TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
------ ------
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
PHÂN TÍCH NGÀNH HÀNG THẢO QUẢ Ở XÃ
TẢ PHÌN – HUYỆN SAPA – TỈNH LÀO CAI
Tên sinh viên
: Võ Thị Diệu Thúy
Chuyên ngành đào tạo : Kinh tế nông nghiệp
Lớp
: KT 51D
Niên khoá
: 2006 - 2010
Giảng viên hướng dẫn
: TS. Nguyễn Thị Minh Hiền
HÀ NỘI - 2010
Khoa kinh tế & PTNT
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là đề tài nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và
kết quả nghiên cứu sử dụng trong luận văn này là trung thực, nghiêm túc và
chưa được công bố và sử dụng trong bất kỳ một tài liệu khoa học nào. Mọi
thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Hà Nội, ngày 20 tháng 5 năm 2010
Sinh viên
VÕ THỊ DIỆU THÚY
2
Khoa kinh t & PTNT
LờI CảM ƠN
Trong thời gian thực tập tốt nghiệp vừa qua, để hoàn thành đợc luận văn tốt
nghiệp, ngoài sự nỗ lực của bản thân tôi đã nhận đợc rất nhiều sự quan tâm giúp
đỡ của các tập thể, các cá nhân trong và ngoài trờng.
Trớc hết, tôi xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo Khoa KT & PTNT
Trờng Đại học Nông nghiệp Hà Nội đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi hoàn thành
luận văn tốt nghiệp.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cô giáo TS. Nguyễn Thị Minh
Hiền đã tận tình hớng dẫn tôi trong suốt quá trình làm luận văn..
Tôi xin chân thành cảm ban lãnh đạo cùng toàn thể nhân viên của Tổ chức
phát triển Hà Lan, Ban lãnh đạo cùng toàn thể nhân dân xã Tả Phìn đã tạo mọi
điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành tốt đợt thực tập tốt nghiệp này.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn tới gia đình và bạn bè đã khích lệ, cổ
vũ tôi hoàn thành luận văn thực tập tốt nghiệp này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 20 tháng 5 năm 2010
Sinh viên
Võ Thị Diệu Thúy
DANH MC CC CH VIT TT
3
Khoa kinh tế & PTNT
BQ
Bình quân
CC
Cơ cấu
DNTN
Doanh nghiệp tư nhân
DT
Doanh thu
DV
Dịch vụ
ĐBSCL
Đồng bằng Sông Cửu Long
ĐVT
Đơn vị tính
HTX
Hợp tác xã
NĐ – CP
NTTS
Nghị định Chính phủ
Nuôi trồng thủy sản
SL
Sản lượng
SNV
Tổ chức phát triển Hà Lan
SX
Sản xuất
TSCĐ
Tài sản cố định
TTCN
Tiểu thủ công nghiệp
PHẦN I: MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết đề tài
Thảo quả là loài cây lâm sản ngoài gỗ phân bố tự nhiên ở vùng núi cao có
khí hậu ẩm và cận nhiệt đới. Thích hợp với các loại đất tốt còn mang tính chất
đất rừng. Ở Châu Á, Thảo quả được trồng ở các nước Ấn Độ, Nepal, Trung
Quốc, Indonesia, Thái Lan, Việt Nam và Lào. Ở Việt Nam thảo quả được trồng
chủ yếu ở các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta như Lào Cai, Lai Châu, Hà Giang
và Yên Bái.
4
Khoa kinh tế & PTNT
Thảo quả dùng làm gia vị thực phẩm, hạt Thảo quả có chứa hàm lượng
tinh dầu từ 1-1,5%. Đặc biệt Thảo quả là một loại dược liệu dùng làm thuốc để
chữa trị bệnh. Vì vậy Thảo quả là một loài cây lâm sản ngoài gỗ có giá trị kinh
tế cao.
Theo các cơ quan quản lý địa phương cho biết, việc phát triển gây trồng
Thảo quả đã và đang góp phần phát triển kinh tế xã hội, xóa đói giảm nghèo.
Nhiều địa phương đã coi Thảo quả là cây trồng chính thay thế cây thuốc phiện ở
vùng cao. Chính vì Thảo quả có giá trị kinh tế cao nên diện tích trồng cây này
những năm qua tăng rất nhanh và sản xuất Thảo quả nhằm mục đích thương mại
mới thực sự bắt đầu từ khoảng 10 năm trước kể từ khi giao dịch thương mại
giữa Trung Quốc và Việt Nam bắt đầu phát triển. Hiện nay, hơn 95% lượng
Thảo quả sản xuất ở Lai Châu và Lào Cai được bán cho Trung Quốc qua con
đường thương mại không chính thức thông qua các thương lái người Hoa. Mặc
dù Thảo quả mang lại thu nhập cho nông dân, nhưng tiềm năng kinh tế của nông
sản này vẫn chưa được khai thác triệt để nhằm xóa đói giảm nghèo cho khoảng
12.000 hộ nghèo phụ thuộc chủ yếu vào Thảo quả của hai tỉnh này.
Năm 2008, Tổ chức phát triển Hà Lan SNV đã phối hợp với Sở Thương
mại và Du lịch (TM&DL); Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
(NN&PTNT); và Trung tâm khuyến nông (TTKN) triển khai chương trình phát
triển chuỗi giá trị Thảo quả phục vụ công tác xóa đói giảm nghèo tại các xã
vùng cao của tỉnh Lào Cai.
Lào Cai là tỉnh sản xuất Thảo quả chính, quan trọng nhất, với 6 huyện / thị
canh tác Thảo quả bao gồm: Bát Xát, Văn Bàn, SaPa, Mường Khương, Bảo Thắng
và Lào Cai. Thảo quả Lào Cai cũng được đánh giá là có chất lượng tốt nhất.
Xã Tả Phìn – huyện SaPa – tỉnh Lào Cai là một trong những địa phương
nằm trong vùng quy hoạch phát triển Thảo quả hiện nay nhằm giảm nghèo cho
địa phương. Do vậy, phần lớn người dân ở đây đều tham gia canh tác thảo quả
tạo ra tiềm năng lớn cho địa phương.
5
Khoa kinh tế & PTNT
Hiện nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về kiến thức bản địa liên
quan đến lâm sản ngoài gỗ. Nhà nước cũng đã có một số chính sách để ngành
hàng Thảo quả thực sự là một ngành chính đóng vai trò quan trọng trong phát
triển kinh tế nông hộ. Tuy nhiên những nghiên cứu để phát triển ngành hàng
Thảo quả còn rất ít, vẫn còn gặp nhiều khó khăn.
