Tải bản đầy đủ (.doc) (257 trang)

Bài giảng luật môi trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 257 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Bảo vệ môi trường luôn là vấn đề cấp bách của mọi quốc gia, kể từ năm
1986 đến nay Chính phủ Việt namViệt Nam đã nỗ lực không ngừng để thực hiện
các biện pháp nhằm bảo vệ môi trường quốc gia, tuy nhiên vấn đề này chỉ thực
sự hiệu quả khi mội thành viên trong xã hội nhận thức được sự cần thiết của vấn
đề này. Cùng với các hoạt động tuyên truyền, giáo dục của Nhà nước cho toàn
dân, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã lồng ghép vào chương trình đào tạo các môn
học về bảo vệ môi trường nhằm nâng cao nhận thức của học sinh, sinh viên về
vấn đề bảo vệ môi trường. Tại trường Đại học Nông nghiệp Hà nội từ năm 2003,
Khoa Tài nguyên và Môi trường đã mở chuyên ngành đào tạo kỹ sư về môi
trường để cung cấp nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn giỏi, phục vụ cho
công tác nghiên cứu, bảo vệ môi trường của đất nước. Đáp ứng công tác đào tạo
cho chuyên ngành này, được sự phân công của Nhà trường, Bộ môn pháp luật đã
đảm nhận giảng dạy môn học Luật và Chính sách môi trường từ đó đến nay. Tuy
nhiên, hiện tại sinh viên vẫn chưa có tài liệu chuẩn phục vụ cho việc học tập và
nghiên cứu. Mặt khác, để phục vụ cho công tác đổi mới phương pháp giảng dạy,
học tập của bậc đại học phù hợp với chương trình đào tạo theo học chế tín chỉ
các môn học phải được chuẩn hóa nội dung. Vì vậy, tập thể giảng viên phụ trách
giảng dạy môn học đã biên soạn Bài giảng “ Pháp luật môi trường” để làm tài
liệu giảng dạy cho giảng viên và tài liệu học tập cho sinh viên hệ Đại học, Cao
đẳng chuyên ngành môi trường của Trường Đại học Nông nghiệp Hà nội. Nội
dung bài giảng được phân công biên soạn như sau:
Chương I1: Tổng quanGiới thiệu về Luật môi trường và quản lý Nhà nước
về môi trường: CN Đỗ thị Kim Hương.
Chương 2II: Pháp luật về Đánh giá tác động môi trường, Đánh giá môi
trường chiến lược và Cam kết bảo vệ môi trường: CN Đỗ thị Kim Hương.
Chương 3III: Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường: CN Đỗ thị Kim
Hương.

1



Chương 4IV: Pháp luật về bảo vệ các nguồn tài nguyên: Th.S Trịnh Thị
Ngọc Anh.
Chương 5V: Luật quốc tế về bảo vệ môi trường: Th.S Trịnh Thị Ngọc
Anh.
Lần đầu biên soạn cuốn tài liệu tham khảo này nên không tránh khỏi có
những sai sót, rất mong các chuyên gia về lĩnh vực này và các bạn đọc góp ý để
hoàn thiện nội dung tài liệu. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn.
TẬP THỂ TÁC GIẢ

2


CHƯƠNG 1:
TỔNG QUANGIỚI THIỆU LUẬT MÔI TRƯỜNG VÀ QUẢN
LÝ NHÀ NƯỚC VỀ MÔI TRƯỜNG
Chương này gồm những nội dung cơ bản như sau:
- Tổng quanGiới thiệu Luật Môi trường với các nội dung: khái niệm môi
trường và Luật Môi trường, khái quát sự phát triển Luật Môi trường ở Việt
NamViệt Nam, các nguyên tắc cơ bản của Luật Môi trường.
- Quản lý nhà nước về môi trường với các nội dung: khái niệm quản lý
nhà nước về môi trường, thẩm quyền của các cơ quan quản lý nhà nước về môi
trường, nội dung cơ bản của quản lý nhà nước về môi trường.
Mục tiêu của chương này là:
- Người học nắm được khái niệm môi trường và Luật Môi trường, sự phát
triển của Luật Môi trường và các nguyên tắc cơ bản của Luật Môi trường.
- Người học hiểu được khái niệm quản lý nhà nước về môi trường, thẩm
quyền của các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường và nội dung cơ bản của
quản lý nhà nước về môi trường.
1. TỔNG QUANGIỚI THIỆU LUẬT MÔI TRƯỜNG

1.1. Khái niệm môi trường và Luật Môi trường
1.1.1. Khái niệm môi trường
Có nhiều quan điểm khác nhau về môi trường. Có quan điểm cho rằng
môi trường là một phần của ngoại cảnh, bao gồm các hiện tượng và các thực thể
của tự nhiên... mà ở đó, cá thể, quần thể, loài... có quan hệ trực tiếp hoặc gián
tiếp bằng các phản ứng thích nghi của mình (Vũ Trung Tạng, 2000).
Thuật ngữ Trung Quốc gọi môi trường là “hoàn cảnh” chỉ điều kiện
sống của cá thể hoặc quần thể sinh vật. Sinh vật và con người không thể tách rời
khỏi môi trường của mình. Môi trường nhân văn bao gồm các yếu tố vật lý,
hóa học của đất, nước, không khí, các yếu tố sinh học và điều kiện kinh tế xã hội tác động hàng ngày đến sự sống của con người.

3


Theo từ điển tiếng Việt thì “môi trường là toàn bộ nói chung những điều
kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội trong đó con người hay một sinh vật tồn tại, phát
triển trong mối quan hệ với con người hay sinh vật ấy”1.
Trong lĩnh vực khoa học pháp lý, “Môi trường bao gồm các yếu tố tự
nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống,
sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và sinh vật”. (Khoản 1 Điều 3
Luật Bảo vệ môi trường năm 2005)
Như vậy, môi trường được tạo thành bởi vô số các yếu tố vật chất tự nhiên
như đất, nước, không khí, ánh sáng, âm thanh, các hệ thực vật, hệ động vật…
Những yếu tố này được hình thành và phát triển theo những quy luật tự nhiên,
nằm ngoài khả năng quyết định của con người. Con người chỉ có thể tác động
đến nó trong một chừng mực nhất định.
Bên cạnh những yếu tố vật chất tự nhiên, môi trường còn bao hàm cả yếu
tố nhân tạo do con người tạo ra nhằm tác động đến các yếu tố tự nhiên để phục
vụ nhu cầu của bản thân mình như hệ thống đê điều, công trình thủy lợi, các
công trình văn hóa kiến trúc… Có thể nói, các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân

tạo bao quanh con người đó có ảnh hưởng tới đời sống sản xuất, sự tồn tại và
phát triển của con người và sinh vật.
1.1.2. Khái niệm Luật Môi trường
Luật Môi trường là hệ thống qui phạm pháp luật (quy tắc xử sự) và các
nguyên tắc pháp lý do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh các
quan hệ phát sinh giữa các chủ thể trong quá trình khai thác, sử dụng, tác động
đến các yếu tố môi trường nhằm bảo vệ môi trường sống của con người.
Từ khái niệm trên, ta có thể rút ra một số đặc điểm sau đây của Luật Môi
trường:
Thứ nhất, Luật Môi trường là hệ thống quy tắc xử sự và các nguyên tắc
pháp lý mang tính bắt buộc chung đối với các chủ thể khi khai thác, sử dụng, tác
động đến các yếu tố môi trường. Luật Môi trường là công cụ điều tiết hành vi

