Tải bản đầy đủ (.pdf) (59 trang)

Sự chuyển dịch cơ cấu lao động trog địa bàn nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở việt nam hiện nay thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (476.63 KB, 59 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
--------------------------

PHẠM THỊ THU HIỀN

SỰ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LAO ĐỘNG
TRONG ĐỊA BÀN NÔNG THÔN THEO HƯỚNG
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY – THỰC TRẠNG
VÀ GIẢI PHÁP

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Kinh tế chính trị

Người hướng dẫn khoa học
ThS. TRẦN THỊ HOA LÝ

HÀ NỘI - 2013


LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên của khóa luận tốt nghiệp, tôi xin chân thành cảm ơn các
thầy cô trong khoa Giáo dục chính trị đã tận tình giảng dạy và giúp đỡ tôi
trong suốt 4 năm học vừa qua để tôi có được kết quả học tập như ngày hôm
nay. Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Thạc sĩ Trần Thị Hoa Lý
đã tận tình chỉ bảo, đóng góp ý kiến quý báu giúp tôi trong suốt quá trình
hoàn thành khóa luận của mình.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn sự cổ vũ động viên và giúp đỡ của
gia đình và bạn bè trong suốt thời gian tôi thực hiện khóa luận tốt nghiệp.


Tuy nhiên, do trình độ và thời gian có hạn nên trong quá trình thực hiện
đề tài tôi vẫn còn nhiều thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự tham gia đóng
góp ý kiến của các thầy cô giáo và bạn bè gần xa để đề tài của tôi được hoàn
thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 16 tháng 05 năm 2013
Sinh viên thực hiện

Phạm Thị Thu Hiền


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Công trình này được thực hiện dưới sự hướng dẫn của thạc sĩ Trần Thị Hoa
Lý chuyên ngành Kinh tế chính trị.
Các kết quả nêu trong khóa luận chưa công bố trong bất kì công trình
nào và cũng không trùng với kết quả nghiên cứu của bất cứ một tác giả nào,
đảm bảo tính trung thực khách quan.

Tác giả khóa luận

Phạm Thị Thu Hiền


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

CNH, HĐH:


Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

NXB:

Nhà xuất bản

VAC:

Vườn - ao- chuồng

VACR:

Vườn - ao- chuồng- rừng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ LÍ LUẬN CHUNG VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU
LAO ĐỘNG THEO HƯỚNG CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ....... 4
1.1. Một số lí luận cơ bản về cơ cấu lao động ................................................. 4
1.2. Sự cần thiết phải thực hiện CNH, HĐH ở Việt Nam.............................. 11
1.3. Vai trò của sự chuyển dịch cơ cấu lao động trong địa bàn nông thôn theo
hướng CNH, HĐH ....................................................................................... 13
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG CỦA SỰ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LAO
ĐỘNG TRONG ĐỊA BÀN NÔNG THÔN THEO HƯỚNG CÔNG NGHIỆP
HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ..................................... 15
2.1. Thành tựu của sự chuyển dịch cơ cấu lao động trong địa bàn nông thôn
theo hướng CNH, HĐH ở Việt Nam hiện nay .............................................. 15
2.2. Hạn chế của sự chuyển dịch cơ cấu lao động trong địa bàn nông thôn theo
hướng CNH, HĐH ở Việt Nam hiện nay ...................................................... 19

2.3. Nguyên nhân của sự chuyển dịch cơ cấu lao động trong địa bàn nông
thôn theo hướng CNH, HĐH ở Việt Nam hiện nay ...................................... 24
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM ĐẨY MẠNH SỰ
CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LAO ĐỘNG TRONG ĐỊA BÀN NÔNG THÔN
THEO HƯỚNG CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY .................................................................................................. 30
3.1. Mục tiêu và phương hướng nhằm đẩy mạnh sự chuyển dịch cơ cấu lao
động trong địa bàn nông thôn theo hướng CNH, HĐH ở Việt Nam.............. 30
3.2. Những giải pháp nhằm đẩy mạnh sự chuyển dịch cơ cấu lao động trong
địa bàn nông thôn theo hướng CNH, HĐH ở Việt Nam hiện nay ................. 31
KẾT LUẬN.................................................................................................. 51
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 52


MỞ ĐẦU

1.Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đang ở trong những năm tăng tốc của quá trình CNH, HĐH
để đạt mục tiêu đến năm 2020: về cơ bản nước ta trở thành một nước công
nghiệp. Trong khi đó, cơ cấu kinh tế của nước ta hiện vẫn là nông nghiệp công nghiệp - dịch vụ. Để đạt được mục tiêu trở thành một nước công nghiệp
phát triển thì nhiệm vụ cấp bách nhất hiện nay là phải đẩy nhanh quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH. Chuyển dịch cơ cấu kinh
tế thành công nhất thiết phải có sự chuyển dịch cơ cấu lao động phù hợp.
Nông thôn Việt Nam hiện nay chiếm tới 75,13% dân số cả nước và
70% lực lượng lao động của cả nước. Kể từ sau đổi mới, nền kinh tế khu vực
nông thôn nói chung đã có bước tăng trưởng và phát triển tương đối cao.Tuy
nhiên, bên cạnh những thành tựu kinh tế, nhiều vấn đề xã hội nổi lên gay gắt
như: tình trạng người chưa có việc làm và thiếu việc làm ngày càng tăng; sự
phân hoá giàu nghèo tăng nhanh; tệ nạn xã hội và tội phạm có chiều hướng
gia tăng .Vì vậy, việc nghiên cứu sự chuyển dịch lao động trong địa bàn nông

thôn có một ý nghĩa thiết thực giải quyết việc làm cho lao động nông thôn,
thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhanh và hiệu quả trong thời gian tới.
Do đó, tôi đã chọn vấn đề: “ Sự chuyển dịch cơ cấu lao động trong
địa bàn nông thôn theo hướng CNH, HĐH ở Việt Nam hiện nay- Thực
trạng và giải pháp” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ trước đến nay, có nhiều đề tài nghiên cứu về con người nói chung
và nguồn lao động nói riêng trong quá trình CNH, HĐH đất nước như:
TS. Trần Thị Minh Ngọc đã có nghiên cứu về sử dụng nguồn nhân lực
nông thôn trong quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam.

