợ thì chính ngân hàng này cũng phải đối mặt với rủi ro vỡ nợ. Như vậy,
Rủi ro thanh khoản gắn liền với rủi ro tín dụng. Hay trong trường hợp lãi suất và tỷ giá
biến động bất lợi, ngân hàng thương mại khó khăn trong việc huy động vốn, lúc đó
Rủi ro thanh khoản hoàn toàn có thể xảy ra vì khả năng thanh toán của ngân hàng
thương mại bị hạn chế.
1.3.
Nguyên nhân gây ra rủi ro
a.
Nguyên nhân chủ quan:
- Cơ cấu khách hàng và chất lượng tín dụng kém:
Ngân hàng tập trung tín dụng vào một số khách hàng lớn hoặc tỷ trọng tín dụng
cho một ngành, một địa phương nào đó chiếm phần lớn trong tổng dư nợ hoặc trong
tổng huy động có một khách hành chiếm tỷ trọng lớn, đến khi họ rút một cách bất ngờ
thì dẫn đến rủi ro thanh khoản.
- Không cân xứng về kỳ hạn giữa Tài sản có và Tài sản nợ:
Khi tiến hành huy động vốn, không phải lúc nào Ngân hàng thương mại cũng
huy động được nguồn vốn có kỳ hạn dài. Thực tế cho thấy, các nguồn vốn huy động
được thường có kỳ hạn ngắn, nhưng phần lớn những khoản cho vay và đầu tư lại có kỳ
hạn dài hơn. Điều này làm mất cân xứng giữa ngày đáo hạn của các Tài sản có và Tài
sản nợ nên dòng tiền vào bên Tài sản có thường không trùng khít để trang trải dòng
Lớp bồi dưỡng kiến thức sau đại học tại Bình Thuận
Trang 7
Tiểu luận: Rủi ro thanh khoản của các NHTM Việt Nam
GVHD: TS. Bùi Diệu Anh
tiền ra bên Tài sản nợ. Vậy nên, Ngân hàng thương mại luôn phải đối mặt với tình
trạng thâm hụt hoặc thặng dư thanh khoản.
- Rủi ro mất cân đối trong cơ cấu tài sản:
Điều này xuất phát hầu hết từ áp lực lợi nhuận ngắn hạn của cổ đông lên ban
điều hành mà quên mất những nguyên tắc trong quản trị Tài sản có và Tài sản nợ.
Trong danh mục tài sản của mình, Ngân hàng thương mại có phần đầu tư vào cổ phiếu
và trái phiếu, trong đó quan trọng nhất là trái phiếu Chính phủ và/hoặc tín phiếu kho
bạc. Trái phiếu Chính phủ hoặc tín phiếu kho bạc mặc dù lãi suất hấp dẫn nhưng nó lại
là một nguồn cực kỳ quan trọng cho Ngân hàng thương mại để nhận chiết khấu từ
Ngân hàng nhà nước (NHNN) một khi thanh khoản có vấn đề. Bất cứ ngân hành
thương mại nào, đặc biệt là ngân hàng nhỏ, đều hiểu nhưng với tiềm lực tài chính yếu
thì khó có thể cạnh tranh với các ngân hàng lớn trong việc đấu thầu các loại tài sản
trên.
- Qui mô vốn điều lệ còn hạn chế
Vốn điều lệ là khoản vốn thuộc sở hữu của ngân hàng, ghi trong bản điều lệ của
ngân hàng, được hình thành khi ngân hàng thương mại mới thành lập. Nó phản ánh qui
mô hay thực lực tài chính của ngân hàng thương mại. Nếu vốn điều lệ của NHTM
càng cao, chứng tỏ ngân hàng có tiềm lực tài chính, ngược lại nếu vốn điều lệ của
NHTM càng ít thì qui mô hoạt động của ngân hàng càng nhỏ. Qui mô vốn điều lệ nhỏ
có thể là một trong những nguyên nhân đẩy NHTM đến tình trạng mất khả năng chi trả
và phá sản khi nhu cầu thanh khoản tăng đột ngột.
b. Nguyên nhân khách quan:
- Chính sách tiền tệ (CSTT) của NHNN:
Để thực hiện chức năng của một Ngân hàng trung ương (NHTW) về chính sách
tiền tệ, NHNN sử dụng 03 công cụ bao gồm: nghiệp vụ thị trường mở; qui định về dự
trữ bắt buộc và áp dụng lãi suất chiết khấu và tái chiết khấu các giấy tờ có giá của
NHTM.
Nghiệp vụ thị trường mở (OMO) là hoạt động của NHTM mua hoặc bán cho
NHTM trái phiếu chính phủ, trái phiếu KBNN, trái phiếu của chính NHNN. Khi muốn
tăng cung tiền, NHNN mua trái phiếu từ các NHTM, số tiền mà NHNN trả cho NHTM
Lớp bồi dưỡng kiến thức sau đại học tại Bình Thuận
Trang 8
Tiểu luận: Rủi ro thanh khoản của các NHTM Việt Nam
GVHD: TS. Bùi Diệu Anh
là tăng cung tiền cho nền kinh tế, đồng thời cũng làm tăng cung thanh khoản cho
NHTM. Ngược lại, khi muốn giảm cung tiền, NHNN bán trái phiếu cho các NHTM,
số tiền mà NHNN thu về làm cung ứng tiền tệ của nền kinh tế đồng thời cũng làm
giảm cung thanh khoản của NHTM.
Quy định về tỷ lệ dự trữ bắt buộc (DTBB) là biện pháp điều chỉnh mà NHNN
bắt buộc các NHTM phải duy trì một tỷ lệ dự trữ tiền gửi tối thiểu tại NHNN. Nếu tỷ
lệ dự trữ bắt buộc cao thì sẽ làm cho nguồn cung thanh khoản của NHTM tăng và
ngược lại.
Lãi suất chiết khấu và tái chiết khấu là lãi suất mà NHTM áp dụng khi NHNN
chiết khấu hoặc tái chiết khấu các giấy tờ có giá từ NHTM. Nếu lãi suất này thấp, tức
chi phí vay từ NHNN rẻ, đây là nguồn vốn giá rẻ mà các NHTM có thể dễ dàng huy
động để đáp ứng cầu thanh khoản.
- Biến động lãi suất:
Khi lãi suất trên thị trường tài chính thay đổi, khách hàng gửi tiền có xu hướng
rút tiền gửi của họ ở NHTM có lãi suất thấp và tìm kiếm NHTM khác có lãi suất huy
động cao hơn. Trong khi đó, những khách hành có nhu cầu tín dụng sẽ tìm cách trì
hoãn việc hoàn trả các khoản nợ đã đáo hạn hoặc rút hết số dư hạn mức tín dụng với
lãi suất đã thỏa thuận với NHTM có lãi suất thấp, tìm cách trả trước hạn hoặc trì hoãn
việc rút vốn vay với mức lãi suất đã thỏa thuận với NHTM có lãi suất cao. Như vậy,
biến động lãi suất đồng thời ảnh hưởng đến cả tiền gửi và tiền vay tức dòng tiền vào,
dòng tiền ra và sau đó là đến thanh khoản của NHTM.