1

Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, 1997, tr.818

4


của các thành viên trong xã hội, có tác dụng lớn trong việc định hướng quá trình
khai thác và sử dụng các yếu tố môi trường của các chủ thể.
Thứ hai, Luật Môi trường do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận. Để bảo
vệ môi trường, Nhà nước Việt NamViệt Nam đã ban hành nhiều văn bản quy
phạm pháp luật khác nhau. Các quy định của pháp luật môi trường không chỉ
nằm trong các văn bản do Nhà nước ban hành như Luật Bảo vệ môi trường năm
2005, Luật Thủy sản năm 2003, Luật Đất đai năm 2003… mà còn nằm trong các
điều ước quốc tế mà Việt NamViệt Nam ký kết hoặc tham gia như Ccông ước
Viên về bảo vệ tầng ozon, Công ước Ramsar về bảo vệ các vùng đất ngập nước
có tầm quan trọng quốc tế, đặc biệt như là nơi cư trú của loài chim nước…

Thứ ba, Luật Môi trường điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trực tiếp
trong hoạt động khai thác, quản lý và bảo vệ các yếu tố môi trường. Các quan hệ
xã hội mà Luật Môi trường điều chỉnh có thể chia thành ba nhóm quan hệ sau
đây:
(1) Nhóm quan hệ giữa các chủ thể của Luật quốc tế, chẳng hạn như mối
quan hệ giữa các quốc gia và các chủ thể khác của Luật Quốc tế trong việc ký
kết và thực hiện các Công ước, thỏa thuận quốc tế đa phương, song phương về
bảo vệ tầng ozone, lưu vực sông, vùng trời, vùng biển, về động vật hoang dã,
nguy cấp, quý, hiếm…
(2) Nhóm quan hệ giữa cơ quan quản lý nhà nước về môi trường với tổ
chức, cá nhân. Nhóm quan hệ này mang tính mệnh lệnh của Luật Hành chính
nên các chủ thể trong quan hệ này không bình đẳng về quyền và nghĩa vụ.
Nhóm quan hệ này bao gồm: quan hệ phát sinh từ hoạt động đánh giá tác động
môi trường, quan hệ phát sinh từ hoạt động thanh tra việc thực hiện pháp luật
môi trường, quan hệ phát sinh từ việc xử lý vi phạm pháp luật về môi trường…
(3) Nhóm quan hệ phát sinh giữa các tổ chức, cá nhân với nhau. Đặc trưng
của quan hệ này thể hiện ở sự thỏa thuận, bình đẳng, thống nhất ý chí của các
bên tham gia quan hệ. Nhóm quan hệ này bao gồm: quan hệ về bồi thường thiệt
hại do việc gây ra ô nhiễm, suy thoái hay sự cố môi trường gây ra, quan hệ phát

5


sinh từ việc giải quyết tranh chấp môi trường, quan hệ phát sinh từ việc hợp tác
khắc phục thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái hay sự cố môi trường gây ra…
Nhóm quan hệ thứ nhất được điều chỉnh bởi các quy phạm và các nguyên
tắc pháp lý của Luật Quốc tế. Nhóm quan hệ thứ hai và thứ ba sử dụng các quy
định của pháp luật môi trường Việt NamViệt Nam để giải quyết.
1.2. Khái quát sự phát triển của Luật Môi trường ở Việt NamViệt Nam
Luật Môi trường là một lĩnh vực khoa học mới đối với hầu hết các nước

đang phát triển. Ở Việt NamViệt Nam, Luật Môi trường chưa được coi là một
ngành luật độc lập nhưng đã khẳng định được vai trò của nó đối với hoạt động
bảo vệ môi trường trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Với
tư cách là lĩnh vực mới nhất trong hệ thống pháp luật Việt NamViệt Nam, lịch
sử phát triển của Luật Môi trường không chứa đựng sự phân kỳ phức tạp như
một số lĩnh vực pháp lý khác. Quá trình phát triển của Luật Môi trường ở Việt
NamViệt Nam được chia thành hai giai đoạn: Giai đoạn trước năm 1986 và giai
đoạn từ năm 1986 đến nay.
Giai đoạn trước năm 1986
Trước năm 1986, Luật Môi trường với tư cách là lĩnh vực riêng chưa xuất
hiện, hầu như chưa có văn bản pháp luật riêng về vấn đề môi trường. Giai đoạn
này nhà nước Việt NamViệt Nam đã ban hành một số văn bản xuất phát từ yêu
cầu của hoạt động quản lý nhà nước đối với môi trường. Nghiên cứu các văn
bản pháp luật đó, chúng tôi rút ra một số đặc điểm sau đây của pháp luật môi
trường giai đoạn trước năm 1986:
- Các quy định về môi trường hoặc có liên quan đến môi trường nằm rải
rác trong các văn bản quy phạm pháp luật khác nhau. Trong các văn bản quy
phạm pháp luật đó, vấn đề môi trường được coi là vấn đề thứ yếu, phái sinh mà
không được coi là vấn đề cơ bản, cốt lõi.
- Các quy định của pháp luật về môi trường chủ yếu nằm trong các văn
bản dưới luật. Sắc lệnh 142/SL do Cchủ tịch Hồ Chí Minh ký ngày 21 tháng 12
năm 1949 quy định về việc kiểm soát, lập biên bản các hành vi vi phạm pháp
luật bảo vệ rừng được coi là văn bản pháp luật đầu tiên về vấn đề môi trường.
6


Bên cạnh đó, Chính phủ cũng ban hành một số văn bản có liên quan đến môi
trường như: Nghị quyết số 36/CP ngày 11 tháng 03 năm 1961 của Hội đồng
chính phủ về việc thành lập, quản lý, bảo vệ tài nguyên dưới lòng đất;. Chỉ thị số
127/CP ngày 24 tháng 5 năm 1971 của Hội đồng Chính phủ về công tác điều tra

