TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN
ĐÀO THỊ KIM BA
PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ CỦA MÔ HÌNH LÚA - TÔM CÀNG
XANH XEN CANH Ở HUYỆN HỒNG DÂN
TỈNH BẠC LIÊU
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ THỦY SẢN
2014
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN
ĐÀO THỊ KIM BA
PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ CỦA MÔ HÌNH LÚA - TÔM CÀNG
XANH XEN CANH Ở HUYỆN HỒNG DÂN
TỈNH BẠC LIÊU
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ THỦY SẢN
Cán bộ hướng dẫn
PGs. Ts DƯƠNG NHỰT LONG
Ks. PHAN HẢI ĐĂNG
2014
THÔNG TIN LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
ĐẠI HỌC, CAO HỌC VÀ NGHIÊN CỨU SINH
KHOA THỦY SẢN – TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
Tên đề tài
Bậc đào tạo
Ngành/Chuyên ngành
Năm
Sinh viên/ học viên/ NCS thực hiện (MSSV)
Số trang
Cán bộ hướng dẫn
Nguồn kinh phí
Phân tích hiệu quả của mô hình Lúa-Tôm càng xanh
xen canh ở huyện Hồng Dân tỉnh Bạc Liêu
Đại học
Kinh tế thủy sản
2014
Đào Thị Kim Ba (MSSV: 4115286)
12
PGs.Ts Dương Nhựt Long và Ks. Phan Hải Đăng
100.000 đồng
Tóm tắt
Nhằm phân tích hiệu quả kỹ thuật và tài chính của mô hình nuôi tôm càng xanh kết hợp với lúa ở vùng
nước lợ, đề tài “Phân tích hiệu quả của mô hình Lúa – Tôm càng xanh xen canh ở huyện Hồng Dân, tỉnh
Bạc Liêu” được thực hiện từ tháng 08 năm 2014 đến tháng 12 năm 2014 thông qua phỏng vấn trực tiếp 30
hộ tại huyện Hồng Dân tỉnh Bạc Liêu.
Kết quả nghiên cứu cho thấy mật độ thả giống trung bình 1,38±0,64 con/m2. Thời gian nuôi từ 5 - 11 tháng,
khối lượng tôm nuôi trung bình là 38,87±7,45 g/con, tôm đạt tỷ lệ sống từ 10 – 33,75%, năng suất tôm nuôi
ở các ruộng dao động từ 51 – 200 kg/ha/vụ. Tổng chi phí bình quân của mô hình 16,73±4,34 tr.đ/ha/vụ.
Tổng lợi nhuận thu được từ mô hình trung bình 20,28±7,16 tr.đ/ha/vụ, tỷ suất lợi nhuận trung bình là
128,94±55,84%, hiệu suất đồng vốn 2,29±0,56 lần/vụ. Lợi nhuận thu từ tôm càng xanh là 11,07±4,55
tr.đ/ha/vụ với tỷ suất lợi nhuận là 109,96±96,56%, lợi nhuận thu từ lúa 16,15±7,40 tr.đ/ha/vụ với tỷ suất
lợi nhuận trung bình là 108,83±68,70%. Trong mô hình sản xuất này có 100% số hộ nuôi đều có lợi nhuận,
không có hộ nào bị lỗ.
Từ khóa: Tôm càng xanh, Macrobrachium rosenbergii, hiệu quả kỹ thuật, hiệu quả tài chính, chi phí, lợi
nhuận.
PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ CỦA MÔ HÌNH LÚA - TÔM CÀNG XANH
XEN CANH Ở HUYỆN HỒNG DÂN TỈNH BẠC LIÊU
Đào Thị Kim Ba và Phan Hải Đăng và Dương Nhựt Long
Khoa Thủy Sản – Trường Đại học Cần Thơ
Email:
Tóm tắt
Nhằm phân tích hiệu quả kỹ thuật và tài chính của mô hình nuôi tôm càng xanh kết hợp
với lúa ở vùng nước lợ, đề tài “Phân tích hiệu quả của mô hình Lúa – Tôm càng xanh xen
canh ở huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu” được thực hiện từ tháng 08 năm 2014 đến tháng
12 năm 2014 thông qua phỏng vấn trực tiếp 30 hộ tại huyện Hồng Dân tỉnh Bạc Liêu.