- Tính chất đặt biệt của ngành kinh doanh tiền tệ đòi hỏi NHTM phải luôn sẳn
sàng đáp ứng cầu thanh khoản:
Đối với lĩnh vực kinh doanh khác (không phải kinh doanh tiền tệ) các doanh
nghiệp có thể trì hoãn nợ với khách hàng, chậm thanh toán với đối tác, thậm chí chủ
động chiếm dụng vốn của đối tác kinh doanh…Nhưng với NHTM kinh doanh trong
lĩnh vực tiền tệ hết sức nhạy cảm, NHTM không thể làm như vậy. Bất kỳ một sự trục
trặt nào về thanh khoản đều có thể gây tâm lý lo lắng trong công chúng và nếu NHTM
không giải quyết ngay khó khăn này, khách hàng gửi tiền có thể đồng loạt kéo đến
ngân hàng để rút tiền, trạng thái thanh khoản sẽ trở nên trầm trọng và NHTM có thể bị
Lớp bồi dưỡng kiến thức sau đại học tại Bình Thuận
Trang 9
Tiểu luận: Rủi ro thanh khoản của các NHTM Việt Nam
GVHD: TS. Bùi Diệu Anh
phá sản. Mặc khác, trên bảng cân đối kế toán của NHTM bên TSN luôn có một tỷ lệ
nhất định các loại tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn nhưng có thể rút trước hạn. Đây
là những TSN mà NHTM có nghĩa vụ phải trả ngay lập tức nếu khách hàng có nhu cầu
rút, vì thế NHTM luôn sẳn sàng đáp ứng nhu cầu thanh khoản.
- Chu kỳ kinh doanh:
Theo thời vụ ở những tháng cuối năm phát sinh nhu cầu nguồn tiền lớn để các
doanh nghiệp đẩy mạnh hoạt động kinh doanh, quyết toán công nợ cho những doanh
nghiệp khác, chi trả lương thưởng cho CBNV, thực hiện cam kết giải ngân cho các đối
tác giải quyết hàng tồn kho, nhập khẩu hàng hóa… tạo nên một chu kỳ căng thẳng
nguồn vốn vào những tháng cuối năm. Điều này làm cho dòng tiền quay trở lại ngân
hàng không cao mặc dù lãi suất có thể tiếp tục tăng nóng.
- Những sự cố khách quan khác làm gia tăng RRTK cho NHTM:
Điều này đã từng xảy ra đối với NHTM Á Châu năm 2003. Vào tháng 8 năm
2003, khi có tin đồn Tổng Giám đốc ACB bỏ trốn, khách hàng đã ồ ạc kéo đến các
điểm giao dịch của ACB để rút tiền. Mặc dù đây là tin đồn thất thiệt nhưng việc rút
tiền đồng loạt của khách hàng đã gây khó khăn trầm trọng cho ACB. NHNN đã phải
hổ trợ khẩn cấp nhiều trăm tỷ đồng để ACB có đủ nguồn chi trả cho khách hàng rút
tiền. Mất một thời gian đáng kể, sự cố mới được giải quyết.
RRTK là một rủi ro quan trọng bậc nhất đối với một tổ chức kinh tế, đặt biệt là
đối với các tổ chức tài chính. Trong thực tế, có rất nhiều trường hợp một tổ chức kinh
tế có tài sản rất nhiều, nợ rất ít nhưng hoàn toàn có thể phá sản do yếu tố RRTK này
khi “tính lỏng” của tài sản không bù đắp đổi khả năng thanh toán trong thời điểm đó.
Ở mức nhẹ hơn, rủi ro này có thể gây nên khó khăn hoặc đình trệ hoạt động kinh
doanh của tổ chức đó trong một thời điểm cụ thể.
1.4.
Ảnh hưởng của rủi ro thanh khoản
Rủi ro thanh khoản là rủi ro nguy hiểm nhất của ngân hàng, có liên quan đến sự
sống còn của ngân hàng. Một ngân hàng hoạt động bình thường phải đảm bảo được
khả năng thanh toán, tức là phải đáp ứng được các nhu cầu thanh toán trong hiện tại,
tương lai và các nhu cầu thanh toán đột xuất. Một khi rủi ro thanh khoản xuất hiện thì
Lớp bồi dưỡng kiến thức sau đại học tại Bình Thuận
Trang 10
Tiểu luận: Rủi ro thanh khoản của các NHTM Việt Nam
GVHD: TS. Bùi Diệu Anh
nó không chỉ ảnh hưởng đến bản thân Ngân hàng thương mại mà còn ảnh hưởng đến
cả một nền kinh tế - xã hội.
a. Đối với Ngân hàng thương mại:
Thứ nhất, nếu rủi ro thanh khoản xảy ra, tùy mức độ nghiêm trọng Ngân hàng
thương mại có thể phải chịu:
- Chuyển hóa các tài sản đã thanh toán thành tiền với chi phí cao.
- Tiếp cận với thị trường tiền tệ để tăng vốn với những điều kiện khắt khe hơn,
ví dụ: phải có tài sản thế chấp, chịu mức lãi suất cao, không được tuần hoàn nợ cũ, hạn
mức tín dụng bị xem xét lại thường xuyên hoặc bị từ chối cho vay.
- Đình trệ hoạt động dẫn đến giảm thu nhập.
- Mất uy tín dẫn đến mất khách hàng, đặt biệt là khách hàng truyền thống và cơ
quan quản lý.
Thứ hai, trong trường hợp đặt biệt rủi ro thanh khoản có thể đẩy ngân hàng tới
tình trạng mất khả năng thanh toán, là trạng thái bên bờ vực phá sản ngân hàng.
b. Đối với hệ thống tài chính quốc gia:
Khi một ngân hàng mất đi khả năng thanh khoản, ở mức độ trầm trọng đẩy
ngân hàng đến bờ vực phá sản thì nó có thể gây nên hiệu ứng lây lan, kéo theo sự phá
sản hàng loạt các Ngân hàng thương mại khác, đe dọa đến sự ổn định của toàn hệ
thống Ngân hàng thương mại gây nên sự hỗn loạn dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã
hội - chính trị của một quốc gia.
c. Đối với xã hội:
Khi một ngân hàng mất đi khả năng thanh toán thì sẽ gây nên tâm lý lo ngại đối
với không chỉ với chính bản thân ngân hàng mà còn đối với khách hàng của các ngân
hàng khác. Nếu niềm tin của công chúng bị lung lay thì có thể dẫn đến hàng loạt ngân
hàng mất khả năng thanh toán chỉ trong một thời gian ngắn và khiến cả hệ thống ngân
hàng rơi vào tình trạng hỗn loạn, sự hỗn loạn này có thể là nguyên nhân của sự phá sản
hàng loạt của toàn hệ thống ngân hàng.
