Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan đây là công
trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Trần Thu Hương
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA THÍCH
ỨNG VỚI HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC CỦA GIẢNG
VIÊN TRẺ TẠI CÁC HỌC VIỆN, TRƯỜNG ĐẠI
HỌC CÔNG AN NHÂN DÂN
1.1.
Các khái niệm cơ bản
1.2.
Cấu trúc tâm lý thích ứng với hoạt động dạy học của giảng
viên trẻ tại các học viện, trường đại học Công an nhân dân
1.3.
Đặc điểm của đội ngũ giảng viên trẻ và đặc điểm hoạt động
dạy học tại các học viện, trường đại học Công an nhân dân
1.4.
Những yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến thích ứng với hoạt
động dạy học của giảng viên trẻ
1.5.
Tiêu chí cơ bản đánh giá mức độ thích ứng với hoạt động
dạy học của giảng viên trẻ tại các học viện, trường đại
học Công an nhân dân
Chương 2 TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1.
Nghiên cứu lý luận
2.2.
Nghiên cứu thực tiễn
Chương 3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1.
Thực trạng thích ứng với hoạt động dạy học của giảng viên
trẻ tại các học viện, trường đại học Công an nhân dân
3.2.
Kết quả nghiên cứu các yếu tố cơ bản ảnh hưởng tới thích
ứng với hoạt động dạy học của giảng viên trẻ tại các học
viện, trường đại học Công an nhân dân
3.3.
Biện pháp tâm lý - sư phạm nhằm nâng cao mức độ thích
ứng với hoạt động dạy học của giảng viên trẻ tại các học
viện, trường đại học Công an nhân dân
3.4.
Thực nghiệm tác động
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
3
10
24
24
37
55
60
68
75
75
77
87
87
124
132
169
181
186
187
196
DANH MỤC CÁC BẢNG
STT
Bảng 1.
Bảng 2.
Bảng 3.
Bảng 4.
Bảng 5.
Bảng 6.
Bảng 7.
Bảng 8.
Bảng 9.
Bảng 10.
Bảng 11.
Bảng 12.
Bảng 13.
Bảng 14.
Bảng 15.
Bảng 16.
Bảng 17.
Bảng 18.
Bảng 19.
Bảng 20.
NỘI DUNG
Trang
Số lượng và tỷ lệ % khách thể nghiên cứu
80
Cách tính điểm cho mỗi phương án trả lời
83
Số lượng và tỷ lệ % về mức độ thích ứng với hoạt động dạy
87
học của giảng viên trẻ
Điểm trung bình và độ lệch chuẩn về mức độ thích ứng
88
biểu hiện trên 3 mặt: nhận thức, cảm xúc, hành động
Mức độ thích ứng của giảng viên trẻ với hoạt động dạy học theo
89
giới tính
Mức độ thích ứng với hoạt động dạy học của giảng viên trẻ theo
89
thâm niên dạy học
Mức độ thích ứng biểu hiện ở mặt nhận thức
91
Điểm trung bình và thứ bậc các biểu hiện cụ thể về nhận
91
thức của giảng viên trẻ đối với hoạt động dạy học
Mức độ hài lòng của giảng viên trẻ
96
Điểm trung bình và thứ bậc về sự hài lòng của giảng viên trẻ
97
Kết quả thực hiện các hành động dạy học của giảng viên trẻ
103
Điểm trung bình và thứ bậc các biểu hiện cụ thể về hoạt
104
động dạy học của giảng viên trẻ
Điểm trung bình và thứ bậc về thực hiện hành động soạn
108
giáo án của giảng viên trẻ theo các nội dung cụ thể
Điểm trung bình và độ lệch chuẩn về hành động giảng dạy
111
trên lớp
Điểm trung bình và thứ bậc về thực hiện hành động kiểm
113
tra, đánh giá của giảng viên trẻ theo các nội dung cụ thể
Điểm trung bình và thứ bậc về thực hiện hành động biên
116
soạn giáo tài liệu dạy học
Điểm trung bình và thứ bậc về thực hiện hành động nghiên
118
cứu khoa học
Điểm trung bình và thứ bậc về hành động hướng dẫn học
120
viên tự học, tự nghiên cứu
Điểm trung bình và thứ bậc về hành động thực hiện mối quan
122
hệ xã hội
Điểm trung bình và thứ bậc về mức độ ảnh hưởng của các yếu 126
Bảng 21.
Bảng 22.
Bảng 23.
Bảng 24.
Bảng 25.
tố chủ quan đến thích ứng với hoạt động dạy học của giảng
viên trẻ do giảng viên trẻ và lãnh đạo khoa, bộ môn đánh giá
Điểm trung bình và thứ bậc về mức độ ảnh hưởng của các
yếu tố khách quan đến thích ứng với hoạt động dạy học của
giảng viên trẻ do giảng viên trẻ và lãnh đạo khoa, bộ môn
đánh giá
Kế hoạch giúp giảng viên trẻ thích ứng của khoa, bộ môn
Giảng viên trẻ xây dựng và thực hiện kế hoạch thích ứng
Mức độ thực hiện hành động biên soạn tài liệu dạy học của
nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng
Điểm trung bình và thứ bậc về thực hiện hành động biên
soạn tài liệu dạy học của thực nghiệm và nhóm đối chứng
129
162
163
169
170
3
MỞ ĐẦU
1. Giới thiệu khái quát về luận án
Trong môi trường tự nhiên và xã hội luôn biến động, phát triển không
ngừng, con người cần có sự thích ứng để hòa nhập nhanh với sự biến đổi và
phát triển đó. Vấn đề thích ứng được nhiều nhà tâm lý học, tâm lý giáo dục
nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau nhằm tìm ra bản chất của vấn đề thích
ứng, các yếu tố ảnh hưởng đến thích ứng, đề ra các giải pháp nâng cao khả
năng thích ứng của con người.
“Thích ứng với hoạt động dạy học của giảng viên trẻ tại các học
viện, trường đại học Công an nhân dân” là công trình nghiên cứu thích ứng
mang tính chất đặc thù về hoạt động dạy học của giảng viên trẻ trong Công an
nhân dân (CAND). Công trình nghiên cứu có tính độc lập, chưa có tác giả nào
ở Việt Nam và trên thế giới nghiên cứu, do đó đảm bảo yêu cầu nghiên cứu.
Trên cơ sở khái quát và nghiên cứu các công trình có liên quan đến vấn
đề nghiên cứu, đề tài đã xây dựng khái niệm về thích ứng với hoạt động dạy
học của giảng viên trẻ tại các học viện, trường đại học CAND; xác định cấu
trúc và các yếu tố ảnh hưởng đến thích ứng với hoạt động dạy học của giảng
viên trẻ; xây dựng các biện pháp tâm lý - sư phạm nhằm nâng cao mức độ
thích ứng đối với hoạt động dạy học của giảng viên trẻ tại các học viện,
trường đại học CAND.