Xuất phát từ các thực tiễn nêu trên, được sự đồng ý của khoa kinh tế và
phát triển nông thôn trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội, Tổ chức phát triển
Hà Lan SNV, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Phân tích ngành hàng
Thảo quả ở xã Tả Phìn – huyện SaPa – Tỉnh Lào Cai ”.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Phân tích và chẩn đoán sự phát triển của ngành hàng Thảo quả ở xã Tả
Phìn. Từ đó đưa ra các hướng tác động phù hợp nhằm thúc đẩy phát triển ngành
hàng Thảo quả ở xã Tả Phìn - Huyện SaPa – Tỉnh Lào Cai.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
1- Góp phần hệ thống hoá lý luận và thực tiễn về ngành hàng và ngành hàng
Thảo quả.
2- Xác định được các tác nhân tham gia vào ngành hàng và sự điều phối các
hoạt động của các tác nhân trong ngành.
3- Phân tích đánh giá hiệu quả và chẩn đoán ngành hàng Thảo quả.
4- Đề xuất một số bài học kinh nghiệm và các giải pháp nhằm thúc đẩy quá trình
phát triển ngành hàng Thảo quả ở xã Tả Phìn – huyện SaPa – Tỉnh Lào Cai.
1.3 Đối tượng & phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Phạm vi nghiên cứu
1.3.1.1 Phạm vi nội dung: Nghiên cứu ngành hàng Thảo quả
1.31.2 Phạm vi thời gian: Số liệu được thu thập từ năm 2007 đến 2009
1.3.1.3 Phạm vi không gian: Xã Tả Phìn - Huyện SaPa – Tỉnh Lào Cai.
1.3.2 Đối tượng nghiên cứu
6
Khoa kinh tế & PTNT
Là tác nhân (hộ sản xuất, doanh nghiệp, HTX, các cơ quan chuyên môn,
…) tham gia sản xuất kinh doanh Thảo quả ở xã Tả Phìn - huyện SaPa – Tỉnh
Lào Cai.
PHẦN II: CÁC VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NGÀNH HÀNG
THẢO QUẢ
2.1 Một số khái niệm cơ bản
2.1.1 Khái niệm ngành hàng
Hiện nay có rất nhiều khái niệm về ngành hàng, mặc dù không mâu thuẫn
nhưng cũng có sự khác nhau khi phân tích các khía cạnh về sản phẩm, tác nhân,
tổ chức…trong ngành hàng.
7
Khoa kinh tế & PTNT
Theo các nhà nghiên cứu Pháp: Ngành hàng là tổng thể tất cả các hoạt
động được gắn bó chặt chẽ với nhau theo chiều dọc từ sản xuất, chế biến, vận
chuyển của một hay một nhóm sản phẩm giống nhau mà cuối cùng là để thoả
mãn nhu cầu của người tiêu dùng.
Durufle (1988): Ngành hàng là một tổng thể của các tác nhân kinh tế
tham gia trực tiếp vào sản xuất, chế biến, vận chuyển và phân phối đến tận thị
trường của một sản phẩm.
Montigaud (1992): Ngành hàng là tổng thể các hoạt động liên quan chặt
chẽ theo chiều dọc đối với một sản phẩm (hay nhiều sản phẩm cùng nhóm) và
cuối cùng là để thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng.
Malassis (1992): Khái niệm ngành hàng có quan hệ tới một hay một nhóm
sản phẩm có liên quan, các sản phẩm này có quan hệ bổ sung hoặc có thể thay
thể cho nhau. Quan điểm tiếp cận ngành hàng cho phép xác định các tác nhân
(hãng, công ty, thương lái, hộ nông dân…) và các đặc trưng của họ về thể chế,
quá trình hoạt động, qui mô sản xuất và khả năng thương thuyết thoả thuận, các
công nghệ sử dụng và mối quan hệ sản xuất, vai trò của giao dịch, các mối quan
hệ mang tính quyền lực của ngành hàng trong quá trình hình thành giá.
Pierre Fabre (1994): Người ta gọi ngành hàng sản xuất là tổng thể các tác
nhân (hay các bộ phận của các tác nhân) kinh tế góp phần trực tiếp tạo ra sản
phẩm cuối cùng. Như vậy, ngành hàng vạch ra các hoạt động kế tiếp nhau, bắt
đầu từ thượng nguồn (đầu vào) của một nguyên liệu – hay của một sản phẩm
trung gian – cho đến hạ nguồn (đầu ra), sau nhiều giai đoạn chuyển hoá/giá trị
hoá đối với một hay nhiều sản phẩm cuối cùng đưa đến với người tiêu dùng.
Chính xác hơn, chúng ta có thể hiểu ngành hàng sản xuất là toàn bộ các
tác nhân (hay bộ phận của tác nhân) kinh tế góp phần trực tiếp vào sản xuất, chế
biến và đưa vào thị trường của cùng một sản phẩm nông nghiệp (hay chăn nuôi).
Như vậy, ngành hàng là một chuỗi các hoạt động kinh tế, chẳng hạn từ
việc trồng mía đến đường tinh khiết, từ trồng bông đến các mặt hàng dệt may, từ
8
Khoa kinh tế & PTNT
việc nuôi lợn đến giết mổ, là đồ hộp…Ngành hàng cho phép mô tả, từ đầu vào
đến đầu ra, chuỗi các hoạt động chế biến và phân bổ làm giá trị hoá các nguồn
lực của đất nước.
Ngành hàng là một chuỗi các hoạt động kinh tế được tạo ra bởi các tác
nhân tham gia vào ngành hàng từ khâu sản xuất nguyên liệu đầu vào đến sản
phẩm tiêu dùng cuối cùng.
2.1.2 Khái niệm về các bộ phận cấu thành của ngành hàng
2.1.2.1 Tác nhân
Tác nhân là một tế bào sơ cấp với các hoạt động kinh tế, là trung tâm hoạt
động độc lập và tự quyết định hành vi của mình. Có thể hiểu rằng: Tác nhân là
những hộ, những doanh nghiệp… tham gia trong ngành hàng thông qua hoạt
động kinh tế của họ.
