Tải bản đầy đủ (.pdf) (41 trang)

KỸ THUẬT CHĂN NUÔI GÀ THẢ VƯỜN, ĐẶC ĐIỂM SINH LÝ GÀ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (555.42 KB, 41 trang )

KỸ THUẬT CHĂN NUÔI GÀ THẢ VƯỜN, ĐẶC ĐIỂM SINH LÝ GÀ
1. Giống gà
-

Gà con giống được mua từ những cơ sở ấp nở gà có uy tín về chất lượng con giống.

-

Cụ thể tại trại chọn giống gà nuôi FBT - Giống gà Lâm Đồng.

-

Gà con phải được ấp từ trứng của đàn gà giống đã được lựa chọn kỹ lưỡng, được
nuôi đúng quy trình, được nhận kháng thể của mẹ truyền qua một số bệnh như:
Gumboro, Newcatle.

-

Chọn những gà con khỏe mạnh, độ đồng đều cao, phản ứng nhanh nhẹn, không bị dị
tật, mỏ và chân vững chắc, màng da chân bóng. Tránh chọn những gà con nở quá
sớm hoặc quá muộn, những gà quá nhỏ, lông xơ xác, hở rốn, da chân nhăn và khô,
chảy nước mũi…

-

Khối lượng vào 1 ngày tuổi khoảng 40g trở lên.

2. Chuẩn bị chuồng trại và trang thiết bị.
-

Chuồng được xây dựng trên nền đất cao ráo và khô thoáng, dễ thoát nước. Nếu có thể


thì nằm trên vùng đất kém chất lượng về giá trị trồng trọt càng tốt. Nằm ở khu dân cư
thưa thớt. Có nguồn nước ngầm ổn định, sạch và dồi dào đủ tiêu chuẩn trong chăn
nuôi.

-

Chuồng nuôi đảm bảo thông thoáng tốt, đảm bảo tốt về tiểu khí hậu chuồng nuôi:
nhiệt độ, độ ẩm và sự thông khí.

-

Về hướng chuồng nên xây dựng hướng Đông – Tây dọc theo trục Bắc – Nam. Làm
sao tận dụng tối đa ánh sáng mặt trời vào buổi sáng sớm dọc theo chiều dọc của
chuồng và tránh được ánh nắng gay gắt của buổi trưa.

-

Kích thước chuồng nuôi khoảng 10 x 25 m, đủ nuôi từ 2000 – 2300 gà thả vườn.

-

Nền chuồng vững chắc, chịu được sức nén của những kết cấu, làm hình mu rùa với
độ dốc vừa phải để dễ thoát nước. Có thể đổ nền bằng đá và xi măng nhưng chú ý
làm khô và nhám, tránh tráng nhiều xi măng và tráng kỹ, sẽ làm nền không hút ẩm
tốt tạo độ ẩm ướt không tốt và rất dễ sinh bệnh tật. Ở các tỉnh miền Tây hay tùy
thuộc một số địa hình thích hợp có thể làm nền chuồng cao bằng đất và rải vôi, sau
đó nện chặt cho cứng và bằng là được hoặc có thể tận dũng xà bần và kết hợp với ít
ximăng.

-


Trụ quanh chuồng có thể đổ bằng cột bê tông hoặc bằng gỗ, cừ tràm sao cho độ cao
chuồng nuôi không kể mái 2.5 – 3.0 m (những vùng đất dễ xảy ra mối thì phải làm
trụ bằng cột bê tông hay bằng cây nọc tiêu). Một dãy chuồng kích thước 10 x 25m thì
chiều dài 2 cạnh cần 9 trụ và chính giữa 9 trụ, tổng cộng 27 trụ. Chuồng trại đơn giản
1


không cần cầu kỳ, quan trọng là đủ không gian thoáng mát, càng thông thoáng càng
tốt nhưng phải tránh được mưa tạt, gió lùa.
-

Nếu dựng trại giữa một vườn cây, tản xung quanh một mô hình vườn cao su thì rất
tốt, mô hình nuôi gà thả vườn trong vườn cao su là một mô hình tốt. Ban đêm khi gà
ngủ sẽ tự động vào chuồng, còn ban ngày sẽ ra vườn cao su chơi.

-

Xung quanh chuồng có thể xây gạch lên khoảng 20 – 30cm để giữ chất độn chuồng
không rơi vãi ra ngoài và cần có lỗ để rút nước dọc theo thành xung quanh. Sau đó sẽ
quây xung quanh bằng lưới để vừa thông thoáng và vừa tiết kiệm chi phí.

-

Mái trần có thể lợp lá hoặc lợp tole (fibroximent hoặc kim loại), nếu lợp tole kim loại
chọn màu trắng sáng để tránh hấp thụ nhiệt, độ dốc khoảng 300 để thoát nước mưa
tốt.

-


Hệ thống điện được mắc với điện lưới ngoài bên trong có cầu giao và đồng hồ để tiện
việc kiểm soát và sửa chữa. Cần dự trù máy phát điện riêng phòng những lúc mất
điện (khi mất điện gà chưa quen sẽ hoảng loạn, kêu la và tụm vào nhau theo bản
năng, do đó sẽ gây ra hiện tượng đè dẫn đến chết ngạt, hao hụt đàn gà). Có hệ thống
cầu giao riêng từng dãy chuồng nuôi, và hệ thống công tắc, ổ cắm ở giữa dãy chuồng
(chuồng được ngăn làm 2 để tiện việc cho gà ra vườn chơi và tách trống mái). Như
vậy mỗi dãy chuồng có 2 ngăn cần trang bị 2 quạt thổi có công suất mạnh nhằm giảm
bớt lượng khí độc chuồng nuôi.

-

Quanh chuồng dọc theo các cạnh cần có bạt để phòng khi mưa tạt gió lùa ta sẽ kéo
bạt xuống, bình thường thì cuốn bạt lên.

-

Hệ thống nước gồm: giếng khoan, máy bơm, bể chứa và hệ thống ống dẫn nước.
Mạng lưới ống dẫn và bể chứa phải đặt sao cho tránh ánh nắng mặt trời tác động làm
cho nước nóng. Các ống dẫn được chôn dưới lòng đất để tránh tác động nhiệt của
mặt trời làm nóng nước.
 Chuồng úm cho gà con: chuồng úm gia cầm con có thể sử dụng bìa cứng, cót
ép, tôn lá, tấm nhựa, kim loại… với chiều cao khoảng 0,5m và đường kính
2,5 – 3m đủ cho 300 – 500 gà con một ngày tuổi (lưu ý tấm quây phải đủ dài
để còn nới rộng theo sự phát triển của gà).
-

Nền được phủ một lớp độn chuồng đã được sát trùng và dày khoảng 15 – 20
cm.

-


Dọn vệ sinh sát trùng kỹ chuồng úm trước khi bắt gà về.

-

Chuẩn bị đầy đủ chụp sưởi bằng bóng điện có công suất 75 – 100W, treo cách
nền chuồng khoảng 30cm.

-

Khoảng 3,5 – 4W/m2.
2


-

Chuồng úm cho gà con phải đủ rộng và số lượng bóng đủ để làm ấm gà (trung
bình 100gà/bóng). Nếu gà con lạnh thì tụm nhau lại và nóng thì cũng có
không gian để tản ra.

3. Bắt gà con về.
-

Kích thước hộp vận chuyển gà con: 60 x 50 x 12cm; chia 4 ngăn. Mỗi mặt chiều dài
của hộp có 14 lỗ thông thoáng đường kính 2cm. Nắp hộp có 28 lỗ thông khí chia đều
4 ngăn với đường kính mỗi lỗ 2cm.

-

Để gà khỏi lạnh và không bị ngạt thì mỗi ngăn như vậy xếp 25 gà, như vậy mỗi hộp

vận chuyển 100 gà con.

-

Nhiệt độ trong hộp cần đảm bảo 30 – 320C và không giữ gà trong hộp quá 48 giờ
(mỗi giờ giữ trong hộp khối lượng gà con giảm 0,1g).

-

Vận chuyển gà vào sáng sớm hay chiều tối là tốt nhất.

-

Chuồng úm đã được chuẩn bị, tiêu độc, sát trùng toàn diện trước.

-

Trước khi bắt gà về khoảng 3 – 4 giờ cần làm ấm chất độn chuồng bằng cách bật các
bóng đèn sưởi.

-

Đóng kín rèm che trước khi thả gà vào chuồng úm.

-

Trước khi cho gà vào chuồng, nước uống (nước đun sôi để nguội hơi ấm) đã được
chuẩn bị sẵn trong máng (pha 5g đường glucose và 1g VitC cùng với một ít điện giải
cho 1 lít nước uống gà con). Tuyệt đối không được chuẩn bị nước uống sau khi đưa
gà vào chuồng.


-

Chuyển gà vào chuồng nhẹ nhàng cẩn thận, đặt các hộp xung quanh hết khi kiểm đủ
số hộp cho mỗi quây lúc đó tiến hành thả gà đồng loại vào chuồng. Đặt nhẹ hộp
xuống nền chất độn chuồng, nhẹ nhàng mở nắp hộp, sau đó mở những tấm ngăn giữa
các ô trong hộp ra, nghiêng nhẹ hộp để gà tụ vào một góc, rồi nhẹ nhàng lật hộp đưa
gà con xuống tiếp xúc với chất độn chuồng.

-

Sau khi gà con đã uống nước đầy đủ ta có thể tiến hành cho ăn (tránh gà con ăn chất
độn chuồng làm tổn thương hệ tiêu hóa). Trong trường hợp biết rõ thời gian gà nở
phải sau 6 giờ mới được cho ăn, cho ăn sớm hay muộn đều ảnh hưởng không tốt tới
sức khỏe đàn gà.

-

Trong tuần lễ đầu tốt nhất là cho ăn tự do. Nếu cho ăn theo bữa thì cho ăn 6 lần/ngày
và số bữa ăn giảm theo tuần tuổi, sang tuần 2 chỉ cho ăn 3 – 4 bữa/ngày.

-

Quan sát đàn gà nếu gà con tập trung gần nguồn nhiệt, chen lấn chồng đống lên nhau
là chuồng không đủ nhiệt độ, gà bị lạnh.

3


-


Nếu gà tản ra xa nguồn nhiệt, trạng thái nháo nhác, khát nước, há mỏ để thở là gà bị
nóng quá cần phải giảm nhiệt độ, nâng cao bóng đèn.