2. Lý do lựa chọn đề tài luận án
Chất lượng dạy học của đội ngũ giảng viên là một trong những yếu tố
quan trọng đảm bảo chất lượng giáo dục và đào tạo. Đảng và Nhà nước luôn
coi trọng phát triển đội ngũ giảng viên trong sự nghiệp giáo dục và đã đề ra
những định hướng, chính sách đúng đắn nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ
giảng viên, đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của sự phát triển đất nước. Văn kiện Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã khẳng định: “Phát triển giáo
4
dục là quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt
Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội
nhập quốc tế, trong đó đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ
giảng viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt” [61, tr.130-131]. Quán triệt
các nghị quyết của Đảng, Nhà nước, Bộ Công an luôn coi trọng phát triển,
nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục, từng bước
hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp quy về xây dựng, phát triển đội ngũ
nhà giáo CAND, tạo cơ sở pháp lý quan trọng để cơ quan quản lý và các cơ
sở đào tạo thống nhất thực hiện. Bằng những chủ trương đúng đắn và sự
quan tâm của lãnh đạo Bộ Công an đối với nhà giáo CAND, trải qua 70
năm phát triển, đến nay, đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục trong
CAND đã phát triển cả về số lượng và chất lượng, đáp ứng tốt nhu cầu giáo
dục và đào tạo trong từng giai đoạn.
Cùng với đội ngũ giảng viên các học viện, trường đại học CAND, đội
ngũ giảng viên trẻ đang là một lực lượng góp phần quan trọng đảm bảo chất
lượng giáo dục, đào tạo trong CAND. Hiện nay, đội ngũ giảng viên trẻ tại các
học viện, trường đại học CAND chiếm đến 60 - 70% số lượng đội ngũ giảng
viên. Do nhu cầu về việc mở rộng quy mô đào tạo trong các học viện, trường
đại học CAND; và do quy luật tự nhiên về sự thay thế thế hệ giảng viên nhiều
tuổi bằng thế hệ giảng viên trẻ trong các học viện, trường đại học CAND cho
nên số lượng giảng viên trẻ ngày càng gia tăng trong những năm gần đây. Bên
cạnh những thành tích đã đạt được, giảng viên trẻ gặp những khó khăn trong
thực hiện hoạt động dạy học do nhiều nguyên nhân khác nhau. Về nguyên
nhân khách quan, như: khối lượng công việc nhiều; tính chất, mức độ đòi hỏi
của hoạt động dạy học ngày càng cao, có nhiều sự thay đổi trong bối cảnh
toàn cầu hóa, sự phát triển của khoa học, công nghệ và nền kinh tế tri thức.
Về nguyên nhân chủ quan, như: giảng viên trẻ chưa chủ động tích cực trong
5
việc học tập, rèn luyện để hình thành phẩm chất nhân cách người giảng viên,
sĩ quan CAND; kỹ năng thực hiện hành động dạy học chưa tốt… Bởi vậy,
giảng viên trẻ gặp nhiều khó khăn trong việc thực hiện tốt chức trách, nhiệm
vụ được giao, như: tổ chức, thực hiện giảng dạy; biên soạn tài liệu dạy học,
nghiên cứu khoa học... Bên cạnh đó, giảng viên trẻ còn có những biểu hiện
mệt mỏi, căng thẳng trong việc thực hiện hoạt động dạy học. Đặc biệt, có một
số giảng viên trẻ đã không đáp ứng được yêu cầu dạy học, bị điều động sang
làm công tác khác. Từ thực trạng trên, đặt ra yêu cầu cần thiết phải nghiên cứu
cơ sở lý luận và thực tiễn của thích ứng với hoạt động dạy học của giảng viên
trẻ tại các học viện, trường đại học CAND nhằm xây dựng biện pháp nâng cao
mức độ thích ứng với hoạt động dạy học của giảng viên trẻ, góp phần đảm bảo
chất lượng giáo dục và đào tạo tại các học viện, trường đại học CAND.
Những năm qua, các học viện, trường đại học CAND đã có nhiều biện
pháp nhằm đảm bảo chất lượng giáo dục, đào tạo, nhất là những biện pháp
nâng cao chất lượng dạy học cho đội ngũ giảng viên. Tuy nhiên, những
nghiên cứu chuyên sâu về thích ứng với hoạt động dạy học của giảng viên trẻ
chưa được đề cập đến, do đó, nghiên cứu thích ứng với hoạt động dạy học
của giảng viên trẻ tại các học viện, trường đại học CAND là đòi hỏi cấp thiết
từ thực tiễn yêu cầu phát triển của các học viện, trường đại học CAND trong
giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về thích ứng với hoạt động dạy học
của giảng viên trẻ tại các học viện, trường đại học CAND, luận án đề xuất
một số biện pháp tâm lý - sư phạm nhằm nâng cao mức độ thích ứng với hoạt
động dạy học của giảng viên trẻ tại các học viện, trường đại học CAND.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
6
Để đạt được mục đích nghiên cứu, đề tài làm rõ những nội dung sau:
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn thích ứng với hoạt động dạy học của
giảng viên trẻ tại các học viện, trường đại học CAND.
- Nghiên cứu thực trạng thích ứng với hoạt động dạy học của giảng
viên trẻ tại các học viện, trường đại học CAND.
- Xây dựng biện pháp tâm lý - sư phạm nhằm nâng cao thích ứng với
hoạt động dạy học của giảng viên trẻ tại các học viện, trường đại học CAND.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu và giả thuyết khoa học
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Thích ứng với hoạt động dạy học của giảng viên trẻ.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Giới hạn đối tượng nghiên cứu
Mức độ thích ứng với hoạt động dạy học của giảng viên trẻ.
- Giới hạn khách thể nghiên cứu
Số lượng 171 giảng viên trẻ giảng dạy dưới 5 năm và dưới 35 tuổi tại
Học viện An ninh nhân dân, Học viện Cảnh sát nhân dân, Trường Đại học Kỹ
thuật - Hậu cần CAND vàTrường Đại học Phòng cháy Chữa cháy.
33 cán bộ quản lý, lãnh đạo khoa, bộ môn tại Học viện An ninh nhân
dân, Học viện Cảnh sát nhân dân, Trường Đại học Kỹ thuật - Hậu cần CAND
và Trường Đại học Phòng cháy Chữa cháy.