cơ bản tài nguyên và điều kiện thiên nhiên, Chỉ thị số 07/TTg ngày 16 tháng /01
năm /1961 về thu tiền khoán bán lâm sản và thu tiền nuôi rừng;. Nghị quyết số
183/CP ngày 25 tháng 09 năm 1966 về công tác trồng cây gây rừng. Đặc biệt,
với tư cách là cơ quan thường trực của Quốc hội, Ủy ban Tthường vụ Quốc hội
đã ban hành Ppháp lệnh bảo vệ rừng ngày 11 tháng 09 năm 1972.
Năm 1980, việc bảo vệ môi trường đã được quy định trong văn bản có giá
trị pháp lý cao nhất, đó là Hiến pháp. Điều 36 Hiến pháp năm 1980 khẳng định:
“Ccác cơ quan nhà nước, xí nghiệp, hợp tác xã, đơn vị vũ trang nhân dân và
công dân có nghĩa vụ thực hiện chính sách bảo vệ, cải tạo và tái sinh các nguồn
tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ, cải tạo môi trường sống”.
Giai đoạn từ năm 1986 đến nay
Năm 1986, Nhà nước Việt NamViệt Nam bắt đầu tiến hành cải cách kinh
tế, xóa bỏ cơ chế kinh tế tập trung và chuyển sang kinh tế nhiều thành phần vận
hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà
nước. Bên cạnh những kết quả đạt được trong những năm đổi mới, Việt
NamViệt Nam đã phải đối mặt với các hiện tượng kinh tế - xã hội tiêu cực, trong
đó có vấn đề ô nhiễm môi trường, suy thoái môi trường và sự cố môi trường.
Điều này hoàn toàn dễ hiểu khi trong nền kinh tế thị trường, chúng ta thừa nhận
các thành phần kinh tế bình đẳng trước pháp luật nên tốc độ khai thác các nguồn
tài nguyên thiên nhiên tăng nhanh so với thời kỳ kế hoạch hóa tập trung, đặc
biệt, dưới tác động của sự gia tăng dân số, sự tăng nhanh các phương tiện giao
thông vận tải… đã làm cho ô nhiễm môi trường trở nên nghiêm trọng. Thực
trạng trên đã làm cho bảo vệ môi trường là một thách thức lớn của toàn xã hội.
Vì thế, để đảm bảo cho đất nước phát triểnền bền vững, Nhà nước Việt NamViệt
Nam đã coi vấn đề môi trường là một trong những ưu tiên chiến lược. Thời kỳ

7


này, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh các

yếu tố khác nhau của môi trường, đảm bảo phát triển bền vững.
Luật môi trường Việt NamViệt Nam thời kỳ này mang một số đặc điểm
sau đây:
* Các quy định của pháp luật môi trường đã có nội dung cụ thể và trực tiếp
về vấn đề môi trường. Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 đã đưa việc bảo vệ môi
trường thành điều khoản riêng, Bộ luật Hàng hải năm 1990, Luật Đất đai năm
1993, Luật Dầu khí năm 1993… đều coi bảo vệ môi trường là nghĩa vụ bắt buộc
của các chủ thể khi khai thác các yếu tố môi trường. Hiến pháp năm 1992 đã đưa
bảo vệ môi trường thành nguyên tắc. Điều 29 Hiến pháp năm 1992 khẳng định:
“Cơ quan Nhà nước, đơn vị vũ trang, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, mọi cá
nhân phải thực hiện các quy định của Nhà nước về sử dụng hợp lý tài nguyên
thiên nhiên và bảo vệ môi trường. Nghiêm cấm mọi hành động làm suy kiệt tài
nguyên và huỷ hoại môi trường”.
Đặc biệt, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt NamViệt Nam đã
thông qua Luật Bảo vệ môi trường năm 1993 gồm 7 chương, 55 điều trong đó
quy định các nội dung cơ bản sau đây:
- Chính thức hóa một số khái niệm môi trường và các yếu tố của nó.
- Xác định nội dung và phương pháp quản lý nhà nước về môi trường.
- Xác định quyền và nghĩa vụ phòng chống khắc phục ô nhiễm môi trường,
suy thoái môi trường, sự cố môi trường.
- Quy định về các nguyên tắc cơ bản trong hợp tác quốc tế về môi trường,
các biện pháp khen thưởng và xử lý vi phạm pháp luật về môi trường.
Ngoài ra, còn có các văn bản pháp luật khác quy định về vấn đề môi
trường như Luật Khoáng sản năm 1996, 2000, 2005, 2010. Luật Bảo vệ và Phát
triển rừng năm 1991, 2004; Luật Đất đai năm 1987, 1993 (sửa đổi, bổ sung năm
1998, 2000, 2001), 2003, Luật Tài nguyên nước năm 1998, Luật Dầu khí năm
1993, 2000, Luật Thủy sản năm 2003… Đặc biệt, năm 2005 Quốc hội đã ban
hành Luật Bảo vệ môi trường, gồm 15 chương, 136 điều, thống nhất về các vấn
đề cơ bản sau đây:
8



- Chính thức hóa một số khái niệm về môi trường và các yếu tố của nó.
- Xác định trách nhiệm bảo vệ môi trường đối với các ngành, các lĩnh vực
như công nghiệp, xây dựng, giao thông vận tải…
- Quy định về bảo vệ môi trường cụ thể đối với từng địa bàn, khu vực như đô
thị, khu dân cư tập trung, nơi công cộng, khu sản xuất, kinh doanh dịch vụ…
- Yêu cầu bảo vệ môi trường đối với toàn bộ quá trình phát triển từ khâu lập
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển đến khâu lập, phê duyệt thực hiện dự
án đầu tư…
- Sử dụng đồng bộ các công cụ, biện pháp quản lý môi trường như quy chuẩn
kỹ thuật môi trường, đánh giá tác động môi trường, đánh giá môi trường chiến
lược, cam kết bảo vệ môi trường, thanh tra, kiểm tra bảo vệ môi trường.
- Nâng cao vai trò của người dân trong hoạt động bảo vệ môi trường như
đảm bảo quyền được biết thông tin về môi trường của mọi tổ chức, cá nhân;
khuyến khích và tạo điều kiện để các tổ chức có năng lực tham gia hoạt động
quản lý chất thải và hoạt động quan trắc môi trường…
- Quy định rõ trách nhiệm của các chủ thể trong bảo vệ môi trường như trách
nhiệm của Chính phủ, trách nhiệm của Bộ Tài nguyên môi trường, bộ, cơ quan
ngang bộ, ủy ban nhân dân các cấp; quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân
khác; xác định các biện pháp khen thưởng và xử lý vi phạm pháp luật về môi
trường.
* Nội dung pháp luật về môi trường mang tính toàn diện và hệ thống. Các
quy định của pháp luật đã đề cập đến hầu hết các yếu tố của môi trường như đất,
nước, không khí… Ngoài ra, pháp luật còn quy định cơ cấu tổ chức của các cơ
quan quản lý nhà nước về môi trường; quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân
khi khai thác, sử dụng và bảo vệ các yếu tố môi trường…
* Pháp luật môi trường đã quan tâm đến khía cạnh toàn cầu của vấn đề
môi trường. Trong mối quan hệ với pháp luật quốc tế, pháp luật môi trường Việt
NamViệt Nam phải đảm bảo tính tương đồng. Bên cạnh đó, Nhà nước Việt