-

Nếu gà tụm lại một phía thì bị gió lùa rất nguy hiểm, cần phải che kín hết, vì vô tình
ta để một khoảng thông thoáng nào đó lại là tạo điều kiện để cho gió lùa.

-

Khi đủ nhiệt gà con vận động, ăn uống bình thường, ngủ nghỉ tản đều.
Bảng nhiệt độ úm gà con (0C)
Ngày tuổi
1–3
4–7
8 – 14
15 – 21

Chuồng có chụp sưởi
Nhiệt độ tại chụp úm Nhiệt độ chuồng nuôi
38
29
35
28
32
28
29
25


-

Ẩm độ chuồng úm từ 60 – 75%.

-

Tuần đầu bắt gà con chiếu sáng 24 giờ/ngày.

Nhiệt độ chuồng
nuôi bằng hơi ấm
31 – 33
31 – 32
29 – 31
28 – 29

4. Dinh dưỡng thức ăn.
4.1.

Năng lượng

-

Trong quá trình sống gia cầm luôn trao đổi năng lượng với môi trường xung quanh
và luôn thu nhận năng lượng từ bên ngoài vào, vì mọi hoạt động sống đều cần năng
lượng. Năng lượng này đều được lấy từ thức ăn mà gia cầm thu nhận hàng ngày như
cacbonhydrate, lipid, protein.

-

Gia cầm nhận thức ăn bên ngoài vào qua sự tiêu hóa và hấp thu các vật chất trên ở

đường tiêu hóa, sau khi được hấp thu vào cơ thể tổng hợp thành lipid, đường
glucogen, protein của của cơ thể qua con đường tổng hợp sinh học.

-

Tất cả năng lượng thừa sau khi sử dụng cho sinh trưởng bình thường các hoạt động
sống của con vật sẽ không loại khỏi cơ thể mà tích lũy trong mỡ. Mức năng lượng có
xu hướng tỷ lệ thuận với hàm lượng mỡ trong thịt.

-

Hiện nay người ta tính toán nhu cầu năng lượng cho gia cầm bằng năng lượng trao
đổi (ME – Metabolisable Energy).

-

Gia cầm thu nhận thức ăn trước hết là để thỏa mãn nhu cầu năng lượng. Do đó khi
thu nhận đủ năng lượng rồi thì chúng không ăn thêm nữa, mặc dù nhu cầu các chất
dinh dưỡng khác vẫn còn thiếu. Vì vậy có thể nói năng lượng là “chìa khóa chính”
cần sử dụng trong khi phối hợp khẩu phần ăn cho các loại gia cầm.

-

Mức năng lượng trong khẩu phần có liên quan đến nhiệt độ môi trường và lượng thức
ăn thu nhận. Nhiệt độ môi trường cao sẽ làm giảm lượng thức ăn thu nhận. Trong
4


mùa hè, khi nhiệt độ môi trường >290C, nếu cho gà ăn thức ăn có cùng mức năng
lượng như mùa đông thì nó chỉ thu nhận thức ăn bằng 80 – 85% lượng thức ăn thu

nhận trong mùa đông.
-

Khả năng tiêu hóa mỡ và xơ của gia cầm rất kém trong những tuần đầu đời, do đó
không nên sử dụng thức ăn có hàm lượng béo và xơ quá cao.

-

Ngoài hàm lượng các chất dinh dưỡng còn phải chú ý tới sự cân bằng các dưỡng
chất. Cân bằng giữa năng lượng và protein; cân bằng các acid amine; cân bằng Ca và
P. Tỷ lệ giữa năng lượng trao đổi và 1% protein ở gà con rơi vào khoảng 135 – 150.
Lysine và Methionine là không thể thiếu, cần chú ý.

-

Các dưỡng chất đã được tối ưu trong thức ăn hỗn hợp. Nhưng tùy vào giai đoạn phát
triển của gà, người chăn nuôi theo dõi và quan sát đàn gà sẽ có những bổ sung nhất
định thêm vào trong thức ăn hỗn hợp.

-

Tỷ lệ xơ không vượt quá 5%.

-

Giai đoạn gà con cho ăn tự do. Muốn đàn gà sinh trưởng phát triển hợp lý và độ đồng
đều thì phải đảm bảo tất cả gà phải có ăn trong vòng 3 phút. Thực hiện điều đó bằng
cách bố trí máng ăn đủ và treo tất cả máng ăn và đổ thức ăn đầy đủ từng máng, xong
rồi sẽ đi hạ hết máng ăn xuống, hạ trong thời gian càng nhanh càng tốt, sao cho trong
vòng 3 phút phải hạ xong hết các máng của một dãy chuồng cho ăn.


-

Gà con mới nở thường bị thiếu VitA nên trong tuần đầu cần cung cấp lượng Vit A
khoảng 2000 IU.

5. Bố trí máng ăn và máng uống
-

Nếu không có máng ăn đặc chủng của gà con thì có thể dùng khay ăn.

-

Tùy kích thước khay ăn hoặc máng ăn mà dùng cho số lượng gà phù hợp, sao cho tất
cả gà đều có không gian để ăn.

-

Dùng khay ăn độ dày thức ăn rải 0,5 – 1cm.

-

Khi dùng máng ăn chỉ đổ thức ăn ½ máng ăn để tránh rơi vãi cao. Qua thí nghiệm
của một số tác giả thì nếu đổ đầy máng ăn tỷ lệ hao hụt là 29%; đổ 2/3 tỷ lệ hao hụt
là 7,4%; đổ ½ máng ăn tỷ lệ là 2,1%; đổ 1/3 tỷ lệ hao hụt là 1,3%. Tuy nhiên nếu đổ
thức ăn trong máng ít quá sẽ ảnh hưởng đến thức ăn thu nhận của gà.

-

Khi gà con còn nhỏ trong tuần đầu khi chưa hết lồng úm thì có thể dùng khay ăn

(kích thước 40 x 60) hay dùng máng ăn (P20). Một khay ăn cho 40 gà con và một
máng ăn thì cho 20 – 25 gà con.

-

Những thức ăn còn lại trong khay hay máng ta sàng lại để loại bỏ chất độn chuồng
sau đó có thể cho gà ăn lại thức ăn đó (lưu ý chỉ trong ngày và ngày sàng khoảng 2
lần).
5


-

Cần lưu ý một điều rằng muốn đồng đều về khối lượng thì tất cả gà phải có ăn trong
vòng 3 phút.

-

Khi đã buông chuồng úm (hết tuần đầu ta có thể buông chuồng úm) thì cho thay hoàn
toàn bằng máng ăn P40. Một máng như vậy cho 40 – 50 gà trong cuối tuần thứ 2 đến
tuần thứ 4. Từ tuần thứ 4 trở đi thì một máng ăn như vậy cho 40 gà là vừa. Và đến
tuần thứ 6 thì một máng như vậy chỉ cho khoảng 30 gà thôi. Lúc này gà cũng được
buông hết ra vườn rồi ta có thể dùng vỏ bao trải xuống nền vườn rồi đổ thức ăn ra
cho ăn, làm sao cho tất cả gà đều có ăn trong vòng 3 phút, như vậy mới đồng đều về
khối lượng.

-

Máng ăn phải treo ở độ cao thích hợp tùy thuộc vào độ lớn của gà mà chỉnh độ cao
của máng ăn sao cho vừa để gà thu nhận được lượng thức ăn tối đa lại vừa không để

gà đi phân hay làm văng chất độn chuồng vào máng ăn. Theo chỉnh độ cao thì phần
dưới của máng ăn ngang bằng với phần lườn, lưng; để khi gà ăn chỉ phần cổ ngóc lên
mổ thức ăn, không bới thức ăn được, vì vậy tránh được hao hụt.

-

Ở cách móc dưới treo máng ăn khoảng 40cm buộc một móc kẽm để khi cho gà ăn
khoảng 30 phút ta treo máng khoảng 2 – 3 giờ giúp gà tạo cảm giác thèm ăn và tận
dụng thức ăn (gà sẽ lượm những hạt thức ăn rơi vãi trên nền chuồng), làm tăng khả
năng lợi dụng thức ăn của gà (ăn lượng ít nhưng vẫn tăng trưởng tốt) (sự tiêu hóa
trong đường tiêu hóa của gia cầm rất nhanh, chỉ khoảng 2 – 4 giờ). Vào mùa hè, buổi
trưa thường nóng, gà lại không có tuyến mồ hôi, do đó sẽ thải nhiệt bằng cách xõa
cánh, chui mình xuống lớp chất độn chuồng dưới máng uống, thở; vì vậy mà gà sẽ
không ăn hoặc ăn ít, có vô máng chỉ phá thức ăn cho rơi vãi, nên ta treo máng thời
gian lâu hơn, khoảng 10h00 - 10h30 trưa ta treo máng đến 14h00 – 14h30 chiều mới
hạ máng cho ăn lại.

-

Một thời gian có thể đưa ra như sau: 05h30 – 06h00 sáng cho ăn, chỉ cần 30 phút là
gà có thể ăn xong, ta treo máng ăn, sau đó vệ sinh máng uống và thay nước mới; Đến
09h00 – 09h30 cho ăn và khoảng 10h00 treo máng; Đến 14h00 - 14h30 cho ăn và
15h00 treo máng đồng thời đổ thức ăn; 17h30 cho ăn và 18h00 treo máng và đổ thức
ăn sẵn vào máng và để máng treo suốt đêm đến sáng tiếp tục lặp lại. Điều này chỉ áp
dụng khi đã cho gà ngủ từ ngay khi tối tức là từ tuần thứ 6, còn các tuần khác cho ăn
theo cữ và theo thời gian chiếu sáng, kết hợp lại giữa bữa ăn và thời gian chiếu sáng
sao cho phù hợp.

-


Khi hết thời gian chiếu sáng ta treo máng và đồng thời đổ sẵn thức ăn trong máng để
công việc thuận lợi hơn và sắp xếp được thời gian khi đến lúc trời sáng để còn làm
những công việc khác. Vấn đề là biết cách sắp xếp thời gian hợp lý thì mọi chuyện sẽ
trở nên đơn giản và thuận lợi.
6


-

Treo máng không những tác dụng tận dụng thức ăn, tăng khả năng lợi dụng thức ăn
mà còn tạo không gian thoải mái cho gà nữa. Mỗi máng P40 có diện tích 0,1256 m2,
mà cứ 40 gà 1 máng tức 25 máng cho 1000 gà tốn diện tích cũng khá lớn làm mất
không gian của gà đặc biệt là những lúc trưa nắng nóng. Khi ta treo máng ăn ngoài
trời thì trong chuồng chỉ để 2 – 3 máng nên điều này ta không quan tâm.

