THỰC TRẠNG Ô NHIỄM PHÓNG XẠ
I. THỰC TRẠNG Ô NHIỄM PHÓNG XẠ TRÊN THẾ GIỚI
Theo uỷ ban năng lượng Hoa Kỳ, phóng xạ urani ở các nhà máy điện hạt nhân, kho vũ
khí, trung tâm nghiên cứu và các khu vực trước kia có xảy ra nổ hạt nhân như
Hiroshima, Nagasaki, Chernobyl v.v hằng năm làm nhiễm độc 2.500 tỉ lít nước ngầm
của thế giới.
Trận động đất sóng thần ngày 11 tháng 3 năm 2011 ở Nhật đã làm cho nhiều nhà máy
phát điện ngưng hoạt động, ít nhất 3 vụ nổ lò phản ứng do sự tích tụ khí hydro khi hệ
thống làm mát của các lò phản ứng bị hỏng. Tính đến ngày 14 tháng 3, có khoảng 160
người đã tiếp xúc với phóng xạ ở mức độ nguy hiểm gần các nhà máy điện hạt nhân.
I. THỰC TRẠNG Ô NHIỄM PHÓNG XẠ TRÊN THẾ GIỚI
Sóng thần đã gây ra 2 vụ nổ
lớn tại nhà máy Fukushima I
gây rò rỉ phóng xạ. Cơ quan an
toàn hạt nhân và công nghiệp
Nhật Bản báo cáo rằng mức độ
phóng xạ bên trong nhà máy
gấp 1000 lần mức bình thường,
mức độ phóng xạ bên ngoài
nhà máy gấp 8 lần mức bình
thường.
Nhà máy điện Fukushima bị phá hủy trong trận động đất, sóng thần
hồi tháng 3/2011
Thực vật bị đột biến
gen vì phóng xạ gần
Fukushima
Phát hiện nước nhiễm
xạ rò rỉ ở Fukushima
I. THỰC TRẠNG Ô NHIỄM PHÓNG XẠ TRÊN THẾ GIỚI
• Mỹ đã thả 2 quả bom nguyên tử
xuống 2 thành phố Hiroshima và
Nagasaki của Nhật năm 1945 đã
gây hậu quả khủng khiếp đối với
môi trường và con người.
• Đến tháng 12 năm 1945, hàng ngàn
người chết bởi vết thương, nhiễm
độc phóng xạ đưa tổng số tử vong
ở Hiroshima trong năm 1945 lên
140 ngàn.
I. THỰC TRẠNG Ô NHIỄM PHÓNG
XẠ TRÊN THẾ GIỚI
Trong thời gian 1950 đến
1990, thống kê ước tính
hàng trăm người chết hàng
năm do nhiễm phóng xạ
của hai vụ nổ Hiroshima và
Nagasaki.
I. THỰC TRẠNG Ô NHIỄM PHÓNG XẠ TRÊN THẾ GIỚI
• Với những người may mắn
sống sót, sức khỏe của họ suy
giảm trầm trọng. Họ mất cảm
giác ngon miệng, tóc rụng,
nhiều đốm xanh lợt xuất hiện
trên cơ thể. Máu chảy ra từ tai,
mũi, miệng.
II. HIỆN TRẠNG Ô NHIỄM PHÓNG XẠ TẠI VIỆT NAM
• Phòng kỹ thuật Liên đoàn địa chất – xạ hiếm cho biết : ở Việt Nam có một số vùng bị nhiễm xạ tự nhiên như xã
Tiên An ( huyện Tiên Phước , Quảng nam), Nậm Xe (Lai Châu), Bình Đường (Cao Bằng), Đông Nam Bến Giằng
(Quảng Nam) và vùng mỏ đất hiếm Mường Hum (huyện Bát Xát, Lào Cai)
• Nghiên cứu của hai nhà khoa học ở Hà Nội
là Giáo sư Lê Khánh Phồn, Trưởng khoa
dầu khí, ĐH Mỏ - địa chất và ông Nguyễn
Văn Nam, Phó phòng kỹ thuật, Liên đoàn
Địa chất xạ hiếm, đã chỉ rõ ô nhiễm phóng
xạ do khai thác mỏ sa khoáng titan (còn gọi
là cát đen).