4.3. Giả thuyết khoa học
Thích ứng với hoạt động dạy học của giảng viên trẻ tại các học viện,
trường đại học CAND là quá trình giảng viên trẻ tích cực thay đổi, điều chỉnh
tâm lý để đáp ứng yêu cầu của hoạt động dạy học tại các học viện, trường đại
học CAND. Nếu làm rõ lý luận và thực tiễn về thích ứng với hoạt động dạy
học của giảng viên trẻ, đánh giá đúng thực trạng thích ứng với hoạt động dạy
7
học của họ thì sẽ tìm được những biện pháp tâm lý - sư phạm để nâng cao
mức độ thích ứng với hoạt động dạy học của giảng viên trẻ tại các học viện,
trường đại học CAND.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận, thực tiễn
Luận án dựa trên phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng ủy Công an Trung ương về việc
hình thành các phẩm chất tâm lý, nhân cách con người và việc xây dựng con
người xã hội chủ nghĩa, phát triển đội ngũ giảng viên CAND. Luận án còn dựa
trên các nguyên tắc phương pháp luận của tâm lý học Mác xít.
Cơ sở thực tiễn của luận án là hoạt động dạy học của giảng viên trẻ tại các
học viện, trường đại học CAND hiện nay; báo cáo tổng kết công tác dạy học của
các học viện, trường đại học CAND và quá trình khảo sát thực tiễn hoạt động dạy
học của giảng viên trẻ tại các học viện, trường đại học CAND.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu trong khoa học
xã hội. Cụ thể:
+ Nghiên cứu tài liệu: Nghiên cứu các tài liệu có liên quan đến đề tài,
nhằm thu thập hệ thống các cơ sở lý luận của luận án, nghiên cứu các phương
pháp, số liệu để định hướng, làm cơ sở cho việc nghiên cứu.
+ Quan sát: Nhằm chính xác hóa và bổ sung số liệu nghiên cứu. Tác giả
trực tiếp quan sát hoạt động dạy học của giảng viên thông qua các giờ lên lớp;
hoạt động soạn giáo án, chuẩn bị cho hoạt động giảng dạy; các hoạt động
nghiên cứu khoa học và các hoạt động khác của nhà trường.
+ Điều tra bằng bảng hỏi: Đây là phương pháp chính của luận án nhằm
đánh giá thực trạng của vấn đề nghiên cứu.
+ Chuyên gia: Lấy ý kiến của các chuyên gia về những vấn đề liên quan
đến luận án, cho phép tranh thủ vốn sống, vốn tri thức và kinh nghiệm về hoạt
động dạy học của các chuyên gia nhằm hỗ trợ cho các phương pháp trên.
8
+ Tọa đàm, phỏng vấn: Là phương pháp bổ trợ, phỏng vấn trực tiếp
một số học viên, giảng viên, cán bộ quản lý giáo dục nhằm chính xác hoá
những thông tin thu được từ phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi hoặc bổ
sung những thông tin mới cần thiết cho việc nghiên cứu.
+ Phân tích kết quả hoạt động: Nghiên cứu thực tiễn hoạt động giảng
dạy của giảng viên trẻ tại các học viện, trường đại học CAND để đánh giá
thực trạng thích ứng của giảng viên trẻ đối với hoạt động dạy học.
+ Phương pháp mô tả chân dung: Mô tả một số chân dung về giảng
viên trẻ trong thực hiện hoạt động dạy học tại các học viện, trường đại học
CAND nhằm làm rõ hơn vấn đề nghiên cứu của luận án.
+ Phương pháp xử lý số liệu bằng thống kê toán học: xử lý số liệu bằng
phép toán trên chương trình phần mềm SPSS: Tính tần suất trả lời các phương
án, tính tỷ lệ %, điểm trung bình nhằm đánh giá thực trạng vấn đề nghiên cứu.
6. Những đóng góp mới của luận án
Luận án có những đóng góp cơ bản sau:
- Xây dựng khái niệm thích ứng với hoạt động dạy học của giảng viên
trẻ tại các học viện, trường đại học CAND.
- Chỉ ra cấu trúc tâm lý thích ứng với hoạt động dạy học của giảng viên
trẻ tại các học viện, trường đại học CAND.
- Xác định tiêu chí đánh giá thích ứng; làm rõ những đặc điểm của đội
ngũ giảng viên trẻ và đặc điểm hoạt động dạy học tại các học viện, trường đại
học CAND.
- Đánh giá thực trạng thích ứng với hoạt động dạy học của giảng viên
trẻ tại các học viện, trường đại học CAND.
- Làm rõ những yếu tố ảnh hưởng tới thích ứng với hoạt động dạy học
của giảng viên trẻ tại các học viện, trường đại học CAND.
- Đề xuất một số biện pháp tâm lý - sư phạm nhằm nâng cao mức
độ thích ứng với hoạt động dạy học của giảng viên trẻ tại các học viện,
trường đại học CAND.
9
7. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận án
Về lý luận: Luận án góp phần bổ sung, phát triển lý luận về thích ứng
với hoạt động dạy học của giảng viên trẻ nói chung, giảng viên trẻ tại các học
viện, trường đại học CAND nói riêng.
Về thực tiễn: Luận án cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn cho cấp ủy
Đảng, Ban Giám đốc, Ban Giám hiệu các học viện, trường đại học về công tác
lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên nói chung và đội ngũ
giảng viên trẻ nói riêng đáp ứng nhiệm vụ bảo vệ an ninh Tổ quốc. Đồng thời,
kết quả nghiên cứu của luận án còn được sử dụng làm tài liệu tham khảo,
nghiên cứu, học tập trong công tác dạy học, quản lý giáo dục và lãnh đạo tại
các học viện, nhà trường nói chung và trong Công an nói riêng.
8. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án
được kết cấu 3 chương, 11 tiết.
10
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
THÍCH ỨNG VỚI HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC CỦA GIẢNG VIÊN TRẺ
TẠI CÁC HỌC VIỆN, TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG AN NHÂN DÂN
1. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Thích ứng có vai trò quan trọng, quyết định hiệu quả của hoạt động của
cá nhân. Người đầu tiên nghiên cứu về thích ứng là H.Spencer (1820-1903),
nhà tâm lý học người Anh, với tác phẩm nổi tiếng “Những nguyên lý của tâm
lý học” (1895). Trong tác phẩm này, H.Spencer đã phân tích quá trình thích
ứng ở con người dựa trên học thuyết tiến hóa và đưa ra quan điểm: “Cuộc
sống là sự thích ứng liên tục của các mối quan hệ bên trong với mối quan hệ
bên ngoài” [89]. H.Spencer đã mở ra con đường nghiên cứu quan trọng về
thích ứng. Trong khoa học tâm lý hiện nay, vấn đề thích ứng được nghiên cứu
trên nhiều loại khách thể và có nhiều hướng nghiên cứu khác nhau. Trong
luận án tập trung tổng quan ba hướng nghiên cứu về thích ứng gần với đề tài
nghiên cứu luận án, đó là: thích ứng với hoạt động nghề nghiệp, thích ứng với
hoạt động học tập và thích ứng với hoạt động dạy học.