Kết quả nghiên cứu cho thấy mật độ thả giống trung bình 1,38±0,64 con/m2. Thời gian
nuôi từ 5 - 11 tháng, khối lượng tôm nuôi trung bình là 38,87±7,45 g/con, tôm đạt tỷ lệ
sống từ 10 – 33,75%, năng suất tôm nuôi ở các ruộng dao động từ 51 – 200 kg/ha/vụ.
Tổng chi phí bình quân của mô hình 16,73±4,34 tr.đ/ha/vụ. Tổng lợi nhuận thu được từ
mô hình trung bình 20,28±7,16 tr.đ/ha/vụ, tỷ suất lợi nhuận trung bình là
128,94±55,84%, hiệu suất đồng vốn 2,29±0,56 lần/vụ. Lợi nhuận thu từ tôm càng xanh là
11,07±4,55 tr.đ/ha/vụ với tỷ suất lợi nhuận là 109,96±96,56%, lợi nhuận thu từ lúa
16,15±7,40 tr.đ/ha/vụ với tỷ suất lợi nhuận trung bình là 108,83±68,70%. Trong mô hình
sản xuất này có 100% số hộ nuôi đều có lợi nhuận, không có hộ nào bị lỗ.
Từ khóa: Tôm càng xanh, Macrobrachium rosenbergii, hiệu quả kỹ thuật, hiệu quả tài
chính, chi phí, lợi nhuận.
Abstract:
To analyze the effectiveness of technical and financial prawn farming with rice in
brackish water, a study on “Analysis of the effectiveness of the model intercropping
between rice - prawn in Hong Dan district, Bac Lieu province” was conducted from
January 2014 to august 2014 through direct interviews with 30 households in Hong Dan
district, Bac Lieu province.
The result showed that the average stocking density was 1,38±0,64 con/m2. Culture
period rangs from 5 – 11 month. The average weight of Macrobrachium rosenbergii was
38,87±7,45 g/ind. The survival rate was from 10 – 33,75%. The average cost of
16,73±4,34 million dongs/ha/crop. The average of benefits were 20,28±7,16 million
dongs/ha/crop, the average of the profit cost ratio was 128,94±55,84%, the effectiveness
of cost was 2,29±0,56 times/crop. The benefit of Macrobrachium rosenbergii was
11,07±4,55 million dongs/ha/crop with profit cost ratio was 109,96±96,56%, the benefit
of rice 16,15±7,40 million dongs/ha/crop with profit cost ratio was 108,83±68,70%. In
the production model there are 100% of households have no household profit loss.
1
Key words: Giant freshwater prawn, Macrobrachium rosenbergii, technical efficiency ,
financial efficiency, cost, profit.
Title: Analysis of the efficiency of the rice – prawn integrated system in Hong Dan
district, Bac Lieu province.
1 GIỚI THIỆU
1.1 Đặt vấn đề
Tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii) có kích cỡ lớn nhất trong các loài tôm
nước ngọt, phân bố ở hầu hết các thủy vực nước nội địa như sông, hồ, ruộng, đầm. Ở Việt
Nam, tôm càng xanh (TCX) tập chung chủ yếu ở các tỉnh Đồng Bằng Sông Cửu Lông
(ĐBSCL). Các mô hình nuôi tôm càng xanh phổ biến hiện nay: nuôi tôm trong ao hay
mương vườn, nuôi kết hợp hay luân canh trên ruộng lúa, nuôi đăng quầng ven sông. Tôm
– lúa là mô hình canh tác hiệu quả và mang tính bền vững ở ĐBSCL. Năm 2006, ĐBSCL
có diện tích nuôi tôm càng xanh là 9.077 ha với sản lượng khoảng 9.514 tấn (Lê Xuân
Sinh, 2008).
