PHẦN 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nuôi trồng thuỷ sản là một trong những nghành phát triển nhanh và
năng động trong nền kinh tế Việt Nam. Nghề cá đã đóng góp 4 % GDP, con
số này không bao gồm giá trị gia tăng của chế biến, phân phối và thương mại
thuỷ sản, mà chỉ tính từ đánh bắt nguồn tự nhiên đến nuôi trồng ở các thuỷ
vực khác nhau. Bên cạnh việc phát triển nuôi các đối tượng nước mặn có giá
trị kinh tế cao như: Tôm thẻ chân trắng, Tôm sú, Tôm rằn…thì việc nghiên
cứu các đặc điểm sinh học cũng như tiềm năng một số các đối tượng nước
ngọt, nước lợ có giá trị kinh tế cao vào nuôi hiện nay cũng đang rất được chú
trọng, một trong những số đó có loài cá chình, đang rất được quan tâm.
Cá chình là một loài đặc sản có giá trị kinh tế và có giá trị dinh dưỡng
cao, có khả năng thích ứng rộng với độ mặn, cá có thể sống được ở nước mặn,
nước lợ, nước ngọt. Khi còn nhỏ thức ăn chính của cá là động vật phù du
nhóm Cladocera và giun ít tơ. Hiện giá thương phẩm bán cho các cơ sở thu
mua ở TP Hồ Chí Minh từ 280.000 - 300.000 đồng/kg. Cá càng lớn chất
lượng thịt càng ngon và giá cũng cao hơn.
Lâu nay, cá chình được nuôi phổ biến trong ao đất và trong các lồng bè.
Trong thiên nhiên, đến mùa sinh sản cá mẹ di chuyển từ nơi sinh sống đến
những nơi có môi trường sinh thái thích hợp để đẻ trứng. Chính vì đặc điểm
này mà cho tới nay vẫn chưa có nước nào nghiên cứu thành công về sinh sản
nhân tạo đối với cá chình. Tất cả con giống đều dựa vào việc đánh bắt tự
nhiên nên không tránh khỏi nguồn giống trôi nổi, chất lượng kém.
Thừa Thiên Huế với diện tích sông hồ và đầm phá rộng lớn là một
trong những điều kiện thuận lợi để phát triển nghề cá. Thừa Thiên Huế nằm
trong vùng phân bố tự nhiên của cá chình và có điều kiện để phát triển nuôi
loại cá này, đặc biệt là ở huyện Phú Lộc nên vấn đề đặt ra là chúng ta phải có
giải pháp như thế nào để mang lại hiểu quả kinh tế cao khi nuôi chúng trong
ao, hồ? Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn kết hợp với nguyện vọng của bản thân,
1
và sự hướng dẫn của giáo viên, tôi tiến hành tìm hiểu đề tài: “Điều tra thành
phần loài và tình hình nuôi cá chình tại địa bàn huyện Phú Lộc – tỉnh
Thừa Thiên Huế "
Thực hiện đề tài này ,chúng tôi nhằm giải quyết một số mục tiêu sau :
- Xác định thành phần loài loài cá Chình trong giống Anguilla hiện
đang sống tại các thủy vực địa bàn Huyện Phú Lộc - Thừa Thiên Huế
- Tiến hành điều tra, tìm hiểu tình hình nuôi cá chình tại địa bàn huyện
Phú Lộc - tỉnh Thừa Thiên Huế .
- Tập làm quen với phương pháp nghiên cứu khoa học.
2
PHẦN 2
TÌNH HÌNH CƠ BẢN CỦA ĐỊA BÀN GHIÊN CỨU
2.1. Đặc điểm điều kiện tự nhiên của tỉnh Thừa Thiên Huế
2.1.1. Vị trí địa lý
Thừa Thiên Huế là một tỉnh nằm ven bờ biển miền Trung Việt Nam,
trải dài từ 16014’ đến 16045’ vĩ độ Bắc, rộng từ 107 03’ đến 08011’ kinh độ
Đông, phía Bắc giáp Quảng Trị, phía giáp TP Đà Nẵng, phía Tây giáp Lào,
phía Đông giáp Biển Đông với tổng chiều dài là 126 km.
2.1.2. Địa hình, đất đai
Thừa Thiên Huế có diện tích khoảng 5009,2 km2, chiếm 1,4% diện tích
Việt Nam. Địa hình đa dạng gồm núi cao, gò đồi, trung du, đồng bằng trước khi
đến biển giao hòa tạo thành vùng đầm phá nước lợ rộng khoảng 22.000 ha chiếm
3,4% diện tích của tỉnh và 14,2% diện tích của đồng bằng Thừa Thiên Huế.
Vùng núi Thừa Thiên Huế chiếm khoảng 50% diện tích tự nhiên của
tỉnh, gắn liền với dãy Trường Sơn. Vùng gò đồi trung du nằm ven các chân
núi cho đến tiếp giáp đồng bằng. Khu vực đồng bằng chỉ là dãy đất hẹp với
diện tích 900 km2 rộng trung bình dưới 20 km. Vùng duyên hải gồm những
cồn cát chạy dọc theo bờ biển.
2.1.3. Điều kiện khí hậu
2.1.3.1. Chế độ nhiệt
- Mùa đông: do ảnh hưởng của gió mùa đông bắc nên trời rét nhiệt độ
trung bình từ 15 đến 180 C.
- Mùa hè: chịu ảnh hưởng của gió tây nam khô và nóng, nhiệt độ trung
bình 28 đến 290 C.
Sự chênh lệch nhiệt độ giữa hai mùa lớn ảnh hưởng đến quá trình trao
đổi chất của thủy sinh vật, sự sinh trưởng và phát triển của đối tượng nuôi.
Ngoài hai mùa nóng lạnh còn có thời kỳ chuyển tiếp của hai mùa, vào thời
gian này nhiệt độ trung bình ổn định khoảng 20 đến 250 C.
3
2.1.3.2 Chế độ mưa
Thừa Thiên Huế mùa mưa kéo dài từ tháng 9 đến tháng giêng năm sau.
Lượng mưa trung bình khá lớn, từ 2200 đến 2600mm/năm. Mưa lớn thường
tập trung vào các tháng X, XI, và XII. Vào các tháng II, III, và IV lượng mưa
không lớn, trung bình từ 50 tới 80 mm.
2.1.3.3 Nắng
Thừa Thiên Huế có chế độ nhiệt rất cao, mỗi năm trung bình có 1.700
tới 1.900 giờ nắng. Mùa Đông, thời gian chiếu sáng trong ngày thấp hơn mùa
Hè, trung bình 60 đến 100 giờ nắng/tháng, mùa Hè khoảng 170 đến 250 giờ
nắng/tháng. Nắng cung cấp năng lượng cho quá trình quang hợp của thực vật
thủy sinh nên ảnh hưởng rất lớn đến năng suất sinh học sơ cấp của thủy vật.
2.1.3.4 .Gió
Thừa Thiên Huế có hai mùa gió chính:
- Gió mùa đông bắc: thổi theo hướng Bắc – Nam, dần chuyển sang
hướng Đông – Bắc. Gió mùa Đông bắc liên tục tràn về từng đợt kèm theo
không khí lạnh, nhiệt độ bị hạ thấp độ ẩm tăng cao gây nên mưa rét kéo dài.
- Gió Tây – Nam: thổi từ lục địa ra biển. Do bị chắn bởi dãy Trường
Sơn nên khi vượt qua dãy núi này độ ẩm không khí giảm, gió mang tính chất
khô nóng.