Lớp bồi dưỡng kiến thức sau đại học tại Bình Thuận
Trang 11
Tiểu luận: Rủi ro thanh khoản của các NHTM Việt Nam
GVHD: TS. Bùi Diệu Anh
CHƯƠNG 2. MỘT SỐ TRƯỜNG HỢP VỀ RỦI RO
THANH KHOẢN TẠI VIỆT NAM
2.1.
Ngân hàng Việt Nam giai đoạn 1986 – 1990 và sự đổ vỡ của các Hợp
tác xã tín dụng, quỹ tín dụng
Đây là thời kỳ toàn hệ thống Ngân hàng bước đầu thực hiện cơ chế hai cấp. Tuy
vậy trong bối cảnh ấy: Cấu trúc của Ngân hàng Việt Nam vẫn là: “một hệ thống thống
nhất trong cả nước” được chia cắt một cách hành chính thành 2 cấp: Cấp quản lý nhà
nước do NHNN đảm nhiệm và cấp hạch toán kinh doanh do các ngân hàng chuyên
doanh đảm nhiệm dưới sự chỉ huy thống nhất của Tổng Giám đốc NHNN. Với cấu
trúc này, lần đầu tiên trong lịch sử, NHNN được tách ra thành một cấp và có hệ thống
riêng từ Trung ương đến tỉnh, thành phố để thực hiện hai chức năng quản lý Nhà nước
và NHTW gồm: Phát hành tiền; tổ chức thanh toán bù trừ; thực hiện các quan hệ về
tiền tệ, tín dụng với các Ngân hàng chuyên doanh và với Kho bạc Nhà nước thông qua
các nghiệp vụ nhận gửi, cho vay, tái cấp vốn và các hoạt động thanh tra, …; đảm nhận
các hoạt động đối ngoại về ngân hàng; thống nhất quản lý về tổ chức đào tạo, nghiên
cứu khoa học và cung cấp cán bộ Ngân hàng cho toàn ngành ...
Hậu quả của cơ chế “cấp phát” qua ngân hàng phát hành và ngân hàng phát
hành được đánh đồng như một cơ quan “thuộc Chính phủ” là tình trạng không thể
kiểm soát được lưu thông tiền tệ. Đồng tiền mất giá, niềm tin của công chúng về đồng
tiền bị giảm sút nghiêm trọng. Vào những năm 1986 – 1990, người có tiền khi thì
“gửi” niềm tin vào bất động sản, lúc thì “gửi” vào vàng, vào ngoại tệ hay đầu cơ vào
hàng hoá, hoặc tự tìm cách đầu tư và tìm mọi cách đế trở thành “khách hàng vay” lợi
hơn nhiều so với khách hàng gửi. Kết quả là tiền trong Ngân hàng luôn luôn ở tình
trạng khan hiếm, thiếu thanh khoản; tiền trong lưu thông thì liên tục gia tăng số lượng
và giảm giá trị sức mua. Ngân hàng một cấp do đó không thể tiếp tục kéo dài trong nền
sản xuất hàng hoá đã manh nha chuyển sang cơ chế thị trường từ những năm giữa thập
niên 80 của thế kỷ 20.
Dư nợ vốn lưu động của hệ thống Ngân hàng chuyên doanh của Nhà nước cấp
cho các đơn vị kinh tế quốc doanh tăng rất mạnh: Cuối năm 1987 con số này là 400 tỷ
Lớp bồi dưỡng kiến thức sau đại học tại Bình Thuận
Trang 12
Tiểu luận: Rủi ro thanh khoản của các NHTM Việt Nam
GVHD: TS. Bùi Diệu Anh
đồng tăng gấp 3,6 lần so với cuối năm 1986; năm 1988 là 1.718 tỷ đồng, gấp 4,3 lần so
với cuối năm 1987. Đây cũng là những năm mà tín dụng tung ra rất mạnh, nhưng tốc
độ tăng doanh số thu nợ rất thấp. Tình trạng nợ khó đòi được miêu tả bằng cụm từ “bi
đát nhất” trong lịch sử Ngân hàng tính đến thời điểm 1989. Các khoản nợ phải trả đến
hạn ngày càng tăng cao trong khi các khoản phải thu hầu như không thu hồi được đủ
và đúng hạn, làm cho các Ngân hàng, HTX tín dụng và QTD đứng trên bờ vực thẳm vì
mất khả năng thanh toán.
Trước tình thế đó, một liệu pháp “sốc” của NHNN Việt Nam được đề xuất đầu
năm 1989 bằng cách đột ngột tăng lãi suất huy động lên đến 10% và 12%/tháng
(144%/năm), đồng thời cho phép mở rộng nhập khẩu hàng hoá, kinh doanh vàng. Kết
quả là chỉ trong vòng 2 đến 3 tháng đầu năm 1989 số dư huy động tiết kiệm đã dâng
cao hơn doanh số tiết kiệm luỹ kế trong 10 năm trước đó; giá vàng và giá USD giảm
lần lượt 43% và 30% so với tháng 1/1989; lạm phát giảm rõ rệt. Tuy vậy, do kéo dài
quá lâu liệu pháp sốc này nên những người gửi tiền từ chỗ bị lỗ, trở thành người “kinh
doanh có lãi trên lưng ngân hàng” trong khi bản thân ngân hàng sau khi cho vay ra vẫn
không thu hồi được đủ và đúng hạn.
Kinh doanh của Ngân hàng trở thành vòng luẩn quẩn: Huy động tiết kiệm mới
để trả nợ khoản phải trả cũ với lãi suất bằng hoặc cao hơn! Ngân hàng trở nên thua lỗ
hơn bao giờ hết vào cuối 1990 và cả năm 1991. Lý do đơn giản là người vay không thể
tạo đủ lợi nhuận để trả lãi quá cao cho ngân hàng. Các doanh nghiệp ồ ạt “chết trước”
mà điển hình là các xí nghiệp tư nhân, kể cả nhiều Nhà máy, Xí nghiệp quốc doanh
cũng không khá hơn. Trong tình trạng đó, đương nhiên các ngân hàng, HTX tín dụng,
QTD lần lượt “chết theo”. Tổng thất thoát lên tới hơn 2.000 tỷ đồng, tương đương với
gần 0,5 tỷ USD = 4,2% GDP của Việt Nam năm 1989 và kéo dài việc xử lý cho đến
một số năm tiếp theo.
Trong bối cảnh hết sức phức tạp nói trên, Đảng cộng sản Việt Nam đã một mặt
kiên định lập trường, trung thành với chủ nghĩa Mac, tập trung vào 3 chương trình
kinh tế trọng điểm Nhà nước: Lương thực, thực phẩm; hàng tiêu dùng và hàng xuất
khẩu. Nhờ đó đã từng bước đem lại niềm tin trong các tầng lớp nhân dân thông qua
những thành tựu của đời sống vật chất và tinh thần của xã hội Việt Nam. Hàng loạt
Quyết định, Nghị quyết của Đảng và của Chính phủ Việt Nam đã ra đời hợp với cuộc
Lớp bồi dưỡng kiến thức sau đại học tại Bình Thuận
Trang 13
Tiểu luận: Rủi ro thanh khoản của các NHTM Việt Nam
GVHD: TS. Bùi Diệu Anh
sống theo hướng “tiến về phía các qui luật của kinh tế thị trường” và đã nhanh chóng
biến thành hiện thực trong việc cải thiện môi trường kinh tế, khuyến khích và kích
thích sản xuất, kinh doanh phát triển. Những khắc nghiệt của cuộc khủng hoảng toàn
diện tại Việt Nam đã dần được khắc phục vào những năm đầu thập kỷ 90 - Đặc biệt là
từ 1992 đến 1997 của thế kỷ 20.