Huyện Hồng Dân là một huyện của tỉnh Bạc Liêu có diện tích đất nhiễm mặn khá cao tập
trung chủ yếu ở các xã Ninh Thạnh Lợi, Ninh Thạnh Lợi A, Vĩnh Lộc, Vĩnh Lộc A, Lộc
Ninh và Ninh Hòa, mô hình sản xuất chính của huyện là mô hình canh tác lúa - tôm và
giống lúa được chọn sản xuất chủ yếu là giống lúa Một Bụi Đỏ địa phương. Năm 2013,
diện tích thả nuôi tôm càng xanh ở huyện Hồng Dân là 181 ha trong đó Ninh Thạnh Lợi
A 150 ha, Ninh Thạnh Lợi 25 ha và Vĩnh Lộc 6 ha.
Mô hình nuôi lúa – tôm càng xanh xen canh đang là mô hình đem lại hiệu quả kinh tế khá
cao cho người nuôi, được xem là bước đột phá trong chuyển dịch sản xuất nông nghiệp,
giúp người dân tận dụng hết diện tích đất sẵn có trong mùa mưa. Đây là mô hình nuôi có
mức đầu tư thấp, phù hợp với khả năng của nhiều bà con ít vốn, góp phần ổn định môi
trường sinh thái cho vùng nuôi. Vì thế, đề tài “Phân tích hiệu quả của mô hình Lúa –
Tôm càng xanh xen canh ở huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu” được thực hiện.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
Phân tích hiệu quả của mô hình Lúa – Tôm càng xanh xen canh ở huyện Hồng Dân, tỉnh
Bạc Liêu làm cơ sở đề xuất các giải pháp phát triển mô hình nuôi góp phần cải thiện thu
nhập cho hộ dân ở huyện Hồng Dân tỉnh Bạc Liêu.
1.3 Nội dung nghiên cứu
Phân tích khía cạnh kỹ thuật của mô hình lúa - tôm càng xanh xen canh ở huyện
Hồng Dân tỉnh Bạc Liêu;
Phân tích hiệu quả tài chính của mô hình lúa – tôm càng xanh xen canh;
Xác định những thuận lợi và khó khăn của mô hình lúa – tôm càng xanh xen canh.
2
2 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Phương pháp thu số liệu
Số liệu thứ cấp được thu thập từ các báo cáo của Trạm Khuyến nông – Khuyến ngư, Sở
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, các nghiên cứu có liên quan tới mô hình nuôi tôm
càng xanh: tạp chí khoa học, luận văn tốt nghiệp đại học và cao học.
Số liệu sơ cấp được thu thập thông qua việc tiến hành phỏng vấn trực tiếp 30 hộ có nuôi
tôm càng xanh xen canh với lúa tại huyện Hồng Dân tỉnh Bạc Liêu bằng phiếu phỏng vấn
đã được thiết kế sẵn.
Một số nội dung chính cần thu thập:
* Thông tin về chủ nuôi: Địa chỉ, họ tên chủ hộ, tuổi, giới tính, trình độ văn hóa, số năm
kinh nghiệm nuôi thủy sản.
* Kỹ thuật: Tổng diện tích nuôi/vụ, thời gian thả giống, thời gian thu hoạch, mật độ thả,
kích cỡ con giống thả; các bệnh thường gặp; kích cỡ thu hoạch, tỉ lệ sống, tổng sản lượng
khi thu hoạch/vụ.
* Tài chính: Chi phí cố định, chi phí biến đổi, tổng doanh thu, lợi nhuận và tỉ suất lợi
nhuận.
* Thông tin khác: Thuận lợi và khó khăn trong quá trình nuôi.