1


TS. Lê Thị Ngân với công trình nghiên cứu mang tên: nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực tiếp cận kinh tế tri thức ở Việt Nam.
Tác giả Phạm Đức Thành (2000), “ Quá trình chuyển dịch cơ cấu lao
động theo hướng CNH, HĐH ở vùng đồng bằng Bắc Bộ nước ta”, Nxb. Lao
động nhấn mạnh sự cần thiết phát triển nguồn lao động và cho rằng: hai vấn
đề then chốt liên quan tới những người lập chính sách ở các nước phát triển
lẫn các nước đang phát triển là đánh giá khả năng của nguồn nhân lực sẵn có
đối với nền kinh tế và làm thế nào để sử dụng có hiệu quả nguồn lực đó.
Ngoài ra, còn có những nghiên cứu đề cập đến những kinh nghiệm về
quản lí, phát triển nguồn nhân lực của một số nước trong khu vực, có ý nghĩa
tham khảo đối với nước ta.
Các công trình nghiên cứu trên đều có mục tiêu là khẳng định vai trò to
lớn của nguồn lực con người đặc biệt là nguồn lực con người ở nông thôn, đó
cũng chính là động lực thực hiện CNH, HĐH, thể hiện xem con người là tài
nguyên vô giá, là yếu tố trung tâm của mọi chính sách đầu tư, phát triển.
Tuy nhiên, các công trình trên mới chỉ tập trung khai thác nguồn nhân

lực nông thôn trên góc độ vai trò của nó hoặc chỉ dừng lại ở khu vực đồng
bằng Bắc Bộ mà chưa nghiên cứu nguồn lực nông thôn trong xu hướng vận
động, chuyển dịch trên phạm vi cả nước.
Khóa luận này sẽ góp phần bổ sung cho việc nghiên cứu về lao động
nông thôn nước ta, thực trạng của sự chuyển dịch, những giải pháp nhằm đấy
mạnh sự chuyển dịch cơ cấu lao động trong địa bàn này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lí luận về chuyển dịch cơ cấu lao động
theo hướng CNH, HĐH; đánh giá thực trạng quá trình chuyển dịch, khóa luận

2


góp phần đưa ra 4 nhóm giải pháp nhằm đẩy mạnh sự chuyển dịch cơ cấu lao
động trong địa bàn nông thôn theo hướng CNH, HĐH ở nước ta hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để thực hiện mục đích trên, khóa luận tập trung giải quyết những
nhiệm vụ sau:
 Làm sáng tỏ một số vấn đề lí luận về chuyển dịch cơ cấu lao động theo
hướng CNH, HĐH, vai trò của sự chuyển dịch này trong địa bàn nông
thôn nước ta.
 Phân tích, đánh giá thực trạng sự chuyển dịch cơ cấu lao động trong
địa bàn nông thôn theo hướng CNH, HĐH ở nước ta.
 Đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy mạnh sự chuyển dịch cơ cấu lao
động trong địa bàn nông thôn nước ta hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là cơ cấu lao động nông thôn và sự
chuyển dịch của nó.
- Phạm vi nghiên cứu: đề tài chỉ tập trung nghiên cứu vào sự chuyển

dịch cơ cấu lao động trong địa bàn nông thôn giai đoạn hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dụng các phương pháp: phân tích, tổng hợp, logic và lịch
sử, so sánh,… trên cơ sở phương pháp luận biện chứng duy vật.
6. Đóng góp của đề tài
Khóa luận đã bước đầu làm sáng tỏ thực trạng của sự chuyển dịch cơ
cấu lao động trong địa bàn nông thôn theo hướng CNH, HĐH ở nước ta hiện
nay. Từ đó đề xuất một số nhóm giải pháp nhằm đẩy mạnh sự chuyển dịch đó.
7. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các từ viết tắt và danh mục tài
liệu tham khảo, khóa luận bao gồm 3 chương và 8 tiết.

3


Chương 1
MỘT SỐ LÍ LUẬN CHUNG VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LAO ĐỘNG
THEO HƯỚNG CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA

1.1. Một số lí luận cơ bản về cơ cấu lao động
1.1.1. Nguồn lao động
Các nhà kinh tế học cho rằng hai vấn đề then chốt liên quan tới những
người lập chính sách ở các nước phát triển lẫn các nước đang phát triển là
đánh giá khả năng của nguồn lao động sẵn có đối với nền kinh tế và làm thế
nào để sử dụng có hiệu quả nguồn lao động đó.
Theo nghĩa rộng, nguồn lao động được hiểu như nguồn nhân lực con
người, được huy động quản lí cùng với nguồn lực khác (nguồn lực vật chất,
nguồn lực tài chính…) để thực hiện những mục tiêu phát triển đã định. Theo
định nghĩa của Liên hợp quốc: “ nguồn lao động là những người có trình độ
lành nghề, là kiến thức và kĩ năng của toàn bộ cuộc sống con người hiện có

thực tế hoặc tiềm năng để phát triển kinh tế xã hội trong cộng đồng” [ trích
theo 19, tr.35].
Theo nghĩa hẹp, nguồn nhân lực (hay nguồn lao động) được đánh giá
qua khái niệm lực lượng lao động. Theo quan niệm của tổ chức lao động thế
giới (ILO): “lực lượng lao động là một bộ phận dân số trong độ tuổi quy
định, thực tế đang có việc làm và những người thất nghiệp”[4,tr. 34].
Hiện nay ở Việt Nam tuổi lao động đã được quy định là 15 - 60 (đối với
nam) và 15 - 55 (đối với nữ). Trên thực tế khi tính toán, thống kê lực lượng lao
đông (tổng cục thống kê, bộ Lao động - thương binh và xã hội) người ta thường
quy định: lực lượng lao động là những người trong độ tuổi lao động có việc
làm và không có việc làm và những người ngoài tuổi lao động vẫn tham gia
làm việc (thường tính những người trên tuổi lao động). Như vậy, ở đây lực