2.2. Rủi ro thanh khoản của Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB)
2.2.1. Diễn biến sự việc:
Sự kiện này xảy ra vào tháng 10 năm 2003 và là sự kiện lớn trong hệ thống
ngân hàng Việt Nam khi làn đầu tiên hàng nghìn khách hàng đổ xô đến rút tiền tại
ngân hàng. Sự kiện này bắt nguồn từ tin đồn thất thiệt có chủ ý nhằm vào ACB. Tại
thời điểm đó, ACB vừa kỉ niệm 10 năm thành lập, đang hoạt động rất hiệu quả và
được bình chọn là “Ngân hàng thương mại cổ phần tốt nhất Việt Nam”.
Trong 2 ngày 12-13/10/2003, tại thành phố Hồ Chí Minh và một số chi nhánh
khu vực phía Nam bỗng rộ lên tin đồn ông Phạm Văn Thiệt, tổng giám đốc của ACB
đã bỏ trốn. Ngay lập tức tin đồn đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến lòng tin của các khách
hàng gửi tiền tại ACB. Rất nhiều khách hàng đã lũ lượt kéo đến trụ sở chính và các chi
nhánh của ACB tại TP Hồ Chí Minh để rút tiền. Riêng trong ngày 14/10/2003 đã có
khoảng 4000 khách hàng yêu cầu rút tiền. Tính đến 21h ngày 14/10, xấp xỉ 700 tỷ,
trong đó có 16 triệu USD tiền gửi đã bị rút ra.
Sáng ngày 14/10/2003, ACB đã tổ chức cuộc họp báo với sự xuất hiện của ông
Phạm Văn Thiệt. Ông Thiệt khẳng định tin đồn kia là hoàn toàn không có thật và ACB
sẵn sàng chi trả cho bất kì yêu càu rút tiền nào. NHNN cũng vào cuộc giúp ACB giải
quyết khó khăn. Ông Lê Đức Thúy, thống đốc NHNN đã xuất hiện tại trụ sở chính của
ACB khẳng định trước công chúng rằng ACB là ngân hàng hoạt động có hiệu quả,
thực sự đáng tin cậy và có khả năng tài chính lành mạnh. Chiều ngày 14, ông Thiệt
cũng xuất hiện tại trụ sở giao dịch chính của ACB trực tiếp trả lời khách hàng nhằm
bác bỏ tin đồn này.
Trong 2 ngày 15-16/10/2003, Thống đốc Lê Đức Thúy cũng quyết định cấp hạn
mức chiết khấu cho ngân hàng Á Châu 950 tỷ, thời hạn cho vay 60 ngày. Đây là động
thái của HNNN nhằm hỗ trợ vốn cho ACB. Lãnh đạo TP Hồ Chí Minh, đại diện là Phó
Lớp bồi dưỡng kiến thức sau đại học tại Bình Thuận
Trang 14
Tiểu luận: Rủi ro thanh khoản của các NHTM Việt Nam
GVHD: TS. Bùi Diệu Anh
chủ tịch thường trực UBND thành phố lúc bấy giờ là ông Nguyễn Thiện Nhân cũng tới
Hội sở ACB để trấn an dân chúng trong cuộc họp báo. Bên cạnh đó, công an kinh tế
TP Hồ Chí Minh cũng nhanh chóng vào cuộc tổ chức điều tra kẻ tung tin đồn thất
thiệt.
Trước sự đảm bảo năng lực tài chính của ACB, dòng vốn rút ra khỏi ACB đã
chững lại và có dấu hiệu chảy ngược trở lại. Tính đến 15h chiều ngày 16/10, các chi
nhánh của ACB gàn như không còn khách đến rút tiền. Thay vào đó số tới gửi tiền
tăng mạnh. Ngân hàng đã nối lại toàn bộ dịch vụ, nhận hồ sơ xin vay, giải ngân... sau 6
ngày tạm ngừng. Tổng giám đốc Phạm Văn Thiệt khẳng định ACB đã hoạt động trở
lại bình thường, trong giờ hành chính như trước đây. Đến cuối chiều đã có 1.273 khách
đến gửi tiền, trong đó rất nhiều trường hợp gửi lại số tiền hôm trước đã rút. Trong số
này có 316 khách mở tài khoản mới. Tổng giá trị tiền gửi riêng ngày 16 là 117 tỷ đồng,
gồm cả vàng và ngoại tệ. Mới nối lại hoạt động cho vay nhưng số tiền ngân hàng xuất
ra cho đối tác là 26 tỷ đồng.
2.2.2. Một số nhận định:
Theo thống kê của ACB, những người rút tiền trong gàn một tuần xảy ra sự cố
chủ yếu là tư nhân, bởi họ quá nôn nóng mà bị cuốn theo tin đồn thất thiệt. Còn giới
doanh nghiệp có khả năng phân tích thông tin tốt đã không vội vàng phản ứng. Những
người rút tiền sớm chính là những người thiệt thòi nhất do rút tiền trước hạn nên mất
lãi dự tính.
Vụ việc trên đã cho thấy tính dễ tổn thương của hệ thống ngân hàng Việt Nam.
Kẻ tung tin đồn đã lợi dụng tâm lí để đánh vào lòng tin của công chúng. Công tác PR
của ngân hàng còn kém, xử lí thông tin khá chậm. Ngoài ra, dịch vụ tín dụng của ngân
hàng chưa gần gũi người dân. Do đó người dân không nắm rõ thực trạng của ngân
hàng, dễ dàng bi mất lòng tin. Tuy nhiên, tổng số tiền mà ACB xuất ra để trả khách
hàng là 1.100 tỷ đồng, hoàn toàn nằm ừong khả năng chi trả và nhỏ hơn nhiều so với
vốn lưu động của ngân hàng cổ phàn có tên tuổi này. Bên cạnh đó, tỷ lệ của ACB
trong tổng hệ thống chỉ chiếm 1%, tỷ lệ này quá nhỏ. Do đó NH Nhà nước đủ sức hỗ
trợ ACB nếu có hiện tượng rút ồ ạt. Vì vậy sự cố trên không để lại hậu quả nghiêm
trọng cho ACB nói riêng và hệ thống ngân hàng Việt Nam nói chung.
Lớp bồi dưỡng kiến thức sau đại học tại Bình Thuận
Trang 15
Tiểu luận: Rủi ro thanh khoản của các NHTM Việt Nam
2.3.