2.2 Phương pháp xử lí và phân tích số liệu
Số liệu được nhập và xử lí bằng phần mềm Excel và SPSS for Windows, và sử dụng phần
mềm Microsoft Words để viết bài.
Sử dụng phương pháp thống kê mô tả: để mô tả thực trạng của mô hình nghiên cứu, phân
tích các chỉ tiêu kinh tế- kỹ thuật của mô hình nuôi (tần suất xuất hiện, giá trị trung bình
và độ lệch chuẩn, tỉ lệ phần trăm, giá trị lớn nhất, giá trị nhỏ nhất).
Các chỉ tiêu hiệu quả tài chính được tính dựa theo công thức:
- Tổng thu nhập = tổng số tiền bán sản phẩm
- Tổng chi phí = Tổng chi phí biến đổi + Tổng chi phí cố định
- Lợi nhuận = Tổng thu nhập – Tổng chi phí
- Tỉ suất lợi nhuận (%) = Tổng lợi nhuận/Tổng chi phí
- Giá thành được tính theo phương pháp hệ số
- Hiệu quả chi phí = TR/TC (lần/vụ)
3 KẾT QUẢ THẢO LUẬN
3.1 Thông tin chung về nông hộ
Từ bảng 1 cho thấy, chủ hộ của mô hình sản xuất có độ tuổi trung bình là 48±10,9 tuổi,
dao động từ 32 - 73 tuổi, trong đó có 16,7% chủ hộ là lao động có tuổi ngoài 60. Tổng số
lao động trong gia đình trung bình là 4,7±1,4 người/hộ. Trung bình có 2,3±1,5 người/hộ
tham gia mô hình. Có 30 hộ nuôi được khảo sát thì cả 30 hộ đều sử dụng lao động gia
đình trong quá trình sản xuất của mình, không thuê thêm lao động trong nuôi tôm và chỉ
thuê lao động trong cải tạo đất trồng lúa và lúc thu hoạch lúa. Kinh nghiệm sản xuất của
3
các nông hộ trung bình khoảng 4,2±1,9 năm, lâu nhất là 9 năm kinh nghiệm, ít nhất là 1
năm. Vì đây là mô hình mới được nhân rộng trong những năm gần đây nên kinh nghiệm
nuôi của nông dân còn thấp.
Bảng 1: Thông tin về tuổi, số lao động tham gia mô hình và số năm kinh nghiệm
Diễn giải
n
Trung bình Độ lệch chuẩn Nhỏ nhất Lớn nhất
Tuổi chủ hộ (tuổi)
30
48
10,9
32
73
Tổng số lao động trong gia đình
(người/hộ)
30
4,7
1,4
2
8
Số lao động trong gia đình tham
gia mô hình (người/hộ)
30
2,3
1,5
1
8
Số năm kinh nghiệm (năm)
30
4,2
1,9
1
9
Theo kết quả khảo sát, có 13,3% số hộ có trình độ học vấn cấp III. Còn lại phần lớn là cấp
I chiếm tỉ lệ 66,7% số hộ và cấp II chiếm tỉ lệ 20% số hộ nuôi. Khó khăn trong việc tiếp
cận thông tin khoa học kỹ thuật của người nuôi.
Theo khảo sát, có 50% số hộ nuôi thu thập nguồn thông tin về kỹ thuật nuôi là từ nông
dân khác, vì phần lớn các chủ hộ đều không có thời gian để tham gia các lớp tập huấn nên
tỉ lệ nguồn thông tin được thu thập từ việc tập huấn, học tập từ cán bộ kỹ thuật chỉ chiếm
26,7%. Mô hình khá mới đối với các hộ ở huyện Hồng Dân nên nguồn thông tin từ việc
đúc kết kinh nghiệm từ bản thân không cao chỉ chiếm tỉ lệ 16%, còn lại 6,7% nông dân
thu thập thông tin từ truyền thông, báo đài.