NamViệt Nam đã thể hiện quan điểm ưu tiên các quy định trong công ước quốc

9


tế mà Việt NamViệt Nam đã ký trong mối quan hệ với các quy định của pháp
luật quốc gia trong việc giải quyết các vấn đề cụ thể.
* Vấn đề môi trường chủ yếu được quy định trong các văn bản luật như
Hiến pháp năm 1992, Luật Đất đai năm 2003, Luật Thủy sản 2003, Luật Bbảo
vệ môi trường năm 2005, Luật Bảo vệ và Phát triển rừng năm 2004, Luật Đa
dạng sinh học năm 2008…
1.3. Các nguyên tắc cơ bản của Luật Môi trường
1.3.1. Nguyên tắc đảm bảo quyền được sống trong một môi trường trong lành
“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ
những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền
được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Lời bất hủ ấy ở trong
bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ, được nhắc lại trong Tuyên
ngôn độc lập của nước Việt NamViệt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tuy nhiên, từ
những thập kỷ cuối của thế kỷ 20 đến nay, quyền sống của con người đã, đang
và sẽ bị đe dọa bởi tình trạng ô nhiễm môi trường và suy thoái môi trường. Vì
thế, tuyên bố Stockholm về môi trường và con người đã khẳng định: “con người
có quyền cơ bản được sống trong một môi trường chất lượng, cho phép cuộc
sống có phẩm giá và phúc lợi mà con người có trách nhiệm long trọng bảo vệ,
cải thiện cho thế hệ hôm nay và mai sau”. Tuyên bố Rio- De Janeiro nêu rõ:
“con người là trung tâm của các mối quan tâm về sự phát triển lâu dài. Con
người có quyền được hưởng cuộc sống hữu ích, lành mạnh và hài hòa với thiên
nhiên”.
Như vậy, quyền được sống trong môi trường trong lành đã được quy định
trong hai tuyên bố quan trọng về môi trường: tuyên bố stockhlom và tuyên bố
Rio-De Janeiro. Việt NamViệt Nam với tư cách là quốc gia ký hai tuyên bố này

có trách nhiệm biến quyền được sống trong môi trường trong lành thành một
trong những nguyên tắc pháp lý của Luật Môi trường Việt NamViệt Nam.
Để thực hiện tốt nguyên tắc này đòi hỏi Nhà nước phải thực hiện những
biện pháp cần thiết để bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường nhằm bảo đảm
cho người dân được sống trong một môi trường trong lành như ban hành và tổ
10


chức thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường, tiến hành những biện pháp làm
trong sạch môi trường… Bên cạnh đó, Nhà nước phải xây dựng cơ sở pháp lý để
người dân có thể bảo vệ quyền được sống trong môi trường trong lành thông qua
việc quy định quyền cơ bản của công dân như: quyền khiếu nại, tố cáo, quyền
được bồi thường thiệt hại…
1.3.2. Nguyên tắc phát triển bền vững
Thuật ngữ "phát triển bền vững" xuất hiện lần đầu tiên vào
năm 1980 trong ấn phẩm Chiến lược bảo tồn Thế giới công bố bởi Hiệp hội Bảo
tồn Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên Quốc tế (IUCN) với nội dung cơ
bản: "Sự phát triển của nhân loại không thể chỉ chú trọng tới phát triển kinh tế
mà còn phải tôn trọng những nhu cầu tất yếu của xã hội và sự tác động đến môi
trường sinh thái học".
Khái niệm phát triển bền vững được phổ biến rộng rãi vào
năm 1987 nhờ Báo cáo Brundtland (còn gọi là Báo cáo Our Common Future)
của Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới - WCED (nay là Ủy ban
Brundtland). Báo cáo này ghi rõ: Phát triển bền vững là "sự phát triển có thể đáp
ứng được những nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn hại đến những khả
năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai..." . Nói cách khác, phát triển bền
vững phải bảo đảm có sự phát triển kinh tế hiệu quả, xã hội công bằng và môi
trường được bảo vệ, gìn giữ.
Sau đó, năm 1992, tại Rio Dde Janeiro, các đại biểu tham gia Hội nghị về
Môi trường và Phát triển của Liên hiệp quốc đã xác nhận lại khái niệm này, và

đã gửi đi một thông điệp rõ ràng tới tất cả các cấp của các chính phủ về sự cấp
bách trong việc đẩy mạnh sự hòa hợp kinh tế, phát triển xã hội cùng với bảo vệ
môi trường.
Xuất phát từ vai trò, tầm quan trọng của phát triển bền vững, Luật Bảo vệ
môi trường năm 2005 của Việt NamViệt Nam đã khẳng định phát triển bền vững
là một trong những nguyên tắc cơ bản của Luật Môi trường. Khoản 4 Điều 3
Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 đã đưa ra khái niệm phát triển bền vững như
sau: Phát triển bền vững là phát triển đáp ứng được nhu cầu của thế hệ hiện tại
11


mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu đó của các thế hệ tương
lai trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế, bảo đảm tiến
bộ xã hội và bảo vệ môi trường.
Tuy còn nhiều vấn đề tranh cãi về định nghĩa “phát triển bền vững”, song
đã có sự thống nhất cao là đều tập trung chú ý tới phúc lợi lâu dài của con người
và đều bao hàm những yêu cầu về sự phối hợp một cách hài hòa ít nhất 3 mặt:
(1) tăng trưởng kinh tế, (2) công bằng xã hội, (3) bảo vệ môi trường. Ngoài ba
mặt chủ yếu này, nhiều nhà khoa học còn đề cập đến những khía cạnh khác của
phát triển bền vững như chính trị, văn hóa, tinh thần, dân tộc và đòi hỏi phải tính
toán và cân đối chúng trong khi hoạch định chiến lược và chính sách phát triển
kinh tế - xã hội cho từng quốc gia, từng địa phương cụ thể.
Nguyên tắc này đòi hỏi phải có sự kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh
tế, bảo đảm tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường. Bên cạnh đó, để đảm bảo phát
triển bền vững thì hoạt động của con người phải trong sức chịu đựng của trái đất
ở cả hai lĩnh vực khai thác tài nguyên thiên nhiên và xả thải. Tuyên bố
Stockholm đưa ra chín nguyên tắc trong đó có nguyên tắc phải “hoạt động trong
sức chịu đựng của trái đất” được hiểu dưới hai góc độ:
- Trong khai thác tài nguyên tài nguyên: đối với tài nguyên vĩnh viễn, tài
nguyên vô tận như năng lượng gió, mặt trời…: khai thác triệt để. Đối với tài

nguyên có thể phục hồi: khai thác trong chừng mực sẽ tự phục hồi, khai thác sử
dụng trong giới hạn của sự phục hồi. Đối với tài nguyên không thể phục hồi:
khai thác, sử dụng tiết kiệm và tìm ra nguồn vật liệu mới để thay thế vật liệu đó.
- Trong lĩnh vực xả thải: phải xả thải trong khả năng tự làm sạch của trái
đất (khả năng tự phân hủy các chất thải vào môi trường).
1.3.3. Nguyên tắc phòng ngừa
Môi trường khác với các hiện tượng tự nhiên, xã hội khác ở chỗ không có
khả năng phục hồi chẳng hạn như động vật tuyệt chủng hoặc có khả năng phục
hồi hiện trạng nhưng rất khó khăn, tốn kém và mất nhiều thời gian, kinh phí.
Chính vì vậy, ngăn ngừa những hành vi có khả năng gây hại cho môi trường cần
được chú trọng hơn so với việc áp dụng biện pháp khắc phục môi trường và các
12