Theo nghĩa rộng người ta phân tác nhân thành từng nhóm để chỉ tập hợp
các chủ thể có cùng một loại hoạt động. Ví dụ, tác nhân “nông dân để chỉ tập
hợp tất cả các hộ nông dân; tác nhân “thương nhân để chỉ tập hợp tất cả các hộ
thương nhân; tác nhân “bên ngoài” chỉ tất cả các chủ thể ngoài phạm vi không
gian phân tích.
Trên thực tế có một số tác nhân chỉ tham gia vào một ngành hàng nhất
định và có nhiều tác nhân có mặt trong nhiều ngành hàng của nền kinh tế quốc
dân. Có thể phân loại các tác nhân thành một số nhóm tuỳ theo bản chất hoạt
động chủ yếu trong ngành hàng như sản xuất của cải, chế biến, tiêu thụ và dịch
vụ, hoạt động tài chính và phân phối .
Trong thực tế, một tác nhân có thể có nhiều hoạt động khác nhau. Vì
vậy, khi phân tích tuỳ theo từng điều kiện cụ thể mà xác định các tác nhân tham
gia trong từng ngành hàng với chức năng cụ thể cho chính xác, tránh hiện tượng
bỏ sót hay phân tích trùng lặp nhiều lần hoạt động của các tác nhân.
9
Khoa kinh tế & PTNT
Trong phân tích ngành hàng theo luồng hàng, người ta thường chia thành
các tác nhân sau: Người sản xuất, người thu gom, người bán buôn, người chế
biến, người bán lẻ, người tiêu dùng cuối cùng.
2.1.2.2 Chức năng
Mỗi tác nhân có những hoạt động kinh tế riêng, đó chính là chức năng
của nó trong chuỗi hàng. Tên chức năng thường trùng với tên tác nhân. Mỗi tác
nhân có thể có một hay một vài chức năng. Các chức năng kế tiếp nhau tạo nên
sự chuyển dịch về mặt tính chất của luồng vật chất trong ngành hàng. Các tác
nhân đứng sau thường có chức năng hoàn thiện sản phẩm của các tác nhân đứng
trước kề nó cho đến khi chức năng của các tác nhân cuối cùng ở luồng hàng kết
thúc thì ta đã có sản phẩm cuối cùng của ngành hàng.
2.1.2.3 Sản phẩm
Trong ngành hàng, mỗi tác nhân đều tạo ra sản phẩm riêng của mình.
Trừ những sản phẩm bán lẻ cuối cùng, sản phẩm bán lẻ của mọi tác nhân khác
chưa phải là sản phẩm cuối cùng của ngành hàng mà chỉ là kết quả hoạt động
kinh tế, là “đầu ra” của quá trình sản xuất của từng tác nhân. Trong ngành hàng,
sản phẩm của các tác nhân trước là chi phí trung gian của các tác nhân kề nó.
Chỉ có sản phẩm của tác nhân cuối cùng trước khi đến tay người tiêu dùng mới
là sản phẩm cuối cùng của ngành hàng. Do tính chất phong phú về chủng loại
sản phẩm nên trong phân tích ngành hàng thường chỉ phân tích sự vận hành của
các sản phẩm chính.
2.1.2.4 Mạch hàng
Mạch hàng là khoảng cách giữa hai tác nhân. Mạch hàng chứa đựng
quan hệ kinh tế giữa hai tác nhân và những hoạt động chuyển dịch về sản phẩm.
Qua từng mạch hàng, giá trị của sản phẩm được tăng thêm và do đó giá cả cũng
được tăng thêm do các khoản giá trị mới sáng tạo ra ở từng tác nhân. Điều đó
thể hiện sự đóng góp của từng tác nhân trong việc tạo nên GDP của ngành hàng.
2.1.2.5 Luồng hàng
10
Khoa kinh tế & PTNT
Những mạch hàng liên tiếp được sắp xếp theo trật tự từ tác nhân đầu tiên
đến tác nhân cuối cùng sẽ tạo nên các luồng hàng trong mỗi ngành hàng.
Luồng hàng thể hiện sự lưu chuyển các luồng vật chất do kết quả hoạt
động kinh tế của hệ thống tác nhân khác nhau ở từng công đoạn sản xuất, chế
biến và lưu thông đến từng chủng loại sản phẩm cuối cùng.
2.1.2.6 Luồng vật chất
Luồng vật chất bao gồm nhiều tập hợp liên tiếp những sản phẩm do các
tác nhân tạo ra được lưu chuyển từ tác nhân này qua các tác nhân khác kề sau nó
trong từng luồng hàng. Trong phân tích ngành hàng, thông thường người ta chỉ
đề cập đến luồng vật chất của những sản phẩm chính.
2.2 Nội dung chủ yếu của phân tích ngành hàng
Theo các tài liệu nghiên cứu về phân tích ngành hàng trong và ngoài
nước, nội dung chủ yếu của phân tích ngành hàng gồm các vấn đề chủ yếu sau:
1. Xác định ngành hàng
2. Phân tích kết quả hoạt động của các tác nhân trong ngành hàng thông qua hệ
thống chỉ tiêu kết quả và hiệu quả kinh tế với hai nội dung là phân tích tài chính
và phân tích kinh tế.
3. Rút ra kết luận chung và những đề xuất về mặt kinh tế xã hội cho sự phát triển
của ngành hàng.
2.2.1 Xác định ngành hàng
Trong một ngành hàng, xuất phát từ điểm ban đầu là việc tạo ra một sản
phẩm nhất định trải qua quá trình gia công, chế biến và lưu thông đã tạo ra các
luồng chuyển dịch vật chất và cuối cùng chọn đã cho ra nhiều loại sản phẩm
khác nhau. Để tạo ra các luồng hàng đó cần phải có các tác nhân tham gia trong
mạch hàng với từng chức năng riêng biệt. Các tác nhân đó tạo ra các sản phẩm
khác nhau nhằm đáp ứng các yêu cầu chuyển dịch và tổng hợp các luồng hàng
đó sẽ tạo ra một ngành hàng nhất định.
11
Khoa kinh tế & PTNT
Để có thể đáp ứng được các yêu cầu phân tích ở các bước cần giải quyết
một số nội dung cụ thể sau:
* Đặt tên cho ngành hàng
Đây là việc làm đầu tiên của phân tích ngành hàng. Tuỳ theo yêu cầu
nghiên cứu mà đặt tên cho ngành hàng. Thông thường tên ngành hàng là tên của
sản phẩm chính của tác nhân đầu tiên trong ngành hàng. Ví dụ: ngành hàng lúa,
ngành hàng bông….