3.2 Khía cạnh kỹ thuật của mô hình nuôi
3.2.1 Thiết kết ruộng
Qua bảng 2 cho thấy diện tích mặt nước ruộng nuôi có sự chênh lệch giữa các hộ, diện
tích trung bình 2,64±1,36 ha, diện tích dao động từ 0,50 - 6,0 ha. Mực nước trên trảng cao
nhất 0,50 m, thấp nhất 0,30 m, mực nước trung bình 0,38±0,08m.
Bảng 2: Đặc điểm ruộng nuôi của các hộ khảo sát
Diễn giải
n
Trung bình Độ lệch chuẩn Nhỏ nhất Lớn nhất
Tổng diện tích mặt nước trong ruộng
nuôi (ha)
30
2,64
1,36
0,50
6,00
Mực nước trên trảng (m)
30
0,38
0,08
0,30
0,50
Mực nước mương bao (m)
30
0,83
0,20
0,50
1,50
Diện tích ao ương (ha)
15
0,12
0,09
0,04
0,30
Mực nước mương bao bình quân là 0,83±0,20 m, mực nước thấp nhất là khoảng 0,5 m,
cao nhất là 1,5 m. Kết quả này cao hơn kết quả khảo sát mô hình TCX – Lúa xen canh ở 2
tỉnh Bến Tre và Bạc Liêu của Tạ Hoàng Bảnh (2011), diện tích nuôi trung bình của nông
hộ là 1,03±0,74 ha/hộ, dao động từ 0,2 – 3,5 ha/hộ, độ sâu mực nước trên trảng là
4
0,36±0,10 m. Theo Huỳnh Thị Mộng Cầm (2012), diện tích nuôi trung bình của 5 hộ tại
xã Vĩnh Lộc A là 1,2±0,3 ha/hộ, dao động từ 0,8 – 1,5 ha/hộ. Diện tích trung bình ao
ương là 0,12±0,09 ha/hộ, diện tích lớn nhất 0,30 ha, nhỏ nhất 0,04 ha.
3.2.2 Mùa vụ
Qua kết quả điều tra cho thấy, các hộ đều thả nuôi tôm sú vào mùa khô (từ tháng 2 đến
tháng 6) vì lúc này nước mặn thích hợp cho nuôi tôm sú và đến mùa mưa thì trồng lúa (từ
tháng 6, 7 đến tháng 1,2 năm sau) thả xen tôm càng xanh. Với đặc điểm tự nhiên như vậy
rất thích hợp cho việc đẩy mạnh nuôi trồng và phát triển con tôm càng xanh ở vùng này.
Tháng 1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
Hình 1: Lịch thời vụ
Mùa mưa : Trồng lúa và tôm càng xanh
Mùa khô : Thả tôm sú
3.2.3 Cải tạo ruộng nuôi
Kết quả khảo sát cho thấy, có 96,7% số hộ có cải tạo ruộng nuôi còn lại 3,3% số hộ không
thực hiện việc cải tạo lại ruộng. Hình thức cải tạo phổ biến đó là bón vôi và sên vét. Có
56,7% số hộ nuôi có thực hiện sên vét lại mương bao trước khi thả giống còn lại 43,3%
không sên vét lại mương bao là vì có những hộ nuôi mới nuôi được 1 - 2 năm, thường thì
sau khi mô hình được thực hiện khoảng 3 - 5 năm người nuôi mới tiến hành sên vét một
lần. Có 90% số hộ nuôi có bón vôi cải tạo nền đáy trước khi cho nước vào ruộng còn lại
10% không bón vôi vì những hộ này chưa thật sự quan tâm đến mô hình chuyển đổi này.