GVHD: TS. Bùi Diệu Anh
Rủi ro thanh khoản tại Ngân hàng Phương Nam chỉ nhánh Hà Nội:
2.3.1. Diễn biến sư viêc:
Tháng 7/2005 tiếp tục xảy ra hiện tượng người dân kéo đến rút tiền tại chi
nhánh ngân hàng Phương Nam ở Hà Nội. Vụ việc này xuất phát từ 1 lá đơn kiện gửi
công an huyện Sóc Sơn làm rõ vụ lừa đảo. Công an Sóc Sơn đã mở rộng điều tra, phát
hiện ra ngoài hành vi lừa đảo còn có dấu hiệu làm giả giấy tờ, lập hồ sơ cho 47 giáo
viên trường tiểu học xã Xuân Giang (Sóc Sơn) để vay 705 triệu đồng của Ngân hàng
cổ phần Phương Nam theo hình thức vay ưu đãi tiêu dùng. Đây là hành vi lừa đảo vì
trên thực tế cả 47 giáo viên có tên trong danh sách kể trên đều không vay tiền. Tối
ngày 21/7/2005, đài huyền hình Việt Nam phát sóng bản tin trên chương trình thời sự.
Thực chất đây là hành động gian lận của cò tín dụng, lừa cả ngân hàng và người đi vay
do các khoản vay ưu đãi có lãi suất thấp hơn các khoản vay binh thường. Tuy nhiên
khách hàng gửi tiền của ngân hàng Phưomg Nam chưa hiểu rõ bản chất sự việc nên
ngay sáng hôm sau 22/7/2005, nhiều người đã lập tức kéo đến chi nhánh ngân hàng
Phưcmg Nam tại Hà Nội để rút tiền.
Tuy vậy, lượng càu thanh khoản tăng vọt không ảnh hưởng lớn đến ngân hàng
Phương Nam. Tình hình tài chính của NH Phương Nam vẫn ổn định do ngân hàng này
có quỹ dự phòng rủi ro là 30 tỷ đồng, với số vốn điều lệ 326 tỷ đồng. Chi nhánh
Phương Nam Hà Nội đã rút từ tài khoản của mình ở Ngân hàng Nhà nước chi nhánh
Hà Nội khoảng 200 tỷ đồng để chuẩn bị sẵn sàng chi ra cho dân nếu có nhu càu rút
tiền trước hạn ồ ạt. Đại diện Ngân hàng Nhà nước và Ngân hàng Nhà nước chi nhánh
Hà Nội đã trực tiếp xuống làm việc tại ngân hàng Phương Nam chi nhánh Hà Nội,
cùng lãnh đạo đơn vị giải thích để trấn an người gửi tiền. Thực tế đến cuối giờ giao
dịch sáng 22/7, lượng người đến rút tiền tại các chi nhánh của ngân hàng Phương Nam
đã giảm hẳn.
2.3.2. Một số nhận định:
Ở các nước trên thế giới, việc môi giới giữa ngân hàng và khách hàng là việc
hoàn toàn bình thường. Các đơn vị môi giới là những người làm ăn đàng hoàng, có thu
phí và hồ sơ cụ thể. Tuy nhiên, việc làm này đối với Việt Nam lại là vấn đề hết sức
phức tạp. Những người môi giới ở đây chính là các tay cò lừa đảo người tiêu dùng.
Lớp bồi dưỡng kiến thức sau đại học tại Bình Thuận
Trang 16
Tiểu luận: Rủi ro thanh khoản của các NHTM Việt Nam
GVHD: TS. Bùi Diệu Anh
Các bộ hồ sơ tín dụng qua tay "cò" thường rất "sạch" và cán bộ ngân hàng khó có thể
phân biệt thật giả. Như thế, ngân hàng sẽ khó loại trừ những tình huống tiêu cực. Như
thế, cả ngân hàng và người tiêu dùng sẽ bị cò lợi dụng, lừa gạt một cách có bài bản.
Phía ngân hàng cũng phải cẩn trọng xem xét hồ sơ trước khi cho vay, nhằm tránh
những hiện tượng đáng tiếc có thể xảy ra.
Cũng như sự việc xảy ra với NHTMCP Á Châu, khi xảy ra rủi ro thanh khoản,
người dân ồ ạ đến ngân hàng rút tiền, các NHTM đều nhận được hỗ trợ cả về uy túi lẫn
tài chính hoặc cam kết hỗ trợ từ phía NHNN.
Một mặt động thái này là hết sức càn thiết do NHNN đóng vai trò là người cho
vay cuối cùng của NHTM. Nền tài chính của Việt Nam còn non trẻ, sự sụp đổ của bất
kì ngân hàng nào cũng sẽ kéo theo những hậu quả khôn lường tới toàn hệ thống ngân
hàng cũng như nền kinh tế, như hiệu ứng Domino. Tuy nhiên, sự hỗ trợ của NHNN có
thể làm cho các NHTM có tâm lý ỷ lại, chỉ tập trung vào huy động và sử dụng vốn
nhằm thu về lợi nhuận cao. Trong khi đó công tác quản trị rủi ro thanh khoản rất cần
thiết lại bị bê trễ do tâm lý đã có NHNN đứng sau hậu thuẫn. Do vậy NHNN càn hỗ
trợ các NHTM nhưng cũng cần có các quy định chặt chẽ cũng như các quy định
nghiêm khắc hơn để các NHTM không còn tái diễn tinh trạng này.
Việc phá sản, sáp nhập và quốc hữu hóa của các ngân hàng trên thế giới là
những bài học thiết yếu cho các NHTM Việt Nam. NHNN Việt Nam nên quy định các
biện pháp như tỷ lệ lãi phạt cao và có những chủ trương cứng rắn hơn để các NHTM
chủ động hơn trong quản trị rủi ro thanh khoản.
2.4.
Căng thẳng thanh khoản trên toàn hệ thống NHTMCP Việt Nam
đầu năm 2008
2.4.1. Một số sự kiện
Đầu năm 2008, trước sức ép kiềm chế lạm phát, NHNN đã thực hiện chính sách
tiền tệ thắt chặt thông qua một số biện pháp mạnh như tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc, phát
hành trái phiếu bắt buộc, khống chế mức tăng trưởng tín dụng, ban hành các quy định
chặt chẽ về việc cho vay. Chính sách thắt chặt tiền tệ khiến các NHTM thiếu hụt thanh
khoản. Do vậy NHTM phải liên tục đi vay của các NHTM khác hoặc vay ngắn hạn của
NHNN trên thị trường liên ngân hàng, đẩy lãi suất thị trường liên ngân hàng tăng cao.
Lớp bồi dưỡng kiến thức sau đại học tại Bình Thuận
Trang 17
Tiểu luận: Rủi ro thanh khoản của các NHTM Việt Nam
GVHD: TS. Bùi Diệu Anh
Bên cạnh đó, NHTM có thể tăng lãi suất tiền gửi tiết kiệm để huy động vốn mới, gây
ra cuộc đua tăng lãi suất.