* Xác định hệ thống tác nhân trong ngành hàng
Đây là một việc khá quan trọng vì phân tích ngàng hàng là phân tích kết
quả và hiệu quả hoạt động của các tác nhân trong ngành hàng. Do đó yêu cầu
phải xác định đúng và đầy đủ mọi tác nhân tham gia vào ngành hàng, lựa chọn
và phân nhóm các tác nhân, sắp xếp chúng theo một trật tự hợp lý trong từng
mạch hàng, luồng hàng. Mỗi ngành hàng khác nhau trong mỗi phạm vi nghiên
cứu khác nhau sẽ bao gồm các loại tác nhân khác nhau.
* Mô tả quan hệ giữa các tác nhân
Việc mô tả các tác nhân trong ngành hàng dựa trên cơ sở chức năng hoạt
động của từng tác nhân, sản phẩm mà các tác nhân tạo ra và mối quan hệ giữa
chúng trong ngành hàng. Ngoài ra còn phải chỉ rõ được mối quan hệ mật thiết giữa
các tác nhân thông qua các luồng vật chất lưu chuyển và phương thức thanh toán.
* Lập sơ đồ ngành hàng
Đây chính là việc mô tả cấu trúc hoạt động của ngành hàng, Căn cứ vào
hệ thống các tác nhân đã được xác định, chức năng và quan hệ giữa các tác nhân
đã được mô tả để lập sơ đồ ngành hàng. Sơ đồ ngành hàng phải thể hiện được
mối quan hệ giữa các tác nhân qua các giai đoạn sản xuất, chế biến và lưu thông
cũng như các hoạt động cung cấp đầu vào và được ghi nhận với số lượng vật
chất lưu chuyển qua từng mạch hàng.
Trong sơ đồ ngành hàng, mỗi tác nhân tham gia trong ngành hàng được
biểu diễn bởi các hình chữ nhật thể hiện sự cấu thành một “lãnh thổ” kinh tế
12
Khoa kinh tế & PTNT
đóng kín bởi một “biên giới”. Mối quan hệ giữa các tác nhân với nhau thể hiện
sự lưu chuyển của các luồng vật chất qua từng mạch hàng được biểu thị bằng
các mũi tên với các ký hiệu khác nhau cho từng loại sản phẩm trung gian.
Ngay sau khi xác định được các luồng hàng thì điều quan trọng là phải
xác định được lượng vật chất trao đổi cũng như các giá trị tiền tệ mà chúng biểu
thị. Lượng vật chất và lượng giá trị đó sẽ được ghi đầy đủ ở khoảng cách giữa
các tác nhân hoặc phần bên dưới của các tác nhân trong ô hình chữ nhật. Việc
xác định lượng vật chất lưu chuyển còn dựa vào các hệ số kỹ thuật. Thông
thường có hai loại sơ đồ: Sơ đồ biểu diễn về các đại lượng vật chất và sơ đồ biểu
diễn về mặt giá trị của ngành hàng.
- Lập sơ đồ về luồng vật chất dựa trên quan hệ mô tả quan hệ giữa các tác
nhân, các hệ số kỹ thuật. Trong sơ đồ biểu diễn về các đại lượng vật chất, từng
loại sản phẩm lưu chuyển được ký hiệu bằng từng loại mũi tên khác nhau.
- Lập sơ đồ về giá trị dựa trên cơ sở sơ đồ về luồng vật chất và đơn giá
sản phẩm. Trong sơ đồ về giá trị chỉ còn một loại mũi tên ký hiệu về sự vận
hành của luồng tiền qua từng tác nhân.
Xác định ngành hàng là bước đầu tiên quan trọng của phân tích ngành
hàng. Nếu không giải quyết tốt bước này sẽ ảnh hưởng lớn đến kết quả cuối
cùng của sự phân tích ngành hàng, vì trong một chừng mực nào đó chúng quyết
định tới hình thức tổ chức của từng giai đoạn tổ chức sản xuất – kinh doanh
trong ngành hàng. Do đó để xác định ngành hàng được tốt thì ngoài việc phải
nghiên cứu để có thể hiểu sâu sắc và đầy đủ về ngành hàng, cần phải tổ chức tốt
việc thu thập số liệu và các thông tin cần thiết có liên quan trực tiếp hoặc gián
tiếp đến ngành hàng. Thiết lập được sơ đồ ngành hàng với các số liệu, thông tin
đầy đủ chính xác sẽ giúp cho việc phân tích được thực hiện, từ đó sẽ rút ra được
những kết luận và đề xuất xác đáng cho các nhà hoạch định chính sách có cơ sở
đề ra các chính sách hợp lý về chiến lược phát triển ngành hàng. Sơ đồ ngành
13
Khoa kinh tế & PTNT
hàng là bức tranh suy rộng của toàn bộ ngành hàng trong phạm vi nghiên cứu
trên cơ sở các mẫu đại diện. Từ đây cũng có thể biết được giá trị gia tăng của
toàn bộ ngành hàng.
2.2.2 Phân tích kết quả hoạt động của các tác nhân trong ngành hàng
Việc phân tích kết quả hoạt động của các tác nhân trong ngành hàng được
thực hiện thông qua hệ thống các chỉ tiêu kết quả và hiệu quả kinh tế với hai nội
dung là phân tích tài chính và phân tích kinh tế.
- Trong phân tích tài chính mọi chi phí và kết quả sản xuất chỉ được tính
cho các khoản mua vào, bán ra, không tính cho các khoản tự sản tự tiêu.
- Trong phân tích kinh tế, mọi chi phí và kết quả sản xuất đều được tính
cho tất cả các khoản mua vào, bán ra và tự sản tự tiêu.
2.2.3 Kết luận và đề xuất
Sau khi phân tích kết quả hoạt động của các tác nhân cần rút ra kết luận
và đề xuất về mặt kinh tế xã hội cho sự phát triển của ngành hàng.