-

Treo máng ta đổ thức ăn vào và hạ máng một lần sẽ thực hiện được tất cả gà có ăn
trong 3 phút điều đó là cần thiết.

-

Đến hết tuần thứ 4 ta tháo bớt máng ăn và máng uống trong chuồng ra và treo ra
ngoài trời (nơi có bóng mát) để cho gà ra ngoài càng nhiều càng tốt như vậy sẽ giúp
gà thoải mái, không bị stress do nhiệt và chất độc chuồng nuôi, bên cạnh đó cũng làm
tăng sức đề kháng của gà, gà vận động nên thịt cũng thơm ngon và dai hơn. Từ đó gà
có sức khỏe tốt, mau lớn và đặc biệt là giữ được bộ lông tốt, không hoặc ít xảy ra
hiện tượng cắn mổ.

-


Ta có thể cắt những vỏ bao thức ăn và dựng lán ngoài trời cho gà, ở đó treo máng ăn,
máng uống, có đủ thức ăn và nước mát thì trưa nắng nóng gà sẽ ở đó. Lúc này thì ta
không tuân thủ quy tắc đổ thức ăn như trước nữa, mà khi trời tối, gà đi ngủ, ta không
đổ thức ăn sẵn phòng trời mưa và đêm sương xuống, nên lúc đó ta đổ vừa ăn, nếu dư
thừa tối đi kiểm tra còn thức ăn thì hốt đổ vào xô để mai cho gà ăn.

-

Cho gà ra vườn từ tuần thứ 4 là hợp lý, mô hình nuôi gà thả vườn trong rừng cao su,
vừa tận dụng bóng mát của cao su và có không gian cho gà vận động.

-

Khi trời mưa thì máng ăn không có thức ăn, cũng là lúc ta rửa máng ăn thôi, thường
về đầu mùa khô, trời hay mưa về buổi tối, ta để máng trống thức ăn, sáng dậy làm vệ
sinh máng (lau chùi sạch sẽ để khô) và cho gà ăn tiếp.

-

Vệ sinh máng ăn 1lần/10 ngày, tháo máng ăn rửa sạch, phơi khô sau đó xịt sát trùng,
để khô rồi tiến hành lắp máng ăn lại.

-

Nhu cầu nước uống cho 100 gà con tuần đầu khoảng 4 lít một ngày, tuần thứ 2 là 7
lít, tuần thứ 3 là 9 lít, tuần thứ 4 là 10 lít, tuần thứ 5 là 11 lít, 6 tuần tuổi là 12 lít
(thuộc vào nhiệt độ chuồng nuôi, nhiệt độ nước uống, khối lượng cơ thể, lượng thức
ăn thu nhận, hàm lượng muối trong thức ăn…).


-

Thường nhu cầu nước uống có liên quan đến lượng thức ăn tiêu thụ, tỷ lệ này thường
là 2/1.
7


-

Khi nhiệt độ môi trường tăng thêm 10C thì nhu cầu nước uống tăng thêm 2%. Khi
vượt quá 300C thì nhiệt độ môi trường tăng thêm 10C, nhu cầu nước uống sẽ tăng lên
6%.

-

NaCl tối thiểu trong thức ăn hỗn hợp cho gà là 0,2%, trung bình là 0,4%. Gà đẻ trứng
giới hạn cho phép không quá 0,8%.

-

Gia cầm nhạy cảm với sự thừa Na và Cl, 14 – 18 g muối mỗi ngày có thể giết chết gà
trong vòng 8 – 12 giờ.

-

Nước chứa 0,9% muối đã gây độc, nếu chứa 2% làm cho tất cả gà chết trong vòng 3
ngày.

-


Bình thường khẩu phần ăn của gia cầm hàm lượng NaCl là 0,3 – 0,5%.

-

Tập tính con gà không uống nhiều nước một lần nhưng lại uống nhiều lần trong
ngày, không ăn nhiều một lần nhưng lại ăn nhiều lần trong ngày, biết được tập tính
như vậy người chăn nuôi chủ động hơn trong việc ăn uống.

-

Máng uống phải treo ở độ cao thích hợp để gà có thể uống thoải mái và khi gà bới
không bị văng chất độ chuồng vào nước uống.

-

Cần bố trí máng uống sao cho gà đi lại không quá 3m sẽ gặp máng uống và bố trí xen
kẽ máng ăn – máng uống.

-

Cần lưu ý không được đặt máng uống dưới chụp sưởi. Gia cầm nói chung và gà nói
riêng không thích uống nước nóng. Gà không thích uống nước có nhiệt độ từ 250C.
Nhiệt độ nước uống từ 350C đã làm giảm rõ rệt lượng nước uống và nhiệt độ nước
uống là 450C gà không uống nữa mặc dù rất khát.

-

Nếu không sử dụng thuốc, men vi sinh… thì một ngày thay nước cho gà 2 lần, còn
nếu sử dụng thuốc hay men thì một ngày thay nước 3 lần (đối với máng uống bình
treo). Mỗi buổi sáng mang máng uống thay nước và rửa sạch (máng sẽ có cảm giác

nhớt nhớt do gà uống nước tiết ra). Nếu cho uống máng dài dọc theo cạnh chuồng thì
mỗi buổi sáng làm vệ sinh sạch sẽ, gà uống bao nhiêu thì xả nước vô bấy nhiêu.

-

Thường khoảng hết 6 tuần tuổi ta cho gà uống máng vì lúc này gà uống lượng nước
nhiều, nếu cho uống bình sẽ không cung cấp nước uống thường xuyên cho gà được
(những khi hết nước lại mang bình ra) mà đặc tính của con gà là một lần không uống
nhiều nước nhưng lại uống nhiều lần vì vậy uống máng lúc nào cũng có nước cho gà
(thấy hơi cạn nước ta xả tiếp). Bên cạnh đó việc cho uống máng hạn chế được việc
tốn nhiều thời gian không cần thiết, ta để thời gian đó quan tâm chăm sóc sức khỏe
đàn gà sẽ được tốt hơn và hiệu quả hơn.

-

Cần quan sát và kiểm tra lượng nước uống hàng ngày của đàn gà để đánh giá tình
hình sức khỏe của chúng.

6. Chăm sóc và nuôi dưỡng
8


-

Nhiệt độ úm cho gà quan trọng nhất là ngày đầu tiên, vì thời điểm này khả năng điều
tiết nhiệt của cơ thể gà con còn rất kém, lúc này phải giữ ấm thích cho gà, che kín
xung quanh tránh gió lùa nhưng cũng phải có độ thông thoáng thích hợp. Một số tài
liệu cho thấy trong 4 ngày đầu tiên, nhiệt độ môi trường là 1 – 100C thì tỷ lệ gà con
chết 40 – 50%, và duy trì đến sau 10 ngày thì tỷ lệ chết lên đến 60%, số còn lại sinh
trưởng kém, còi cọc.


-

Đặc điểm lớn của da gia cầm là mỏng, nghèo các tuyến dưới da, không có tuyến mồ
hôi. Trong những ngày đầu tiên sau nở, việc thải nhiệt xảy ra hoàn toàn trên bề mặt
da. Khi đó thân nhiệt của gà con khoảng 38,7 – 38,90C. Việc giữ nhiệt kém của bộ
lông tơ đã làm hạn chế khả năng thích nghi của cơ thể gà con với những thay đổi đột
ngột về nhiệt độ môi trường, vì vậy khi nuôi gà con, việc giữ nhiệt độ thích hợp là
quan trong nhất.

-

Vòng quây được mở rộng từ ngày thứ 3 và kết thúc vào ngày thứ 10 – 12 (mở rộng
hết mức). Từ ngày thứ 3 thì cần phải đặc biệt chú ý tới độ thông thoáng là quan trọng
(ta có thể mở bạt vào ngày thứ 3 để tạo thông thoáng cho gà), lúc này cơ thể gà con
đã thích nghi và cùng với nhiệt độ cơ thể gà thải ra (số lượng đông nằm gần nhau thải
ra lượng nhiệt cũng đủ để làm ấm) nên cần phải thông thoáng tránh khí độc gia tăng
trong chuồng nuôi.

-

Lớp chất độn chuồng lâu ngày sẽ bị phủ lên bởi lớp phân làm cho đông cứng và ẩm
ướt, không được khô xốp, lúc đó ta hốt hết lớp phân cùng với những chỗ nền chuồng
ẩm ướt và thế vào lớp chất độn chuồng mới. Thông thường trong một đợt gà ta tiến
hành rải thêm và mới chất độn chuồng khoảng 3 – 4 lần, tùy từng thời điểm mà khi
nào ta thấy lớp chất độn ẩm ướt, hay phân đã nhiều thì tiến hành hốt phân và rải chất
độn chuồng ngay.

-


Quan sát đàn trạng thái đàn gà trong thời gian nuôi úm là cách tốt nhất để xác định
nhiệt độ có phù hợp hay không? Đàn gà phân bố đều trong quây, trong chuồng nuôi
là nhiệt độ thích hợp.

-

Yêu cầu về oxy của gia cầm rất cao, gấp khoảng hai lần so với động vật hữu nhũ tính
theo 1kg khối lượng cơ thể. Vì vậy mà sự thông thoáng không đầy đủ sẽ ảnh hưởng
đến sự phát triển của gia cầm.

-

Nhu cầu về không khí phụ thuộc vào lứa tuổi của gà và mật độ nuôi. Ở gà con trung
bình cần 3 – 4 m3 không khí/1giờ/1kg khối lượng sống. Nhu cầu này tăng dần theo
lứa tuổi:
Tuần
tuổi
1–4
4–5
6–7

Thể tích không khí (lít không khí
mới/gà/phút)
5
7,5
15
9


-


Nếu tính trên 1kg khối lượng cơ thể thì gia cầm tiết ra một lượng hơi nước lớn gấp
10 lần so với đại gia súc. Gà con rất nhạy cảm với độ ẩm không khí chuồng nuôi và
lớp chất độn chuồng.