1.1. Nghiên cứu thích ứng với hoạt động nghề nghiệp
Thích ứng nghề nghiệp là quá trình thay đổi của cá nhân để đáp ứng
yêu cầu về nhận thức, thái độ, kỹ năng nghề nghiệp. Các tác giả nghiên cứu
về thích ứng với hoạt động nghề nghiệp trên thế giới và trong nước thường
tập trung vào đối tượng sinh viên, người học trong quá trình thích ứng nghề
tại trường học hơn là các cơ quan, đơn vị sản xuất, kinh doanh.
Các tác giả Peter Creed, Tracy Fallon, Michell Hood thuộc trường Đại
học Griffth của Australia đã có công trình nghiên cứu về: “Mối quan hệ giữa
thích ứng nghề nghiệp và mối quan tâm về nghề trong giới trẻ” [73]. Kết quả
nghiên cứu chỉ ra rằng: Thích ứng nghề nghiệp có mối quan hệ bên trong và
có thể bị ảnh hưởng bởi nhân tố đầu tiên (kế hoạch xây dựng nghề, khám phá
11
nghề, xu hướng nghề, sự ra quyết định nghề…). Những nhân tố nghề có mối
quan hệ nội hàm và bị ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố khác.
Tác giả R.D. Duffy và D.L. Blustein cho rằng khả năng thích ứng nghề
nghiệp được hiểu như là sự tự quyết định về nghề, sự tự lựa chọn nghề, tự
mong muốn đạt được kết quả nhất định về nghề, tìm kiếm trường học nghề
phù hợp với khả năng của mình…[72]. Để hoạt động nghề nghiệp đạt hiệu
quả đòi hỏi mỗi cá nhân phải thích ứng với nghề nghiệp. Khi con người thích
ứng với nghề nghiệp, họ sẽ chủ động, tích cực trong công việc, an tâm, phấn
khởi, say mê, dồn hết khả năng, tâm trí của mình cho hoạt động nghề. Lúc
này, con người sẽ thực hiện hoạt động dễ dàng, khả năng sáng tạo lớn và hiệu
quả lao động cao.
Tác giả N.B.Basinanova, D.V.Kalinhitreva xem xét mối quan hệ giữa
trí tuệ với sự thích ứng nghề nghiệp, thích ứng tâm lý - xã hội đã phát hiện:
Chỉ số trí tuệ càng cao thì sự thích ứng nghề nghiệp lại càng thuận lợi. Nhưng
sự thích ứng tâm lý - xã hội thì không hoàn toàn như vậy. Nếu chỉ số trí tuệ
của cá nhân cao hơn hẳn chỉ số trí tuệ chung của nhóm thì nó sẽ cản trở sự
thích ứng tâm lý - xã hội của cá nhân đó [4].
Tác giả A.E.Golomstooc khi nghiên cứu về “Sự lựa chọn nghề nghiệp
và giáo dục nhân cách cho học sinh” đã không sử dụng thuật ngữ “thích ứng”
(Адаптация) mà sử dụng thuật ngữ “thích hợp” (Пригодностъ) để nói lên sự
thích nghi đặc biệt của con người với nghề nghiệp và nhấn mạnh đến mặt tình
cảm của quá trình thích hợp nghề nghiệp, coi đó như là một thuộc tính của
nhân cách [17].
Ở Phần Lan, M.V. Vôlannen quan tâm đến vấn đề thích ứng nghề
nghiệp và tâm thế xã hội đối với việc làm của thanh niên. Kết quả nghiên cứu
của ông cho thấy giữa việc học nghề và lao động nghề của thanh niên tồn tại
một thời kỳ chuyển tiếp có thể kéo dài từ 5 - 7 năm, được đặc trưng bởi hàng
loạt các sự kiện như: học nghề, thay đổi nghề, thất nghiệp, làm việc tạm thời.
Tác giả xem đây là những giai đoạn thích ứng nghề của thanh niên và tâm thế
12
của họ đối với việc làm phụ thuộc vào giai đoạn này có diễn ra sự thích ứng
nghề hay không [95].
Tác giả B.Hesketh trong bài viết: “Thích ứng tâm lý nghề để đương
đầu với mọi thay đổi” [80] đã đề cập tới việc đào tạo những công nghệ mới
cho người lao động, tạo điều kiện cho họ nhanh chóng thích nghi với những
công nghệ đó và hình thành các kỹ năng cần thiết. Tác giả cho rằng, cần cho
người lao động thích ứng với tâm lý nghề để họ sẵn sàng đương đầu với
những thay đổi, không chỉ cung cấp cho người lao động tri thức nghề mà điều
đặc biệt quan trọng là phải hình thành kỹ năng nghề cho họ.
Công trình nghiên cứu: “Các yếu tố thích ứng nghề nghiệp của sinh viên”
được đăng trên http:/www.jour.club.ru. đã phản ánh các yếu tố thích ứng nghề
nghiệp của sinh viên thông qua các giai đoạn của quá trình thích ứng nghề nghiệp
của sinh viên bao gồm: giai đoạn tiếp nhận trách nhiệm nghề nghiệp, giai đoạn
hòa nhập vào môi trường làm việc và giai đoạn hình thành các phẩm chất nhân
cách có giá trị nghề nghiệp. Quá trình thích ứng nghề nghiệp của sinh viên ở các
giai đoạn khác nhau có những biểu hiện tương ứng, do đó, để có thể đánh giá
được mức độ thích ứng nghề nghiệp của sinh viên có thể tìm hiểu sự biểu hiện của
sinh viên thông qua quá trình thực hiện hoạt động nghề nghiệp. Mức độ thích ứng
cao nhất đối với nghề là khi cá nhân hình thành được những phẩm chất nhân cách
có giá trị nghề nghiệp [106].
Tác giả Pankova Tachiana Anna Tonnepna với đề tài: “Thích ứng tâm
lý nghề nghiệp của các chuyên gia trẻ” [104] đã nghiên cứu trí tuệ xã hội như
là yếu tố thích ứng tâm lý xã hội của một chuyên gia trẻ. Các chuyên gia trẻ
có trình độ trí tuệ cảm xúc cao thì có sự thích ứng tâm lý xã hội đối với hoạt
động nghề nghiệp theo các tiêu chí bên ngoài và bên trong. Hiệu quả thích
ứng tâm lý xã hội của chuyên gia trẻ theo các tiêu chí bên trong có liên quan
chặt chẽ với trình độ trí tuệ xúc cảm bên trong và trình độ trí tuệ xúc cảm liên
nhân cách (ứng xử, quan hệ).
13
Tác giả Nguyễn Văn Hộ với đề tài "Thích ứng sư phạm" đã đưa ra các
khái niệm về thích ứng, thích ứng sư phạm, phân tích các nội dung về hình
thành khả năng thích ứng về lối sống cho sinh viên sư phạm, hình thành khả
năng thích ứng về tay nghề trong quá trình đào tạo cho sinh viên sư phạm, như:
thích ứng với quy trình lên lớp, thích ứng với hoạt động giảng dạy trên lớp,
thích ứng với hoạt động thiết kế nội dung công tác chủ nhiệm lớp và thích ứng
với hoạt động ứng xử trong công tác giáo dục. Bên cạnh đó, tác giả đề ra một
số giải pháp giúp sinh viên đại học thích ứng với nghề sư phạm [23].