Tuy nhiên NHNN vẫn phải can thiệp khi hệ thống ngân hàng quá thiếu thanh
khoản bằng cách bơm vốn ngắn hạn vào hệ thống ngân hàng. Nhưng khi nào khoản
cho vay của NHNN đáo hạn thì hệ thống NHTM lại thiếu thanh khoản.
Ngày 16/1/2008, NHNN điều chỉnh dự trữ bắt buộc thêm 1%, tương đương với
tăng 10 nghìn tỷ đồng dự trữ bắt buộc. Nhiều NHTM không huy động kịp nên đã phải
đi vay nóng trên thị trường liên ngân hàng, đẩy lãi suất thị trường liên ngân hàng lên
cao.
Ngày 30/1/2008, NHNN điều chỉnh lãi suất cơ bản tăng từ 8.25% lên 8.75%.
Cộng với đúng vào dịp trước Tết Nguyên Đán, dân chúng rút tiền ra phục vụ cho nhu
cầu nhu mua sắm tăng cao, khiến cho các NHTM xuất ra rất nhiều tiền do lượng cầu
tăng mạnh.
Ngày 17/2/2008, NHNN phát hành 20300 tỷ đồng tín phiếu NHNN bắt buộc.
Cuối tháng 2/2008, lãi suất tiền gửi tại các ngân hàng tăng liên tục: Techcombank có
mức lãi suất cao nhất là 14.2%/năm. SeAbank 14.4%. Sau đó NHNN đã giới hạn mức
lãi suất trần là 12%/năm. Ngày 11/6/2008, NHNN nâng mức lãi suất cơ bản lên
14%/năm. Ngân hàng Kiên Long đã áp dụng lãi suất huy động vốn cao nhất 20%/năm.
Cuộc đua tăng lãi suất giữa các ngân hàng vẫn diển ra căng thẳng.
Trong 6 tháng đàu năm 2008, NHNN đã rút khỏi lưu thông gàn 45,000 tỷ đồng.
Tuy nhiên, cũng trong thời gian này, NHNN làm giảm căng thẳng thanh khoản bằng
cách cho vay ngắn hạn, nhiều lần bơm vào các NHTM khoản vay ngắn hạn tổng giá trị
khoảng 30,000 tỷ đồng. Động thái
Cuối tháng 8/2008 NHNN tăng lãi suất dự trữ bắt buộc từ 1.2% lên 3.6% và đến
tháng 10/2008, lãi suất dự trữ bắt buộc tăng lên đến 5%. Đây là tín hiệu cho các
NHTM đồn loạt giảm lãi suất cho vay. Điển hình là BIDV, trong 3 tháng đã điều chỉnh
giảm lãi suất 4 lần. Đây là xu hướng khá tốt làm dịu căng thẳng thanh khoản trong suốt
thời gian trên trong hệ thống NHTM.
Lớp bồi dưỡng kiến thức sau đại học tại Bình Thuận
Trang 18
Tiểu luận: Rủi ro thanh khoản của các NHTM Việt Nam
GVHD: TS. Bùi Diệu Anh
2.4.2. Nguyên nhân:
Căng thẳng thanh khoản trong đầu năm 2008 được lí gỉảỉ theo một số nguyên
nhân sau:
Thứ nhất, do tăng trưởng tín dụng quá nóng. Tốc độ tăng trưởng tín dụng của
các NHTM quá nóng so với tốc độ tăng trưởng kinh tế và tốc độ huy động. Sự tăng
trưởng tín dụng quá nóng của các NHTM đi kèm với cơ cấu đầu tư không hợp lý, tập
trung lán vào đầu tư bất động sản chạy theo lợi nhuận sẽ phát sinh rủi ro cao khi thị
trường đóng băng, tạo sự mất cân đối về kỳ hạn giữa Tài sản có và tài sản nợ do ngân
hàng đã sử dụng quá nhiều nguồn vốn ngắn hạn để cho vay dài hạn, chính điều này đã
tạo ra sự rủi ro thanh khoản cao đối với NHTM.
Thứ hai, công tác dự báo và phân tích thị trường của các NHTM Việt Nam còn
nhiều hạn chế. Các NHTM Việt Nam còn có tư tưởng ỷ lại quá nhiều vào cơ chế nhà
nước, trong khỉ các ngân hàng nước ngoài, ngoài việc chấp hành nghiêm túc các tỷ lệ
an toàn còn thường xuyên nghiên cửu, dự báo sát các diễn biến của thị trường nên đã
dự phòng vốn thanh khoản và điều chỉnh kịp thời, không bị động trước những tác động
thị trường.
Thứ ba, tính liên kết hệ thống giữa các NHTM để đảm bảo an toàn thanh toán
còn yếu, tạo sự cạnh tranh không lành mạnh, đẩy lãi suất lên cao tạo khe hở cho khách
hàng gửi tiền “làm giá, tăng lãi suất” hoặc rút tiền chuyển sang các NHTM khác dẫn
đến làm suy yếu khả năng chống đỡ thiếu hụt thanh khoản của hệ thống.
Lớp bồi dưỡng kiến thức sau đại học tại Bình Thuận
Trang 19
Tiểu luận: Rủi ro thanh khoản của các NHTM Việt Nam
GVHD: TS. Bùi Diệu Anh
Thứ tư, vấn đề quản trị thanh khoản tại các NHTM chưa tốt. Do sự yếu kém từ
quản trị tài sản Nợ, Có của các NHTM và sự thiếu hụt của các công cụ quản lý hữu
hiệu.. .NHNN cũng khó nắm bắt chắc chắn tình hình thanh khoản cũng như sự thay đổi
lớn trong tài sản của mỗi NHTM để điều chỉnh quy định của NHNN.
Thứ năm, xuất phát từ phía khách hàng - nhóm nguyên nhân mà các ngân hàng
khó có thể dùng công cụ thị trường để điều tiết có hiệu quả thanh khoản của các ngân
hàng. Trong điều kiện thông tin bất cân xứng, lại chưa minh bạch, một số khách hàng
(kể cả pháp nhân) đã rút tiền ra khỏi ngân hàng này và chuyển sang ngân hàng khác,
dân cư rút tiền để mua vàng, mua đô la Mỹ để tích trữ...đã làm tăng tính bất ổn của thị
trường, nội và ngoại tệ, gây khó khăn cho chính khách hàng đã và đang sử dụng dịch
vụ gửi và vay tiền tại ngân hàng
Ngoài những nguyên nhân trên còn có một số nguyên nhân như do các giao
dịch bằng ngoại tệ tại các NHTM Việt Nam chủ yếu tập trung vào một loại ngoại tệ là
USD, những tác động trực tiếp từ các loại rủi ro khác trong hoạt động ngân hàng cũng
gây ảnh hưởng không nhỏ tới rủi ro thanh khoản, hiện tượng một số tập đoàn, Tổng
công ty Nhà nước chuyển tiền hoặc rút tiền với khối lượng lớn, yếu kém trong công
tác kế hoạch hóa và quản trị điều hành...