2.1.4. Các yếu tố thủy lý, thủy hóa
2.1.4.1. Nguồn nước: gồm 3 nguồn chính
- Nguồn nước do biển Đông cung cấp: thông qua chế độ bán nhật triều
không đều là quan trọng nhất.
- Nguồn thứ hai là do các sông ngòi đỏ trực tiếp vào đầm phá
-Nguồn thứ 3 là do các cơn mưa lớn trực tiếp đổ vào đầm phá.
2.1.4.2. Nhiệt độ nước
- Thừa Thiên Huế có nhiệt độ nước tương đối cao. Nhiệt độ nước phụ
thuộc các tháng trong năm và các mùa khí hậu khác nhau. Nhiệt độ giảm dần
từ tháng IX (28o C) đến tháng III (230 C) và tăng dần từ tháng IV đến tháng
VII đạt 24 – 320C.
4
Nhiệt độ biến động tùy theo thủy vực và theo mùa. Mùa mưa biến động
nhiệt độ trong ngày nhỏ, dao động khoảng 16-220C, mùa khô biến độ nhiệt độ
trong ngày cao, dao động khoảng 24-340C.
2.1.4.3. Nồng độ muối
Đầm phá nước lợ Thừa Thiên Huế có biên độ dao động nồng độ muối
lớn. Nguồn cung cấp nước là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự thay đổi nồng
độ muối.
- Về mùa mưa nồng độ muối giảm.
- Về mùa khô nồng độ muối tăng kéo theo hiện tượng mặn hóa.
- Sự biến động nồng độ muối theo không gian, thời gian, thủy vực dẫn
đến sự biến động của thủy sinh vật.
2.1.5. Lượng oxy hòa tan
- Lượng oxy hòa tan ở các thuỷ vực tương đối cao do ảnh hưởng của
nhiều yếu tố. Yếu tố đầu tiên là dòng chảy của thủy triều, sóng và chế độ gió
mùa. Ngoài ra còn phụ thuộc vào mùa mưa lũ va sự có mặt của số lượng thực
vật thủy sinh quang hợp.
- Lượng oxy hòa tan trong vùng đầm phá tương đối đồng đều, trung
bình là 7,8mg O2/l.
2.1.6. pH: pH dao động trong khoảng 5,5 - 6,5.
2.2. Những điều kiện tự nhiên thuận lợi và không thuận lợi cho việc phát
triển nuôi trồng thủy sản
2.2.1. Thuận lợi
Thừa Thiên Huế là tỉnh ven biển miền Trung có chiều dài bờ biển
120km với vùng đặc quyền kinh tế cách bờ biển đến 200 hải lý. Độ sâu vùng
biển từ 0 – 200m chiếm 26,8% diện tích vùng biển, 71,2% diện tích khu vực
biển còn lại có độ sâu trên 200m với điều kiện phân bố nhìn chung thuận lợi
cho sự phát triển các nghề khai thác cá. Vùng biển Thừa Thiên Huế có
khoảng 500 loài cá, trong đó cá nổi chiếm 60% còn lại là cá đáy và cá tầng
giữa. Hàng năm ngư dân khai thác từ 12 – 13 ngàn tấn thủy sản các loại, chủ
yếu là vùng ven biển.
5
Thừa Thiên Huế có 22.000 ha đầm phá. Hệ đầm phá Tam Giang – Cầu
Hai là hệ đầm phá nước lợ lớn nhất, tiêu biểu nhất là Việt Nam với chiều dài liên
hoàn 70km. Hệ đầm phá này án ngự gần hết chiều dài của tỉnh có quan hệ sinh
thái và môi trường với gần 49.000 ha đồng bằng, 19.000 ha đất cát ven biển. Đây
là nơi hầu hết các con sông của tỉnh đổ vào. Hệ đầm phá có hai cửa thông ra
biển tạo thành vùng nước lợ lý tưởng cho nhiều loại thủy sản sinh sống.
Hệ đầm phá có quan hệ mật thiết liên quan và mở rộng với 30 vạn dân
cư (chiếm khoảng 30% dân số tỉnh Thừa Thiên Huế) đặc biệt có gần một vạn
dân cư sống lênh đênh trên đầm phá. Hệ đầm phá là môi trường sinh cư, là
địa bàn hoạt dộng kinh tế quan trọng, mang lại những giá trị tài nguyên to lớn.
Hàng năm sản lượng thủy sản khai thác trên vùng đầm phá đạt khoảng 3500,
trong đó có khoảng 1.500 tấn tôm.
Những năm gần đây trên vùng phá đã phát triển nuôi trồng thủy sản,
nhất là nuôi tôm và trồng rau câu được khoảng 2.000 ha.
2.2.2. Không thuận lợi
Những điều kiện không thuận lợi ở tỉnh Thừa Thiên Huế là do một
phần về khí hậu địa hình. Nhìn chung lượng mưa ở tỉnh Thừa Thiên Huế khá
lớn nhưng do địa hình hẹp, nhiều đồi núi, sông ngòi ngắn và nhiều thác
ghềnh, lượng nước được giữ lại rất ít chủ yếu là đổ ra biển nên thường xảy ra
hiện tượng hạn hán vào mùa hè. Điều này gây ảnh hưởng đến việc chủ động
nguồn nước trong nuôi trồng thủy sản.
Biển Thừa Thiên Huế phân bố theo hướng Tây Bắc – Đông Nam nên
chịu ảnh hưởng gió mùa rõ rệt, điều đó cũng ảnh hưởng đến sự phân bố tự
nhiên của nguồn lợi thủy sản.
Ngoài ra điều kiện nhiệt độ khí hậu và các yếu tố môi trường cũng biến
động rất lớn theo thời tiết. Nhiệt độ dao động trong ngày có khi lên đến 10 0C,
những cơn mưa giông đột ngột làm xáo động đến độ pH, hàm lượng oxy hòa
tan trong các thủy vực làm ít nhiều ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát
triển các loài thủy sản.
6
PHẦN 3
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÁ CHÌNH TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM
3.1. Những nghiên cứu cơ bản về cá chình
Có hàng nghìn loài trong bộ cá chình sống trong nước biển và hàng
trăm loài sống trong nước ngọt. Tuy vậy, chỉ có một số ít loài trong giống
Anguilla có đời sống một phần trong nước ngọt và một phần ở biển.
Hiện nay các tập tính sống của các loài cá trong giống cá chình
Anguilla vẫn đang còn là một điều bí mật đối với các nhà nghiên cứu, và chưa
có một ai thấy được trứng đã chín của cá chình này, trong khi tất cả các loài
cá nước ngọt khác đều tìm thấy trứng chín trong những mùa vụ nhất định.
Vậy câu hỏi được đặt ra là: thế thì cá chình được sinh ra như thế nào? Ngược
dòng lịch sử để tìm ra câu trả lời chúng tôi thấy có rất nhiều điều lý thú.
Theo Aristote thì cho rằng giống cá chình được sinh ra từ trong lòng
đất mẹ, người dân Anh cổ đại thì cho rằng cá chình con (Elver) thì được sinh
ra từ những sợi lông đuôi cuả ngựa khi nhảy qua các con sông, suối bị rơi ra
gặp nước và phát triển thành cá chình.