Tác giả Dương Thị Nga, với đề tài “Phát triển năng lực thích ứng nghề
nghiệp cho sinh viên cao đẳng sư phạm” [36] đã chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng
đến sự phát triển năng lực thích ứng nghề cho sinh viên cao đẳng: ảnh hưởng
của giáo viên; nội dung chương trình và phương pháp, hình thức tổ chức dạy
học; rèn luyện nghiệp vụ sư phạm thường xuyên; việc tham gia vào các hoạt
động ở trường phổ thông; các phương tiện thông tin đại chúng; môi trường và
điều kiện học tập; sự giúp đỡ của bạn bè và người thân; truyền thống gia đình;
các yếu tố sinh học thể chất; ý thức của bản thân về giá trị nghề dạy học; động
cơ, lý tưởng, hứng thú nghề nghiệp; tri thức, kỹ năng, kỹ xảo đã có ở sinh
viên; tính tích cực tự giác, sáng tạo trong học tập và ý chí rèn luyện nghề.
Tác giả Dương Thị Thanh Thanh nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến
sự thích ứng với hoạt động quản lý dạy học của hiệu trưởng trường tiểu học
tỉnh Nghệ An. Kết quả cho thấy các yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến thích ứng
của hiệu trưởng là: tri thức, kinh nghiệm quản lý và ý thức rèn luyện của hiệu
trưởng trường tiểu học; bầu không khí tâm lý tập thể sư phạm trong trường
tiểu học và điều kiện hoạt động quản lý của hiệu trưởng trường tiểu học [47].
Tóm lại, từ các công trình nghiên cứu thích ứng nghề nghiệp cho thấy,
các tác giả đã đề cập đến khái niệm thích ứng nghề nghiệp, những yếu tố chủ
quan, khách quan và những chỉ số đặc trưng cho thích ứng nghề nghiệp. Các
14
tác giả đều có xu hướng cho rằng, thích ứng nghề nghiệp là quá trình thích nghi
với những đặc điểm lao động và điều kiện của quá trình lao động. Thích ứng
nghề nghiệp là quá trình thích ứng thể hiện ở cả ba mặt của đời sống tâm lý con
người đó là: nhận thức, cảm xúc và hành động. Các nhân tố bên trong có vai trò
quan trọng đến mức độ thích ứng của cá nhân với hoạt động nghề nghiệp, như:
xu hướng nghề, kế hoạch xây dựng nghề, sự ra quyết định nghề và chỉ số trí tuệ.
Tuy nhiên, các tác giả chưa phân tích rõ nội dung thích ứng với hoạt động nghề
nghiệp cũng như quy trình thích ứng cụ thể để giúp cho đối tượng thích ứng tốt ở
những môi trường nghề nghiệp khác nhau và chưa đưa ra một số trường hợp
điển hình về đối tượng thích ứng với nghề nghiệp để làm rõ hơn những vấn đề lý
luận và thực tiễn của vấn đề nghiên cứu.
1.2. Nghiên cứu thích ứng với hoạt động học tập
Hướng nghiên cứu về thích ứng với hoạt động học tập được nhiều tác
giả trong và ngoài nước nghiên cứu ở nhiều khía cạnh khác nhau, ở các cấp
bậc học khác nhau từ tiểu học đến đại học.
Bren P.Allen đã tiếp cận vấn đề thích ứng học tập của sinh viên thông
qua một hệ thống tác động hình thành các kỹ năng học tập tại trường đại học.
Tác giả cho rằng, sinh viên muốn thích ứng với học tập ở trường đại học cần
phải hình thành các kỹ năng: quản lý chặt chẽ quỹ thời gian cá nhân; các kỹ
năng học tập; chế ngự cảm xúc tiêu cực để vượt qua các khó khăn trong học
tập, thi cử; chọn các hình thức học tập; chủ động và hình thành các thói quen
hành vi mang tính chất nghề nghiệp [70].
Công trình nghiên cứu của H.W. Bernard đã khẳng định vai trò của mối
quan hệ tích cực giữa thầy và trò để thích ứng với hoạt động học tập, không phải
chỉ trò tích cực trong hoạt động học mà cả thầy cũng phải tích cực trong hoạt
động giảng dạy. Qua nghiên cứu của mình, tác giả đã chỉ ra được các biện pháp
cụ thể để giúp học sinh nhanh chóng thích ứng với hoạt động học tập [71].
15
Tác giả Xinyin Chen thuộc Đại học Tây Ontario, Canada và Bo-Shu Li
thuộc đại học sư phạm Shanghai, Trung Quốc đã nghiên cứu: “Tâm trạng thất
vọng của trẻ em Trung Quốc: Tầm quan trọng của sự phát triển đối với sự
thích ứng trường học và xã hội” [92] nghiên cứu trên trẻ em 12 tuổi về ảnh
hưởng tâm trạng thất vọng tới sự thích ứng trường học của trẻ em Trung Quốc
như sau: Tâm trạng thất vọng của học sinh được nghiên cứu thông qua tự
thuật, đánh giá của bạn bè, giáo viên và hồ sơ tại trường. Sự thất vọng tác
động âm tính tới các kết quả học tập và tác động dương tính tới việc tăng các
khó khăn trong học tập.
Tác giả Ming - Kung Yang và Wei-Chin Hsiao với đề tài “Nghiên cứu
sự thích ứng học nghề trên những học sinh của trường dạy nghề” [84] kết quả
nghiên cứu cho thấy, học sinh trung học nghề tại Trung Quốc có thái độ thích
ứng tích cực đối với việc học tập kỹ năng; không có sự khác biệt đáng kể về kỹ
năng ở góc độ hiệu quả tự học và yếu tố môi trường dạy học; mối quan hệ xã
hội, tiện nghi xưởng thực hành, sự quan tâm của nhà trường về việc học kỹ
năng có ảnh hưởng lớn đến sự thích ứng về mặt kỹ năng trong học tập.
Tác giả P. Zettergren thuộc Đại học Stockholm, Thụy Điển nghiên cứu:
“Sự thích ứng nhà trường ở tuổi vị thành niên đối với trẻ em bình thường và
trẻ em bị hắt hủi trước đây” [93] kết quả cho thấy thành tích học tập và mức
độ thông minh của các em bị bạn bè hắt hủi kém hơn so với các em khác,
điểm số của các em được bạn bè yêu quý đạt được ở mức cao. Nghiên cứu
cũng đưa ra dấu hiệu những học sinh nữ bị bạn bè ghét bỏ có thái độ tiêu cực
với trường học và việc thực hiện các nhiệm vụ ở nhà trường; tỷ lệ bỏ học giữa
chừng của học sinh nam bị ghét bỏ cao hơn nhiều so với các nhóm học sinh
nam khác; những trẻ em bị bạn bè hắt hủi có thể gây rắc rối ở nhà trường và
khi lớn lên.