-

Một dãy chuồng như vậy chia làm 2 ô, mỗi ô phải được trang bị một quạt thổi công
suất mạnh, điều chỉnh độ cao của quạt hợp lý bởi tiểu khí hậu của con gà thấp hơn so
với động vật hữu nhũ, tiểu khí hậu của con gà nằm ở 0,5m tới nền, ta chỉnh quạt để
quạt cao từ 0,8 – 1,0m là hợp lý.

-

Để đảm bảo độ thông khí tốt, tốc độ gió trong chuồng nuôi thường từ 0,2 – 0,3
m/giây.

-

Về nguyên tắc thì kéo dài thời gian chiếu sáng sẽ làm tăng lượng thức ăn tiêu thụ,
kích thích cho cơ thể phát triển nhưng lại làm giảm hiệu quả lợi dụng thức ăn.

-

Đối với gà thả vườn thì giai đoạn tuần tuổi đầu có thể chiếu sáng 24h một ngày, sau
khi đã bỏ quây cho gà ra chuồng nuôi thì giảm dần cường độ chiếu sáng và đến tuần
thứ 3 sẽ tập cho gà ngủ. Bởi đối với gà thả vườn chúng ta không nên ép thúc cho gà
lớn nhanh quá, nếu chưa đầy 3 tháng mà khối lượng gà đã đạt (1,6 – 1,8kg/con trống)
thì thịt sẽ mềm và nhão, chưa săn chắc, thị trường không ưa chuộng; tuy nhiên điều
này cũng không quan trọng cho lắm bởi đối với số lượng lớn thì ta không thể tìm thị

trường nhỏ, làm sao xuất càng nhanh càng tốt. Mặt khác sẽ làm giảm hiệu quả sử
dụng thức ăn, đẩy FCR cao hơn, hao hụt thức ăn nhiều hơn.

-

Con gà thả vườn ta chỉ có thể nuôi theo hình thức bán công nghiệp chứ không thể
nuôi theo hình thức công nghiệp được, gà cũng như các động vật khác và con người
cũng vậy, cần phải có thời gian nghỉ ngơi, bên cạnh đó trong thời gian ngủ sẽ giúp
con vật tăng trưởng cao hơn, tích lũy tốt hơn, gà không phải mất năng lượng cho vận
động.

-

Mặt khác nếu nuôi nhốt theo hình thức công nghiệp mà không thả ra vườn thì sẽ có
nhiều mặt hạn chế. Thứ nhất là nuôi nhốt như vậy gà không thoải mái, tạo nhiều
stress cho gà dẫn đến việc cắn mổ lẫn nhau. Nếu ta hạn chế cắn mổi bằng cách đốt
mỏ gà thì thị trường nhỏ lẻ không chấp nhận, lúc đỏ ta chỉ bán cho lò mổ, giá cả thấp,
chăn nuôi không có lời. Thứ hai là nuôi bán công nghiệp thời gian có thể dài hơn
nhưng thị trường lại chấp nhận hơn bởi thịt thơm ngon hơn, bán có thể chia làm
nhiều đợt, tuyển lựa những gà đạt khối lượng bán trước còn lại nuôi tiếp, như vậy
ngày nào cũng có gà xuất bán lại được giá, được khối lượng.

-

Việc ngủ còn giúp gà đỡ cắn mổ lẫn nhau (gà ngủ nên ít đi lại phá nhau), nên sẽ giữ
được bộ lông tốt đó là cái mà thị hiếu người mua quan tâm nhất và là cái quan trọng
nhất ta cần phải đạt được để chiếm lĩnh thị trường.

-


Tập cho gà ngủ bằng các bóng điện mờ (bóng ngủ) và tập dần dần để tránh gà bị sốc.
từ tuần thứ 3 có thể 21h00 tập cho gà ngủ, tuần thứ 4 từ 20h00 - 20h30 và tuần thứ 5
10


từ 18h30 đến 19h00, sang đến tuần thứ 6 thì lúc này có thể cho gà ngủ ngay từ khi
trời bắt đầu tối.
-

Gà thức dậy rất sớm nên thức ăn và nước uống vẫn chuẩn bị cho gà đầy đủ, gà thức
dậy lúc nào sẽ ăn lúc đó, sáng sớm gà sẽ ra vườn vận động.

-

Từ 4 tuần tuổi có thể kết hợp thức ăn và bắp nghiền mịn, hay cỏ, ra xanh, phụ
phẩm… đến tuần thứ 5 trộn thêm mỡ heo vào thức ăn với liều lượng khoảng
100ml/25kg thức ăn, cách ngày trộn ngày, nhằm cung thêm chất béo giúp gia cầm tạo
năng lượng khi ăn hạn chế và giúp hấp thu tốt các Vit tan trong dầu.

-

Bắp ta rải trực tiếp xuống nền vườn cho gà ăn, gà sẽ thu lượm hết không phải đổ vào
máng.

-

Buổi sáng có thể cho gà uống probiotic và buổi trưa nắng nóng có thể cho uống điện
giải, Vit C, thỉnh thoảng bổ sung acid amin.

-


Có máy đốt mỏ chuyên dùng, khi thấy hiện tượng cắn mổ thì tiến hành đốt mỏ ngay
để tránh hao hụt đàn gà và giữ gìn bộ lông cho gà. Thường ta tiến hành đốt mỏ gà 3
lần trong dòng đời của một gà thả vườn. Đợt đầu lúc giữa tuần thứ 3, đợt II lúc 5 – 6
tuần tuổi (khoảng 37 đến 40 ngày tuổi), và đợt III lúc tuần thứ 9 – 10 (khoảng
65ngày tuổi). Tuy nhiên đến lúc đưa hầu hết gà ra vườn rồi ta có thể không cần phải
đốt mỏ lần III.

-

Khi thấy có hiện tượng cắn mổ chảy máu phải bắt nhốt riêng, có nước sạch và thức
ăn để sẵn cho gà. Sát trùng bằng cồn iod, để khoảng 3 ngày khi gà đã lành vết thương
thì thả gà vào trại tiếp.

-

Tập tính của gà là thích bay nhảy, trèo cây, có thể ngủ trên cây luôn, vì vậy ta có thể
gác cây cho gà trèo lên chơi, chống stress cho gà.

-

Khi được 5 hoặc 6 tuần tuổi ta tiến hành phân trống mái. Con trống thường ăn nhiều
và lớn nhanh hơn con mái. Bên cạnh đó con trống tính tình hung hăng hơn, nếu để
nuôi chung với mật độ đông như vậy khi ăn thì thường con trống sẽ giành hết phần
ăn của con mái, khi con mái lại máng ăn có khi con trống sẽ mổ, không cho ăn. Phân
trống mái để có chế độ nuôi dưỡng và chăm sóc hợp lý, tạo độ đồng đều (con trống
luôn lớn và nặng hơn con mái nhưng ta nuôi dưỡng hợp lý để tạo độ chênh lệch
khoảng 300g lúc xuất chuồng là hợp lý). Nếu nuôi đều thì khi tới xuất chuồng con
trống sẽ có khối lượng lớn (vượt 2kg/con), rất khó để thị trường chung chấp nhận.
Nuôi dưỡng sao để khi xuất chuồng trung bình con trống từ 1,8 – 2,0 kg và con mái

từ 1,5 – 1,7 kg là vừa.

7. Mào
-

Mào của gia cầm là do nếp gấp của da tạo thành, tại đó tập trung rất nhiều dây thần
kinh, mạch quản và các hốc máu làm cho chúng luôn có màu đỏ tươi. Có thể căn cứ
vào mào để đánh giá tình trạng sức khỏe và sức sản xuất của gia cầm. Khi bị bệnh
11


(đặc biệt là cầu trùng) hoặc khi gia cầm ốm yếu thì màu sắc của mào sẽ thay đổi, trở
nên tím tái, nhợt nhạt, đó là dấu hiệu đầu tiên để đánh giá sức khỏe của gia cầm.
8. Lông
-

Màu sắc lông của gia cầm gắn chặt với sự có mặt của những sắc tố melanin và
lipocrom. Melanin được tạo nên trong ty lạp thể của tế bào sinh trưởng biểu mô
melaniphor. Tiền sắc tố melanin là melanogen. Sự oxy hóa melanogen ở các mức độ
khác nhau sẽ cho ra các màu của lông khác nhau. Màu vàng rực rỡ của một số giống
gia cầm được tạo bởi sắc tố khác –lipocrom. Lipocrom hòa tan trong mỡ và có nguồn
gốc ngoại sinh. Chúng làm cho lông có màu vàng, đỏ, xanh da trời hoặc xanh lá cây.

-

Đến 30 ngày gà bắt đầu thay lông cánh và lông đuôi, kéo dài đến 55 ngày tuổi, và từ
ngày 42 gà bắt đầu mọc lông ống, lúc này trong thức ăn ta trộn thêm khoáng chất
tổng hợp cho gà (khoáng Biotine) cùng lúc đó cho gà uống thêm acid mine giúp cho
bộ lông phát triển tốt.


-

Nếu không có sắc tố thì lông màu trắng, đó là gia cầm bạch tạng, thường thấy ở các
giống gia cầm siêu thịt, do kết quả chọn lọc định hướng của các nhà tạo giống để tạo
ra sản phẩm broiler da sạch (không xuất hiện chân lông trên da của thân thịt).

-

Màu sắc, độ bóng mượt của lông liên quan chặt chẽ với tình trạng dinh dưỡng, sức
khỏe và sức sản xuất của gia cầm, bộ lông bóng mượt, tốt là gia cầm đang khỏe
mạnh, ngược lại lông xơ xác là báo hiệu triệu chứng bất thường.

9. Tiêu hóa và hấp thu
-

Độ dài của ống tiêu hóa gia cầm không lớn, thời gian mà khối thức ăn giữ lại trong
đó không vượt quá 2 – 4 giờ, ngắn hơn rất nhiều so với động vật khác.

-

Trong chất sừng của mỏ có rất nhiều các đầu dây thần kinh, có chạc ba được gọi là
các tiểu thể xúc giác.

-

Bề mặt trên lưỡi có những gai rất nhỏ, hóa sừng hướng về cổ họng, có tác dụng giữ
khối thức ăn trong miệng và đẩy chúng về phía thực quản.

-


Đối với gà thì cơ quan vị giác và khứu giác rất kém phát triển. Khi không đủ ánh
sáng gà sẽ ăn kém.