4


lượng lao động đồng nghĩa với dân số hoạt động kinh tế. Nguồn lao động được
hiểu là toàn bộ những người có khả năng lao động dưới dạng tích cực và tiềm
tàng, tức là nguồn lao động bao gồm lực lượng lao động và người trong độ tuổi
lao động, có khả năng lao động như: đang đi học, đang làm nội trợ, không có
nhu cầu làm việc và những người thuộc tình trạng khác, bao gồm cả những
người nghỉ hưu trước tuổi theo quy định của bộ luật Lao động.
Nguồn lao động là một phạm trù kinh tế, có liên quan mật thiết đến vấn
đề nhân khẩu học và được đặc trưng bởi:
Quy mô của nguồn lao động phụ thuộc vào quy mô và tốc độ gia tăng
dân số của một quốc gia, trong đó tỉ lệ sinh đẻ và tỉ lệ tử vong có vai trò đặc
biệt quan trọng vì nó tác động đến cơ cấu lứa tuổi của dân số.
Sức lao động là đặc trưng cơ bản của nguồn lao động. Trong bất kì nền
sản xuất của xã hội nào sức lao động đều là yếu tố cơ bản của sản xuất là
nguồn gốc của mọi vật chất, đồng thời là yếu tố tạo ra giá trị. “Sức lao động

là năng lực lao động của một con người cụ thể, là tổng hợp những khả năng
thể lực, trí lực và tâm lực mà người đó có thể sử dụng để tạo ra một giá trị sử
dụng nào đó”[17, tr. 217]. Sức lao động chịu sự chi phối của nhiều yếu tố:
nhân tố về thể lực (chiều cao, cân nặng, sức chịu đựng…); nhân tố ý thức xã
hội ( tình cảm, tập quán, truyền thống, đạo đức…
1.1.2. Cơ cấu lao động
Cơ cấu lao động là một phạm trù kinh tế, được hình thành, phát triển
trên cơ sở của cơ cấu kinh tế và phản ánh quan hệ tỉ lệ cũng như xu hướng
vận động, phát triển của các yếu tố, bộ phận tạo nên nguồn lao động. Về nội
dung, bao gồm:
 Cơ cấu lao động theo giới tính và độ tuổi
Theo tiêu thức này, người lao động sẽ được chia thành:
Lao động nam và nữ

5


Lao động trong độ tuổi và ngoài độ tuổi lao động
Riêng đối với lao động ngoài độ tuổi lao động lại có thể chia thành lao
động trên và dưới độ tuổi, có khả năng và thực tế có tham gia lao động đã
được quy đổi thành lao động tiêu chuẩn.
 Cơ cấu lao động theo ngành, nghề
Là quan hệ tỉ lệ cũng như xu hướng vận đông, phát triển của các loại
lao động có ngành nghề khác nhau ở nông thôn. Cũng như cơ cấu kinh tế
ngành, cơ cấu lao động theo ngành, nghề là kết quả của sự phát triển phân
công lao động theo ngành nghề.
Nếu phân chia theo ngành kinh tế - kĩ thuật, cơ cấu lao động sẽ bao
gồm: lao động ở ngành nông nghiệp, lao động ở ngành công nghiệp, xây
dựng; lao động ở ngành dịch vụ và lao động ở ngành nghề khác. Trong nội
bộ từng ngành, lao động lại được chia thành những ngành hẹp hơn như: trong

nông nghiệp có lao động trồng trọt, lao động chăn nuôi; trong công nghiệp,
xây dựng có lao động tiểu thủ công nghiệp, lao động công nghiệp chế biến,
lao động cơ khí…
Từ các ngành hẹp, lao động lại tiếp tục được phân chia thành các ngành
nghề với chuyên môn hẹp hơn nữa… kết quả cuối cùng sẽ tạo nên một cơ cấu
lao động ngành nghề đa dạng với chuyên môn sâu, thậm chí rất sâu. Đây
chính là điều kiện cơ bản để phát triển kĩ năng nghề nghiệp và nâng cao năng
xuất lao động của các ngành nghề.
 Cơ cấu lao động theo vùng lãnh thổ
Là các quan hệ tỉ lệ cũng như xu hướng vận động, phát triển của nguồn
lao động giữa các vùng và trong nội bộ vùng lãnh thổ. Đây là kết quả của sự
phát triển phân công lao động theo vùng và trong nội bộ vùng. Ưu thế cơ bản
của sự phân công này đã tạo điều kiện để phát huy các lợi thế so sánh của
từng vùng C.Mác đã khẳng định: “sự phân công lao động theo vùng, làm cho

6


một số ngành sản xuất nhất định bị buộc chặt vào một số vùng nhất định
trong nước”[17, tr. 77]. Tuy nhiên, cũng cần thấy giữa cơ cấu lao động theo
vùng và cơ cấu lao động theo ngành, nghề trong thực tế không hoàn toàn đối
lập với nhau, trái lại chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Bởi lẽ, không
có một cơ sở ngành, nghề nào lại không được triển khai trên một vùng lãnh
thổ nhất định. Ngược lại, cơ cấu lao động theo vùng lại chính là sự thể hiện
của cơ cấu lao động theo ngành, nghề trên vùng lãnh thổ đó.
 Cơ cấu lao động theo thành phần kinh tế
Là quan hệ tỉ lệ cũng như xu hướng vận động, phát triển của lực lượng
lao động giữa các thành phần kinh tế. Hiện nay, ở nước ta tương ứng với 5
thành phần kinh tế, lực lượng lao động cũng được chia thành 5 loại như sau:
lao động làm việc trong thành phần kinh tế nhà nước, lao động làm việc trong

thành phần kinh tế tập thể, lao động làm việc trong thành phần kinh tế tư bản
nhà nước, lao động làm việc trong thành phần kinh tế tư nhân và lao động làm
việc trong thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Về mặt pháp lí, các
loại lao động này đều bình đẳng trước pháp luật và cũng có quyền, nghĩa vụ
riêng của mình.
 Cơ cấu lao động theo yếu tố sử dụng nguồn lao động
Đây là cơ cấu hình thành trên cơ sở căn cứ vào mức độ tham gia lao
động của các bộ phận hợp thành nguồn lao động. Theo đó cơ cấu lao động
theo tiêu chí này sẽ bao gồm:
Dân số hoạt động kinh tế: là những người từ 15 tuổi trở lên đang hoặc
không có việc làm, nhưng có nhu cầu làm việc. Đây chính là lực lượng lao
động, bộ phận này thường chiếm tỉ trọng lớn trong tổng nguồn lao động hiện
có ở thời điểm hiện tại.
“Dân số không hoạt động kinh tế, gồm những người 15 tuổi trở lên
không thuộc bộ phận có việc làm và không có việc làm vì các lí do như: đang