Để trả lời câu hỏi này các nhà nghiên cứu đã phải tốn kém rất nhiều
thời gian và công sức, tuy nhiên câu giải đáp vẫn chưa đầy đủ. Trong thực tế,
cá chình được sinh ra từ ngoài biển khơi, cơ quan sinh sản của chúng không
chín muồi cho đến khi cá trưởng thành di cư từ trong nước ngọt ra ngoài biển
khơi. Đó là lí do tại sao người ta đã không tìm được trứng và tinh trùng của cá
chình trong vùng nước ngọt.
Những nghiên cứu đầu tiên về cá chình được thực hiện vào thế kỷ XIX ở
Châu Âu trên đối tượng là cá chình Châu Âu (Anguilla anguilla) hai nhà
nghiên cứu Italia là Grassi và Colandruccio (1897) đã phát hiện ra những vấn
đề quan trọng đầu tiên khi họ thu giữ được một dạng sinh vật biển có dạng lá
liễu trong suốt, được gọi là Leptocephalus, ở vùng biển Messina. Và họ đã rất
ngạc nhiên với sự thay đổi hình dạng của chúng, khi theo dõi chúng qua 2
tháng nuôi chúng phát triển thành dạng ấu thể Elvers của cá chình nước ngọt.
Điều đó đã cho phép họ kết luận, cá chình được đẻ ở biển và Leptocephalus
7
thực sự là một giai đoạn ấu trùng của cá chình. Theo đó Grassi và Colandruccio
đã giả định rằng nơi đẻ của cá chình ở vùng khơi biển Đại Tây Dương.
Nghiên cứu tiếp theo được thực hiện bởi Schimidt, trong khi vớt trứng
cá Cod bằng vợt phù du ông đã tìm thấy trong lưới của mình có ấu trùng
Leptocephelus của cá chình. Schimidt ngay lập tức nhận ra rằng ông đã tìm
ra đầu mối chính của nơi cá chình sinh sản. Những nghiên cứu tiếp theo của
ông cho thấy rằng nơi sinh đẻ cá chình Châu Âu ở vùng biển Messina và Faroe.
Ông đã đặt ra câu hỏi thế còn những vùng nào cá chình sinh sản được nữa? Để
trả lời câu hỏi này ông đã phải tiêu tốn hết 35 năm. Qua quá trình nghiên cứu
đó năm 1932, ông đã tuyên bố kết quả nghiên cứu bền bỉ và nổi tiếng của
mình. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng, vùng trung tâm của Biển Đại Tây Dương còn
gọi là biển Sargaso là vùng xuất hiện ấu trùng cá chình vừa mới nở.
Các nghiên cứu tiếp theo cho biết điều kiện bãi đẻ của cá chình rất
khắc nghiệt. Mùa vụ cho cá chình đẻ trứng diễn ra vào khoảng tháng 2 hàng
năm. Cá sinh sản ở vùng biển có độ sâu khoảng 400m, độ mặn 34 – 35 ppt,
nhiệt độ 170C.
Trứng cá chình sau khi đẻ ra sẽ trồi dần lên tầng mặt và sau khoảng 24h
nở ra thành cá chình ấu trùng có chiều dài 5mm. Các tiền ấu trùng này sống
trôi nổi và di chuyển theo dòng hải lưu và dần dần phát triển thành ấu trùng
dạng lá liễu trong suốt. Các ấu trùng này được các dòng hải lưu (dòng Guff)
đưa ra xa khỏi vùng biển Sargasso. Sau một khoảng thời gian sống trôi nổi
(khoảng 22 tháng), chúng được đưa đến gần các cửa sông và thay đổi hình
dạng thành các ấu thể dạng không mảnh, kích cỡ các ấu thể khi đó khoảng
2800 – 3500 con/kg.
Ở vùng nước ngọt ấu thể cá chình chuyển sang màu đen và đi sâu vào
nội địa. Chúng ngược các dòng chảy, vượt qua các thác, ghềnh để đi sâu vào
nội địa. Trong thời kỳ này cá chình bắt mồi một các chủ động thành phần thức
ăn chính là các loài côn trùng, động vật nhỏ khác. Mặc dù hầu hết thời gian
các loại cá chình sống ở nước ngọt và một phần thời gian sống ở nước biển
nhưng cá chình có khả năng thích ứng rất nhanh với sự thay đổi nồng độ
8
muối, ngay cả khi sự thay đổi đó diễn ra rất đột ngột mà không bị bất kỳ một
tác động nào có hại cho cơ thể.
Giai đoạn cuối cùng trong chu kỳ sống cá chình khi đã phát triển một
cách đầy đủ, tích tụ đủ chất dinh dưỡng thì chúng theo các sông, suối ra biển
vào mùa thu và biến mất khỏi sự hiểu biết của con người.
Các nghiên cứu về phân loại học của cá chình đã được Shmidt và Ege
thực hiện. Các ông đã thu thập được 12793 cá chình trưởng thành và 12472
ấu thể ở trên toàn thế giới. Kết quả nghiên cứu xác định trên thế giới hiện nay
có 16 loài và 6 dưới loài cá chình khác nhau (nhiều tác giả nhầm lẫn cho rằng
có 19 loài) và các chỉ tiêu để phân loại dựa vào các đặc điểm chính sau:
• Thân cá có đốm màu hay láng trơn
• Số lượng đốt sống: dao động trong phạm vi từ 103 – 106
• Chiều dài của vây lưng so với vây hậu môn
• Kích cỡ tối đa của cá chình dao động từ 2,0 – 2,7 kg/ cá thể
Môi trường sống thích hợp: ao nước chảy hay nước suối trong sạch tùy
theo từng loài.
Từ những đặc tính trên Ege đã phân ra 16 loài cá Chình trong giống
Anguilla như sau:
9
Bảng 1: Các loài cá Chình trong giống Anguilla
Tên loài
Màu cơ thể
A.anastralis
A.celebesensis
A.interioris
Có đốm màu
Có đốm màu
Có đốm màu
Số lượng
đốt sống
trung bình
103
103
105
A.megastoria
Có đốm màu
112
A.nebolosa
Có đốm màu
110
A.marmorata
Có đốm màu
106
A.reihardti
Có đốm màu
108
A.borneensis
Láng
106
A.japonica
Láng
116
A.rostrata
Láng
107
A.anguilla
Láng
115
A.dieffenbachi
Láng
113
A.mossambico
Láng
103
A.bicolar
Láng
108
A.obscara
Láng
104
A.australis
Láng
112
10
Vùng phân bố
N.Sula wesi
Indenesia, Phillipine
New Guina
Đảo Thái Bình Dương
từ Solomaons tới
Pitcairn
Đông phi và Ấn độ
Nam phi, Madagasca,
Indonesia, Trung Quốc,
đảo Thái Bình Dương
Đông Úc, New
Caledonia
Borneo, Celebes
Bờ biển đông Mỹ,
Canada, Greenland
Nhật Bản, Trung Quốc
Bờ biển tây châu Âu,
Bắc Phi, Iceland
New Zealand
Nam và Đông Phi,
Madagascar, Ấn Độ
Đông Phi, Madagascar,
Ấn Độ, Indonesia, Tây
Bắc Úc
New Guinea, các đảo
Thái Bình Dương
Đông Úc và New
Zealand
Trong tất cả các loài cá Chình đã liệt kê ở trên thì loài A. marmorata là
loài có sự phân bố rộng rãi nhất, nó trải rộng trên hầu hết các thủy vực từ phía
nam châu Phi đến đảo Marquesas ở giữa Thái Bình Dương, ngược lại loài
A.borneensis chỉ được tìm thấy ở vùng phía đông của Borneo tới Sulawesi, và
chỉ có 5 cá thể trưởng thành được xác định bởi các nhà khoa học.