Ba nhà tâm lý học là J. Hopkins, N. Malleson, I. Sarnoff nghiên cứu
mối liên hệ giữa kết quả học tập với quan hệ bạn bè khác giới của sinh viên
nước ngoài học tập ở London và đưa ra kết quả thú vị nhưng gây nhiều tranh
16
cãi rằng: 62,7% sinh viên có bạn khác giới đạt kết quả học tập tốt (vượt qua
các kỳ thi), trong khi con số này ở sinh viên không có bạn khác giới là 37,3%;
31,6% số sinh viên có bạn khác giới có kết quả học tập kém trong khi con số
này ở nhóm sinh viên không có bạn khác giới lên đến 68,4% [81].
Tác giả A.Arkoff trong tác phẩm: “Thích ứng và sức khỏe tinh thần”
[69] đã công bố công trình nghiên cứu của mình về thích ứng tâm lý, bao gồm
cả sự thích ứng học tập của học sinh và sinh viên. Theo tác giả, sự thích ứng
nói chung của con người bao gồm các chỉ số sau: Hạnh phúc, sự hài lòng,
lòng tự trọng, sự phát triển cá nhân, sự hội nhập cá nhân, khả năng tiếp xúc
với môi trường, sự độc lập với môi trường.
Tác giả O.EPiskun đã nghiên cứu: “Ảnh hưởng của những đặc điểm trí
tuệ đến sự thích ứng với hoạt động học tập của sinh viên trường đại học kỹ
thuật” [105] và chỉ ra rằng: khó khăn trong quá trình thích ứng của sinh viên với
hoạt động học tập ở các trường đại học kỹ thuật không chỉ liên quan đến xúc cảm,
tình cảm hay môi trường giao tiếp mà nó còn liên quan tới những hạn chế trong sự
phát triển trí tuệ, trong đó quan trọng nhất là tư duy logic, không gian và kỹ thuật.
Các tác giả C.M. Sukina, Wendy S.Grolnick và Marika Silvan đã nghiên
cứu về thích ứng của học sinh tiểu học và chỉ ra mô hình thích ứng; quá trình
thích ứng, các phương pháp làm việc và tác động sư phạm để giúp học sinh thích
ứng tốt [102], [79], [82]. Tuy nhiên, công trình này chưa chỉ rõ cấu trúc tâm lý
của thích ứng với môi trường nhà trường của học sinh; chưa phân tích cụ thể về
những khía cạnh hạn chế của những tác động sư phạm của giáo viên cũng như
những ảnh hưởng của bố mẹ đến mức độ thích ứng của học sinh.
Ở Việt Nam, có nhiều tác giả đã nghiên cứu về thích ứng với hoạt động
học tập của học sinh ở các độ tuổi, môi trường khác nhau. Tác giả Vũ Thị
Nho cùng một số nhà khoa học đã tiến hành nghiên cứu đề tài “Sự thích ứng
với hoạt động học tập của học sinh tiểu học” [38]. Các tác giả xem sự thích
ứng với hoạt động học tập là một dạng của thích ứng xã hội và bao gồm hai
khía cạnh chính đó là sự thích ứng với các mối quan hệ trong học tập mà chủ
17
yếu là quan hệ giáo viên - học sinh và thích ứng với các yêu cầu của hoạt
động học tập.
Tác giả Đỗ Mạnh Tôn với đề tài “Nghiên cứu sự thích ứng đối với học
tập và rèn luyện của học viên các trường sỹ quan quân đội” [44], cho rằng:
“thích ứng với học tập và rèn luyện của học viên các trường sỹ quan quân đội
là một phẩm chất phức hợp và cơ động của nhân cách học viên, biểu hiện ở
quá trình người học tự tổ chức hoạt động học tập, rèn luyện của mình dưới sự
định hướng của người thầy và nhà trường nhằm phát triển các chức năng sinh
lý, các phẩm chất tổng hợp của nhân cách, đạt tới sự phù hợp tối đa với những
điều kiện và học tập và rèn luyện ở trường sỹ quan. Kết quả nghiên cứu cho
thấy: học viên các trường sỹ quan quân đội có mức độ thích ứng khá cao với
hoạt động học tập và rèn luyện, song vẫn còn những hạn chế nhất định và hạn
chế tập trung nhất ở mặt kỹ năng, kỹ xảo.
Tác giả Phan Quốc Lâm với đề tài: “Sự thích ứng với hoạt động học
tập của học sinh lớp 1” [32], kết quả nghiên cứu cho thấy khoảng 10% học
sinh thích ứng ở mức tốt, 75% ở mức trung bình khá và có đến 15% học sinh
cho đến cuối năm lớp 1 vẫn chưa thể thích ứng với hoạt động học tập. Kết quả
nghiên cứu cũng chỉ ra những yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến sự thích ứng của
hoạt động học tập của học sinh lớp 1, đó là hoàn cảnh gia đình, giới tính, trình
độ phát triển trí tuệ của học sinh, sự chuẩn bị về mặt tâm lý cho hoạt động học
tập... Trên cơ sở đó, nhằm nâng cao mức độ thích ứng của học sinh, tác giả đã
thử nghiệm tác động đến học sinh thông qua 6 biện pháp: nâng cao hiểu biết
của giáo viên về thích ứng, hình thành những hành vi phù hợp ngay từ đầu khi
trẻ mới tới trường, tăng cường tính xác định của tình huống học tập, có thái
độ ứng xử phù hợp với đặc điểm tâm lý học sinh, cá biệt hóa trong dạy học và
phối hợp với gia đình học sinh.
Tác giả Lê Ngọc Lan nghiên cứu đề tài: “Sự thích ứng với hoạt động thực
hành môn học của sinh viên Đại học Sư phạm Hà Nội” [31], tác giả kết luận: Thích
ứng là một cấu trúc bao gồm hai thành tố: Nắm được các phương thức hành vi thích
18
hợp đáp ứng với các yêu cầu của cuộc sống và hoạt động; Hình thành những cấu
tạo tâm lý mới tạo nên tính chủ thể của hành vi và hoạt động. Hai thành tố này có
mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau giúp con người điều chỉnh được hệ thống
thái độ, hành vi hiện có, hình thành được hệ thống thái độ, hành vi phù hợp với môi
trường đã thay đổi. Tốc độ và kết quả của quá trình đó phụ thuộc rất nhiều vào sự
nỗ lực, ý thức và khả năng của mỗi sinh viên.