7


học, làm nội trong gia đình, già cả, ốm đau,tàn tật, mất sức lao động và đang
ở các tình trạng khác”[23, tr. 15].
 Cơ cấu lao động theo trình độ chuyên môn kĩ thuật
Là quan hệ tỉ lệ cũng như xu hướng biến động giữa các loại lao động có
trình độ chuyên môn kĩ thuật khác nhau. Theo đó lao động bao gồm các cơ
cấu sau:
Cơ cấu theo trình độ văn hóa, bao gồm các loại như: lao động đã tốt
nghiệp phổ thông trung học, lao động đã tốt nghiệp cấp II, lao động có trình
độ văn hóa hết cấp I, lao động chưa biết đọc, biết viết.
Cơ cấu theo trình độ chuyên môn kĩ thuật, lao động lại được chia thành:
lao động không có chuyên môn kĩ thuật và lao động có chuyên môn kĩ thuật.

Riêng với lao động có chuyên môn kĩ thuật lại có thể được phân chia thành
các loại như: lao động có trình độ công nghệ kĩ thuật, lao động có trình độ sơ
cấp, lao động có trình độ chuyên nghiệp, lao động có trình độ cao đẳng và đại
học, lao động có trình độ trên đại học.
Trong mỗi loại trình độ nói trên, tùy theo mức độ lành nghề khác nhau,
lao động lại tiếp tục được chia thành các nhóm có trình độ chuyên môn cao,
trung bình và thấp.
 Cơ cấu lao động theo thời gian làm việc thực tế
Là các quan hệ tỉ lệ và xu hướng thay đổi về thời gian lao động thực tế
giữa các ngành, nghề khác nhau trong tổng quỹ thời gian lao động thực tế đã
sử dụng.
Việc nghiên cứu cơ cấu lao động theo thời gian lao động thực tế có ý
nghĩa quan trọng nhằm tìm ra các giải pháp hữu hiệu để khai thác những khả
năng tiềm tàng về thời gian lao động còn chưa được sử dụng hiện nay ở nông
thôn nước ta. C.Mác cũng đã khẳng định: “tính chất toàn diện trong sự hoạt
động, sự phát triển và trong việc tiêu dùng của mỗi thành phần cũng như toàn

8


xã hội đều phụ thuộc vào việc tiết kiệm thời gian. Toàn bộ vấn đề tiết kiệm
chung quy lại là vấn đề tiết kiệm thời gian”[17, tr. 17].
1.1.3. Những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến sự chuyển dịch cơ cấu lao động
Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế là cơ sở cho sự chuyển dịch cơ cấu lao
động. Nhưng sự chuyển dịch cơ cấu lao động thường xảy ra chậm hơn (đi
sau) sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Bởi vì sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế sẽ
tạo ra việc làm mới, do đó sẽ đòi hỏi một cơ cấu lao động mới phù hợp với cơ
cấu việc làm. Vì vậy, xem xét những nhân tố ảnh hưởng đến sự chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông thôn cũng chính là những nhân tố sẽ tác động đến sự
chuyển dịch của cơ cấu lao động trong khu vực này.

 Điều kiện tự nhiên
Nhóm này bao gồm: vị trí địa lí, địa hình, khí hậu, hệ sinh thái, tài
nguyên thiên nhiên… nhóm nhân tố này có ý nghĩa quan trọng và tác động
trực tiếp đến sự hình thành, vận động và biến đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao
động nông thôn.
 Tiến bộ khoa học - công nghệ
Đây là nhân tố cơ bản quyết định đến quy mô và trình độ chuyển dịch
cơ cấu lao động. Tiến bộ khoa học - công nghệ đã làm giảm mức chi phí lao
động cho đơn vị sản phẩm, qua đó làm tăng năng xuất lao động. Việc áp dụng
kĩ thuật mới đã làm tăng được quy mô sản lượng đầu ra trong khi quy mô đầu
vào lao động không thay đổi. Tóm lại, việc ứng dụng kĩ thuật mới vào sản
xuất sẽ tạo ra khả năng to lớn để tăng năng xuất lao động, qua đó tạo ra tiền
đề vật chất để có thể di chuyển một bộ phận lao động nông nghiệp sang các
ngành, nghề khác.
 Vốn đầu tư
Vốn đầu tư là các nguồn lực tài chính và phi tài chính của các chủ thể
kinh tế được đưa vào hoạt động đầu tư và nhằm tạo năng lực sản xuất mới

9


hoặc tăng năng lực sản xuất sản xuất sẵn có với mục đích sinh lợi. Vốn đầu tư
được chia thành các loại:
Tiền vốn dùng mua sắm tài sản cố định.
Tiền vốn dùng mua sắm tài sản lưu động và dự trữ tiền mặt để thanh
toán trả công lao động.
Tiền vốn chi phí cho việc chuẩn bị đầu tư: khảo sát, xây dựng dự án
đầu tư, làm thủ tục cấp giấy phép…trong đó riêng phần tỉ trọng vốn đầu tư
dùng cho mua sắm tài sản cố định đang ngày càng có xu hướng phát triển
trong cơ cấu vốn đầu tư.