3.2.4 Giống
Qua kết quả khảo sát cho thấy, nguồn cung cấp giống tôm càng xanh chủ yếu từ các trại
sản xuất tôm giống trong tỉnh (chiếm tỉ lệ 90% số hộ nuôi), vì giá bán tôm giống trong
tỉnh rẻ và gần nhà nên được được nhiều hộ nuôi lựa chọn. Còn lại 10% số hộ nuôi lựa
chọn mua con giống ngoài tỉnh với giá cao và xa nhà như Cần Thơ, An Giang. Hiện nay
nguồn giống chất lượng không ổn định, các hộ nuôi rất dễ mua phải nguồn giống kém
chất lượng trên thị trường.
Bảng 3: Kích cỡ con giống thả và mật độ thả giống trong mô hình lúa – tôm
Diễn giải
n
Trung bình
Độ lệch chuẩn
Nhỏ nhất
Lớn nhất
Kích cỡ giống (cm/con)
30
1,36
0,40
0,80
2,50
Mật độ thả nuôi (con/m2 )
30
1,38
0,64
0,70
3,00
Theo kết quả khảo sát cho thấy, giá bán tôm giống khá cao trung bình khoảng 200±29
đồng/con, dao động từ 160 - 280 đồng/con cao hơn so với kết quả nghiên cứu của Tạ
Hoàng Bảnh (2011), giá giống trung bình 161,09±22,34 đồng/con. Nguyên nhân giá
giống cao là do nhu cầu về giống tăng nhưng không đủ số lượng để đáp ứng dẫn đến tình
trạng thiếu giống. Bảng 3 cho thấy, kích cỡ giống tôm càng xanh trung bình 1,36±0,40
5
cm/con, dao động từ 0,80 - 2,5 cm/con. Mật độ thả nuôi trung bình 1,38±0,64 con/m2, dao
động từ 0,70 - 3,0 con/m2 gần bằng với ghi nhận của Tạ Hoàng Bảnh (2011) mô hình nuôi
tôm càng xanh xen canh trong ruộng lúa mật độ thả nuôi trung bình 1,42±0,85 con/m2.
Thấp hơn ghi nhận của Phạm Minh Truyền (2003) mật độ 2-3 con/m2 ở Trà Vinh. Huỳnh
Thị Mộng Cầm (2012), nuôi tôm càng xanh trong ruộng lúa kết hợp mật độ dao động từ
0,6 - 0,9 con/m2.
3.2.5 Chăm sóc và quản lý mô hình nuôi
(a) Thức ăn
Kết quả điều tra cho thấy có 70% số hộ trong suốt quá trình nuôi không cho ăn mà chỉ
bón phân gây màu tạo nguồn thức ăn tự nhiên cho tôm, 30% số hộ còn lại cho ăn nhưng
với số lượng rất ít chủ yếu là cá tạp và khoai mì, ốc.
(b) Thay nước
Kết quả khảo sát cho thấy, hầu hết các hộ nuôi đều không thay nước theo định kỳ, chỉ
thay nước khi quan sát thấy nước trong ruộng chuyển sang màu đậm hơn đầu vụ. Số lần
thay nước từ 1 - 6 lần/vụ tùy theo hộ, trung bình thay nước khoảng 3,37 lần/vụ, lượng
nước được thay từ 10 – 60 %/lần, trung bình 44,55 %/lần. Khi bơm nước vào ruộng,
nguồn nước được lấy trực tiếp từ sông không qua xử lý nên dễ bị địch hại xâm nhập, mầm
bệnh dễ dàng tấn công con tôm nuôi. Người dân nên có túi lọc nước khi cấp nước vào
ruộng nuôi.
(c) Bệnh
Kết quả khảo sát cho thấy, bệnh phổ biến trên tôm càng xanh là bệnh đóng rong (chiếm tỉ
lệ 50% số hộ nuôi) và bệnh đen mang (chiếm 33% số hộ) còn lại 17% số hộ là các loại
bệnh khác hoặc tôm không bị bệnh. Nguyên nhân tôm bị bệnh là do đa số các hộ ít thay
nước dẫn đến môi trường nước dơ. Biện pháp được đa số các hộ sử dụng để điều trị bệnh
là tiến hành thay nước, bón vôi, sử dụng các loại hóa chất như BKC, formol để xử lí.