chế tài đối với các chủ thể vi phạm. Nhận thức được vấn đề này, Nhà nước Việt
NamViệt Nam đã coi phòng ngừa là một nguyên tắc quan trọng của Luật Môi
trường. Nguyên tắc này được quy định tại Khoản 3 Điều 4 Luật Bảo vệ Môi
trường năm 2005: “Hoạt động bảo vệ môi trường phải thường xuyên, lấy phòng
ngừa là chính kết hợp với khắc phục ô nhiễm, suy thoái và cải thiện chất lượng
môi trường”. Mục đích của nguyên tắc này ngăn ngừa những rủi ro mà con
người và thiên nhiên có thể gây ra cho môi trường.
Để thực hiện tốt nguyên tắc phòng ngừa, con người phải lường trước
những rủi ro mà bản thân con người và thiên nhiên có thể gây ra cho môi
trường. Trên cơ sở đó, đưa ra những phương án, giải pháp để giảm thiểu, loại trừ
rủi ro.
1.3.4. Nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền
Xuất phát từ quan niệm coi môi trường là một loại hàng hóa đặc biệt,
nhận thức được ưu điểm của công cụ tài chính trong bảo vệ môi trường, Nhà
nước đã coi người gây ô nhiễm phải trả tiền là một nguyên tắc cơ bản của Luật
Môi trường Việt NamViệt Nam.

Người phải trả tiền theo nguyên tắc này là người gây ô nhiễm hiểu theo
nghĩa rộng bao gồm: người khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên; người có
hành vi xả thải vào môi trường; người có những hành vi khác gây tác động xấu
tới môi trường theo quy định của pháp luật Việt NamViệt Nam.
Các hình thức trả tiền theo nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền bao
gồm:
- Thuế tài nguyên: tiền phải trả cho hành vi khai thác tài nguyên thiên
nhiên như: nước, rừng, khoáng sản, thủy sản…
- Thuế môi trường: tiền phải trả cho hành vi gây tác động xấu đến môi
trường
- Phí bảo vệ môi trường: Nộp phí bảo vệ môi trường đối với nước thải
theo Nghị định số 67/2003/NĐ-CP của Chính phủ, nNộp phí bảo vệ môi trường
đối với khai thác khoáng sản theo Nghị định số 137/2005/NĐ-CP…

13


- Tiền phải trả cho việc sử dụng dịch vụ (dịch vụ thu gom rác, dịch vụ
quản lý chất thải nguy hại…)
- Tiền phải trả cho việc sử dụng cơ sở hạ tầng như tiền thuê kết cấu hạ
tầng trong khu công nghiệp bao gồm cả tiền thuê hệ thống xử lý chất thải tập
trung…
- Chi phí phục hồi môi trường trong khai thác tài nguyên.
Mục đích của nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền là định hướng
hành vi tác động của các chủ thể vào môi trường bằng cách khuyến khính những
hành vi tác động có lợi cho môi trường thông qua việc sử dụng lợi ích kinh tế.
Bên cạnh đó, nguyên tắc này còn bảo đảm sự công bằng trong hưởng dụng các
yếu tố môi trường và tạo nguồn kinh phí cho hoạt động bảo vệ môi trường.
Tuy nhiên, nguyên tắc này đòi hỏi tiền phải trả cho hành vi gây ô nhiễm
phải tương xứng với tính chất và mức độ gây tác động xấu tới môi trường. Đồng

thời, tiền phải trả cho hành vi gây ô nhiễm phải đủ sức tác động đến lợi ích và
hành vi của các chủ thể có liên quan.
1.3.5. Nguyên tắc môi trường là một thể thống nhất
Sự thống nhất của môi trường được biểu hiện trên hai phương diện: sự
thống nhất về không gian và sự thống nhất giữa các yếu tố cấu thành môi
trường.
- Sự thống nhất về không gian được hiểu là môi trường không bị chia cắt
bởi biên giới quốc gia, địa giới hành chính. Sự thiệt hại về môi trường ở quốc
gia này sẽ ảnh hưởng đến môi trường của quốc gia khác.
- Sự thống nhất nội tại giữa các yếu tố cấu thành môi trường, tức là giữa
các yếu tố cấu thành môi trường luôn có quan hệ tương tác với nhau, yếu tố này
thay đổi dẫn đến sự thay đổi của yếu tố khác. Ví dụ: sự thay đổi tính chất vật lý,
hóa học của đất sẽ ảnh hưởng đến số lượng và chất lượng của nước…
Nguyên tắc này đòi hỏi việc bảo vệ môi trường không bị chia cắt bởi biên
giới quốc gia, địa giới hành chính. Bên cạnh đó, phải đảm bảo sự thống nhất
giữa các ngành, các văn bản quy phạm pháp luật trong việc quản lý, điều chỉnh
các hoạt động khai thác và bảo vệ môi trường. Ngoài ra, phải coi việc bảo vệ
14


môi trường là sự nghiệp của toàn dân, mọi công dân, mọi tổ chức đều phải tham
gia bảo vệ môi trường thông qua việc tuân thủ các quy định của pháp luật môi
trường.
2. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ MÔI TRƯỜNG
2.1. Khái niệm quản lý nhà nước về môi trường
Quản lý nhà nước về môi trường là một nội dung của quản lý nhà nước
nói chung. Nó được coi là quá trình nhà nước bằng các cách thức, phương tiện
khác nhau tác động đến hoạt động của con người nhằm làm hài hòa mối quan hệ
giữa con người và phát triển sao cho thỏa mãn nhu cầu của con người nhưng vẫn
đảm bảo chất lượng môi trường sống.

Hiểu một cách khái quát nhất, quản lý nhà nước về môi trường là toàn bộ
hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền để thực hiện chức năng quản lý
nhà nước về môi trường.
2.2. Thẩm quyền quản lý nhà nước về môi trường của các cơ quan nhà
nước
2.2.1. Thẩm quyền quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường của Chính phủ,
bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, bộ, cơ quan ngang bộ, cơ
quan thuộc Chính phủ
Điều 121 Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 đã quy định trách nhiệm quản
lý nhà nước về bảo vệ môi trường của Chính phủ, bộ, cơ quan ngang bộ, cơ
quan thuộc Chính phủ. Theo đó:
- Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường trong phạm
vi cả nước.
- Bộ Tài nguyên và Môi trường chịu trách nhiệm trước Chính phủ trong
việc thực hiện quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường và có trách nhiệm:
+ Trình Chính phủ hoặc ban hành theo thẩm quyền các văn bản quy phạm
pháp luật về bảo vệ môi trường;
+ Trình Chính phủ quyết định chính sách, chiến lược, kế hoạch quốc gia về
bảo vệ môi trường;