Sau các nghiên cứu cơ bản về thành phần loài ,sinh thái học của các
loài cá chình, các nghiên cứu về các đặc điểm sinh lý và sinh học cũng đã
được tiến hành ,như các nghiên cứu về khả năng thích ứng độ mặn ,nghiên
cứu về thành phần thức ăn tự nhiên, các tập tính bắt mồi , sự cảm thụ và khả
năng hô hấp của cá…Tuy nhiên đến nay cũng con rất nhiều điều bí mật về đối
tượng này mà các nhà khoa học chưa khám phá, phát hiện ra như :
• Các loài trong giống cá Chình đều có chu kì sống tương tự như nhau
nhưng tại sao các loài cá Chình sốngở vùng nhiệt đới lại có thể đẻ trứng ở
vùng biển rất gần bờ, trong khi đó những loài ở vùng ôn đới thì phải di cư ra
tận vùng biển khơi .
• Hai là loài A.anguilla và A.rostrata có cấu trúc cơ thể khá tương
đồng với loài chình Nhật Bản và có thể trước đây bằng một số cách nào đó đã
từ biển Thái Bình Dương xâm nhập vào biển Đại Tây Dương có thể thông qua
một eo biển cắt Panama trước đây.
• Cá Chình vùng nhiệt đới đẻ trứng quanh quanh năm hay chúng chỉ đẻ
trứng trong thời gian nhất định !!!
3.2. Vài nét về bộ Anguilliformes (Apodes)
Các loài cá trong bộ cá chình (Anguilliformes) có mình tròn dài, vây
bụng nếu như có (chỉ có trong hóa thạch cổ) là phải ở dưới bụng. Bóng hơi
nếu như có phải có ống. Vây không có gai, vẩy nếu như có phải có vẩy
tròn. Không có xương mỏ quạ giữa. Không có xương thái dương sau xương
đòn trên nếu như có phải liền với xương đốt sống không có xương hàm
dưới tách rời (xương lá mía cũng vậy) làm thành một dải xương răng đơn
độc, dải xương răng này cùng với xương hàm có răng làm thành viên hàm
trên. Xương bướm mắt nếu có thường thành đôi, không có xương bướm
đáy, thường cũng không có xương nối. Số xương đốt sống này rất nhiều,
nhiều tới 260 cái, có những loài cá thuộc bộ này thân đốt sống chỉ có
11
những tấm xương tròn mỏng sườn trên dưới và gai giữa bắp thịt thường tồn
tại lỗ mang hẹp, không có nang giả, vây lưng và vây hậu môn đều rất dày
và thường liền với vây đuôi xương có tế bào xương.
3.3. Vài nét về bộ phụ cá chình (Anguilliformes)
Bộ phụ này có thể chia làm 3 nhóm lớn:
- Nhóm thứ nhất là Derichhyidae: xương có lá mía trước prevomer, ở
Trung Quốc không có.
- Nhóm lớn thứ 2 là loại cá chình: gồm có họ cá Lạt và họ cá chình
giun, không có xương lá mía, trước rời.
- Nhóm thứ 3 là họ cá Dưa: họ cá chình biển và họ cá chình trắng; không
có xương lá mía trước, đều là cá biển một số loài vào sống trong nước ngọt.
Nói chung các loài trong bộ phụ cá chình đều được sử dụng làm thực
phẩm có giá trị cho con người. Đây là nhóm cá có giá trị kinh tế cao, thường
là đối tượng đánh bắt trong đó có một số loài cá như cá chình hoa là loại cá
mà mọi người thích ăn nhất. Theo các tài liệu của Trung Quốc các loài trong
bộ phụ cá chình có thể xác định nhờ những điểm sai khác nhau theo khóa
phân loại như sau:
1. Lỗ mang nỡ ra, khe mang trong cũng to, có lưỡi, xương nắp mang và
xương mang đều nỡ ra; cung vai tồn tại, … (xem 2).
- Lỗ mang nhỏ và tròn, khe mang trong bị hạn chế, không có lưỡi;
không có vây ngực; xương nắp mang không nở ra, xương mang thứ 4 dùng để
hỗ trợ cho xương đầu; cung vai không nở ra hoặc chỉ là xương sụn, tim không
rời ra sau quá xa; dạ dày……….. họ cá lịch biển (Mudaenidae).
2. Trên da có vảy thoái hóa và lõm xuống sâu, xương là hình sợi và
thường xếp thành nhóm nhỏ, thẳng góc với các nhóm gần đấy, vây ngực và
các vây lẻ đều nở nang, vây lẻ đều liền với nhau ở trên vẩy đuôi; có đương
viền, lỗ mũi sau ở phía trước mắt, viền lưỡi rời; đôi khi vào sống ở nước
ngọt……………………………......… họ cá Chình (Anguillidae)
- Trên da không có vảy; theo những hiểu biết hiện nay thì trứng khá
lớn, giống như của cá nói chung…………………………………(xem 3).
3. Đuôi không ngắn hơn bao nhiêu so với bộ phận còn lại của mình; tim
gần sau mang……………(xem 4).
12
- Đuôi ngắn hơn nhiều so với bộ phận còn lại của mình, tim ở rất xa
mang, vây ngực bé hoặc không có; vây lẻ không nở nang lắm; mình tròn và
nhỏ dài, lỗ mang hẹp và gần mặt dưới………………………… họ cá chình
giun to (Moringuidae).
4. Đầu cuối đuôi hoặc nhiều hoặc ít có thể thấy tia vây có lúc thành
hình sợi dài, màu thường là màu hạt dẻ đều, màu đen tối hoặc là màu trắng
bạc, các vây thường có viền đen…………………………(xem 5).
- Đầu cuối đuôi không có tia vây dài ra ngoài vây lưng và vây hậu môn;
lỗ mũi sau gần trên viền môi trên, lỗ mũi trước ở đầu cuối mõm, có ống; lưỡi
nói chung dính vào trên khoang miệng (không tự do)
màu rất
tạp………………….. họ cá Chình rắn Ophichthyidae.
5. Trên lỗ mũi sau không có ống hoàn toàn ở trên môi trên …(xem 6).
- Lỗ mũi sau ở trên viền môi trên; lưỡi hầu như hoàn toàn dính vào trên
khoang miệng; răng to nhỏ không đều nhau ……………. Họ cá chình giun
(Echelidae).
6. Lưỡi rộng phía trước và hai bên phần lớn cá tự do, răng trên xương
lá mía lớn vừa; vây ngực nở nang; mình không dài lắm, hàm dưới không nhô
ra; lỗ mũi trước ở xa mắt………………………họ cá chình biển (Congridae).
- Lưỡi hẹp, dính vào phía dưới khoang miệng hoặc chỉ là đầu nhọn rời;
răng trên xương lá mía tương đối nở nang có lúc mở rộng; vây ngực nở nang;
dạ dày; xương vững chắc; hai bên hàm cũng không mỏng cũng không múc
lên……………….họ cá Dưa (Muraeresocidae).