 Thị trường
Sự tác động của thị trường được thể hiện thông qua quan hệ cung - cầu
hàng hóa, dịch vụ và lao động nông thôn để trực tiếp, gián tiếp tạo ra sự
chuyển dịch cơ cấu lao động. Trên thị trường lao động nông thôn, nếu cầu về
sản phẩm của một số ngành, nghề phi nông nghiệp tăng lên sẽ làm tăng cầu
lao động ở các ngành này, qua đó cũng kích thích cung lao động phát triển và
tạo ra sự chuyển dịch lao động từ nông nghiệp đến các ngành nghề khác.
 Hệ thống chính sách
Đây cũng là một trong những nhân tố quan trọng và có sức tác động
khá mạnh tới quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động trong địa bàn nông thôn.
Thực chất của hệ thống chính sách là tổng thể các biện pháp kinh tế và phi
kinh tế của chính phủ tác động vào nông thôn nhằm hướng sự tăng trưởng và
phát triển của khu vực này theo những mục tiêu và thời hạn đã định.
Thực tế cho thấy, thông qua những chính sách cụ thể như: chính sách
ruộng đất, chính sách thuế, chính sách giá cả, chính sách khoa học - công
nghệ… chính phủ có thể điều chỉnh được quy mô, tốc độ phát triển của các
ngành, nghề ở nông thôn, qua đó trực tiếp hoặc gián tiếp tác động đến quá
trình chuyển dịch cơ cấu lao động.

10


1.2.

Sự cần thiết phải thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam
Ở thế kỉ XVII, XVIII, khi cách mạng công nghiệp được tiến hành ở Tây

Âu, công nghiệp hóa được hiểu là quá trình thay thế lao động thủ công bằng
lao động sử dụng máy móc. Khái niệm công nghiệp hóa mang tính lịch sử, tức
là luôn có sự thay đổi cùng với sự phát triển của nền sản xuất xã hội, của khoa

học - công nghệ. Do đó, việc nhận thức đúng đắn khái niệm này trong từng
giai đoạn phát triển của nền sản xuất xã hội có ý nghĩa to lớn cả về lí luận và
thực tiễn.
Kế thừa có chọn lọc những tri thức văn minh của nhân loại, rút những
kinh nghiệm trong lịch sử tiến hành công nghiệp hóa và từ thực tiễn công
nghiệp hóa ở Việt Nam trong thời kì đổi mới, Hội nghị Ban chấp hành Trung
ương lần thứ 7 khóa VI và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII Đảng Cộng
sản Việt Nam xác định:
“Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn
diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lí kinh tế - xã hội từ
sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức
lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại
dựa trên sự phát triển của công nghệ và tiến bộ khoa học - công nghệ nhằm
tạo ra năng xuất lao động xã hội cao”[3 ,tr.281 ].
Mỗi phương thức sản xuất xã hội chỉ có thể được xác lập vững chắc
trên cơ sở vật chất - kĩ thuật tương ứng. Cơ sở vật chất - kĩ thuật của một xã
hội là toàn bộ các yếu tố vật chất của lực lượng sản xuất xã hội phù hợp với
trình độ kĩ thuật tương ứng mà lực lượng lao động xã hội sử dụng để sản xuất
ra của cải vật chất nhằm thỏa mãn nhu cầu của xã hội.
Nhiệm vụ quan trọng nhất của nước ta trong thời kì quá độ lên chủ
nghĩa xã hội không qua chế độ tư bản chủ nghĩa, là phải xây dựng cơ sở vật
chất - kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội, trong đó có công nghiệp và nông nghiệp

11


hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến. Muốn thực hiện thành công nhiệm
vụ quan trọng trên, nhất thiết phải tiến hành công nghiệp hóa, tức là chuyển
nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu thành nền kinh tế công nghiệp.
Chủ nghĩa xã hội muốn tồn tại và phát triển, cũng cần phải có một nền

kinh tế tăng trưởng và phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Cơ sở vật chất - kĩ thuật
của chủ nghĩa xã hội cần phải xây dựng trên cơ sở những thành tựu mới nhất
của khoa học và công nghệ. Cơ sở vật chất - kĩ thuật đó phải tạo ra được một
năng xuất lao động xã hội cao. Công nghiệp hóa chính là quá trình tạo ra nền
tảng cơ sở vật chất đó cho nền kinh tế quốc dân xã hội chủ nghĩa.
Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, cơ
sở vật chất - kĩ thuật thấp kém, trình độ của lực lượng sản xuất chưa phát
triển, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa mới được thiết lập, chưa được hoàn
thiện. Vì vậy, quá trình công nghiệp hóa chính là quá trình xây dựng cơ sở vật
chất - kĩ thuật cho nền kinh tế quốc dân. Mỗi bước tiến của quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa là một bước tăng cường cơ sở vật chất - kĩ thuật cho
chủ nghĩa xã hội, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất và góp phần hoàn
thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
Trong xu thế khu vực hóa và toàn cầu hóa về kinh tế đang phát triển
mạnh mẽ, trong điều kiện cách mạng khoa học - kĩ thuật và công nghệ hiện
đại phát triển rất nhanh chóng; những thuận lợi và khó khăn về khách quan và
chủ quan, có nhiều thời cơ và cũng có nhiều nguy cơ, vừa tạo ra vận hội mới,
vừa cản trở, thách thức nền kinh tế của nước ta, đan xen với nhau, tác động
lẫn nhau. Vì vậy, đất nước chúng ta phải chủ động sáng tạo nắm lấy thời cơ,
phát huy những thuận lợi để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, tạo ra thế
và lực mới để vượt qua những khó khăn, đẩy lùi nguy cơ, đưa nền kinh tế
tăng trưởng, phát triển bền vững.