-

Gà mổ và nuốt thức ăn nhờ các động tác nâng lên, hạ xuống linh hoạt của đầu. Gà
thực hiện từ 180 – 240 động tác mổ trong 1 phút, gà tây 60.

-

Số lượng thức ăn mà gia cầm ăn được trong một đơn vị thời gian phụ thuộc vào mức
độ hấp dẫn của thức ăn, loài và tuổi của gia cầm. Khi gia cầm đói, nó mổ nhanh và ăn
nhiều. Gia cầm tiếp nhận thức ăn lỏng và nước bằng cách nâng đầu rất nhanh và
ngửa cổ lên để nuốt. Riêng chim bồ câu uống nước bằng cách thả mỏ, hút nước vào
nhờ áp lực âm trong xoang miệng.
12


-

Thức ăn đi trong khoang miệng, nó được thấm ướt nước bọt để dễ nuốt. Các tuyến
nước bọt của gia cầm phát triển kém. Động tác nuốt ở gia cầm được thực hiện nhờ
chuyển động rất nhanh của lưỡi, khi đó thức ăn được chuyển rất nhanh vào vùng trên
của hầu vào thực quản. Thanh quản được nâng lên phía trước và lên trên, lối vào
thanh quản bị ép tới đáy của xương dưới lưỡi và gốc lưỡi, ngăn không cho thức ăn
rơi vào đường hô hấp. Viên thức ăn thu nhận được ở cuống lưỡi được đẩy vào lỗ thực
quản và sau đó, do những co bóp nhu động của thành thực quản, nó được đẩy vào
diều. Ở gia cầm đói, thức ăn được đẩy thẳng vào dạ dày, không qua diều. Trong
thành thực quản có các tuyến nhầy hình ống, tiết ra chất nhầy, cũng có tác dụng làm
ướt và trơn thức ăn khi nuốt.


-

Ở gà diều chứa được 100 – 120g thức ăn lúc trưởng thành.

-

Khối lượng của dạ dày tuyến ở gà vào khoảng 3,5 đến 6g.

-

Acid Clohydric tự do không thường xuyên được tìm thấy trong khối chứa trong dạ
dày của gà con có độ tuổi từ 1 – 5 ngày.

-

Dạ dày cơ phía sau thùy trái của gan và lệch về khoang bụng trái của gia cầm. Dịch
tiêu hóa không được tiết ra ở dạ dày cơ.

-

Sự co bóp nhịp nhàng của dạ dày cơ xảy ra trong 2 pha, cả chu kỳ co bóp là 20 giây.

-

Sỏi và các dị vật chứa trong dạ dày có một ý nghĩa nhất định trong việc nghiền và
làm sạch những tiểu thể thức ăn trong khoang dạ dày. Chúng làm tăng tác dụng
nghiền của vách dạ dày.

-


Không có sỏi trong dạ dày cơ thì sự hấp thu các chất dinh dưỡng và hệ số tiêu hóa
thức ăn bị giảm xuống. Ở gia cầm non, việc thiếu sỏi trong dạ dày làm giảm khối
lượng tuyệt đối của dạ dày 30 – 35%. Các cơ của dạ dày sẽ trở nên nhũn và xuất hiện
những vết loét trên màng nhày.

-

Quá trình tiêu hóa các chất dinh dưỡng đều xảy ra ở ruột non gia cầm. Trong thành
phần dịch ruột có các men proteolyric, aminolytic, lypolytic và cả men enterokinase.

-

Dịch tụy của gia cầm trưởng thành có chứa các men tripsin, cacboxypeptidase,
amilase, mantase, invertase và lipase.

-

Lipase được dịch mật hoạt hóa, phân giải lipid thành glycerin và acid béo.

-

Mật được tiết ra không ngừng, một phần đi vào túi mật (gà, vịt, ngỗng), phần còn lại
thì đổ trực tiếp vào tá tràng. Ở chim bồ câu, gà phi và đà điểu không có túi mật, tất cả
mật tiết ra đều đổ thẳng vào tá tráng. Các thành phần điển hình của mật là các acid
mật, sắc tố và cholesterone, ngoài ra còn có glucid, các acid béo và các lipid trung
tính, các chất khoáng và các sản phẩm trao đổi chất có chứa Nitơ.

-


Các quá trình tiêu hóa và hấp thu ở ruột non xảy ra đặc biệt tích cực. Tiêu hóa ở
khoang là sự thủy phân thức ăn, còn tiêu hóa ở màng là các giai đoạn tiếp theo.
13


-

Sự tiêu hóa trong manh tràng của gia cầm nhờ có các men đã đi vào cùng với chymus
từ phần ruột non và từ hệ vi khuẩn. Các vi sinh vật bắt đầu thâm nhập vào manh
tràng gia cầm non ngay từ lần tiếp nhận thức ăn đầu tiên. Trong manh tràng cũng xảy
ra quá trình tiêu hóa protein, glucid và lipid.

-

Khả năng tiêu hóa chất xơ của gia cầm rất hạn chế. Cũng như động vật có vú, các
tuyến tiêu hóa của gia cầm không tiết ra một men đặc hiệu nào để tiêu hóa xơ. Một
lượng nhỏ chất xơ được phân giải trong manh tràng bằng các men do vi khuẩn tiết ra.
Những gia cầm nào có mang tràng phát triển như đà điểu, ngan, ngỗng… thì các chất
xơ được tiêu hóa nhiều hơn.

-

Khả năng hấp thu đường ở gà được phát triển trong 14 ngày tuổi.

-

Hấp thu nước ở gia cầm được thực hiện trong tất cả các phần ruột non và ruột già. Có
từ 30 – 50% nước uống được hấp thu.

-


Các chất khoáng được hấp thu trên toàn bộ ruột non.

-

NaCl đặc biệt dễ được hấp thu trong ruột gà con, vịt con và gà tây con.

-

Cường độ hấp thu Ca phụ thuộc vào nồng độ Ca trong máu.

-

Vit A được hấp thu ở mang tràng. Gia cầm non hấp thu Vit A nhanh hơn nhiều so với
gia cầm trưởng thành: sau 1 – 1,5 giờ sau khi cho ăn đã tìm thấy Vit này trong máu
còn ở gà đẻ chỉ thấy sau khi ăn 12 giờ.

10. Bài tiết
-

Khác với động vật có vú, sản phẩm có Nitơ cơ bản của nước tiểu gia cầm không phải
là urease mà là acid uric. Acid uric được tạo ra ở gan và là sản phẩm cơ bản cuối
cùng của sự trao đổi protein.

-

Do phôi chim phát triển trong vỏ bọc nhỏ và kín của trứng, lại không có sự hỗ trợ của
cơ thể mẹ (theo kiểu hoạt động của nhau thai) nên rất cần thiết sao cho các sản phẩm
cuối cùng của trao đổi chất phải được cô đặc. Acid uric thỏa mãn yêu cầu này tốt này
tốt hơn urease, vì urease ở nồng độ cao thì gây độc. Acid uric ở phôi được tích tụ

trong xoang túi niệu. Sau khi nở, túi niệu đã khô, cùng với các sản phẩm bài tiết, nó
được giữ lại trong vỏ nên không gây độc cho gia cầm con.

-

Cũng chính vì tính chất kết tủa nhanh của acid uric ngay sau khi được tạo ra nên gia
cầm không thể tích nước tiểu trong bàng quang mà phải thải nó ngay vào phân, đó
chính là lý do ở loài chim, sản phẩm trao đổi cuối cùng của protein là acid uric và
không có bóng đái.

-

Khi nghiên cứu cấu trúc vi thể của nước tiểu, người ta thấy có các hạt nước tiểu nhỏ
cấu tạo từ acid uric, chúng có hình dạng không lớn (kích thước gần như các hồng
cầu) có cấu tạo dạng tia, xung quanh được kết hợp với nhau bởi chất nhầy và tạo nên
một lớp màng đặc thù màu xám trắng trên phân. Nếu sự trao đổi bị phá vỡ, acid uric
14


được tạo thành nhiều đến nỗi có thể lắng đọng ngay trên bề mặt thận, gan và tim, bịt
kín các đường dẫn nước tiểu và có thể dẫn đến cái chết.
-

Số lượng urease, creatine và creatinine trong nước tiểu gia cầm là không đáng kể.
Nồng độ của chúng chỉ tăng lên chỉ khi nào sự trao đổi chất bị phá vỡ, cụ thể là khi
không có đủ các Vit nhóm B. Guanine được tìm thấy trong nước tiểu của gia cầm chỉ
khi nào nuôi chúng bằng bột cá.

11. Hệ nội tiết
-


Hoocmon của tuyến yên tác dụng lên hầu hết hoạt động của các tuyến nội tiết khác
và có ý nghĩa quan trọng cho việc phát triển của cơ thể và hoạt động bình thường của
gia cầm. Hoocmon của thùy trước và thùy sau tuyến yên là những protein thuộc
nhóm polipetid và glucoproteid.

-

Hoocmon kích thích nang (FSH) thúc đẩy sự phát triển nang ở buồng trứng của con
cái, ở con đực là việc lớn lên của các ống sinh tinh và sự phát triển của tinh trùng
trong tinh hoàn. LH cần thiết để cho những trứng chín thoát ra khỏi nang, tạo ra sự
rụng trứng và tạo nên các hoocmon sinh dục của buồng trứng. Ở con đực, hoocmon
này kích thích chức năng nội tiết của các tế bào kẽ ở tinh hoàn.

-

Prolactin điều khiển sự phát triển bản năng ấp trứng ở gia cầm và đẩy mạnh hoạt
động của tuyến ngực (ở chim bồ câu) kìm hãm việc tiết FSH và estrogen. Kết quả
chọn lọc định hướng của một số giống gà đã loại bỏ bản năng ấp trứng của chúng. Sự
xuất hiện bản năng ấp ở gà mái có thể ngừng nếu đưa estrogen vào.

-

ADH tăng cường việc hấp thu lại nước qua vách ống thận. Thiếu ADH dẫn tới việc
đái nhiều dẫn đến việc rối loại trao đổi nước. Vazopressin có tác dụng lên vách mao
mạch và động mạch nhỏ, tăng huyết áp máu.

-

Oxytocin kích thích sự co bóp cơ trơn của ống dẫn trứng và ruột.