3.4. Vài nét về họ cá chình (Anguilliidae).
Cá thuộc họ này có đầu hình chóp, xương nắp mang nở nang, xương
hàm ở phía bên, răng giống cá kìm, lưỡi rõ ràng, khe mang thẳng đứng, vây lẻ
liền với nhau và là khởi điểm của vây lưng ở phía xa sau đầu; vây ngực nở
nang, mình có vảy, xương mang hầu như hoàn toàn tồn tại; xương đỡ vây của
vây ngực có 7 – 9 cái (một số con có thể có 11 cái).
Giống loài mà họ này bao gồm tuy không nhiều, nhưng phân bố thì rất
rộng (trừ Nam và Bắc cực ra) còn lại ở các châu trên thế giới đều có (trừ
những vùng cá biệt); tuy nơi sinh trưởng là vùng nhiệt đới nhưng ở vùng biển
Bắc Hải của Nhật Bản và biển Bạch Hải của Liên Xô cũng có dấu vết. Đặc
biệt hơn nữa là khả năng ra vào tự do ở nước lợ và nước ngọt. Nói chung hầu
13
hết thời gian cá chình trong giống Anguilla sinh trưởng ở trong nước ngọt,
sau khi thành thục mới di cư ra biển để đẻ trứng. Trứng cá chình rất nhỏ và
trôi nổi trong nước biển. Trứng sau khi nở ra cá đầu bé và trôi nổi theo dòng
hải lưu dạt vào vùng cửa sông. Cá chình con ngược dòng của các con sông lên
thượng nguồn để sinh sống cho đến khi gần trưởng thành.
Cá chình là một loài cá kinh tế có giá trị cao, thịt thơm ngon, nói chung ai
cũng ưa thích, cá chình hun khói mùi vị lại càng ngon, cũng có thể làm đối
tượng để nuôi. Họ này chỉ có 1 giống cá chình, ở Trung Quốc có 3 loài cá chình:
- Cá Chình hoa (A.mauritiana Bennett): chiều dài của đầu bé hơn
khoảng cách giữa vây lưng và khởi điểm của vây hậu môn. Trên mình và trên
vây thường có chấm.
- Cá chình Trung Hoa (A.sinensis): chiều dài của đầu bằng khoảng cách
của vây lưng và khởi điểm của vây hậu môn, vây ngực dài băng ½ chiều dài
của đầu.
- Cá chình Nhật Bản (A. japonica T and S), chiều dài của đầu lớn hơn
khoảng cách giữa vây lưng và vây hậu môn. Vây ngực dài bằng 1/3 chiều dài
của đầu.
Hai loài sau đều không có chấm, và rất phổ biến ở Trung Quốc. Đối
với cá chình Hoa thường thấy ở miền Nam, vì tầm vóc to, cho nên gọi là
cá chình vua.
3.5. Tình hình nghiên cứu cơ bản về cá Chình ở Việt Nam
Nghiên cứu cá Chình trong giống Anguilla ở Việt Nam chưa thực sự
nhận được sự quan tâm đúng mức của các nhà nghiên cứu cơ bản cũng như
các nhà nghiên cứu ứng dụng. Các nhà nghiên cứu ở Việt Nam đã tiến hành
nghiên cứu từ những năm đầu của thập kỷ 30 nhưng chỉ mới đề cập đến nội
dung xác định thành phần loài và sự phân bố của chúng trong từng khu hệ
nhất định chứ chưa có tài liệu tổng hợp cho toàn lãnh thổ.
Tuy nhiên những kết quả này cho đến nay cũng chưa có sự thống nhất
giữa những nhà nghiên cứu. Do các kết quả nghiên cứu của các tác giả trên
chủ yếu tập trung vào điều tra thành phần loài và sự đa dạng của khu hệ cá mà
số lượng loài phân loại là rất lớn, không tập trung vào giống cá Chình do đó
những hạn chế, thiếu sót là điều khó tránh khỏi.
14
Hơn nữa, các nghiên cứu về sự phân bố của các tác giả chỉ tập trung
vào nội dung phân bố về mặt địa lí chứ chưa nghiên cứu về mùa vụ xuất hiện,
đặc biệt là mùa vụ xuất hiện con giống để làm cơ sở cho việc khai thác nguồn
giống tự nhiên phục vụ cho việc nuôi sau này. Bên cạnh đó các đánh giá về
trữ lượng, nguồn lợi là hoàn toàn chưa có.
Năm 1974, Orsi đã xác định được 4 loài ở vùng biển Việt Nam:
A.marmorata, A.japonica, A.borneensis, A.bicolar pacifica.
Nguyễn Hữu Phụng, Nguyễn Nhật Phi (1994) trong danh mục các loài
cá biển Việt Nam có xác định 3 loài : A.celebensis, A.marmorata, A.japonica.
Theo Nguyễn Hữu Phụng (2001), giống Aguilla có 18 loài trong đó
Việt Nam có 5 loài là: A.nebulosa McClelland,1844., A.japonica Temminck
và Schlegel, 1984., A.celebensis Kaup,1856., A.marmorata Quoy và
Gaimard,1824., A.bicolar pacifica Schmidt, 1928.
Trong số 5 loài phân bố ở Việt Nam thì chỉ có 2 loài là A.marmorata
(cá chình bông), A.japonica (cá chình Nhật Bản) được nuôi phổ biến do đặc
điểm thịt thơm ngon, thị trường tiêu thụ lớn. Trong 2 loài cá chình đó thì cá
chình bông được nuôi phổ biến hơn do có kích thước lớn nhất, thích ứng
rộng, mang giá trị kinh tế cao và được coi là loài cá nuôi rất có triển vọng
trong tương lai.
3.6. Tình hình nuôi cá Chình trên thế giới
Hiện nay cá Chình được xem như một sản phẩm thủy sản quan trọng.
Trên thế giới hiện nay nguồn giống sử dụng trong nuôi cá chình hoàn toàn
phụ thuộc vào khai thác nguồn giống tự nhiên tại các cửa sông vào cuối mùa
Thu đến mùa Đông khi chúng đang di cư ngược dòng.
Các loài cá chình hiện nay đang được nuôi trên thế giới là cá chình
Nhật (A. japonica), cá chình Mỹ (A. rostrata), cá chình châu Âu (A. anguilla),
cá chình Úc (A. australis).
Trải qua một thời gian nghiên cứu và hoàn thiện, hiện nay kỹ thuật nuôi
cá chình trên thế giới đã đạt đến trình độ chuyên môn cao. Có nhiều hình thức
nuôi khác nhau như nuôi trong ao nước chảy, nuôi trong nhà kính có hệ thống
điều nhiệt, nuôi trong ao đất, nuôi thâm canh, nuôi bán thâm canh, nuôi ghép
với các loại cá khác…
15
Dù nuôi bằng hình thức nào thì hai vấn đề chính hiện nay người nuôi
rất quan tâm là con giống và thức ăn.
- Về vấn đề con giống: Hiện nay trên thế giới vẫn chưa có quốc gia
nào thành công trong việc sản xuất giống cá chình nhân tạo. Một số nước
như Trung Quốc, Nhật Bản, Belarus, Mỹ đã sử dụng hormon kích dục tố và
tạo các điều kiện sinh thía khác cho cá chình đẻ trứng một cách chủ động.
Tuy nhiên, trứng sau khi nở ấu trùng chỉ sống được tối đa 48 ngày. Vì vậy,
nguồn giống cung cấp cho nghề nuôi cá chình phụ thuộc hoàn toàn vào khai
thác ngoài tự nhiên.