2.3 Vai trò của ngành hàng đối với xóa đói giảm nghèo
2.3.1 Tạo ra khối lượng hàng hoá đa dạng phong phú phục vụ cho tiêu dùng
Phát triển chuỗi giá trị là giải pháp hết sức quan trọng nhằm huy động tối
đa các nguồn lực sẵn có ở nông thôn hay miền núi như tài nguyên thiên nhiên,
nguồn nguyên liệu phế phẩm của nông nghiệp được huy động vào quá trình sản
xuất kinh doanh, cũng như khai thác nguồn vốn trong nhân dân, cơ sở kỹ thuật
và những kỹ năng, kỹ xảo của người lao động. Trên cơ sở đó, đẩy mạnh sản xuất
nhằm tạo ra ngày càng nhiều hàng hoá chất lượng tốt, phục vụ đắc lực cho nhu
cầu tiêu dùng của người dân cũng như cho thị trường xuất khẩu hàng hóa ra
nước ngoài ngày càng phong phú hơn.
Ngày nay, sản xuất của làng nghề truyền thống phát triển theo hướng
chuyên môn hoá, đa dạng hoá sản phẩm đã làm cho các làng nghề năng động
14
Khoa kinh tế & PTNT
hơn. Trong khi chưa có điều kiện để phát triển kinh tế trang trại thì việc phát
triển chuỗi ngành hàng đẩy mạnh sản xuất những mặt hàng như nông sản, may
mặc, gốm sứ, đồ gỗ thủ công mỹ nghệ…phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất
khẩu là rất quan trọng. Điều quan trọng hơn cả là thời gian qua ở các làng nghề
truyền thống đã có hàng trăm ngàn hộ bỗng dần chuyển sang phát triển ngành
hàng hoặc vừa sản xuất nông nghiệp, vừa sản xuất kinh doanh theo chuỗi ngành
hàng. Vì thế, đã tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật và năng lực sản xuất cho
kinh tế nông thôn. Việc sản xuất trong các làng nghề truyền thống đang hướng
vào những sản phẩm kỹ thuật cao, thị trường tiêu thụ rộng khắp chứng tỏ rằng:
Sản xuất và lưu thông của hàng hoá của làng nghề truyền thống phát triển mang
tính hàng hoá tập trung khá rõ nét.
2.3.2 Giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn, miền núi
Những năm gần đây, Đảng và nhà nước đã có nhiều biện pháp để giải
quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn, miền núi như: Đẩy mạnh việc
hợp tác lao động quốc tế, đưa dân đi xây dựng vùng kinh tế mới, thâm canh tăng
vụ, phát triển chăn nuôi, phát triển thương mại dịch vụ…Những biện pháp này ít
nhiều đã có tác động tích cực giải quyết một phần công ăn việc làm cho người
lao động ở đây. Song sản xuất nông nghiệp, bản thân nó không thể có khả năng
giải quyết số lao động dư thừa ở nông thôn hiện nay. Cho nên, trong điều kiện
diện tích dất canh tác ít, nguồn vốn hạn hẹp, lao động dư thừa thì việc tìm ra
biện pháp hữu hiệu để giải quyết việc là cho người lao động là đòi hỏi cấp bách
và có ý nghĩa chính trị, xã hội to lớn hiện nay. Một trong những giải pháp có
chiến lược là phát triển chuỗi giá trị ở nông thôn với nhiều ngành đa dạng,
phong phú và có khả năng phát tiển rộng khắp trong nông thôn. Sự phát triển
của chuỗi giá trị không chỉ thu hút lao động ở gia đình, làng xã mình mà còn thu
hút được nhiều lao động từ các địa phương khác đến làm thuê. Đồng thời phát
triển chuỗi giá trị còn kéo theo nhiều nghề dịch vụ khác phát triển, tạo ra nhiều
công ăn việc làm cho người lao động. Chẳng hạn, nghề chế biến lương thực,
15
Khoa kinh tế & PTNT
thực phẩm tạo điều kiện cho chăn nuôi phát triển, ngành tái chế…tạo điều kiện
cho mạng lưới thu gom nguyên liệu, phế liệu phát triển.
2.3.3 Thúc đẩy gia tăng thu nhập, cải thiện đời sống dân cư ở miền núi và
tăng tích luỹ
Người dân ở vùng nông thôn thuộc các tỉnh miền núi có thu nhập rất thấp.
phần lớn họ là những nông dân sản xuất nông nghiệp cần mẫn để đảm bảo
nguồn cung cấp lương thực, thực phẩm cho gia đình và cho các đối tượng có
nhu cầu khác. Nhiều nông dân kiếm được thêm thu nhập khi họ bán các sản
phẩm nông nghiệp dư thừa ra thị trường tuy nhiên họ không chú trọng đến việc
sản xuất các loại cây hàng hóa cho thị trường. Do đó, việc phát triển chuỗi
ngành hàng nhằm giúp cho người nông dân cải thiện hoạt động sản xuất của
mình tạo được nguồn thu nhập ổn định và đảm bảo hơn cho gia đình.
Qua thực tế ở một số ngành hàng cho thấy, thu nhập của một lao động
tham gia ngành hàng bao giờ cũng cao hơn thu nhập của một lao động thuần
nông. Theo kết quả điều tra của Cục chế biến nông, lâm sản và ngành nghề nông
thôn năm 1997 thì thu nhập bình quân/tháng từ hoạt động ngành nghề của một
lao động thường xuyên là 430.000 đồng đối với cơ sở chuyên ngành nghề,
263.000 đồng đối với hộ chuyên và 186.000 đồng đối với hộ kiêm, bằng 1.6 –
3.9 lần so với hộ thuần nông nghiệp và bằng 1.5 – 3.5 lần so với lương tối thiếu.
Giá trị tăng lên trong năm từ hoạt động ngành nghề là 11.247.000 đồng với cơ
sở chuyên và 2.936.000 đối với hộ kiêm. Tuy khả năng tích luỹ được tách ra từ
một lao động của một hộ ngành nghề chưa lớn và rất thấp so với cơ sở chuyên
nhưng đã cao hơn rõ rệt so với các hộ thuần nông.
Có thể thấy rõ thu nhập từ các hoạt động ngành nghề nông thôn cao hơn
hẳn thu nhập của các hộ thuần nông. Thực tế này cho thấy đã có sự năng động
trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các chủ doanh nghiệp ngành nghề nông
thôn cũng như tiềm năng to lớn trong việc tạo ra thu nhập cho người lao động
trong khu vực này. Thu nhập từ các hoạt động ngành nghề phi nông nghiệp ngày
16
Khoa kinh tế & PTNT
càng đóng vai trò quan trong trong thu nhập của các hộ kiêm. Trên cơ sở tạo
công ăn việc làm và tăng thu nhập cho người lao động, ngành nghề nông thôn
được coi như là động lực làm chuyển dịch cơ cấu xã hội theo hướng tăng hộ
giàu, giảm hộ nghèo, tăng phúc lợi xã hội cho người dân.