-

Hàm lượng iod trong tuyến giáp của gia cầm cao hơn ở các động vật có vú, đạt tới
0,5 – 0,6% ở gà trưởng thành.

-

Trước khi xảy ra thay lông tự nhiên, cần phải có một liều thyroxin hoặc bột tuyến
này sấy khô (15g) để gây nên việc thay lông cưỡng bức ở gà. Người ta nhận thấy ở
gà bị cắt bỏ tuyến giáp, sự thay lông tự nhiên bị ngừng lại trong một thời gian dài.
Thay lông xuất hiện trong thời gian nhất định trong năm trùng với thay đổi chức
năng của tuyến giáp theo mùa.

-

Ảnh hưởng tress mạnh lên gia cầm (rút ngắn nhanh ngày chiếu sang, không cho ăn)
cũng gây ra thay lông sớm.

-

Hoạt tính của tuyến giáp tăng khi nhiệt độ không khí thấp và chuyển gia cầm từ ngày
ánh sáng dài sang ngắn.

-

Tuyến cận giáp có chức năng điều hòa trao đổi Ca và P.
15



-

Nhóm hoocmon thứ 3 của vỏ thượng thận: oestrogen, androgen và progesterone.
Chúng tham gia vào điều khiển phát triển bình thường của cơ và xương, phân hóa
các cơ quan sinh dục, mọc lông và thể hiện chức năng sinh dục.

-

Miền tủy thượng thận tiết ra 2 hoocmon: adrenalin và noradrenalin, chúng làm tăng
huyết áp và gây ảnh hưởng lên tim và mạch máu.

-

Các tác nhân stress cùng với việc đưa vào máu lượng adrenalin lớn sẽ làm giảm sản
lượng trứng, ở con trống có sự teo mô tinh hoàn.

-

Tuyến tụy vừa là tuyến nội tiết vừa là tuyến ngoại tiết: nội tiết tiến insulin và
glucagon, ngoại tiết tiết mật. Insulin kích thích quá trình biến đổi glucose thành
glucogen ở gan và cơ. Glucagon kích thích phá hủy glucogen trong tế bào gan và đưa
glucose vào máu. Mức độ điều tiết insulin và glucagon được điều chỉnh chủ yếu bằng
chính hàm lượng đường huyết. Tăng glucose sẽ kích thích sản xuất insulin, giảm
glucagon.

-

Tất cả các hoocmon được tạo ra ở tuyến sinh dục của con trống được gọi là androgen
còn ở con mái là oestrogen.


-

Chất có hoạt tính mạnh nhất là testosterone trong nhóm androgen.

-

Sau khi thiến gà trống, mào và tích nhỏ đi, tính tình thay đổi, mất sự quyến rũ giới
tính. Sau khi cắt buồng trứng, lông con mái trở nên giống lông con trống, mào, cựa
phát triển. Nếu gia cầm đã bị thiến mà cấy tuyến sinh dục của con khác vào thì xuất
hiện những dấu hiệu và tính cách của giới mới đưa vào.

-

Oestrogen được tạo thành trong buồng trứng trái của gia cầm. Việc đưa oestrogen
vào con mái chưa trưởng thành hoặc bị thiến làm hồi phục lại những dấu hiệu sinh
dục thứ cấp, phản xạ sinh dục và những phản xạ đã mất.

-

Tăng hàm lượng progesterone trong máu có thể gây nên rụng trứng thêm trong khi ở
tử cung đang có trứng.

12. Hệ sinh dục
-

Gia cầm thụ tinh trong, đẻ trứng.

12.1. Sinh lý sinh dục con mái.
-


Hình thành mầm sinh dục vào thời kỳ đầu của sự phát triển của phôi: gà vào ngày thứ
3, vịt và ngỗng ngày thứ 4 – 5. Thời kỳ phân biệt bộ sinh dục ở phôi gà được nhận
thấy vào ngày ấp thứ 6 – 9.

-

Đến ngày ấp thứ 12, ống dẫn trứng được phân thành loa kèn, phần tiết lòng trắng và
tử cung.

16


-

Buồng trứng nằm ở phía trái của xoang bụng, về phía trước và hơi thấp hơn thận trái,
được đỡ bằng các nếp gấp của bụng từ trên xuống.

-

Sự phát triển của tế bào trứng qua 3 thời kỳ: sinh sản, sinh trưởng và chín…

-

Ở gà 1 ngày tuổi, đường kính noãn bào chỉ là 0,01 – 0,02mm, tới 45 ngày tuổi đạt
1mm.

-

Quá trình thoát khỏi buồng trứng của tế bào trứng chín gọi là sự rụng trứng.


-

Nếu có tinh trùng thì việc thụ tinh tế bào trứng sẽ xảy ra ở ngay trên thành phễu.

-

Sự rụng trứng ở gà xảy ra một lần trong ngày, thường là sau khi gà đẻ trứng 30 phút.
Sự rụng trứng ở gà thường xảy ra trong thời gian từ 2 đến 14 giờ hàng ngày.

-

Các hoocmon FSH và LH kích thích sự sinh trưởng và sự chín của các tế bào sinh
dục trong buồng trứng.

-

Hoocmon LH điều khiển việc rụng trứng của gia cầm. Tuyến yên ngừng tiết khi
trong ống dẫn trứng có trứng, do đó ức chế sự rụng trứng của tế bào trứng chín tiếp
theo. LH chỉ được tiết vào buổi tối, sự chiếu sáng làm ngừng trệ việc tiết nó, sự rụng
trứng sẽ bị ngừng lại.

-

Việc cắt bỏ tuyến yên ở gia cầm trưởng thành dẫn đến sự xuất hiện những dấu hiệu
đặc trưng cho con thiến: ngừng phát triển mào, teo nhỏ các tuyến sinh dục.

-

Tiết LH xảy ra 6 – 8 tiếng trước khi rụng trứng.


-

Việc chiếu sáng thêm vào các giờ buổi chiều và buổi tối làm chậm việc tiết LH, do
đó làm chậm quá trình rụng trứng và đẻ trứng 3 – 4 giờ. Tăng giờ chiếu sáng lên 14 –
17 giờ/ngày làm tăng sản lượng trứng của gia cầm mái nhưng không nên tăng vào
buổi chiều và buổi tối là vì vậy.

-

Khi bắt đầu thành thục sinh dục, ống dẫn trứng là một ống trơn, thẳng có đường kính
như nhau trên toàn bộ ống. Sau khi đẻ quả trứng đầu tiên, ống dẫn trứng của gà có
chiều dài 68cm, khối lượng 77g. Vào thời kỳ đẻ mạnh chiều dài nó tới 86cm, đường
kính 10cm. Ở gà không đẻ trứng, chiều dài ống dẫn trứng giảm đến 11 – 18cm,
đường kính 0,4 – 0,7cm, còn thời kỳ thay lông chiều dài là 17cm.

-

Phễu: dài 4 – 7cm, đường kính 8 – 9cm, nằm dưới buồng trứng. Bề mặt niêm mạc
phễu xếp nếp, không có tuyến.

-

Chuyển động nhu mô của phễu có khả năng bắt lấy tế bào trứng khi nó rụng xuống từ
buồng trứng. Lòng đỏ nằm ở phễu khoảng 15 – 29 phút. Lớp lòng trắng đầu tiên
được bao bọc xung quanh tế bào trứng tiết ra ở cổ phễu.

-

Phần tạo lòng trắng là phần dài nhất của ống dẫn trứng, 30 – 50cm khi gà đẻ mạnh.
Thời gian trứng ở trong phần tạo lòng trắng không quá 3 giờ.

17


-

Tiếp theo của phần tạo lòng trắng là cổ (eo) dài 8cm.

-

Sau phần eo là dạ con dài khoảng 10 – 12cm. Trong thời gian trứng ở dạ con, khối
lượng trứng tăng gần gấp đôi. Vỏ trứng được hình thành do chất tiết của tuyến dạ
con. Sự tổng hợp chất vôi được tiến hành trong suốt thời gian trứng nằm ở dạ con (18
– 20 giờ).

-

Thời gian cần thiết để hình thành một quả trứng là 24 – 28 giờ (trung bình là 25 giờ).

-

Trong một vỏ trứng gà có tới 8 nghìn lỗ khí. Tuyến dạ con còn sản xuất ra các sắc tố
làm cho vỏ trứng có màu khác nhau.

-

Âm đạo dài 7 – 12cm. Động tác đẻ trứng là quá trình phức tạp. Thường gà đẻ trứng ở
tư thế đứng. Động tác đẻ trứng nằm ở dưới sự điều khiển của các vùng cao cấp của
hệ thần kinh trung ương.

-


Thời gian gà đẻ trứng liên tục không nghỉ gọi là chu kỳ đẻ trứng. Gà đẻ kỷ lục có thể
đẻ tới trên 200 trứng trong một chu kỳ. Đối với gà cao sản thì có thể đẻ trên 300
trứng trong một năm.

-

Vào thời kỳ đẻ tuyến yên tiết oxytocin tăng lên.

-

Toàn bộ quá trình sinh sản được điều khiển bởi tuyến yên và vùng dưới đồi
(Hypothalamus).

-

Trong các yếu tố môi trường thì ánh sáng có ảnh hưởng nhất đến sự phát triển và
chức năng của cơ quan sinh dục con mái.

12.2. Sinh dục con trống
-

Khả năng chuyển động và thụ tinh của tinh trùng ở các phần khác nhau của bộ máy
sinh dục là không giống nhau.

-

Tinh trùng ở ống dẫn tinh có khả năng chuyển động mạnh nhất.

-


Thời gian tạo tinh trùng ở gà trống là 14 – 15 ngày, tức là bằng một nửa thời gian tạo
tinh trùng của gia súc khác.

-

Yếu tố tác động mạnh nhất là ánh sáng, nó tác dụng tới tuyến yên, và thông qua nó,
tác dụng tới tuyến sinh dục.

-

Thành phần quang phổ của ánh sáng cũng có ý nghĩa. Mức độ tác động lên tuyến yên
và tuyến sinh dục được sắp xếp theo thứ tự sau: đỏ, da cam, vàng, xanh và xanh da
trời.

-

Độ dài của tinh trùng trung bình là 40 - 60µm. Phần tạo ra cử động chính của tinh
trùng là sợi trục.