Theo các thống kê cho thấy giá bán của cá thịt bị ảnh hưởng rất lớn bởi
giá con giống. Chi phí con giống đạt mức từ 49 - 52%. Hiện nay trên thị
trường thế giới phổ biến 3 loại con giống khác nhau: (i) loại ấu thể (elvers);
(ii) các ấu thể elvers được ương nuôi nâng cấp thành cá giống trong điều kiện
nhân tạo, sau đó xuất bán cho các cơ sở nuôi thương phẩm; (iii) loại cá giống
nhỏ khai thác ngoài tự nhiên.
- Về vấn đề thức ăn: Cá chình sống trong tự nhiên có đặc tính bắt mồi
chủ động và thành phần thức ăn chủ yếu là các loài động vật nhỏ như: giáp xác,
giun, côn trùng, lưỡng thê, nhuyễn thể, các loài cá nhỏ…vì vậy nhu cầu về
protein của chúng là rất lớn. Trước đây để nuôi cá chình người ta phải cung
cấp cho chúng những loại thức ăn tươi sống tương tự như ở ngoài tự nhiên. Vì
vậy giá thành cá chình nuôi rất cao và không chủ động trong sản xuất.
Trong công nghệ nuôi cá chình hiện nay, người nuôi hầu như chỉ sử
dụng thức ăn nhân tạo chế biến ở dạng hồ nhuyễn. Thức ăn được được bỏ
trong những khay và thả xuống ao nuôi, cá sẽ tìm đến để lấy thức ăn một cách
chủ động. Lượng thức ăn cung cấp cho cá hằng ngày là 2 - 2,5% tổng trọng
lượng đàn cá nuôi (tính theo trọng lượng khô), hoặc 7 - 8% (tính theo trọng
lượng tươi). Hệ số sử dụng thức ăn vào khoảng 1,3 - 1,5 (đối với thức ăn tinh)
và 7 - 7,5% (đối với thức ăn tươi).
Cá chình được đánh giá cao về chất lượng thịt, mùi vị ngon và giàu
dinh dưỡng. Các nước Tây Âu và Nhật Bản là những thị trường tiêu thụ cá
chình lớn nhất trên thế giới hiện nay. Trang trại nuôi cá chình đầu tiên được
16
xây dựng ở Đài Loan năm 1952 và đặc biệt ở những trang trại phát triển nuôi
cá chình lớn cũng được tìm thấy ở vùng này.
Nuôi cá Chình ở Nhật Bản bắt đầu vào năm 1894 tại Tokyo, suốt đầu
thế kỷ 20, việc nuôi cá Chình được mở rộng đáng kể ở 3 trung tâm của Nhật
Bản là Shizuoka, Aichi và Mile. Năm 1942, tổng diện tích nuôi cá Chình
trong các ao đạt đến 2000 ha, sau sự sụt giá suốt chiến tranh thứ 2, việc nuôi
cá Chình lại bắt đầu phát triển trở lại và vượt qua mức độ ban đầu trước chiến
tranh thế giới thứ 2 năm 1960. Sản phẩm cá Chình đánh bắt hằng năm dao
động trong khoảng 200 tấn mỗi năm, sản phẩm cá Chình nuôi đã được tính
toán với các con số cao hơn rất nhiều đạt 14.000 tấn năm 1972 và 27.000 tấn
năm 1977. Nhờ phương pháp nuôi tiên tiến có thể làm tăng cao sản lượng và
nhu cầu tiêu thụ tăng lên, việc khai thác con giống tự nhiên không đủ nhu cầu
tiêu dùng và kết quả là Nhật Bản phải nhập con giống từ Úc, Philippines,
Trung Quốc, Châu Âu, và Mỹ.
Tất cả các khu vực nuôi cá chình chính ở Nhật đều sử dụng đều sử
dụng hình thức nuôi trong hệ thống nước tĩnh và hầu hết nguồn nước sử dụng
cho nuôi cá là nước ngầm. Lý do là không có nguồn nước sông đủ sông đủ
sạch đảm bảo cho việc nuôi cá chình và khi sử dụng nguồn nước ngầm thì có
thể tận dụng nguồn địa nhiệt để duy trì nhiệt độ nước phù hợp (đặc biệt là vào
mùa Đông và đầu mùa Xuân).
Việc nuôi cá chình bằng nguồn nước biển cũng đã được thử nghiệm ở
Nhật và cho kết quả cá phát triển tốt, tuy nhiên chất lượng thịt không ngon
bằng cá nuôi ở vùng nước ngọt.
Gần đây những hướng phát triển chính trong nuôi cá chình ở Nhật là:
- Tăng cường việc sử dụng ở khu vực ao nuôi cá giống để sưởi ấm cho
cá trong giai đoạn mùa xuân. Điều đó làm kéo dài thời gian sinh trưởng trong
năm của cá nuôi.
- Xây dựng ao thành nhiều ao nhỏ. Các ao hiện đại có diện tích chỉ
khoảng 1000m2.
- Mật độ nuôi cá chình trong ao liên tục được tăng lên. Cùng với sự gia
tăng về mật độ thì việc quản lý về chất lượng nước cũng liên tục thay đổi cho
phù hợp.
17
Từ Nhật Bản, nghề nuôi cá Chình đã lan rộng sang Trung Quốc, Hàn
Quốc, Đài Loan. Những năm 70 của thế kỷ XX việc nuôi cá Chình được bắt
nguồn đầu tiên ở Nam và Đông của Trung quốc với mục đích xuất khẩu. Năng
suất nuôi ban đầu chỉ giới hạn trong khoảng 300 đến 450kg/ha, bởi vì thiếu kĩ
thuật, thức ăn và kế hoạch phát triển. Tuy nhiên, từ năm 1980 với việc áp dụng
hệ thống nuôi thâm canh, các trang trại nuôi Chình đã có những bước tiến
nhanh chóng và sản lượng cũng tăng lên nhanh ở vùng đất liền (Yu,1988). Có
hàng trăm trang trại nuôi Chình mọc lên ở các tỉnh Quảng Đông và Phúc Kiến.
Năm 1988 tổng diện tích nuôi Chình của Trung Quốc là 530ha với sản lượng
hằng năm là 8000 -10.000 tấn và giá trị sản lượng là 65-80 triệu USD[17]. Vào
những năm 80-90 của thế kỷ XX, Trung Quốc đã thành công về kĩ thuật nuôi
cá chình trong ao đất, giúp nghề cá chình trong ao đất ở Trung quốc phát triển
nhanh chóng, giảm giá thành có thể cạnh tranh với nhiều nước.
Đài Loan đã học nghề nuôi cá chình và ứng dụng vào năm 1952, sau đó
mô hình nuôi cá chình thương phẩm quy mô nhỏ đã được tổ chức thực hiện
vào năm 1985, nuôi cá Chình trong các trang trại với quy mô lớn được thực
hiện vào năm 1964. Đến năm 1964, tổng diện tích nuôi cá Chình ở Đài Loan
xấp xỉ 3000 ha.
Ở Mỹ cũng thực hiện nuôi cá chình, tuy nhiên do nhu cầu người dân
không cao, nguồn lợi tự nhiên khá phong phú và ổn định nên số lượng trang
trại nuôi khoảng 50 trang trại, kỹ thuật nuôi được di nhập từ Nhật.
Canada có nguồn lợi cá chình phong phú nhưng do bởi nhiệt độ thấp
nên tốc độ tăng trưởng cá chình ở đây thấp hơn so với ở châu Âu.