Riêng đối với ngành hàng Thảo quả, trong những năm gần đây Thảo quả
đã được xuất khẩu ra nước ngoài với sản lượng hàng nghìn tấn mỗi năm. Thảo
quả đã trở thành nguồn thu nhập quan trọng của nhiều hộ gia đình vùng cao ở
các tỉnh Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang. Vì vậy, Thảo quả đã được đánh
giá như một yếu tố quan trọng vừa góp phần phát triển kinh tế xã hội vùng cao,
vừa góp phần bảo vệ và phát triển rừng. Với nhận thức trên, nhiều địa phương
đã có chủ trương khuyến khích người dân gây trồng Thảo quả. Diện tích Thảo
quả gây trồng ở Việt Nam hiện nay khoảng 20.000 ha mà chủ yếu tập trung ở
tỉnh Lào Cai và tỉnh Lai Châu. Thảo quả là cây giúp bà con nông dân xoá đói
giảm nghèo, theo đánh giá của người dân địa phương ngoài thu nhập từ các cây
hoa màu thì thu nhập từ Thảo quả chiếm 50%.
2.4 Đặc điểm của ngành hàng Thảo quả
Cây thảo quả là cây có vị thuốc, cây làm gia vị thường được dùng thêm vào
bánh kẹo, chè lam, bột ngũ vị, phở…Theo đông y, thảo quả có vị cay, chát, tính
ôn, chữa đau bụng, đầy trướng, chữa sốt, sốt rét tiêu thực, làm thuốc lợi tiểu giải
độc,…
Là một cây đặc sản, mặt hàng có giá trị kinh tế xuất khẩu cao được sử dụng
trong nhiều lĩnh vực, song trong công nghiệp thực phẩm – làm gia vị chiếm tỷ
trọng lớn hơn cả. Trong cuộc sống, người dân thường dùng thảo quả tươi muối
để làm thức ăn, chữa bệnh. Thảo quả khô được sử dụng như một vị thuốc để
chữa các bệnh về đường ruột, cảm lạnh…Thảo quả là một cây có giá trị kinh tế
cao, phù hợp với kinh tế vùng cao, vùng sâu vùng xa. Phát triển cây thảo quả
hợp lý, bền vững sẽ tạo điều kiện cho đồng bào dân tộc nâng cao đời sống, góp
17
Khoa kinh tế & PTNT
phần xóa đói giảm nghèo, xóa bỏ cây thuốc phiện đồng thời là yếu tố thúc đẩy
sự phát triển kinh tế xã hội vùng núi và bảo tồn phát triển tài nguyên rừng.
Với tính năng đa dạng như trên, thảo quả được khai thác và sử dụng rộng rãi
trong hàng trăm ngành của nền kinh tế quốc dân và được chia làm các nhóm sản
phẩm chính sau:
- Sản xuất gia vị
Có 40 công ty gia vị ở Hà Nội và Thành Phố Hồ Chí Minh. Hầu hết các
công ty gia vị nằm ở TP. Hồ Chí Minh nhưng lượng thảo quả sử dụng rất hạn
chế. Các công ty này sử dụng thảo quả làm gia vị cho món ăn, thực phẩm như
thảo quả muối, …
- Làm thuốc đông y
- Làm đồ uống: thảo quả có thể tạo hương thơm trong sữa, đồ uống có vị ngọt,
đồ uống có cồn.
- Các loại khác: thảo quả được sử dụng trong mỹ phẩm và nước hoa, làm sạch
không khí, chất tạo hương thơm và một số tính năng khác.
2.5 Tổng quan ngành hàng Thảo quả trên Thế Giới
Trong thương mại quốc tế, thảo quả có nhiều loại khác nhau: thảo quả
xanh hay còn gọi thảo quả nhỏ (Elettaria cardamomum) và thảo quả đen hay
còn gọi thảo quả to (Amomum cardamomum).
Thảo quả xanh và thảo quả đen là các sản phẩm khác nhau với chất lượng
và công dụng khác nhau. Hiện nay vẫn chưa rõ thảo quả đen có phải là sản phẩm
kém hơn được dùng thay thế cho thảo quả xanh hay không. Vị của hai loại thảo
quả này rất khác nhau: thảo quả xanh có vị thơm ngọt còn thảo quả đen thì có vị
cay và mùi khói. Thảo quả xanh được dùng rộng rãi hơn, nhất là ở vùng
Scandinavi và Trung Đông.
• Về sản xuất
Tổng sản lượng của cả thảo quả đen và thảo quả xanh trên Thế giới ước
đạt 48.000 MT tấn / năm, trong đó thảo quả xanh chiếm phần lớn.
18
Khoa kinh tế & PTNT
Biểu đồ 2.1: Sản lượng thảo quả đen, thảo quả xanh trên toàn thế giới
Nguồn: FS ước tính dựa trên tài liệu của Comtrade Liên hợp quốc,
Ủy ban Gia vị Ấn Độ, Phạm Thu Hương và Đào Ngọc Tiến (2007), Tiến
sĩ C.K. George; Ramesh Munankami; Bastiaan Bijl (2007)
Trong khi thảo quả xanh được trồng ở khắp nơi trên thế giới thì
thảo quả đen chỉ được trồng chủ yếu tại Châu Á. Hầu hết các nước sản
xuất thảo quả chỉ canh tác một loại thảo quả nhất định, hoặc là thảo quả
đen hoặc là thảo quả xanh. Ấn Độ là trường hợp đặc biệt bởi quốc gia này
sản xuất cả thảo quả đen và thảo quả xanh.
Guatemala và Ấn Độ là hai quốc gia sản xuất thảo quả xanh rất lớn. Mặc
dù thảo quả xanh có nguồn gốc từ Nam Á và từ trước đến nay Ấn Độ vẫn được
coi là nước sản xuất thảo quả xanh lớn nhất trên thế giới, tuy nhiên vào những
năm 1980, Guatemala đã vượt qua Ấn Độ. Cho đến nay, Guatemala là quốc gia
sản xuất nhiều thảo quả xanh nhất trên thế giới.