Lớp bồi dưỡng kiến thức sau đại học tại Bình Thuận
Trang 20
Tiểu luận: Rủi ro thanh khoản của các NHTM Việt Nam
GVHD: TS. Bùi Diệu Anh
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP HẠN CHẾ RỦI RO THANH KHOẢN
3.1.
Giải pháp về phía các ngân hàng thương mại:
Với thực trạng thị trường như hiện nay, vấn đề nâng cao chất lượng quản lý rủi
ro thanh khoản nhằm giảm thiểu rủi ro vỡ nợ là mối quan tâm hàng đầu, là bài toán
khó đặt ra không chỉ với một ngân hàng riêng lẻ mà đối với toàn hệ thống từ Ngân
hàng Nhà nước cho tới các ngân hàng thương mại.
Quản lý rủi ro thanh khoản không đơn thuần chỉ là vấn đề của các dòng tiền,
vấn đề cơ cấu của tài sản Nợ - Có trên bảng cân đối tài sản mà nó chính là hoạt động
quản trị của một ngân hàng thương mại. Vì thế, các ngân hàng thương mại cần hiểu rõ
tầm quan trọng của quản lý rủi ro thanh khoản, chủ động xây dựng chính sách khung
về quản lý rủi ro thanh khoản, thiết lập các quy trình cụ thể nhằm xác định, đo lường,
kiểm soát các rủi ro về thanh khoản có thể xảy ra. Các ngân hàng càn có được khả
năng dự báo với độ chính xác cao các luồng tiền vào, luồng tiền ra, đặc biệt là các
luồng tiền liên quan tới các cam kết ngoại bảng và các nghĩa vụ tài sản nợ để chủ động
đưa ra kế hoạch hoạt động trong các tình huống bất ngờ.
Các ngân hàng cũng càn hiểu rõ mối quan hệ hữu quan giữa các loại rủi ro như
rủi ro tín dụng, rủi ro tỷ giá.... với rủi ro thanh khoản để có được định hướng đúng đắn
trong việc hoạch định chính sách kinh doanh của ngân hàng. Dưới đây là một số đề
xuất:
Thực hiện việc cơ cấu lại tài sản nợ và tài sản có cho phù hợp. Đây là công
việc hết sức quan trọng để quản lý rủi ro thanh khoản của các NHTM. Các ngân hàng
cần xem lại cơ cấu danh mục tài sản nợ, tài sản có cho phù hợp, nhằm hạn chế thấp
nhất rủi ro có thể xảy ra, đó là cơ cấu lại nguồn vốn huy động và cho vay trên thị
trường; cơ cấu lại dư nợ cho vay ngắn hạn với cho vay trung hạn, giữa nguồn huy
động ngắn hạn dùng để cho vay trung, dài hạn.
Thực hiện việc phát hành giấy tờ có giá, điều chỉnh cơ cấu cho vay vào các lĩnh
vực nhạy cảm và rủi ro nhiều như chứng khoán, bất động sản và tiêu dùng. Các ngân
hàng đều phải duy trì một tỷ lệ dự trữ (bao gồm tiền mặt trong ngân hàng, tiền gửi tại
Ngân hàng Trung ương và các tài sản có tính lỏng cao khác). Làm như vậy để đảm bảo
Lớp bồi dưỡng kiến thức sau đại học tại Bình Thuận
Trang 21
Tiểu luận: Rủi ro thanh khoản của các NHTM Việt Nam
GVHD: TS. Bùi Diệu Anh
duy trì dự trữ bắt buộc của Ngân hàng Trung ương và để đối phó với các dòng tiền đi
ra. Việc kết hợp giữa dự trữ sơ cấp và dự trữ thứ cấp sẽ giúp ngân hàng chủ động vừa
đối phó với rủi ro thanh khoản vừa có thu nhập hợp lý.
Thực hiện tốt quản lý rủi ro lãi suất khe hở lãi suất: Cần hoàn thiện các quy
định liên quan đến huy động và cho vay (nhất là huy động, cho vay trung, dài hạn)
theo lãi suất thị trường; cần có cách giải quyết khoa học để không xảy ra tình trạng các
khách hàng gửi tiền rút tiền trước hạn khi lãi suất thị trường tăng cao hoặc khi có các
đối thủ khác đưa ra lãi suất cao, hấp dẫn khách hàng hơn. Hiện nay, xuất hiện một thực
tế là các doanh nghiệp vay vốn ngân hàng đến hạn không chịu trả nợ vay vì họ e ngại
sau khi trả sẽ rất khó vay lại được tiền từ ngân hàng. Vì thế, họ sẵn sàng chịu phạt lãi
suất quá hạn ghi trong hợp đồng vì như vậy, so ra vẫn còn thấp hơn lãi suất cho vay
mới. Chính điều này đã gây ảnh hưởng lớn đến khả năng thanh khoản của ngân hàng.
Thực hiện tốt quản lý rủi ro kỳ hạn: Sự không cân đối về kỳ hạn giữa tài sản nợ
và tài sản có của ngân hàng là lý do quan trọng làm cho các ngân hàng gặp khó khăn
thanh khoản ừong thời gian qua. vấn đề sử dụng vốn ngắn hạn để cho vay trung, dài
hạn với tỷ trọng lớn hoặc cùng là ngắn hạn và trung, dài hạn nhưng thời hạn cụ thể
khác nhau (ví dụ như huy động trung, dài hạn hai năm nhưng cho vay trung hạn ba
năm) cũng làm cho ngân hàng khỏ khăn trong việc kiểm soát dòng tiền ra và dòng tiền
vào của minh.
Thực hiện các biện pháp hạn chế rủi ro: Thị trường tiền tệ phái sinh ở Việt
Nam còn rất hạn chế, tuy nhiên, sau đợt biến động của thị trường tiền tệ trong thời gian
qua, chắc chắn các ngân hàng sẽ quan tâm nhiều hơn và nó sẽ giúp cho ngân hàng
quản lý tốt hơn tài sản nợ, tài sản có của mình. Thị trường REPO là công cụ khá hiệu
quả trong việc tạo ra tính lỏng cao cho các chứng khoán nợ và cơ cấu tài sản có nhằm
hỗ trợ thanh khoản cho các ngân hàng một cách nhanh chóng. Forward và Future cũng
là những công cụ để cầm giữ lãi suất giao dịch nhằm hạn chế rủi ro khi lãi suất thị
trường biến động. Đặc biệt SWAP là công cụ quan trọng để các ngân hàng có thể cơ
cấu lại tài sản nợ, tài sản có trên bảng cân đối tài sản của mình, nhằm hạn chế các tác
động của rủi ro lãi suất, rủi ro kỳ hạn.