Ở New Zealand, cá Chình được nuôi thử nghiệm ở trường đại học
Victoria, bang Wellington. Mục đích chủ yếu của chương trình là làm thế nào
để khai thác ổn định và tối đa nguồn lợi, thúc đẩy nghề nuôi cá Chình phát
triển, và nghiên cứu thêm đặc điểm sinh học của các loài cá chình ở New
Zealand. Còn ở Úc, hoạt động nuôi cá Chình vẫn nằm trong thử nghiệm và
đang thu hút sự quan tâm của người nuôi.
Ở các nước châu Âu, nhu cầu sử dụng cá chình ngày càng tăng lên.
Các định hướng phát triển chính cho các quốc gia châu Âu trong lĩnh vực
nuôi cá chình là:
18
- Cố gắng nuôi thử nghiệm và nuôi thương phẩm cá chình.
- Nghiên cứu hình thành các kỹ thuật mới trong việc nuôi cá chình,
đặc biệt trong việc sử dụng hệ thống nước tuần hoàn và hệ thống bảo toàn
nhiệt khép kín.
- Mở rộng xuất khẩu cá chình giống theo đường hàng không sang Nhật.
- Tiếp tục nghiên cứu các đặc điểm sinh học của cá chình để hoàn thiện
những vấn đề chưa hiểu biết về cá chình.
Một trong những khó khăn lớn nhất trong việc nuôi cá chình ở các
nước châu Âu là điều kiện nhiệt độ. Nhiệt độ quá thấp vào thời kỳ màu
Đông - Xuân là yếu tố khó khắc phục trong phát triển nuôi thương phẩm.
Nuôi cá Chình ở các nước Đông Nam Á và Nam Á vẫn chưa phát triển
mạnh, và chưa được quan tâm đầu tư do người dân ở các nước này còn nghèo,
bữa ăn của họ còn thiếu protein nghiêm trọng, như vậy việc nuôi cá Chình
đồng nghĩa với việc cạnh tranh nguồn thức ăn protein của con người. Hơn
nữa, do mức sống của người dân ở đây còn thấp nên họ không có điều kiện để
đầu tư cho hoạt động này (nhu cầu về vốn và kỹ thuật cao đã hạn chế hộ
nghèo tham gia). Nhu cầu nuôi thực tế ở khu vực này còn chưa phát triển do
đó những nghiên cứu ứng dụng cho nuôi khu vực này còn rất ít, chưa thu hút
sự quan tâm đúng mức. Vài năm gần đây mới bắt đầu thu hút được một số
nhà nghiên cứu về lĩnh vực này.
Bảng 2 : sản lượng nuôi cá Chình ở một số quốc gia 2001
Quốc gia
Sản lượng (tấn/năm)
Trung Quốc
155.800
Đài Loan
34.000
Nhật Bản
23.100
Hàn Quốc
2.600
Malaysia
2.400
Châu Âu
10.200
19
Trên thế giới hiện nay có 4 nước phát triển nuôi cá Chình mạnh nhất là:
Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, Trung Quốc.
Các loài cá Chình được nuôi chủ yếu hiện nay là: A. anguilla, A.
japonica, A. rostrata, A. cebesensis, A. bicolor pacifica, A. marmorata.
Trung Quốc là một quốc gia phát triển nuôi cá Chình muộn hơn so với
Nhật Bản, Đài Loan, nhưng do có lợi thế về diện tích rộng lớn, nguồn giống
phong phú, phát triển nuôi cá Chình trong ao rất sớm...Từ những lý do đó đã
khiến Trung Quốc trở thành quốc gia đứng đầu thế giới về sản lượng cá
Chình (155.800 tấn/năm). Sau Trung Quốc là Đài Loan (34.000 tấn/năm),
mặc dù có nghề cá Chình phát triển sau Nhật Bản và Trung Quốc nhưng với
những lợi nhuận không kém gì Trung Quốc và một chiến lược sản xuất với
trình độ thâm canh cao nên chỉ trong vòng 30 năm đã phát triển vượt qua
Nhật Bản về lĩnh vực này.
Hệ thống nuôi hiện nay trên thế giới có 2 phương thức nuôi đó là nuôi
ao nước tĩnh và nuôi ao nước chảy.
Tại Nhật Bản, do giá đất đặc biệt nên các ao nuôi cá chình nước tĩnh
(chiếm diện tích lớn) đã từng được sử dụng trước đây nay được thay thế hầu hết
bởi các bể trong nhà kín với hệ thống nước chảy tuần hoàn và cung cấp nhiệt chủ
động, và thức ăn cung cấp cho cá chình đã được tính toán theo công thức khi cho
ăn. Hầu hết các nước Châu Âu cũng được thực hiện theo phương pháp này. Còn
ở Trung Quốc thì nuôi chủ yếu trong ao đất với hệ thống nuôi đơn, hệ thống
máy quạt nước. Ao nuôi hình chữ nhật, đáy được làm bằng phẳng và nghiêng về
hướng có ống thoát nước, có lớp cát hay lớp sỏi dày từ 3 - 5 cm dưới đáy, hai
máy quạt nước được đặt đối diện nhau tại các góc ao để cung cấp oxy cho cá.
3.7. Tình hình nuôi cá chình ở Việt Nam
Cũng như các quốc gia đang phát triển trong khu vực, các đối tượng cá
dữ, cá ăn động vật chưa thật sự được quan tâm phát triển ở Việt Nam. Đặc
biệt đối với cá Chình, là loài cá phân bố tập trung ở khu vực miền trung, nơi
mà mức sống của người dân còn thấp thì việc nghiên cứu phát triển nuôi các
đối tượng này càng ít được coi trọng. Chỉ mãi đến khi có những đổi mới trong
cơ chế quản lí nhà nước, đời sống của người dân được nâng cao, nhu cầu bữa
20
ăn có chất lượng cao đã kích thích người sản xuất đầu tư đưa ra thị trường
những sản phẩm có chất lượng cao hơn.
Nghề nuôi cá Chình ở Việt nam có thể nói mới chỉ phát triển trong
khoảng gần 20 năm trở lại đây nhưng đã có những bước phát triển đáng kể cả
về kĩ thuật nuôi cũng như sản lượng. Tuy nhiên, cũng như các nước khác trên
thế giới nguồn cá giống để nuôi cá chình lên thành cá thịt đều được khai thác
từ tự nhiên. Ở Việt Nam cá chình giống tập trung chủ yếu ở các tỉnh ven biển
từ Quảng Bình đến Bình Thuận, tập trung nhiều nhất ở các tỉnh Phú Yên,
Quảng Trị và Thừa Thiên Huế. Cá chình giống ở các địa phương này được
thu gom và nuôi thành cá thịt.
Nghiên cứu thử nghiệm nuôi cá chình đầu tiên ở Việt Nam được thực
hiện tại viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản II - Thành phố Hồ Chí Minh.
Tuy nhiên đến nay kết quả vẫn chưa được công bố một cách chính thức. Năm
1996, ở Bình Định đã thử nghiệm nuôi cá chình trong bể xi măng, qua 3 tháng
nuôi cá chình con tăng trọng 20 – 30% và đang dự kiến nuôi ở lồng kích
thước 8m x 4m x 4,4m, trụ gỗ, khung bằng tre, lưới nilon (mắt lưới nhỏ hơn
5mm), đáy lồng có bùn và đá.