Có thể thấy rằng, các tác giả Phan Quốc Lâm, Đỗ Mạnh Tôn, Nguyễn
Xuân Thức, Lê Ngọc Lan xuất phát từ quan điểm của tâm lý học hoạt động để
nghiên cứu vấn đề thích ứng. Với họ, hoạt động vừa là đối tượng, vừa là
phương thức của sự thích ứng, nghĩa là thích ứng với hoạt động và để làm
được điều này thì cá nhân phải đi vào hoạt động, thông qua hoạt động của
chính mình. Thông qua quá trình này, cá nhân lĩnh hội được những kinh
nghiệm, hình thành nên những cấu tạo tâm lý mới, giúp cá nhân khắc phục
được những khó khăn và đảm bảo kết quả hành động. Hay nói cách khác, quá
trình thích ứng được đặc trưng bởi những biến đổi của cá nhân trên hai mặt: mặt
tâm lý (hình thành những cấu tạo tâm lý mới) và mặt hành vi (với việc hình thành
những hành vi mới phù hợp với sự biến đổi của môi trường mới).
Các tác giả Nguyễn Thạc, Đỗ Thị Thanh Mai, Đặng Thị Lan, Dương Thị
Thoan, Nguyễn Thị Út Sáu đã có các công trình nghiên cứu thích ứng với học tập
của sinh viên ở các môi trường nhà trường khác nhau. Các công trình này đều chỉ
ra rằng: sinh viên chưa có phương pháp học tập phù hợp, chính yếu tố này là
nguyên nhân cơ bản dẫn đến mức độ thích ứng của sinh viên chưa cao. Bên cạnh
đó, các tác giả cũng đã xây dựng những biện pháp tâm lý - sư phạm cụ thể nhằm
nâng cao mức độ thích ứng với học tập của sinh viên trong các nhà trường khác
nhau [46], [28], [29], [49], [30], [53].
Tóm lại, các công trình nghiên cứu về thích ứng với hoạt động học
tập của học sinh, sinh viên trên thế giới và Việt Nam đã nghiên cứu khá
nhiều khía cạnh của thích ứng trong việc học tập của học viên, sinh viên.
Các tác giả cũng đã xác định được tiêu chí khách quan để đo các biểu hiện
19
của sự thích ứng với hoạt động học tập và chỉ ra nhiều yếu tố chủ quan,
khách quan ảnh hưởng đến quá trình thích ứng của học sinh, sinh viên.
Ngoài ra, các công trình đã xây dựng những biện pháp tâm lý - sư phạm
giúp học sinh, sinh viên nhanh chóng thích ứng với môi trường nhà trường.
1.3. Thích ứng với hoạt động dạy học
Thích ứng với hoạt động dạy học là loại thích ứng tâm lý xã hội, là quá
trình con người điều chỉnh nhận thức, thái độ, hành vi của mình để đáp ứng
yêu cầu, đòi hỏi của môi trường mới nhằm đạt hiệu quả hoạt động và sự hài
lòng của cá nhân. Các công trình nghiên cứu về thích ứng với hoạt động dạy
học ở nhiều khách thể khác nhau từ giáo viên tiểu học đến giảng viên đại học.
Bên cạnh đó, mỗi công trình lại làm sáng tỏ những vấn đề cụ thể mà các giáo
viên thường gặp phải trong quá trình dạy học như phương pháp sư phạm; kỹ
năng dạy học; kỹ năng sử dụng phương tiện dạy học và mối quan hệ với đồng
nghiệp, với học sinh. Hơn nữa, các tác giả cũng nghiên cứu yếu tố ảnh hưởng
đến thích ứng của giáo viên với hoạt động dạy học.
Tác giả A.I.Serbacov và A.V. Mudric nghiên cứu: “Sự thích ứng
nghề nghiệp của người thầy giáo” [99] và cho rằng thích ứng nghề nghiệp
của người thầy giáo là quá trình thích nghi với những điều kiện thực tế của
hoạt động sư phạm thể hiện ở các nhà giáo dục trẻ khi mới vào công tác tại
các trường phổ thông.
Năm 1979, G.J.Pine nghiên cứu: “Sự thích ứng của giáo viên trong
hoạt động nghề nghiệp” [87] kết quả cho thấy, để thích ứng với hoạt động
nghề nghiệp, người giáo viên phải thích ứng được với những phương pháp
giảng dạy rất thông thường; khi thích ứng được với những phương pháp giảng
dạy thông thường họ mới tự tin thay đổi phương pháp.
Tác giả Chepnickova đã nghiên cứu các yếu tố thích ứng xã hội
nghề nghiệp của giảng viên trẻ ở thành phố Chelemink của Nga, đề tài
chọn những yếu tố ảnh hưởng đến thích ứng nghề nghiệp gồm hai nhóm
yếu tố: bên trong và bên ngoài. Nhóm yếu tố bên ngoài gồm: hoàn cảnh
20
vật chất của giáo viên trẻ, trình độ đào tạo sư phạm, môi trường giáo dục,
tổ chức công tác đào tạo nghiệp vụ sư phạm và uy tín của nghề trong xã
hội. Nhóm yếu tố bên trong gồm: thâm niên nghề nghiệp, hệ thống định
hướng giá trị, động cơ chọn nghề sư phạm, các phẩm chất nghề nghiệp, tự
đánh giá về trình độ đào tạo [108].
Tác giả S.N. Shcheglova nghiên cứu: “Các đặc trưng thích ứng của
giáo viên phổ thông đối với các giá trị của việc sử dụng máy tính” [90] và
cho rằng, thích ứng của giáo viên với những giá trị của xã hội thông tin là
phương pháp độc đáo đòi hỏi tính tích cực trong giảng dạy. Công trình nghiên
cứu của tác giả góp phần khẳng định đòi hỏi tất yếu của thế kỷ XXI đối với
con người nói chung và giáo viên nói riêng. Giáo viên muốn tồn tại, muốn
cống hiến tốt cho hoạt động nghề nghiệp của mình, cần phải thích ứng với
những biến đổi của xã hội, cụ thể là phải biết khai thác, sử dụng các giá trị
của công nghệ thông tin.
Tác giả Mustafa Ozturk đã nghiên cứu “Bước đầu quen với hoạt động
dạy học: những khó khăn thích ứng của giáo viên trẻ” [85] và đã chỉ ra bốn
yếu tố khó thích ứng nhất của giáo viên trẻ là: Áp lực công việc; uy tín xã hội
và bản sắc cá nhân; giám sát, quản lý ở trường học và những khó khăn trong
quản lý lớp học.
Tác giả Nguyễn Chí Tăng nghiên cứu: “Sự thích ứng của giáo viên
Trung học cơ sở với việc ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động giảng
dạy” [48] và cho rằng: Hầu hết giáo viên Trung học cơ sở thích ứng với việc
ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động giảng dạy ở mức trung bình.
Mức độ thích ứng có sự khác nhau khi so sánh giữa: thành thị, đồng bằng và
trung du miền núi; giữa giáo viên dạy các môn học và giáo viên ở các độ tuổi.