Thực hiện liên kết hệ thống: Trong hệ thống ngân hàng, nếu một hay hai ngân
hàng rủi ro có thể lây sang ngay các ngân hàng khác. Bản thân một ngân thương mại
Lớp bồi dưỡng kiến thức sau đại học tại Bình Thuận
Trang 22
Tiểu luận: Rủi ro thanh khoản của các NHTM Việt Nam
GVHD: TS. Bùi Diệu Anh
không chống đỡ được rủi ro hệ thống, do đó cần tính đến tính đồng đều trong quản trị
thanh khoản. Do vậy, hệ thống ngân hàng thương mại thời gian này cần tập trung vào
xây dựng chiến lược quản trị thanh khoản trong NHTM; tập trung nâng cao chất lượng
hoạt động kinh doanh; liên kết thống nhất giữa các NHTM để đảm bảo an toàn thanh
toán, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh...
Nâng cao công tác quảng bá hình ảnh thương hiệu của Ngân hàng. Các Ngân
hàng thương mại nên chú trọng công tác đổi mới hình ảnh thương hiệu, tạo dấu ấn và
lòng tin đối với khách hàng. Đồng thời Ngân hàng nên tham gia các cuộc thi về thương
hiệu doanh nghiệp nhằm mang đến cho khách hàng các thông tin hữu ích về dịch vụ
của Ngân hàng. Bên cạnh đó, Ngân hàng nên có các hoạt động truyền thông thông tin
cho người gửi tiền, trong trường hợp Ngân hàng bị ảnh hưởng bởi các tin đồn thất thiệt
có thể gây hại hco hoạt động kinh doanh của mình, các Ngân hàng cần có biện pháp
truyền thông nhằm lấy lại uy tín và niềm tin đối với khách hàng.
Xây dựng đội ngũ dự báo rủi ro để ứng biến nhanh chóng, kịp thời trước các
biến cố xảy ra đối với Ngân hàng đặc biệt là đội ngũ tham mưu về xử lý các tình
huống rút tiền ồ ạt đã xảy ra tại một số Ngân hàng trong thời gian qua.
Bên cạnh những giải pháp trên các ngân hàng cũng càn phải chú ý nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực và công nghệ. Vĩ đây là hai yếu tố quan trọng ảnh hưởng
lớn đến kết quả hoạt động của ngân hàng. Các ngân hàng thương mại cũng càn phải có
sự liên kết hỗ trợ lẫn nhau, cùng tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, đây cũng là
một giải pháp hữu hiệu để hạn chế rủi ro thanh khoản.
3.2.
Giải pháp về phía cơ quan quản lý nhà nước:
Các cơ quan quản lý cần Nhất quán trong điều hành các chính sách tiền tệ, tạo
tính thanh khoản tốt cho thị trường, khuyến khích các ngân hàng thương mại vay lẫn
nhau trước khi vay ngân hàng thương mại. Hình thành thị trường REPO song phương.
Tạo điều kiện để các NHTM đủ điều kiện tiếp cận vốn của ngân hàng thương mại.
Kiểm soát chặt chẽ một số ngân hàng nhỏ, kinh doanh kém hiệu quả để hệ thống ngân
hàng thương mại mạnh hơn.
Lớp bồi dưỡng kiến thức sau đại học tại Bình Thuận
Trang 23
Tiểu luận: Rủi ro thanh khoản của các NHTM Việt Nam
GVHD: TS. Bùi Diệu Anh
NHNN cần tiếp tục phát huy chức năng thanh tra giám sát và cấm những sản
phẩm huy động vốn được gọi là “linh hoạt” mà nhiều ngân hàng đã tung ra sai với quy
định huy động vốn của NHNN
Ngân hàng nhà nước vẫn càn hỗ trợ thanh khoản cho các ngân hàng
thươg mại thông qua các công cụ điều hành chính sách tiền tệ. Trong bối cảnh thực thi
chính sách thắt chặt tiền tệ, tín dụng nhằm kiềm chế lạm phát. Đối với các ngân hàng
thương mại lớn, có nhiều giấy tờ có giá đủ tiêu chuẩn thi việc hỗ trợ thanh khoản sẽ
thông qua nghiệp vụ thị trường mở tại Ngân hàng Nhà nước. Đối với các ngân hàng
thương mại nhỏ không đủ giấy tờ có giá hoặc không có khả năng cạnh tranh trên thị
trường mở thì Ngân hàng Nhà nước hỗ trợ thông qua công cụ tái cấp vốn. Việc hỗ trợ
này của Ngân hàng Nhà nước rất ngắn hạn và các NHTM được yêu càu phải điều
chinh lại cơ cấu nguồn và sử dụng nguồn cho phù họp, hạn chế thấp nhất rủi ro thanh
khoản.
Lớp bồi dưỡng kiến thức sau đại học tại Bình Thuận
Trang 24
Tiểu luận: Rủi ro thanh khoản của các NHTM Việt Nam
GVHD: TS. Bùi Diệu Anh
KẾT LUẬN
Hoạt động của ngân hàng luôn gắn liền với rủi ro. Với tính chất nhạy cảm trong
hoạt động của mình, là mạch máu của nền kinh tế, việc rủi ro xảy ra đối với hệ thống
ngân hàng có thể sẽ tạo ra sự sụp đổ hệ thống, ảnh hưởng nặng nề tới mọi mặt của nền
kinh tế.
Quản lý thanh khoản nhằm hạn chế rủi ro thanh khoản là hoạt động quan trong
và xuyên suốt trong quá trĩnh hoạt động của mỗi ngân hàng thương mại. Quản trị tốt
vấn đề thanh khoản với chi phí hợp lý tức là ngân hàng đang phát triển bền vững, quản
trị không tốt thanh khoản đồng nghĩa với việc ngân hàng đang phải đối mặt với rủi ro
nghiêm trọng nhất mà hậu quả nghiêm trọng nhất của nó là dẫn đến phá sản. Vì vậy
mà mỗi ngân hàng cần phải tự xây dựng cho mình một chiến lược quản lý thanh khoản
hợp lý phù hợp với khả năng và mục tiêu phát triển của mình, hoạt động nghiên cứu
dự đoán cung cầu thanh khoản càn phải được tiến hành thường xuyên.
Qua tiểu luận, nhóm mong muốn có cái nhìn sâu sắc hơn về rủi ro thanh khoản
ở các NHTM. Thông qua những thông tin và bài học từ các rủi ro đã xảy ra trong quá
khứ của các NHTM Việt Nam, nhóm hi vọng trong tương lai hoạt động quản trị rủi ro
thanh khoản của các NHTM Việt Nam sẽ hoàn toàn theo phương pháp hiện đại, an
toàn và hiệu quả hơn, đưa hệ thống ngân hàng Việt Nam phát triển và bắt kịp với sự
phát triển của các ngân hàng trong khu vực và trên thế giới.
Do hạn chế về thời gian, khả năng và các nguồn thu thập thông tin nên tiểu luận
chắc chắn còn nhiều thiếu sót và hạn chế. Nhóm rất mong được sự đóng góp ý kiến
của các thày cô để có thể hoàn thiện tiểu luận này hơn.
Lớp bồi dưỡng kiến thức sau đại học tại Bình Thuận
Trang 25