18


-

Tốc độ chuyển động của tinh trùng gia cầm trung bình là 1 – 1,5mm/phút. Để chuyển
động được, tinh trùng cần phải có lượng năng lượng lớn, được tạo ra ở phần giữa của
đuôi khi xảy ra quá trình oxy hóa phospholipid và cacbonhydrate. Tính chuyển động
của tinh trùng chỉ tồn tại trong những điều kiện thích hợp, quan trọng nhất là nhiệt độ
và pH môi trường. Môi trường thích hợp nhất là trung tính, kiềm yếu hoặc acid yếu.


-

Lượng tinh phóng ra khi giao cấu không giống nhau ở các loại gia cầm khác nhau.
Gà trong một lần giao cấu phóng ra 0,6 – 2ml tinh dịch, với nồng độ 3,2 tỷ/ml; ngỗng
0,1 – 2ml, 340 – 350 triệu/ml; vịt 0,1 – 1ml, 0,7 – 3,5 triệu/ml.

-

Tinh trùng gà màu trắng, pH = 7,04 – 7,27; của vịt đực pH = 6,6 – 7,8.

-

Kết quả cho thấy rằng trong suốt một ngày đêm, lượng tinh trùng sản xuất ra không
bằng nhau, tăng lên vào ban đêm và sáng sớm, ban ngày sự tạo tinh trùng giảm.

13. Phản xạ sinh dục và động tác giao cấu.
-

Phản xạ sinh dục không điều kiện của động vật gồm: phản xạ lại gần; chuẩn bị cơ
quan giao hợp; phản xạ giao hợp; phóng tinh. Các phản xạ sinh dục liên quan với
nhau, không có phản xạ này sẽ không dẫn đến phản xạ kế tiếp.

-

Gà trống có thể giao cấu 25 đến 41 lần một ngày. Nếu bị nhốt riêng, khi gặp gà mái,
có thể giao phối tới 13 – 29 lần/giờ.

-


Phản xạ giao hợp ở gà là sự dính sát vào nhau của 2 ổ nhớp. Của thủy cầm, đà điểu là
sự xâm nhập cơ quan giao cấu của con trống vào ổ nhớp của con mái.

-

Khi phóng tinh con trống thường phóng ít một nhờ cơ quan sinh dục co bóp. Trung
tâm thần kinh của sự phóng tinh nằm ở phần hông tủy sống. Thần kinh phó giao cảm
đi đến tận cơ quan sinh dục, kích thích những thần kinh này làm giảm sự phóng tinh,
còn kích thích thần kinh giao cảm làm tăng sự phóng tinh.

-

Ở gia cầm, ngoài phản xạ không điều kiện, có thể tạo phản xạ có điều kiện trong
trường hợp, nếu một vật kích thích nào đó vào môi trường xung quanh trùng với
phản xạ không điều kiện trong cùng một thời gian. Người ta thường tạo ra các phản
xạ có điều kiện để khai thác tinh dịch của gia cầm trống để thụ tinh nhân tạo.

14. Sức sản xuất của gia cầm.
14.1. Khối lượng cơ thể gia cầm.
-

Để có hiệu quả kinh tế, tuổi giết thịt của hầu hết các loại gia cầm không nên vượt quá
10 – 12 tuần tuổi.

-

Gà trắng cao sản thường kết thúc giai đoạn nuôi vào 39 – 42 ngày tuổi đạt khối lượng
trung bình từ 2,3 – 2,6 kg. Giống gà lông màu thường kết thúc 56 – 80 ngày tuổi đạt
1,8 – 2,5 kg.
19



-

FCR của các giống cao sản lông trắng khoảng 1,8 – 2,0. Lông màu: 2,2 – 2,6. Thức
ăn chiếm 70% tổng giá thành chăn nuôi.

14.2. Các chỉ tiêu đánh giá sức sản xuất thịt khi giết mổ.
-

Tỷ lệ móc hàm là tỷ lệ phần trăm giữa khối lượng thịt sau khi đã bỏ huyết, lông,
lòng so với khối lượng sống.

-

Tỷ lệ thịt xẻ là tỷ lệ phần trăm giữa thân thịt móc hàm đã cắt bỏ đầu ở đoạn giữa
xương chẩm và xương atlas và cắt chân ở đoạn giữa khớp khuỷu so với khối lượng
sống.

-

Tỷ lệ thịt ức là tỷ lệ phần trăm giữa thịt ức trái nhân với hai so với khối lượng sống
hoặc giữa thịt ức trái nhân với hai so với khối lượng thịt xẻ. Bình thường cơ ức
chiếm khoảng 40% khối lượng toàn cơ hoặc 18% khối lượng toàn thân.

-

Tỷ lệ thịt đùi là tỷ lệ phần trăm giữa khối khối lượng thịt đùi trái nhân với hai so với
khối lượng sống hoặc khối lượng thịt đùi trái nhân với hai so với khối lượng thịt xẻ.


-

Tỷ lệ phần ăn được tỷ lệ phần trăm giữa khối lượng phần ăn được (khối lượng thịt
xẻ + nội tạng ăn được: tim, gan, dạ dày cơ làm sạch, lách) so với khối lượng sống.
Một Số Chỉ Tiêu Đánh Giá Sức Sản Xuất Thịt Của Gia Cầm

Chỉ tiêu
Đơn vị tính

Vịt
Khối lượng sống
Kg
1,8 – 2,5
3,0 – 3,5
Tỷ lệ thịt xẻ
%
71 – 77
64 – 66
Tỷ lệ thịt đùi
%
17 – 18
14 – 16
Tỷ lệ thịt ức
%
18 – 19
11 – 15
Tỷ lệ thịt đùi và thịt ức là tỷ lệ % so với khối lượng sống.

Ngan
3,3 – 3,8

66 – 68
16 – 19
14 – 16

Ngỗng
4,1 – 4,4
62 – 65
13 – 14
14 – 15

-

Thường như một qui luật, con trống thường nặng hơn con mái. Đặc biệt là ở gà tây,
con trống nặng hơn con mái 50 – 60%. Gà, vịt, ngỗng con trống thường nặng hơn
con mái 25 – 30%. Bồ câu con trống lớn hơn con mái 5 – 10%. Sự khác nhau giữa
khối lượng con trống và con mái là do các gen liên kết giới tính xác định.

-

Cần có sổ sách theo dõi tình trạng đàn gà: thức ăn, nước uống, khí hậu, chu chuyển
đàn, khả năng sinh trưởng, lịch phòng, thuốc thú y… Thức ăn nhập về ngày nào, khối
lượng bao nhiêu, ngày sản xuất ghi trên bao bì, code… cần phải ghi hết lại để thoi
dõi và truy tìm nguồn gốc không phù hợp khi đàn gà có vấn đề. Ngày nào cho ăn như
thế nào, mấy giờ… ghi hết lại.

15. Công tác thú y và vệ sinh phòng dịch
-

Ngay từ những ngày đầu bắt gà về phải thường xuyên theo dõi sức khỏe đàn gà, sự
nhanh nhạy và vận động khỏe mạnh, không đứng tụm vào một chỗ.


20


-

Thường trong một quần thể động vật nuôi dưỡng sẽ có khoảng dưới 5% bệnh, đó là
hiện tượng bình thường không đáng lo ngại. Nhưng khi tỷ lệ bệnh tích đến 10% là
dấu hiệu của dịch bệnh, cần chuẩn đoán và có cách phòng trị kịp thời.
Lịch chủng ngừa
Tuần tuổi
1 (3 – 4 ngày tuổi)
2 (10 – 11 ngày tuổi)
2 (13 – 14 ngày tuổi)
3 ( 18 – 19 ngày tuổi)
7 (45 – 55 ngày tuổi)

Bệnh chủng ngừa
Newcatle (nhỏ mắt, mũi)
Gumboro (uống)
Đậu I (chủng màng cánh)
Đậu lần II (uống)
Dịch tả (chích cơ ức, 0,5ml/con)

-

Ngoài ra lúc 3 tuần tuổi phòng CRD (cho uống) liều lượng thích hợp, trong 3 ngày
liên tiếp. Nếu cần thì khoảng 55 ngày phòng lần nữa nếu để con gà lớn đến thời kỳ
xuất bán sẽ rất nguy hiểm (chúng ta không can thiệp kháng sinh khi xuất bán, mà gà
lại bị bệnh, đó là một vấn đề khó) nên phải phòng đúng đợt thì sẽ tốt hơn. Nếu quan

sát đàn gà tốt không cần thiết phải đánh đợt II, về đêm nên ra ngồi và nghe âm thanh
chuồng gà sẽ phát hiện những gà bị bệnh hô hấp, xem tỷ lệ để có cách giải quyết
thích hợp.

-

Lưu ý chủng ngừa lúc phải bắt gà (Newcatle, đậu lần I) thì nên cho gà ở trạng thái
đói, không nên cho ăn no vì khi chủng quây vào gà sẽ sợ và tụm vào một chỗ, lúc này
trạng thái no dễ làm gà bị sốc, đè lên nhau làm ngột thở dẫn đến tử vong đáng tiếc.
Thức ăn và nước sạch được chuẩn bị sẵn ở bên khung trống để vừa chủng xong thả
gà qua bên là có thức ăn và nước để gà uống liền, nước pha kèm thêm điện giải và
VitC. Không chỉ có Newcatle mà những lần chủng ngừa khác cũng vậy, không nên
để gà ở trạng thái no, chuẩn bị sẵn ít thức ăn và nước sạch để vừa chủng ngừa xong
thì cho gà ăn ít và uống nước pha điện giải cùng một ít Vitamine.

-

Những bệnh đã được chủng ngừa thì không đáng lo ngại, nếu có xảy ra chỉ một số ít
trong quần thể, ta có thể loại bỏ ngay (bệnh đó do virus, ta không thể điều trị hoặc
không kinh tế). Ngoài những bệnh được chủng ngừa trên thì xảy ra một số bệnh do vi
khuẩn ta có thể phòng chống kịp thời.

-

Đặc biệt quan sát phân của đàn gà là biện pháp để chuẩn đoán bệnh tốt nhất. Trên da
cầm chủ yếu bị 2 bệnh về tiêu hóa và hô hấp là chính. Quan sát phân ta sẽ thấy được
bệnh về đường tiêu hóa.