II. HIỆN TRẠNG Ô NHIỄM PHÓNG XẠ TẠI
VIỆT NAM
Khai thác
titan ở
Bình
Định –
Một
nguồn
gây ô
nhiễm
phóng xạ
cao
II. HIỆN TRẠNG Ô NHIỄM PHÓNG
XẠ TẠI VIỆT NAM
• Việc nghiên cứu đã được thực hiện tại một địa điểm khai thác mà trong báo cáo chỉ
nêu là “khu mỏ sa khoáng quạng titan X (ven biển Nam Trung Bộ)”
• Các nhà khoa học đã tiến hành đo mức phóng xạ tại 1000 điểm thuộc khu vực nói
trên. Kết quả đo được kết luận như sau: vùng ô nhiễm phóng xạ (vượt quá tiêu chuẩn
an toàn cho phép đối với dân thường) bao quanh thân quặng có dạng kéo dài theo
hướng Đông Bắc – Tây Nam với biển rộng 200 – 500m, chiều dài khoảng 6km.
• Đặc biệt nghiêm trọng là cát thải, chất thải, nước thải từ xưởng tuyển quặng bị đưa ra
biển, làm cho nước biển vùng hai cửa song lân cận khu mỏ có mức phóng xạ vượt quá
tiêu chuẩn an toàn cho phép.
II. HIỆN TRẠNG Ô NHIỄM PHÓNG XẠ
TẠI VIỆT NAM
• Quá trình khai thác, chế biến, sử dụng các sa khoáng có chứa các
chất phóng xạ như: ilmenit, zircon, monazite,… dẫn đến sự làm giàu
và tăng khả năng xâm nhập của các nguyên tố phóng xạ vào môi
trường xung quanh gây ô nhiễm phóng xạ
• Kết quả, hàng năm có hàng trăm nghìn tấn cát bị đào xới, khối lượng
cát thải, chất thải khổng lồ bị san ủi ra môi trường xung quanh, nước
từ quá trình tuyển khoáng cho chảy trực tiếp ra biển, mà không qua
xử lý làm cho nước biển vùng hai cửa sông lân cận khu mỏ có mức
phóng xạ vượt quá tiêu chuẩn an toàn quy định.
II. HIỆN TRẠNG Ô NHIỄM PHÓNG XẠ TẠI
VIỆT NAM
• Đất hiếm ở Việt Nam (khoảng 17 - 22 triệu tấn) phân bổ chủ yếu ở 5
khu vực thuộc Tây Bắc gồm các tỉnh Lai Châu, Lào Cai và Yên Bái.
Tại miền Trung thì cũng có đất hiếm, nhưng chỉ dọc theo ven biển và
chủ yếu nằm trong sa khoáng nên trữ lượng không lớn lắm.
• Việc khai thác, chế biến đất hiếm có nguy cơ gây ô nhiễm hơn là khai
thác các loại như than đá, dầu mỏ rất nhiều. Vì chế biến đất hiếm
phải dùng nhiều loại hóa chất có ảnh hưởng đến môi trường. Ngoài
ra, trong đất hiếm có những khoáng chất mang tính phóng xạ với
cường độ cao hơn những loại phóng xạ khác; tức chứa đựng hai nguy
cơ: ô nhiễm hóa chất và ô nhiễm phóng xạ.
Khai thác đất hiếm
CÁC BIỆN PHÁP XỬ LÍ
Biện pháp sinh học: vi khuẩn đất tiêu
thụ ô nhiễm phóng xạ
+ Vi sinh vật trên được đặt tên là
Geobacter
+ Chúng được sử dụng để giữ ổn định, ngăn
chặn các chất độc hại như uranium phát triển
rộng, hạn chế những hậu quả tai hại do các
sự cố rò rỉ phóng xạ gây ra.
• Biện pháp hóa học: bột
loại bỏ phóng xạ
Loại bột đặc biệt trên
được hình thành từ nhiều
chất hóa học và khoáng
chất khác nhau, kể cả
zeolit. Nó có khả năng loại
bỏ các chất phóng xạ như
iốt, xêzi và stronti.
Biện pháp cơ học: Xây dựng các bứa tường cao và dày nhằm hạn chế
sự rò rỉ chất phóng xạ
Cấm sản xuất sử dụng và thử vũ khí hạt nhân
Hạn chế khai thác quặng
phóng xạ. Phải mang cá
thiết bị phòng hộ khi tiếp
xúc với nguồn phóng xạ
Chỉ sử dụng tia X khi cần thiết. Cấm chiếu cho những phụ nữ đang
mang thai
Hạn chế thời gian tiếp xúc với các nguồn gây
phóng xạ
Phải có khoảng cách thích hợp giữa nguồn
gây phóng xạ với nơi con người sinh sống
Dùng chì để bao bọc và bảo quản chất phóng
xạ
Tuyên truyền