Năm 2000, Viện nghiên cứu nuôi thủy sản I (Bắc Ninh ) thực hiện đề
tài "Nghiên cứu nuôi thử nghiệm cá chình Nhật (A. japonica) ở khu vực miền
Bắc Việt Nam" được triển khai với nguồn giống và thức ăn nhập từ Trung
Quốc. Kết quả nuôi thử nghiệm cho thấy cá chình Nhật có thể sống khá tốt
trong ao đất nhưng hệ số sử dụng thức ăn còn cao.
Năm 2001, người dân Phú Yên cũng tiến hành nuôi cá chình trong lồng
trên sông, thời kì cao điểm có trên 200 lồng. Đối tượng được nuôi gồm 2 loài
cá chình là cá chình Bông (A. marmorata), và cá chình Mun (A. bicolar
pacifica). Tuy nhiên, do nắng hạn kéo dài, cá bị chết hàng loạt, gây thiệt hại
lớn về kinh tế cho người nuôi, nên đến tháng 12/2001 tỉnh Phú Yên chỉ còn
khoảng 20 – 30 lồng nuôi.
Hiện nay ở các tỉnh phía Nam như An Giang, Tiền Giang, Cửu Long, Bến
Tre... phát triển mạnh nghề nuôi cá Chình. Cá chình được nuôi ở nhiều hình thức
khác nhau như nuôi trong ao đất nước ngọt hay nước lợ, nuôi trong bể xi măng,
và nuôi trong lồng. Thức ăn nuôi cá Chình chủ yếu là cá vụn, tôm tép nhỏ ốc
21
bươu vàng, hoặc cá tạp, cá biển. Cá giống cỡ 50-70 con/kg sau 1 năm nuôi có
thể đạt trọng lượng trên 1kg, giá bán từ 27.0000 – 320.000 đồng/kg.
Gần đây, người dân cũng áp dụng hình thức nuôi trong bể xi măng hoặc
trong bể xây bằng gạch với điều kiện: phải có dòng nước chảy trong ao, phải
nuôi bằng thức ăn công nghiệp chế biến riêng cho cá chình, phải được chăm
sóc chu đáo .
Phong trào nuôi cá Chình ở Thừa Thiên Huế chậm phát triển mặc dù có
tiềm năng lớn về nguồn con giống.Trại cá Cư Chánh đã nuôi thử nghiệm
trong bể xi măng. Hiện nay có một số hộ nông dân ở Hương Toàn (Hương
Trà), Thuỷ Bằng (Hương Thuỷ), Phú Thanh (Phú Vang) đang được nuôi cá
Chình trong lồng trên sông Hương và sông Bồ bước đầu có kết quả tốt.
Cá chình hiện đang là đối tượng thu hút được sự quan tâm của người
nuôi và các nhà nghiên cứu.
22
PHẦN 4
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Các loài cá Chình trong giống Anguilla hiện đang sống tại các thủy
vực ở địa bàn Huyện Phú Lộc _Thừa Thiên Huế
4.2. Nội dung nghiên cứu
- Xác định thành phần loài cá chình trong giống Anguilla hiện đang
sống tại các thủy vực địa bàn Huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế
- Tìm hiểu tình hình nuôi cá chình tại địa bàn khu vực hồ Truồi, huyện
Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế
4.3. Thời gian nghiên cứu
- Từ ngày mồng 06 tháng 01 năm 2010 đến mồng 06 tháng 05 năm
2010.
4.4. Địa điểm nghiên cứu
- Việc nghiên cứu thành phần loài được tiến hành thu mẫu ở tất cả các
loại hình thủy vực tại địa bàn huyện Phú Lộc – tỉnh Thừa Thiên Huế
- Việc tìm hiểu tình hình nuôi cá chình đươc tiến hành ở hai xã: Vinh
Mỹ và Lộc Điền; huyện Phú Lộc – tỉnh Thừa Thiên Huế .
4.5. Phương pháp nghiên cứu
4.5.1. Phương pháp thu mẫu
Các mẫu cá Chình được thu trực tiếp thông qua ngư dân khai thác hoặc
gián tiếp thông qua tư thương thu gom hàng, xác định rõ nguồn gốc, nơi đánh
bắt, thời gian và phương thức khai thác. Các mẫu thu được phải miêu tả hình
thái bên ngoài sau đó bảo quản bằng Formol 4%và phân tích
4.5.2. Phương pháp xác định thành phần loài
Dựa vào khóa định loại họ cá Chình Việt Nam theo Tạp chí khoa học –
Khoa học tự nhiên – Đại học tổng hợp H. à Nội (01/1994) của tác giả Nguyễn
Hữu Dực và Mai Đình Yên. Cụ thể như sau:
23
1. (6) Khởi điểm vây lưng nằm cao hơn khởi điểm của vây hậu môn
nhiều, tối thiểu bằng 2/3 chiều dài đầu
2. (3)Cơ thể có chấm hoa đen rải rác ……Anguilla marmorata
3.(2) Cơ thể không có chấm hoa
4. (5) Chiều dài đầu bằng khoảng cách giữa khởi điểm của vây lưng và
khởi điểm của vây hậu môn…………………………. Anguilla borneensis
5. (4) Chiều dài đầu lớn hơn khoảng cách giữa khởi điểm của vây lưng
và khởi điểm của vây hậu môn…………………………. Anguilla japonica
6. (1) Khởi điểm vây lưng nằm đối diện hoặc gần đối diện với khởi
điểm của vây hậu môn ………………….. Anguilla bicolar
4.5.3. Phương pháp tìm hiểu tình hình nuôi cá chình
- Trực tiếp điều tra qua thực tế ở tại địa phương thông qua các tài liệu
của ban ngành chuyên môn
- Tiến hành phỏng vấn trực tiếp người dân và những người hiểu biết về
đối tượng này.
4.6. Phương pháp xử lý số liệu.
Xác định tốc độ sinh trưởng về chiều dài và trọng lượng:
- Tốc độ sinh trưởng tính phần trăm theo trọng lượng:
Wtb2 –Wtb1
Ww(%) =
x 100%
Wtb1
- Tốc độ sinh trưởng tính phần trăm theo chiều dài :
Ltb2 - Ltb1
Ll (%) =
x 100%
Ltb1
Trong đó:
• Ww (%), Ll (%): Tốc độ sinh trưởng tính phần trăm theo khối lượng
và chiều dài
• Wtb1 (g), Ltb1 (cm): khối lượng và chiều dài cá ban đầu
• Wtb2 (g), Ltb2 (cm): khối lượng và chiều dài cá sau khi nuôi
24
- Tốc độ sinh trưởng đặc trưng trên ngày về khối lượng :
LnWtb2 - LnWtb1
SGRw =
T2 - T1
- Tốc độ sinh trưởng đặc trưng trên ngày về chiều dài:
LnLtb2 - LnLtb1
SGRl =
T2 - T1
Trong đó:
• Wtb2(g), Wtb1(g): Khối lượng trung bình tại thời điêm T2 và T1
• Ltb2(cm), Ltb1(cm): Chiều dài trung bình tại thời điêm T2 và T1
- Tốc độ sinh trưởng tuyệt đối trung bình ngày về chiều dài:
Ltb2 - Ltb1
DL G =
(cm\ngày)
T2 -T1
- Tốc độ sinh trưởng tuyệt đối trung bình ngày về khối lượng:
Wtb2 – Wtb1
DW G =
(g\ngày)
T2 -T1
- Tỷ lệ sống.
TLS (%) =
Số cá thể còn lại trong ao
Số cá thể thả lúc đầu
25