Các yếu tố ảnh hưởng là: trình độ tin học; ý chí của giáo viên; tính cách cá
nhân; sự hỗ trợ giúp đỡ của tập thể; quản lý, lãnh đạo ở nhà trường… Việc
cung cấp tri thức, tổ chức thực hành góp phần nâng cao mức độ thích ứng của
giáo viên.
21
Tác giả Nguyễn Thị Ngọc Liên đã nghiên cứu: “Sự thích ứng của
giảng viên với hoạt động đào tạo tín chỉ ở Trường Đại học Sư phạm Hà Nội”
[33], kết quả nghiên cứu cho thấy: mức độ thích ứng của giảng viên chưa cao
biểu hiện ở hiệu quả công việc theo yêu cầu của đào tạo tín chỉ còn thấp.
Nguyên nhân cơ bản ảnh hưởng đến thích ứng của giảng viên là hiểu biết đầy
đủ về phương thức đào tạo mới, nhận thức được sự thay đổi và sẵn sàng thay
đổi của giảng viên chưa cao. Nguyên nhân khách quan là: điều kiện cơ sở vật
chất nhà trường, chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ phụ trách có ảnh hưởng
mạnh mẽ đến sự thích ứng của giảng viên.
Tác giả Nguyễn Thị Huệ nghiên cứu: “Thích ứng tâm lý xã hội với
hoạt động giảng dạy trong đào tạo theo tín chỉ của giảng viên trường Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội” [50] đã đánh giá sự thích ứng
của giảng viên căn cứ vào sự chuyển biến, thay đổi tâm lý của giảng viên
trẻ các phương diện nhận thức, thái độ và hành động đối với điều kiện,
hoàn cảnh, yêu cầu trong hoạt động giảng dạy theo đào tạo tín chỉ. Cụ thể
là các yêu cầu mới trong biên soạn đề cương môn học, tổ chức dạy học,
kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của sinh viên. Qua đánh giá thực trạng
và chỉ ra một số khó khăn tâm lý của giảng viên gặp phải khi thực hiện
giảng dạy theo đào tạo tín chí, tác giả đề xuất một số biện pháp khắc phục
những khó khăn đó như: chuẩn bị tâm lý cho giảng viên; chuẩn bị điều
kiện, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ dạy học; đào tạo, tập huấn, huấn
luyện về dạy học theo tín chỉ; kiểm tra, đánh giá và sửa đổi những lệch
lạc; đổi mới chính sách đãi ngộ đối với giảng viên.
Từ các công trình nghiên cứu về thích ứng với hoạt động dạy học
cho thấy, các tác giả đã chỉ ra khái niệm thích ứng với hoạt động dạy học;
đưa ra tiêu chí đánh giá sự thích ứng của giảng viên căn cứ vào sự chuyển
biến, thay đổi tâm lý của giảng viên trẻ trên các phương diện nhận thức,
thái độ và hành động đối với điều kiện, hoàn cảnh, yêu cầu trong hoạt
22
động giảng dạy; chỉ ra yếu tố chủ quan, khách quan ảnh hưởng đến thích
ứng của giảng viên trẻ; đề xuất biện pháp giúp giảng viên thích ứng tốt.
2. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình đã công bố
và những vấn đề đặt ra luận án cần tập trung giải quyết
2.1. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình đã công bố
Qua tổng quan các công trình nghiên cứu về thích ứng cho thấy, thích ứng
của con người luôn là vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm bởi chính ý
nghĩa và vai trò của nó đối với sự tồn tại và phát triển của con người. Trong lịch
sử phát triển của tâm lý học, tâm lý giáo dục và các khoa học xã hội khác cho thấy
có nhiều công trình nghiên cứu về thích ứng ở các chủ thể khác nhau đối với
những hoạt động, môi trường đa dạng. Mặc dù có nhiều tác giả đã nghiên cứu về
thích ứng, nhưng thích ứng của con người luôn là vấn đề thời sự, có ý nghĩa trong
nghiên cứu lý luận và thực tiễn để nâng cao chất lượng sống của con người trong
một xã hội luôn thay đổi, đúng như Spencer đã khẳng định: “Cuộc sống là sự
thích ứng liên tục của các mối quan hệ bên trong với mối quan hệ bên ngoài” [89].
Các tác giả đã đề cập đến những vấn đề cơ bản của thích ứng như: bản
chất, nguồn gốc, kiểu loại thích ứng và cả các vấn đề ứng dụng tâm lý học
thích ứng trong thực tiễn. Trong các công trình nghiên cứu, các tác giả vừa
tập trung làm rõ vấn đề thích ứng về mặt lý luận, vừa cố gắng tìm hiểu thực
trạng vấn đề trên những mẫu nghiên cứu cụ thể, chỉ ra đặc trưng và những yếu
tố ảnh hưởng đến sự thích ứng.
Các tác giả trong và ngoài nước chủ yếu nghiên cứu thích ứng với hoạt
động học tập của học sinh, sinh viên trong môi trường học tập tại nhà trường.
Không có nhiều công trình nghiên cứu thích ứng của giáo viên tại học viện,
nhà trường hoặc các cơ sở đào tạo. Đặc biệt, cần ghi nhận sự nỗ lực của một
số tác giả trong việc ứng dụng các kết quả nghiên cứu của mình vào hoạt
động thực tiễn thông qua thực nghiệm tác động đến khách thể nghiên cứu
23
nhằm tăng cường hiệu quả của quá trình thích ứng. Tuy nhiên, cho đến nay
chưa có công trình nào nghiên cứu thích ứng với hoạt động dạy học của giảng
viên trẻ tại các học viện, trường đại học trong CAND.
2.2. Những vấn đề luận án tập trung giải quyết
Trên cơ sở tổng quan các công trình nghiên cứu về thích ứng và để
thực hiện tốt nhiệm vụ nghiên cứu, luận án cần tập trung giải quyết những
vấn đề sau:
- Nghiên cứu khái niệm, bản chất, cấu trúc tâm lý thích ứng với hoạt
động dạy học của giảng viên trẻ tại các học viện, trường đại học CAND.
- Nghiên cứu biểu hiện thích ứng của con người với các hoạt động ở
các môi trường khác nhau. Trên cơ sở đó, xác định tiêu chí đánh giá thích ứng
với hoạt động dạy học của giảng viên trẻ tại các học viện, trường đại học
CAND; chỉ ra các yếu tố cơ bản ảnh hưởng tới thích ứng với hoạt động dạy
học của giảng viên trẻ tại các học viện, trường đại học CAND.
- Đánh giá mức độ thích ứng với hoạt động dạy học của giảng viên trẻ
tại các học viện, trường đại học CAND.
- Nghiên cứu các biện pháp nhằm nâng cao mức độ thích ứng của con
người trong các hoạt động ở các môi trường khác nhau. Qua đó, xác định các
biện pháp tâm lý - sư phạm khoa học, khả thi nhằm nâng cao mức độ thích ứng
với hoạt động dạy học của giảng viên trẻ tại các học viện, trường đại học CAND.