15


+ Chủ trì giải quyết hoặc đề xuất Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giải
quyết các vấn đề môi trường liên ngành, liên tỉnh;
+ Xây dựng, ban hành hệ thống tiêu chuẩn môi trường theo quy định của
Chính phủ;
+ Chỉ đạo xây dựng, quản lý hệ thống quan trắc môi trường quốc gia và
quản lý thống nhất số liệu quan trắc môi trường;
+ Chỉ đạo, tổ chức đánh giá hiện trạng môi trường cả nước phục vụ cho

việc đề ra các chủ trương, giải pháp về bảo vệ môi trường;
+ Quản lý thống nhất hoạt động thẩm định, phê duyệt báo cáo đánh giá môi
trường chiến lược, báo cáo đánh giá tác động môi trường, đăng ký bản cam kết
bảo vệ môi trường trong phạm vi cả nước; tổ chức thẩm định báo cáo đánh giá
môi trường chiến lược; tổ chức thẩm định, phê duyệt báo cáo đánh giá tác động
môi trường thuộc thẩm quyền; hướng dẫn việc đăng ký cơ sở, sản phẩm thân
thiện với môi trường và cấp giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn môi trường;
+ Hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi
trường; giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo, kiến nghị liên quan đến bảo vệ
môi trường theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo và các quy định
khác của pháp luật có liên quan;
+ Trình Chính phủ tham gia tổ chức quốc tế, ký kết hoặc gia nhập điều ước
quốc tế về môi trường; chủ trì các hoạt động hợp tác quốc tế về bảo vệ môi
trường với các nước, các tổ chức quốc tế;
+ Chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường của Uỷ
ban nhân dân các cấp;
+ Bảo đảm yêu cầu bảo vệ môi trường trong quy hoạch, kế hoạch sử dụng
đất của cả nước, chiến lược quốc gia về tài nguyên nước và quy hoạch tổng hợp
lưu vực sông liên tỉnh; chiến lược tổng thể quốc gia về điều tra cơ bản, thăm dò,
khai thác, chế biến tài nguyên khoáng sản.
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư có trách nhiệm chủ trì phối hợp với bộ, cơ quan
ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh bảo đảm yêu
cầu bảo vệ môi trường trong chiến lược, quy hoạch tổng thể và kế hoạch phát
16


triển kinh tế - xã hội của cả nước, vùng và dự án, công trình quan trọng thuộc
thẩm quyền quyết định của Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
- Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có trách nhiệm chủ trì phối hợp
với Bộ Tài nguyên và Môi trường, bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính

phủ có liên quan và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh để chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra
việc thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường và các quy định khác của pháp
luật có liên quan đối với sản xuất, nhập khẩu, sử dụng hóa chất, thuốc bảo vệ
thực vật, phân bón, chất thải trong nông nghiệp; đối với quản lý giống cây trồng,
giống vật nuôi biến đổi gen và sản phẩm của chúng; đối với các hệ thống đê
điều, thủy lợi, nước sạch phục vụ cho sinh hoạt ở nông thôn. Bên cạnh đó, Bộ
còn có trách nhiệm chủ trì phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường, bộ, cơ
quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có liên quan và Uỷ ban nhân dân cấp
tỉnh để chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện pháp luật về bảo vệ môi
trường và các quy định khác của pháp luật có liên quan đối với lĩnh vực hoạt
động nuôi trồng, khai thác, chế biến thủy sản; sinh vật thủy sản biến đổi gen và
sản phẩm của chúng; các khu bảo tồn biển.
- Bộ Công nghiệp (nay là Bộ Công thương) có trách nhiệm chủ trì phối hợp
với Bộ Tài nguyên và Môi trường, bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính
phủ có liên quan và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh để chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra
việc thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường và các quy định khác của pháp
luật có liên quan đối với lĩnh vực công nghiệp; xử lý các cơ sở công nghiệp gây
ô nhiễm môi trường nghiêm trọng thuộc thẩm quyền quản lý; chỉ đạo phát triển
ngành công nghiệp môi trường.
- Bộ Xây dựng có trách nhiệm chủ trì phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi
trường, bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có liên quan và Uỷ ban
nhân dân cấp tỉnh để chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện pháp luật về
bảo vệ môi trường và các quy định khác của pháp luật có liên quan đối với các
hoạt động xây dựng kết cấu hạ tầng cấp nước, thoát nước, xử lý chất thải rắn và
nước thải tại đô thị, khu sản xuất dịch vụ tập trung, cơ sở sản xuất vật liệu xây
dựng, làng nghề và khu dân cư nông thôn tập trung.
17


- Bộ Giao thông vận tải có trách nhiệm chủ trì phối hợp với Bộ Tài nguyên

và Môi trường, bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có liên quan và
Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh để chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện pháp
luật về bảo vệ môi trường và các quy định khác của pháp luật có liên quan đối
với hoạt động xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông và hoạt động giao thông vận
tải.
- Bộ Y tế chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra việc quản lý chất thải y tế; công tác
bảo vệ môi trường trong các cơ sở y tế, vệ sinh an toàn thực phẩm và hoạt động
mai táng.
- Bộ Quốc phòng, Bộ Công an có trách nhiệm huy động lực lượng ứng phó,
khắc phục sự cố môi trường; chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra công tác
bảo vệ môi trường trong lực lượng vũ trang thuộc thẩm quyền quản lý.
- Các bộ khác, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có trách nhiệm
thực hiện các nhiệm vụ được quy định cụ thể tại Luật Bảo vệ môi trường năm
2005 và phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm
tra việc thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường thuộc phạm vi quản lý của
mình.
2.2.2. Thẩm quyền quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường của Ủy ban nhân
dân các cấp
* Thẩm quyền của ủy ban nhân dân cấp tỉnh
Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước về
bảo vệ môi trường tại địa phương theo quy định tại Khoản 1 Điều 122 Luật Bảo
vệ môi trường năm 2005, bao gồm:
- Ban hành theo thẩm quyền quy định, cơ chế, chính sách, chương trình, kế
hoạch về bảo vệ môi trường;
- Chỉ đạo, tổ chức thực hiện chiến lược, chương trình, kế hoạch và nhiệm
vụ về bảo vệ môi trường;
- Chỉ đạo xây dựng, quản lý hệ thống quan trắc môi trường của địa phương;
- Chỉ đạo định kỳ tổ chức đánh giá hiện trạng môi trường;

18



- Tổ chức thẩm định, phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường
thuộc thẩm quyền;
- Tuyên truyền, giáo dục pháp luật về bảo vệ môi trường;
- Chỉ đạo công tác kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ
môi trường; giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo, kiến nghị về môi trường
theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo và các quy định khác của pháp
luật có liên quan; phối hợp với Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh liên quan giải quyết
các vấn đề môi trường liên tỉnh.
* Thẩm quyền của ủy ban nhân dân cấp huyện
Uỷ ban nhân dân cấp huyện có trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước về
bảo vệ môi trường tại địa phương theo quy định tại Khoản 2 Điều 122 Luật Bảo
vệ môi trường năm 2005, bao gồm:
- Ban hành theo thẩm quyền quy định, cơ chế, chính sách, chương trình, kế
hoạch về bảo vệ môi trường;
- Chỉ đạo, tổ chức thực hiện chiến lược, chương trình, kế hoạch và nhiệm
vụ về bảo vệ môi trường;
- Tổ chức đăng ký và kiểm tra việc thực hiện cam kết bảo vệ môi trường;
- Tuyên truyền, giáo dục pháp luật về bảo vệ môi trường;
- Chỉ đạo công tác kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ
môi trường; giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo, kiến nghị về bảo vệ môi
trường theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo và các quy định khác của
pháp luật có liên quan;
- Phối hợp với Uỷ ban nhân dân cấp huyện có liên quan giải quyết các vấn
đề môi trường liên huyện;
- Thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường theo uỷ
quyền của cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường cấp tỉnh;
- Chỉ đạo công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường của Uỷ ban nhân
dân cấp xã.

* Thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp xã

19


Uỷ ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước về bảo
vệ môi trường tại địa phương theo quy định tại Khoản 3 Điều 122 Luật Bảo vệ
môi trường năm 2005, bao gồm:
- Chỉ đạo, xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện nhiệm vụ bảo vệ môi
trường, giữ gìn vệ sinh môi trường trên địa bàn, khu dân cư thuộc phạm vi quản
lý của mình; tổ chức vận động nhân dân xây dựng nội dung bảo vệ môi trường
trong hương ước của cộng đồng dân cư; hướng dẫn việc đưa tiêu chí về bảo vệ
môi trường vào trong việc đánh giá thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc và gia
đình văn hóa;
- Kiểm tra việc chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường của hộ gia đình,
cá nhân;
- Phát hiện và xử lý theo thẩm quyền các vi phạm pháp luật về bảo vệ môi
trường hoặc báo cáo cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường cấp trên
trực tiếp;
- Hoà giải các tranh chấp về môi trường phát sinh trên địa bàn theo quy
định của pháp luật về hoà giải;
- Quản lý hoạt động của thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc, tổ dân phố và
tổ chức tự quản về giữ gìn vệ sinh môi trường, bảo vệ môi trường trên địa bàn.
2.2.3. Thẩm quyền quản lý nhà nước của các bộ phận chuyên môn về bảo vệ
môi trường
* Thẩm quyền quản lý nhà nước của tổ chức, bộ phận chuyên môn về bảo vệ
môi trường của các cơ quan nhà nước ở trung ương
Tổ chức, bộ phận chuyên môn về bảo vệ môi trường của các cơ quan nhà
nước ở trung ương bao gồm: tổ chức chuyên môn về bảo vệ môi trường của Bộ,
cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; Tổ chức, bộ phận chuyên môn về

bảo vệ môi trường của cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành và cơ quan thực
thi pháp luật chuyên ngành (sau đây gọi chung là Cục, Tổng cục) thuộc Bộ, cơ
quan ngang Bộ.
Tổ chức chuyên môn về bảo vệ môi trường của cơ quan nhà nước ở Trung
ương có trách nhiệm:
20


- Tham mưu cho Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ hoặc Cục
trưởng, Tổng cục trưởng xây dựng, chỉ đạo, tổ chức thực hiện các chương trình,
quy hoạch, kế hoạch về bảo vệ môi trường trong phạm vi chức năng hoặc lồng
ghép các nội dung bảo vệ môi trường vào chiến lược, chương trình, quy hoạch,
kế hoạch hoạt động của ngành, lĩnh vực hoặc cơ quan, đơn vị; tham gia thẩm
định các báo cáo tổng hợp điều tra, đánh giá và chiến lược, quy hoạch, kế hoạch,
khai thác, sử dụng hợp lý và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên thuộc phạm vi quản
lý.
- Tham mưu cho Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp kiến
nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, công bố áp dụng và điều
chỉnh tiêu chuẩn môi trường, chất lượng môi trường và chất thải môi trường phù
hợp với đặc thù của hoạt động ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước
và sức chịu tải của môi trường; kiến nghị các biện pháp áp dụng có hiệu quả các
tiêu chuẩn môi trường trong lĩnh vực được phân công quản lý theo quy định của
pháp luật.
- Tham mưu cho Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp trong
việc chỉ đạo, tổ chức thực hiện các nhiệm vụ: lập và thẩm định báo cáo đánh giá
môi trường chiến lược, báo cáo đánh giá tác động môi trường; quản lý và kiểm
soát chất thải, tiếng ồn, độ rung, ánh sáng, bức xạ; phòng ngừa, ứng phó sự cố
môi trường, khắc phục ô nhiễm môi trường, phục hồi môi trường; thông tin và
báo cáo hiện trạng môi trường và việc xây dựng nguồn lực khác phục vụ công
tác bảo vệ môi trường theo quy định của pháp luật.

- Theo dõi, kiểm tra việc thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường đối với
các tổ chức, cá nhân thuộc quyền quản lý và tổ chức, cá nhân hoạt động trong
ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý; phát hiện và kiến nghị xử lý hoặc được
xử lý theo thẩm quyền đối với các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi
trường; chủ trì giải quyết hoặc tham gia giải quyết theo thẩm quyền đối với các
khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về môi trường và bồi thường thiệt hại liên quan đến
môi trường.

21


- Tuyên truyền, giáo dục pháp luật, các điều ước quốc tế liên quan đến
bảo vệ môi trường trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ được giao.
- Chủ trì hoặc tham gia, phối hợp thực hiện các dự án hợp tác quốc tế có
liên quan đến bảo vệ môi trường trong ngành, lĩnh vực.
- Hướng dẫn, tổ chức thực hiện quan trắc các tác động đối với môi trường
thuộc phạm vi quản lý nhà nước; thống kê và quản lý hệ thống cơ sở dữ liệu môi
trường liên quan đến nhiệm vụ được giao.
- Tổ chức nghiên cứu khoa học, dự báo, cảnh báo về môi trường; phát
triển, ứng dụng và chuyển giao công nghệ về bảo vệ môi trường; phối hợp với
cơ quan, đơn vị trong việc triển khai thực hiện các dịch vụ bảo vệ môi trường
trong lĩnh vực quản lý.
- Phối hợp với các tổ chức chuyên môn về bảo vệ môi trường của Bộ Tài
nguyên và Môi trường, Sở Tài nguyên và Môi trường cấp tỉnh, Phòng Tài
nguyên và Môi trường cấp huyện, các quỹ bảo vệ môi trường trong việc hướng
dẫn, triển khai ứng dụng phát triển các dịch vụ bảo vệ môi trường trong hoạt
động của các tổ chức, đơn vị thuộc thẩm quyền quản lý.
- Kiến nghị việc trao tặng các giải thưởng, khen thưởng về bảo vệ môi
trường đối với các tổ chức, cá nhân thuộc thẩm quyền quản lý.
* Thẩm quyền quản lý nhà nước của tổ chức, bộ phận chuyên môn về bảo vệ

môi trường của các cơ quan nhà nước ở địa phương
- Sở Tài nguyên và Môi trường thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách
nhiệm giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn quản
lý nhà nước về bảo vệ môi trường trên địa bàn cấp tỉnh.
- Phòng Tài nguyên và Môi trường thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện có
trách nhiệm giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn
quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường trên địa bàn cấp huyện.
- Công chức Địa chính - Xây dựng cấp xã có nhiệm vụ giúp Ủy ban nhân
dân cấp xã thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quản lý nhà nước về bảo vệ môi
trường trên địa bàn cấp xã.