-


Gà còn nhỏ trong tuần đầu thì chú trọng gà hay bị thương hàn do lây từ mẹ qua trứng
(Salmonella). Khi đàn gà ăn ta quan sát, những gà thường đứng yên một chỗ, mắt
nhắm, cánh xõa xuống thì đó là biểu hiện của bệnh thương hàn. Bắt gà lên ta thấy
phân trắng dính hậu môn, bụng dưới trễ xuống và có màu xanh đen, đó là hiện tượng
của lòng đỏ không tiêu. Phân thường lỏng và có màu trắng nhớt giống lòng trắng
trứng gà, có bọt khí. Gà còi cọc, không ăn uống.
21


-

Nếu phát hiện ta nên loại bỏ để tránh lây lan bệnh cho đàn gà, có giữ lại nuôi, nếu gà
không chết thì sống cũng còi cọc, chậm phát triển, không có hiệu quả, làm nguồn
phát sinh mầm bệnh. Khi mổ khám thấy hai mang tràng chứa phân trắng, đôi lúc
mang tràng trở nên giòn, đóng phân cứng, ruột thỉnh thoảng có những chấm xuất
huyết (nếu nặng). Thương hàn thường truyền từ mẹ sang con, bị nhiễm từ trứng
giống nên biểu hiện rất rõ khi gà con nhỏ, ta cần phát hiện sớm và loại thải ngay
đồng thời cho uống kháng sinh để phòng và trị những con khỏe còn lại nhưng thực tế
có thể đã bị lây nhiễm thương hàn.

-

Lưu ý trên gà nhỏ trừ những trường hợp đáng cần phải lưu ý (tỷ lệ bệnh nhiều, phân
bất thường nhiều, chết…) thì mới sử dụng kháng sinh còn lại ta sử dụng probiotic để
tăng hệ vi sinh vật có lợi trong đường ruột, giúp đường ruột khỏe mạnh, tiêu hóa hấp
thu tốt là biện pháp tốt để phòng bệnh. Các nhung mao trong đường ruột của gà con
rất mẫn cảm và cả hệ vi sinh vật có lợi còn yếu, nếu ta lợi dụng kháng sinh quá sẽ
làm ảnh hưởng không tốt tới nhung mao đường ruột làm giảm tiêu hóa và hấp thu,
đồng thời kháng sinh cũng lấy đi tính mạng những vi sinh vật có lợi, làm cho các vi
khuẩn cơ hội khác dễ bề tấn công, bệnh sẽ càng trầm trọng hơn. Có sử dụng kháng

sinh ta sử dụng trong thời gian ngắn từ 2 – 3 ngày ngưng bổ sung lại probiotic càng
nhanh càng tốt cho đàn gà.

-

Một nguyên tắc khi sử dụng kháng sinh là phải dùng liều cao ngày từ đầu sau đó
giảm dần, tuyệt đối không dùng liều thấp rồi sau đó tăng lên, như vậy rất nguy hiểm
vì điều đó tạo điều kiện cho vi khuẩn có sức đề kháng sẽ trở nên rất nguy hiểm về sau
này sẽ biến tính và khó có thuốc trị được.

-

Khi gà đi phân sáp nhiều (trên 10%) hay phân thỉnh thoảng phân có màu hơi đỏ, có
lẫn máu, mổ khám thì thấy hai mang tràng sưng to, sung huyết, trong có chứa máu,
thì đó là dấu hiệu của cầu trùng. Quan sát thấy chân khô, màu nhạt, mào tái, gà mệt
mỏi. Khi có hiện tượng đi phân ra máu thì gà chết rất nhanh do mất máu nhiều. Ta
tiến hành đánh cầu trùng bằng các thuốc chuyên dụng như cocifree, hay một số thuốc
chuyên dụng khác.

-

Nên nhớ uống thuốc phải tính trên khối lượng thể trọng, một số khuyến cáo tính trên
đơn vị thể tích nhưng ta không biết gà sẽ uống bao nhiêu nước và khi pha vào nước
thì ta mong muốn gà uống hết càng nhanh càng tốt nên ta chỉ pha một lượng ít thể
tích nước cho gà uống. Uống cầu trùng liên tiếp 2 ngày liền, rồi nghỉ một đến hai
ngày tiến hành đánh lại một lần. Trong thời gian cho uống cầu trùng cho uống kèm
VitK, giúp hỗ trợ điều trị cầu trùng tốt hơn.

-


Trong đợt nuôi ta thường đánh cầu trùng 3 lần, lần I lúc khoảng 15 – 17 ngày tuổi,
lần II lúc khoảng 25 – 28 và đợt III lúc 39 – 41 ngày tuổi, nói chung trong thời gian
từ 2 đến 6 tuần cứ cách khoảng 10 ngày ta tiến hành đánh cầu trùng một lần. Qua
thời gian 45 ngày thì thông thường sẽ không phát cầu trùng nữa (mặc dù cầu trùng
vẫn luôn hiện diện trong gà suốt dòng đời) trừ khi điều kiện môi trường bất lợi xảy ra
22


(mưa nhiều và ẩm ướt…) thì gà sẽ có thể bị lại cầu trùng và cho dù gà đã lớn nhưng
khi đi phân ra máu gà sẽ chết rất nhanh do mất máu.
-

Những bệnh về đường hô hấp thì biểu hiện về đêm là rõ nhất, ban đêm tĩnh lặng ta có
thể ngôi nghe biểu hiện của đàn gà. Nếu có hiện tượng ho về đêm (tiếng ho nghe như
có đờm trong cổ họng, nghe “poóc…poóc…”) thì đó là dấu hiệu của CRD, ngay sáng
hôm sau cần mua thuốc đặc trị cho đàn gà uống ngay.

-

Một số con bị bệnh Marek biểu hiện như: gà đi lại khó khăn; liệt nhẹ đến liệt hoàn
toàn; liệt cánh 1 hay 2 bên, đuôi có thể bị liệt; đặc trưng là bị kéo 2 chân, một chân
về trước, một chân về sau; mống mắt viêm, đổi màu, con ngươi có thể bị biến dạng.
Mổ khám thấy: viêm tăng sinh dây thần kinh ngoại biên, dây thần kinh đùi, dây thần
kinh hông – chậu, cánh sưng to gấp 4 – 5 lần, mất vân óng ánh, có màu trắng đục và
dễ đứt; khối u trên các cơ quan nội tạng, da và cơ.

-

Đôi khi gà cắn mổ và hay đá nhau nhưng chưa hẳn đó là biểu hiện của Gumboro.
Cũng có khi do không khí ngột ngạt, khí độc bốc lên nhiều, chuồng nuôi chật hẹp

làm cho con gà bị stress dẫn đến hiện tượng này. Những buổi trưa nắng nóng hòa
thêm VitC hay điện giải cho gà uống.

-

Thường xuyên sát trùng chuồng trại (1lần/tuần), vệ sinh máng ăn, máng uống.

-

Khu mổ khám phải cách xa chuồng trại chăn nuôi, mổ khám xong phải mang đi tiêu
hủy, rửa sạch tay bằng nước sát trùng.

-

Tuyệt đối không được mua gia cầm ngoài chợ về, trong trại chăn nuôi gà tuyệt đối
không được mua thịt gà về ăn.

-

Tránh người ra vào thường xuyên; đi đứng nhẹ nhàng; tránh là tiếng ồn bất lợi cho
đàn gà; tạo cảm giác sợ hãi, hoảng loạn cho đàn gà đều không tốt.
Một số loại thuốc sử dụng trong chăn nuôi gà thịt như sau:

 1 – 4 ngày tuổi:
-

Vit Bcomplex: 1g/lít nước hoặc 1kg thức ăn.

-


Hanminvit: 1g/lít.

-

Multivit: 1g/lít.

-

Thuốc phòng đường ruột: Genta – Costrim, Tetrafura, Ampi – septol.

-

Cosmix – fort, ESB 30%.

 6 ngày tuổi:
-

Phòng CRD bằng Tiamilin; CRD stop; Tylosulfa, tylosin, Sunovil-5.

 7 – 35 ngày tuổi:
23


-

Phòng bệnh cầu trùng, vi trùng: Rigeccocon, ws, Costrim, Genta-costrim, Neotesol,
Teltrafura, Chlotetravit-C, Colidox-plus.

 36 – 60 ngày.
-


Sử dụng thường xuyên Bcomplex, Hanminvit, Multivit.

-

Phòng bệnh CRD bằng Tiamulin, CRD-stop, Sunovil-5, Tylosulfa, Tylosin hay
Sunovil-5.

-

Dùng Ampi-septol, genta-costrim, Neotesol.

24


Một Số Bệnh Thường Gặp Trong Chăn Nuôi Gà
1. Bệnh Marek
1.1.

Virus gây bệnh

-

Là bệnh U Lympho của gà với sự xâm nhiễm, tăng sinh cao độ tế bào lympho
và sự hủy myelin của thần kinh ngoại biên, do đó gây rối loạn cơ năng vận
động, làm bại liệt.

-

Bệnh do Herpesvirus gây ra với cấu trúc là acid nhân DNA 2 sợi; kích thước

100 – 120nm; có vỏ bọc bằng lipid.

1.2.

Sức đề kháng của Virus

-

Bị bất hoạt ở pH = 3 hay pH = 11 trong 10 phút (môi trường acid hay base đều
bất lợi cho virus).

-

Tồn tại trong 2 tuần ở 40C; 4 ngày ở 250C; 18 giờ ở 370C; 30 phút tại 560C.

-

Tồn tại trong phân gà 6 tháng.

-

Trong nang lỗ chân lông gà 4 – 5 tháng.

1.3.

Loài mắc bệnh

-

Trong thiên nhiên thì gà, gà tây, trĩ, vịt, thiên nga, ngỗng… đều mẫn cảm với

bệnh.

-

Gà là loại cảm thụ mạnh nhất.

-

Gà con một ngày tuổi cảm thụ mạnh hơn gà lớn.

-

Gà mái cảm thụ mạnh hơn gà trống.

-

Ảnh hưởng trên gà dò từ 3 đến 6 tuần tuổi.

-

Gà thường phát bệnh vào 3 đến 6 tháng tuổi.

1.4.

Chất chứa căn bệnh

-

Virus tồn tại trong tế bào nang lông. Sự phát tán những tế bào này trong
không khí làm lây lan bệnh.


-

Virus cũng được thải qua phân.

-

Không thấy virus truyền qua phôi trứng.

1.5.

Đường xâm nhiễm.
25


×