Tình hình cũng tương tự như vậy đối với thảo quả đen: Ấn Độ vẫn được
biết đến như là quốc gia sản xuất thảo quả đen đứng số 1 thế giới. Tuy nhiên, vị
trí quán quân này cũng đã bị Nepal giành từ tay Ấn Độ, với khoảng 39% tổng
sản lượng thảo quả đen trên thế giới. Trung Quốc cũng là nước lớn về sản xuất
thảo quả, đứng thứ 3 trên thế giới, Việt Nam đứng thứ 4 và tiếp theo là Bhutan.
• Về tiêu thụ
19
Khoa kinh tế & PTNT
Thảo quả xanh được tiêu thụ nhiều hơn thảo quả đen. Thảo quả xanh được
sử dụng phổ biến ở Trung Đông để pha cà-phê, thức uống biểu trưng cho lòng
hiếu khách trong văn hóa Ả Rập. Thảo quả xanh cũng được dùng như một loại
gia vị ở Ấn Độ, Sri Lanka và các nước Ả Rập.
Thảo quả xanh cũng được sử dụng như một vị thuốc, nhưng công dụng
này của thảo quả xanh ít thông dụng hơn so với thảo quả đen. Các công dụng
khác của thảo quả xanh bao gồm: sản xuất nước hoa và các hương liệu khác
cũng như nước súc miệng.
Các quốc gia chủ yếu tiêu thụ thảo quả xanh bao gồm:
- Các nước Trung Á: đặc biệt là Ả rập Sau-di, Jordan, Cô-oét và các tiểu vương
quốc Ả rập thống nhất;
- Các nước Nam Á: Ấn Độ, Pakistan, Bangladesh, Sri Lanka;
- Quốc gia Đông Á: Nhật Bản;
- Các nước Scandinavia;
- Hoa Kỳ.
Mặc dù rất nhiều nơi trên thế giới (như Châu Âu, Bắc Mỹ, Australia,
Châu Phi và Trung Đông) sử dụng thảo quả đen trong công nghệ thực phẩm, chế
biến thức ăn, nhưng thảo quả đen lại được tiêu thụ nhiều nhất ở khu vực châu Á.
Ở châu Á, thảo quả đen không chỉ được sử dụng trong chế biến thức ăn mà còn
được dùng như một vị thuốc cổ truyền. Có lẽ châu Á chính là nơi duy nhất mà
thảo quả đen còn được sử dụng vào mục đích khác ngoài chế biến thực phẩm.
• Về buôn bán Thảo quả trên Thế Giới
- Các nước nhập khẩu thảo quả
Trong giao dịch thương mại quốc tế, các nước sản xuất thảo quả lớn cũng
chính là các nước nhập khẩu thảo quả đen nhiều nhất. Ấn Độ và Trung Quốc là
hai quốc gia tiêu thụ thảo quả đen nhiều nhất mặc dù họ cũng chính là các nước
sản xuất thảo quả lớn nhất (đứng thứ 2 và thứ 3 trên thế giới), chỉ một phần nhỏ
nhu cầu nội địa của hai nước này được đáp ứng bằng thảo quả sản xuất trong
20
Khoa kinh tế & PTNT
nước. Nhập khẩu một số lượng lớn thảo quả khiến cho Ấn Độ và Trung Quốc
trở thành hai nước nhập khẩu thảo quả đen lớn nhất trên thế giới.
Pakistan, Bangladesh, Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất (UAE),
Afghanistan, Hàn Quốc và Nhật Bản cũng là các nước tiêu thụ nhiều thảo quả
đen mặc dù đây đều là những nước không sản xuất thảo quả và vì thế họ phụ
thuộc chủ yếu và nhập khẩu thảo quả.
Dù nhu cầu hạn chế nhưng một số nước vẫn nhập khẩu thảo quả như Anh
quốc, Hoa Kỳ, Canada, Nam Phi, Cô-oét và Australia. Dưới đây là tổng quan về các
nước tiêu thụ thảo quả đen và xuất xứ của thảo quả được các nước này nhập khẩu.
- Nepal và Ấn Độ
Nepal là quốc gia lớn nhất về xuất khẩu thảo quả đen; tuy là nước lớn
nhất sản xuất thảo quả đen nhưng tiêu thụ nội địa của nước này không đáng kể.
Thị trường xuất khẩu chủ yếu của thảo quả Nepal là Ấn Độ với trung bình hơn
4,000 tấn mỗi năm – khối lượng đã khiến cho Ấn Độ trở thành nước lớn về nhập
khẩu thảo quả đen. Các nước nhập khẩu khác bao gồm Pakistan Singapore,
UEA, Hồng Kông, Afghanistan, Bangladesh và Hoa Kỳ. Tổng khối lượng thảo
quả giao dịch với các nước này không cố định, nhưng thường dưới 1,000 tấn/
năm, trừ giai đoạn 2003-04 và 2004-05.
Ấn Độ là nước nhập khẩu lớn thảo quả đen, đặc biệt là thảo quả từ Nepal,
đồng thời cũng là nước chính xuất khẩu thảo quả đen. Ấn Độ đứng thứ 2 trên thế
giới, chỉ sau Nepal về khối lượng xuất khẩu thảo quả (trung bình trên 1,000
tấn/năm). Ấn Độ xuất khẩu thảo quả đen đi nhiều nước, như Pakistan,
Bangladesh, UAE và Anh quốc.
21
Khoa kinh tế & PTNT
Hình 2.1 : Các dạng thảo quả được buôn bán trên toàn thế giới
- Việt Nam và Trung Quốc
Giao dịch thảo quả giữa Việt Nam và Trung Quốc cũng tương tự như giữa
Nepal và Ấn Độ. Việt Nam sản xuất trung bình khoảng 2,500 tấn/ năm, trong đó
khoảng 90% xuất khẩu sang Trung Quốc. Chỉ khoảng 7% lượng thảo quả của
Việt Nam được xuất đến các nước khác như: Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan,
Hồng Kông, Canada, Nga, Hoa Kỳ…v.v, trong đó Hàn Quốc là nước mà Việt
Nam xuất khẩu nhiều nhất. Tiêu dùng thảo quả nội địa của Việt Nam rất nhỏ, chỉ
chiếm khoảng 3% tổng sản lượng thảo quả trong nước.