22


2.3. Nội dung cơ bản của quản lý nhà nước về môi trường
2.3.1. Xây dựng chiến lược, chính sách bảo vệ môi trường
* Xây dựng chiến lược môi trường
Chiến lược bảo vệ môi trường là bộ phận cấu thành không thể tách rời của
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, là cơ sở quan trọng bảo đảm phát triển bền
vững đất nước. Chiến lược bảo vệ môi trường thể hiện mục tiêu môi trường
quốc gia, thường là mười đến hai mươi năm, bao gồm các nội dung cơ bản:
Đánh giá môi trường quốc gia và những thách thức đặt ra; quan điểm mục tiêu
quốc gia và các nội dung cơ bản của bảo vệ môi trường; các giải pháp thực hiện
chiến lược; tổ chức thực hiện chiến lược.
Chiến lược bảo vệ môi trường sẽ là định hướng cơ bản, là kim chỉ nam
cho hành động quản lý nhà nước về môi trường cụ thể. Từ các mục tiêu và
nhiệm vụ mà chiến lược đề ra, nhà nước sẽ xác định chính sách và pháp luật cụ
thể của hoạt động quản lý nhà nước về môi trường.
Chiến lược bảo vệ môi trường do Bộ Tài nguyên và Môi trường xây dựng
trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Ngày 02 tháng 12 năm 2003, Thủ tướng

Chính phủ đã ban hành Quyết định số 256/2003/QĐ-TTg về việc phê duyệt
Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm
2020.
* Xây dựng chính sách môi trường
Chính sách môi trường là những chủ trương, biện pháp mang tính chiến
lược, thời đoạn, nhằm giải quyết một nhiệm vụ bảo vệ môi trường cụ thể nào đó,
trong một giai đoạn nhất định. Chính sách môi trường được xây dựng dựa trên
chiến lược môi trường và phải phù hợp với chiến lược môi trường đã đề ra.
Chính sách môi trường cụ thể hoá Luật Bảo vệ môi trường (trong nước)
và các Công ước quốc tế về môi trường. Mỗi cấp quản lý hành chính đều có
những chính sách môi trường riêng. Nó vừa cụ thể hoá luật pháp và những chính
sách của các cấp cao hơn, vừa tính tới đặc thù địa phương. Sự đúng đắn và thành
công của chính sách cấp địa phương có vai trò quan trọng trong đảm bảo sự
thành công của chính sách cấp trung ương.
23


2.3.2. Xây dựng và ban hành hệ thống quy chuẩn kỹ thuật môi trường
Ban hành và áp dụng quy chuẩn kỹ thuật môi trường là một trong những
nội dung quan trọng của quản lý nhà nước về môi trường. Quy chuẩn kỹ thuật
môi trường vừa là công cụ pháp lý, vừa là công cụ kỹ thuật để kiểm soát ô
nhiễm môi trường. Hệ thống quy chuẩn kỹ thuật môi trường là cơ sở khoa học
để xác định chất lượng môi trường sống của con người, xác định mức độ ô
nhiễm đối với từng thành phần môi trường cụ thể.
Luật Bảo vệ môi trường chỉ đưa ra khái niệm tiêu chuẩn môi trường mà
không có khái niệm quy chuẩn kỹ thuật môi trường. Theo Khoản 5, Điều 3 của
Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 “Ttiêu chuẩn môi trường là giới hạn cho
phép của các thông số về chất lượng môi trường xung quanh, về hàm lượng của
chất gây ô nhiễm trong chất thải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy
định làm căn cứ để quản lý và bảo vệ môi trường”.

Nhưng Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật năm 2006 lại đề cập đến 2
khái niệm, đó là: “Tiêu chuẩn môi trường” do Bộ Khoa học và Công nghệ công
bố chỉ mang tính định hướng, tự nguyện áp dụng và “Quy chuẩn kỹ thuật về môi
trường” do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành dưới dạng văn bản để bắt
buộc áp dụng. Theo Nghị định số 21/2008/NĐ - CP ngày 28 tháng 02 năm 2008
của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 80/2006/NĐ CP ngày 09 tháng 8 năm 2006, các tiêu chuẩn về chất lượng môi trường xung
quanh và về chất thải do Nhà nước công bố bắt buộc áp dụng được chuyển đổi
tương ứng thành quy chuẩn kỹ thuật về chất lượng môi trường xung quanh và
quy chuẩn kỹ thuật về chất thải. Việc chuyển đổi các tiêu chuẩn quốc gia về môi
trường đã ban hành trước ngày 01 tháng 01 năm 2007 do Bộ Tài nguyên và Môi
trường chủ trì thực hiện theo quy định của Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ
thuật.
Việc xây dựng và áp dụng quy chuẩn kỹ thuật môi trường phải tuân theo
các nguyên tắc được quy định tại Điều 8 Luật Bảo vệ môi trường năm 2005, bao
gồm:

24


- Đáp ứng mục tiêu bảo vệ môi trường; phòng ngừa ô nhiễm, suy thoái và
sự cố môi trường.
- Ban hành kịp thời, có tính khả thi, phù hợp với mức độ phát triển kinh tế xã hội, trình độ công nghệ của đất nước và đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế
quốc tế.
- Phù hợp với đặc điểm của vùng, ngành, loại hình và công nghệ sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ.
Căn cứ vào nội dung, mục đích và đối tượng áp dụng, quy chuẩn môi
trường được chia thành: Quy chuẩn kỹ thuật về chất lượng môi trường xung
quanh và quy chuẩn kỹ thuật chất thải. Trong đó:
Quy chuẩn kỹ thuật về chất lượng môi trường xung quanh quy định giá trị
giới hạn cho phép của các thông số môi trường, phù hợp với mục đích sử dụng

thành phần môi trường.
Quy chuẩn kỹ thuật về chất lượng môi trường xung quanh bao gồm:
- Nhóm quy chuẩn kỹ thuật môi trường đối với đất phục vụ cho các mục
đích về sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản và mục đích khác;
- Nhóm quy chuẩn kỹ thuật môi trường đối với nước mặt và nước dưới đất
phục vụ các mục đích về cung cấp nước uống, sinh hoạt, công nghiệp, nuôi
trồng thuỷ sản, tưới tiêu nông nghiệp và mục đích khác;
- Nhóm quy chuẩn kỹ thuật môi trường đối với nước biển ven bờ phục vụ
các mục đích về nuôi trồng thuỷ sản, vui chơi, giải trí và mục đích khác;
- Nhóm quy chuẩn kỹ thuật môi trường đối với không khí ở vùng đô thị,
vùng dân cư nông thôn;
- Nhóm quy chuẩn kỹ thuật môi trường về âm thanh, ánh sáng, bức xạ
trong khu vực dân cư, nơi công cộng.
Quy chuẩn kỹ thuật về chất thải quy định cụ thể giá trị tối đa của các
thông số ô nhiễm của chất thải, bảo đảm không gây hại cho con người và sinh
vật, bao gồm:
- Nhóm quy chuẩn kỹ thuật về nước thải công nghiệp, dịch vụ, nước thải từ
chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, nước thải sinh hoạt và hoạt động khác;
25


×