12


1.3. Vai trò của sự chuyển dịch cơ cấu lao động trong địa bàn nông thôn
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Người lao động là một trong ba nhân tố của bất cứ một quá trình sản

xuất nào và trong thời đại ngày nay khi mà các nguồn lực trở lên khan hiếm
thì nó được xem xét là yếu tố quan trọng nhất của quá trình sản xuất, vai trò
của nguồn lao động nói chung và nguồn lao động nông thôn nói riêng là rất
quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế đất nước.
Trong nền kinh tế mọi yếu tố đều vận động do đó sự chuyển dịch cơ
cấu lao động trong địa bàn nông thôn là một tất yếu.
Chuyển dịch cơ cấu lao động là sự thay đổi tăng, giảm của từng bộ
phận trong tổng số lao động, theo một không gian và khoảng thời gian nào đó.
Cơ cấu lao động được chuyển dịch tùy theo sự chuyển dịch của cơ cấu
kinh tế, phục vụ và đáp ứng cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Cơ cấu kinh tế nước ta hiện nay đang có sự chuyển dịch theo hướng
CNH, HĐH: tỉ trọng công nghiệp, xây dựng, dịch vụ trong GDP tăng, tỉ trọng
nông - lâm - thủy sản giảm. Do đó, cơ cấu lao động cần thiết phải có sự
chuyển dịch theo hướng CNH, HĐH.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành trung ương khóa X của
Đảng ta đã chỉ rõ: Nông nghiệp, nông thôn và nông dân có vị trí chiến lược
trong sự nghiệp CNH, HĐH, xây dựng và bảo vệ tổ quốc, là cơ sở và lực
lượng quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn định
chính trị, đảm bảo an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước. Các vấn đề nông nghiệp,
nông thôn, nông dân phải gắn với quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của
quá trình CNH, HĐH đất nước. Phát triển nông nghiệp, nông thôn và nâng
cao đời sống vật chất, tinh thần của nông dân phải dựa trên cơ chế thị trường

13


định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với điều kiện từng vùng, từng lĩnh vực
để giải phóng và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội, trước hết là lao

động…phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí nông thôn.
Nghị quyết cũng vạch ra mục tiêu: xây dựng nền nông nghiệp phát
triển toàn diện theo hướng hiện đại, bền vững, sản xuất hàng hóa lớn, có năng
xuất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao, đảm bảo vững chắc an
ninh lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài. Xây dựng nông thôn mới có
kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức
sản xuất hợp lí, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ…
Để thực hiện được những mục tiêu trên thì việc tiến hành chuyển dịch
cơ cấu kinh tế kết hợp chuyển dịch cơ cấu lao động trong địa bàn nông thôn là
cần thiết, tất yếu, đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của nền kinh tế - xã hội. Mặt khác,
khi cơ cấu lao động trên địa bàn nông thôn có sự chuyển dịch theo hướng
CNH, HĐH tất yếu sẽ tạo điều kiện cho sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Nước ta là một trong các nước có dân số ở khu vực nông thôn khá lớn,
khoảng 75,13 % tổng dân số, tương đương 60,05 triệu người (tính đến ngày
1. 7. 2002). Trong đó, số người trong độ tuổi lao động là 35,44 triệu người,
khoảng 59 % dân số, với 30,9 triệu người tham gia vào lực lượng lao động.
Khu vực nông thôn đang tập trung một số lượng lớn lực lượng lao động
của cả nước với tốc độ tăng khoảng 2,5 % / năm; lực lượng lao động ở nông
thôn năm 2002 là 30,98 triệu người và thời gian chưa sử dụng trung bình cả
nước là 24,46 %, nếu quy đổi thì sẽ tương đương khoảng 7,5 triệu người
không có việc làm. Nếu chúng ta thực hiện các biện pháp hữu hiệu nhằm đẩy
mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động trên địa bàn nông thôn thì không
những khai thác được tối đa tiềm năng sẵn có mà còn khắc phục được những
hạn chế, khó khăn đang tồn tại.

14


Chương 2
THỰC TRẠNG CỦA SỰ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LAO ĐỘNG

TRONG ĐỊA BÀN NÔNG THÔN THEO HƯỚNG CÔNG NGHIỆP
HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1. Thành tựu của sự chuyển dịch cơ cấu lao động trong địa bàn nông
thôn theo hướng CNH, HĐH ở Việt Nam hiện nay
Trong thời gian qua, dưới tác động của nhiều nhân tố, cơ cấu lao động
nông thôn đã có những thay đổi nhất định.
Sự đổi mới của cơ chế quản lí trong nông nghiệp đã tạo ra động lực
cho sự phát triển, bởi vì nó mang lại lợi ích trực tiếp cho người nông dân, giải
quyết được phần lớn sức sản xuất ở nông thôn và phát huy tiềm năng to lớn
của người nông dân. Cùng với chủ trương thực hiện chế độ khoán sản phẩm,
chủ trương giao quyền sử dụng đất lâu dài cho nông dân với năm quyền cụ
thể, chúng ta đã kích thích nông dân yên tâm đầu tư phát triển sản xuất, kinh
doanh và sử dụng đất có hiệu quả. Chính cơ chế thị trường đã thiết lập một
mô hình việc làm mới, tạo nhiều cơ hội cho người lao động. Ở đây người
nông dân có quyền tiếp cận trực tiếp đến các nhu cầu của thị trường ngày
càng mở rộng. Có thể nói yếu tố quan trọng để tăng sản lượng và năng suất
trong thời gian qua là tăng cường tổng các yếu tố sản xuất mà trước hết là sự
nỗ lực của người nông dân. Điều này khẳng định tiềm năng về lao động ở
nông thôn đã được phát huy và đã mang lại những hiệu quả không nhỏ: duy
trì tốc độ tăng trưởng liên tục trên 5%, giải quyết vấn đề lương thực, trở thành
nước xuất khẩu gạo thứ hai trên thế giới, đóng góp phần quan trọng vào xuất
khẩu của đất nước. Tính chung cả năm 2009, giá trị sản xuất nông - lâm - thủy
sản đạt 219,9 nghìn tỉ đồng, tăng 3% so với năm 2008.