Trung Quốc, mặc dù đứng thứ 3 trên thế giới về sản xuất thảo quả đen,
nhập khẩu khoảng từ 2,000 – 3,000 tấn/ năm từ Việt Nam và ngoài ra còn nhập
khẩu một lượng nhỏ từ các nước khác như Singapore và Hồng Kông. Mặc dù
không có số liệu chính thức về lượng tiêu thụ nội địa của Trung Quốc so với
xuất khẩu, nhưng có thể coi hầu hết lượng thảo quả được sản xuất trong nước
của Trung Quốc và nhập khẩu từ nước ngoài đều được tiêu thụ nội địa bởi Trung
Quốc có nhu cầu rất lớn về nông sản này.
- Bhutan
Bhutan là nước nhỏ về sản xuất và tiêu thụ thảo quả, mặc dù chưa rõ
khoảng bao nhiêu phần trăm lượng thảo quả sản xuất ở Bhutan được xuất khẩu.
Thị trường xuất khẩu chính của Bhutan là Ấn Độ, nhưng gần đây đã chuyển dần
sang Bangladesh. Điều này được lý giải bởi Bangladesh chỉ áp mức thuế nhập
22
Khoa kinh tế & PTNT
khẩu 15% đối với thảo quả nhập từ Bhutan trong khi thuế suất của Ấn Độ là
30%. Không có số liệu về các nhà nhập khẩu thảo quả khác từ Bhutan, nhưng có
thể coi nước này chỉ tập trung vào các nước trong khu vực.
- Các nước tái xuất khẩu: Singapore, Hồng Kông và Đài Loan
Khi nói về các nước chính trong thương mại thảo quả thì cần phải nhắc
đến Singapore, Hồng Kông và Đài Loan. Đây là các nước / vùng lãnh thổ nhỏ và
vì thế nhu cầu tiêu thụ thảo quả cũng không nhiều, nhưng đây lại là các nước tái
xuất khẩu thảo quả đen đáng kể. Các nước này nhập khẩu thảo quả đen từ Ấn
Độ, Nepal, Việt Nam và Trung Quốc. Tuy nhiên, chúng tôi chưa tìm hiểu được
thị trường tái xuất khẩu thảo quả của Singapore và Hồng Kông, bởi vì các nước
này cũng tái xuất khẩu một lượng đáng kể thảo quả xanh và chúng tôi không
thấy có sự phân biệt thảo quả xanh và thảo quả đen trong số liệu xuất khẩu thảo
quả của các nước này.
2.6 Tổng quan ngành hàng Thảo quả ở Việt Nam
2.6.1 Tình hình xuất khẩu Thảo quả và sản phẩm Thảo quả của Việt Nam trong
thời gian qua
Tổng sản lượng thảo quả của Việt Nam ước đạt khoảng 2,500 tấn/năm,
nhưng sản lượng thực tế phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện thời tiết. Các địa bàn
trồng thảo quả chủ yếu tập trung ở các tỉnh miền núi phía Bắc như: Lào Cai, Lai
Châu, Hà Giang và Yên Bái. Ở các tỉnh này, thảo quả thường được trồng dưới
tán cây rừng tự nhiên. Chỉ có một diện tích nhỏ ở Lào Cai chuyên canh thảo quả
dưới tán rừng nhân tạo. Các tỉnh khác như Thanh Hóa ở miền Trung và Kon
Tum ở miền Nam cũng đã trồng thảo quả nhưng chưa cho thu hoạch sản phẩm.
Sơ đồ 2.1 : Các thị trường xuất khẩu ngoài Trung Quốc của thảo quả Việt Nam
23
Khoa kinh tế & PTNT
(Nguồn : Đòn bẩy để nâng cao chất lượng Thảo quả Việt Nam – SNV 2009)
Trong số các nươc xuất khẩu, Hàn Quốc và Nhật Bản không phải là bạn
hàng truyền thống nhưng lại là những thị trường đầy hứa hẹn. Mặc dù khối
24
Khoa kinh tế & PTNT
lượng thảo quả đen xuất khẩu trực tiếp sang các nước này còn hạn chế,
nhưng có thể nói phần nhiều thảo quả đen của Việt Nam được xuất khẩu sang
Hàn Quốc và Nhật Bản qua Trung Quốc. Như vậy, ngành thảo quả Việt Nam
hoàn toàn có khả năng thiết lập các các liên kết xuất khẩu trực tiếp đến các
nước này, thay vì tái xuất khẩu qua Trung Quốc. Đài Loan và Hồng Kông là
hai nước nhập khẩu thảo quả đen Việt Nam để tái xuất khẩu. Đây cũng là thị
trường xuất khẩu tiềm năng cho Việt Nam. Khối lượng thảo quả xuất khẩu của
Đài Loan ít nhất là 50 tấn/năm. Khối lượng của Hồng Kông không có số liệu
chính xác, nhưng ít hơn của Đài Loan. Người ta cũng cho rằng các công ty
thương mại của Đài Loan bán thảo quả Việt Nam cũng như thảo quả của các
nước khác dưới thương hiệu thảo quả Đài Loan. Việc này có thể khiến cho
thảo quả Việt Nam ít được ghi nhận trên thị trường toàn cầu.
Ấn Độ cũng nằm trong số các nước xuất khẩu thảo quả Việt Nam. Đơn
hàng thường có khối lượng rất nhỏ (chỉ vài trăm kg/năm) và số lượng đơn hàng
cũng ít. Thị trường Ấn Độ vẫn có nhu cầu về thảo quả Việt Nam mặc dù giá
thảo quả Ấn Độ thấp hơn giá thảo quả Việt Nam.
Nga đã từng là một thị trường truyền thống dù ở quy mô nhỏ. Thảo
quả đen được nhập khẩu từ Việt Nam chủ yếu để phục vụ cộng đồng người
Việt Nam ở đây. Tuy nhiên, khối lượng thảo quả được giao dịch đã giảm đi
đáng kể và gần như không còn.
Anh quốc có thể là một thị trường tiềm năng với nhiều cộng đồng Ấn
Độ và Pakistan đông đúc đang định cư tại nước này. Tuy nhiên, các công ty
thương mại cần phải chuẩn bị sẵn sàng để có thể cạnh tranh với các nhà xuất
khẩu Ấn Độ. Đối với các công ty Việt Nam, đây là một thị trường mới với
khối lượng giao dịch thấp hơn 1tấn/năm.
Canada cũng là một thị trường tiềm năng nhưng tương đối khắt khe.
Khối lượng giao dịch với thị trường này dưới 1 tấn/năm. Canada thường đặt
hàng với số lượng ổn định bởi họ có dự đoán cho nhu cầu tiêu dùng cả năm.
25