15


Cơ cấu lao động nông thôn đã và đang có sự chuyển dịch theo hướng
CNH, HĐH với nội dung cụ thể:

 Cơ cấu lao động nông thôn chuyển dịch theo ngành, theo nghề.
Theo hướng này, cơ cấu lao động nông thôn có sự chuyển dịch: tăng tỉ
trọng lao động công nghiệp, xây dựng và dịch vụ, giảm tỉ trọng lao động
trong các ngành nông - lâm - thủy sản.
Lao động của ngành công nghiệp và xây dựng trong tổng số lao động
xã hội tăng từ 12,1 % năm 2000 lên 17,9% năm 2005: lao động trong các
ngành dịch vụ tăng từ 19,7% lên 25,3%; lao động các ngành nông - lâm - thủy
sản giảm từ 68,2% xuống còn 56,8% (theo Tổng điều tra nông thôn, nông
nghiệp và thủy sản năm 2011).
Chuyển dịch cơ cấu ngành, nghề hộ nông thôn có nhiều tiến bộ nhất là
ở hai vùng Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Hồng. Theo kết quả của cuộc
Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản năm 2011 thì trong 5 năm
2006 - 2011 cơ cấu ngành nghề của hộ nông thôn có sự chuyển dịch theo
hướng tích cực: giảm số lượng và tỉ trọng nhóm hộ nông - lâm - thủy sản;
tăng số lượng và tỉ trọng nhóm hộ công nghiệp, xây dựng và dịch vụ.
Về số lượng hộ, theo kết quả chính thức đến ngày 1-7 - 2011, số hộ
nông - lâm - thủy sản ở nông thôn là 9,53 triệu hộ, giảm 248 nghìn hộ
(2,54%) so với năm 2006. Số hộ công nghiệp, xây dựng và dịch vụ đạt 5,13
triệu hộ, tăng 1,67 triệu hộ (48,5 %) so với năm 2006.
Về cơ cấu lao động theo ngành, tỉ trọng hộ nông - lâm - thủy sản khu
vực nông thôn năm 2011 là 62,2% so với 71,1% của năm 2006 và 80,9% của
năm 2001. Như vậy, xét về cơ cấu thì tỉ trọng hộ nông - lâm - thủy sản từ năm
2001 - 2011 đã giảm 18,7%. Tỉ trọng hai nhóm hộ công nghiệp, xây dựng và
dịch vụ từ 2006 - 2011 đã tăng thêm 8,3% ( từ 25,1% lên 33,4%). Nếu so với
năm 2001, tỉ lệ này ở năm 2011 đã tăng thêm 17,1% ( từ 16,3% lên 33,4%).

16


Tốc độ chuyển dịch cơ cấu ngành nghề hộ nông thôn từ nông - lâm thủy sản sang công nghiệp, xây dựng và dịch vụ rõ nét nhất xảy ra ở vùng

Đông Nam Bộ và tiếp theo là đồng bằng sông Hồng. Ở hai vùng này, số hộ
nông - lâm - thủy sản đều dưới 50% tổng số hộ nông thôn, đặc biệt vùng
Đông Nam Bộ chỉ chiếm chưa đến 40%.
Bên cạnh đó, cũng theo kết quả của cuộc Tổng điều tra, lao động trong
độ tuổi có khả năng lao động ở khu vực nông thôn hoạt động nông - lâm thủy sản là 59,6% giảm đáng kể so với mức 70,4% của năm 2006 và 79,6%
của năm 2001; tỉ trọng lao động công nghiêp, xây dựng lần lượt ở các năm
2011, 2006, 2001 là 18,4%, 12,5%, và 7,4%, tỉ trọng lao động dịch vụ là
20,5%, 15,9% và 11,9% ở 3 năm tương ứng. Như vậy, tỉ trọng lao động công
nghiệp, xây dựng đã tăng 11% (2001 - 2011): tỉ trọng lao động dịch vụ tăng
8,6% (2001- 2011) còn tỉ trọng lao động nông - lâm - thủy sản đã giảm đáng
kể 20 % (2011- 2001) ( theo Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy
sản năm 2011).
Trong nội bộ ngành cũng có sự chuyển biến tích cực, cụ thể: nội bộ
ngành nông - lâm - thủy sản chuyển dịch theo hướng giảm tỉ trọng lao động
hoạt động nông nghiệp, tăng lao động hoạt động lâm nghiệp và thủy sản.
Tại thời điểm ngày 1 - 7 - 2011 cả nước có khoảng 10,37 triệu hộ nông lâm - thủy sản; trong đó: hộ nông nghiệp chiếm 9,6 triệu hộ, hộ thủy sản gần
720 nghìn hộ, hộ lâm nghiệp có gần 57 nghìn hộ. So với năm 2006, tính
chung số hộ nông - lâm - thủy sản đã giảm 0,9%, trong đó: hộ nông nghiệp
giảm 1,5% song hộ lâm nghiệp tăng 65,6% và hộ thủy sản tăng 4,6% ( theo
Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản năm 2011).
 Trình độ chuyên môn kĩ thuật của lao động nông thôn chuyển dịch tích cực:
Trong những năm qua, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách và
chương trình đào tạo nghề cho nông dân. Với sự hỗ trợ của Nhà nước trong

17


việc đào tạo nghề miễn phí, trình độ chuyên môn kĩ thuật của lao động nông
thôn đã nâng lên. Số người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động có
trình độ chuyên môn kĩ thuật từ sơ cấp trở lên năm 2011 chiếm tỉ lệ 11,2%

(năm 2006 đạt 8,2% và năm 2001 đạt 6,2%), trong đó: trình độ trung cấp lần
lượt ở các năm 2011, 2006 và 2001 là 4,3%, 3% và 2,5%; trình độ đại học là
2,2%, 1,1% và 0,7% trong 3 năm tương ứng. Như vậy, có thể nói trình độ
chuyên môn của lao động nông thôn đã đạt được những tiến bộ nhất định.
Về trình độ văn hóa của lao động nông thôn: tốt nghiệp trung học phổ
thông cơ sở là 34,59%, tốt nghiệp trung học phổ thông là 11,18% ( theo Tổng
điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản năm 2011).
 Cơ cấu lao động nông thôn chuyển dịch theo thành phần kinh tế
Lao động nông thôn xét theo thành phần kinh tế có sự chuyển dịch rõ
nét nhất trong hai thành phần kinh tế: thành phần kinh tế tư nhân và thành
phần kinh tế tập thể mà nòng cốt là hợp tác xã.
Lao động nông thôn chủ yếu tập trung trong thành phần kinh tế tư nhân
với hình thức kinh tế trang trại. Bởi đối với trang trại trồng trọt, giá trị thu từ
các hoạt động nông - lâm - thủy sản bình quân một trang trại năm 2010 là
1263 triệu đồng. Nếu tính bình quân trên 1ha đất trồng trọt, giá trị thu từ nông
- lâm - thủy sản của trang trại trồng trọt năm 2010 cả nước là 103,5 triệu
đồng. Nếu so với hộ thì hiệu quả sử dụng đất trồng trọt và nuôi trồng thủy sản
của trang trại cao hơn hẳn thể hiện qua mức thu trên 1ha.
Tính đến ngày 1-7-2011 cả nước có 20028 trang trại theo tiêu chí trang
trại mới, trong đó, các vùng có nhiều trang trại là đồng bằng sông Cửu Long (
6267 trang trại), Đông Nam Bộ (5387 trang trại) và Tây Nguyên (2528 trang
trại), các vùng trang trại sử dụng gần 95000 lao động.
Bên cạnh đó, lao động nông thôn cũng tham gia đáng kể vào các hợp
tác xã. Tính đến hết 31-12-2010 cả nước có 6302 hợp tác xã nông - lâm - thủy

18


sản. Các hợp tác xã sử dụng 136,1 nghìn lao động thường xuyên, tăng 7,8%
so với năm 2006, trong đó có 128 nghìn người (94,1%) là xã viên, 8,1 nghìn

người (5,9%) là lao động làm thuê ngoài. Quy mô lao động thường xuyên
bình quân một hợp tác xã là 21,6 người tăng 24,1% so với năm 2006. Các hợp
tác xã có doanh thu bình quân một lao động đạt 38,3 triệu đồng (tăng 33,4%
so với năm 2005). Hoạt động kinh doanh của hợp tác xã nông nghiệp vừa đảm
bảo nguyên tắc thu đủ bù chi lại vừa tạo nền tảng phục vụ sản xuất, kinh tế hộ
và sự phát triển chung của cộng đồng.
2.2. Hạn chế của sự chuyển dịch cơ cấu lao động trong địa bàn nông thôn
theo hướng CNH, HĐH ở Việt Nam hiện nay
Bên cạnh những thành tựu trên, quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động
trong địa bàn nông thôn vẫn còn tồn tại không ít hạn chế.
 Tốc độ chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn còn khá chậm và còn cách
xa so với yêu cầu CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
Trong 10 năm, từ 2001- 2011, tỉ trọng lao động hoạt động trong lĩnh
vực nông - lâm - thủy sản mới giảm được 20%, từ khoảng 80% năm 2001
xuống còn khoảng 60% vào năm 2011. Bình quân mỗi năm chỉ giảm được 2%.
Với tốc độ giảm bình quân như những năm qua, thì đến ngày 1 - 7-2020 lao
động nông nghiệp trên địa bàn nông thôn sẽ giảm thêm 18%, tức sẽ còn 42%
lao động nông nghiệp trên địa bàn nông thôn (không đạt tiêu chí số 12 về xã
nông thôn mới). Trong khi đó, cả nước đến năm 2020 phải có đến 50% số xã
đạt tiêu chí xã nông thôn mới, trong đó tiêu chí số 12 là lao động nông nghiệp
còn không quá 35% lao động xã hội trên địa bàn xã.
 Lao động nông thôn chủ yếu vẫn là lao động thuần nông.
Trong tổng số người trong độ tuổi lao động có tham gia hoạt động nông
nghiệp thì lao động chuyên nông nghiệp (thuần nông) chiếm tỉ lệ lớn, tới

19


46%; lao động nông nghiệp kiêm ngành nghề khác chiếm 32,1% và lao động
phi nông nghiệp chiếm 21,9%.

Riêng trong ngành nông nghiệp: tăng trưởng kinh tế nói chung và tăng
trưởng khu vực nông nghiệp, nông thôn không thúc đẩy tăng trưởng tương
ứng việc làm ở nông thôn; lao động tiếp tục bị dồn nén trong nông nghiệp
năng xuất thấp (năng xuất lao động nông nghiệp chỉ bằng 1/3 so với công
nghiệp và dịch vụ), hệ số co giãn việc làm trong nền kinh tế nói chung và khu
vực nông thôn còn thấp(thời kì 2000 - 2009 là 0,28% so với cả nước nói
chung và khoảng 0,35% với khu vực nông thôn) chưa đảm bảo thu hút hết
lao động dư thừa trong nông nghiệp để tạo ra bước đột phá phát triển sản xuất
hàng hóa và tăng sức cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp, nông thôn; mức
độ thiếu việc làm còn cao (6,51% người thiếu việc làm và khoảng 25% thời
gian lao động ở nông thôn chưa được sử dụng).
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế chưa thúc đẩy và tạo điều kiện để có kết
quả chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp, nông thôn tương ứng ( công
nghiệp và dịch vụ đã tạo ra 79% GDP cả nước nhưng mới thu hút 49% lao
động xã hội).
 Chuyển dịch không đồng đều giữa các vùng.
Các vùng Đông Nam Bộ, đồng bằng sông Hồng chuyển dịch nhanh,
các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên chuyển dịch rất chậm và chưa tạo được sự
liên kết di chuyển lao động phục vụ cho sự nghiệp CNH, HĐH chung trong cả
nước, chưa phát huy được thế mạnh của từng vùng về nguồn nhân lực, tài
nguyên thiên nhiên và đặc điểm sinh thái; các vùng kinh tế trọng điểm chưa
được quy hoạch phát triển đồng bộ để tạo động lực lan tỏa mạnh đến vùng
khó khăn khác; thị trường lao động vẫn mất cân đối nghiêm trọng về cung cầu lao động; quy hoạch các khu công nghiệp không hợp lí dẫn đến thừa-

20


×