3.2.6 Thu hoạch
Bảng 4: Thời gian nuôi, kích cỡ tôm thu hoạch, tỷ lệ sống và năng suất tôm nuôi
Diễn giải
n
Thời gian nuôi (tháng/vụ)
Khối lượng tôm thu hoạch (g/con)
Tỷ lệ sống (%)
Năng suất tôm càng xanh (kg/ha/vụ)
30
30
30
30
Trung
bình
6,90
38,87
25,10
120,82
Độ lệch
chuẩn
1,27
7,45
7,03
34,24
Nhỏ nhất Lớn nhất
5
25,00
10,00
51,00
11
50,00
33,75
200,00
Qua bảng 4 cho thấy, thời gian nuôi trung bình của các hộ 6,90±1,27 tháng/vụ. Khối
lượng tôm lúc thu hoạch đạt trung bình 38,87±7,45 g/con, dao động từ 25 - 50 g/con, tỷ lệ
sống trung bình đạt 25,10±7,03%, dao động từ 10,0 – 33,75%. Kết quả này cao hơn so
với kết quả của Hồ Thanh Thái (2011) sau 6 tháng nuôi tôm đạt trọng lượng từ 37,0 - 47,9
g/con, tỉ lệ sống tôm nuôi dao động từ 18,9 - 25,6%. Gần bằng với kết quả nghiên cứu của
6
Huỳnh Thị Mộng Cầm (2012), khối lượng trung bình dao động từ 30,4 ± 18,1 g/con đến
40,5±22,4 g/con, tỷ lệ sống dao động từ 16,4 – 31,7%. Lam Mỹ Lan và ctv (2008), nuôi
tôm càng xanh xen canh với trồng lúa mật độ 1 và 2 con/m2 đạt khối lượng trung bình lần
lượt là 32,5±1,7 g/con và 29,7±0,5 g/con, tỷ lệ sống lần lượt là 33,7±5,0% và 26,5±4,5%.
Khối lượng và tỷ lệ sống trung bình của tôm nuôi có sự chênh lệch giữa các hộ nguyên
nhân là do trong quá trình nuôi một số hộ do ít đầu tư thức ăn và không thường xuyên
thay nước dẫn đến tôm bị bệnh đóng rong khó phát triển, hộ đầu tư kỹ lưỡng về thức ăn
và thay nước thường xuyên tôm đạt khối lượng cao.
Năng suất bình quân tôm nuôi đạt 120,82±34,24 kg/ha/vụ, dao động từ 51,0–200
kg/ha/vụ. Năng suất này thấp hơn trong nghiên cứu của Lý Văn Khánh và Nguyễn Thanh
Phương (2005), trong mô hình nuôi kết hợp cho năng suất trung bình là 344 kg/ha đối với
thả tôm giống và 841 kg/ha đối với thả tôm bột. Thấp hơn kết quả của Phạm Minh Truyền
(2003), năng suất trung bình đạt 163 kg/ha mật độ 3 con/m2. Kết quả này cao hơn kết quả
của Huỳnh Thị Mộng Cầm (2012) cho năng suất bình quân đạt 83,2±37,5 kg/ha. Theo
Lam Mỹ Lan và ctv (2008), trong mô hình tôm càng xanh xen canh mật độ 2 con/m2 có
năng suất đạt 286±32 kg/ha. Kết quả cho thấy năng suất đạt được trong mô hình tôm càng
xanh xen canh với trồng lúa còn thấp, nguyên nhân là do đây là mô hình mới nên người
dân chưa có nhiều kinh nghiệm nuôi, quá trình cải tạo ruộng không đúng với kỹ thuật,
trong ruộng nuôi còn nhiều cá tạp.
3.3 Phân tích hiệu quả tài chính của mô hình nuôi
Bảng 5 cho thấy, tổng chi phí trung bình của mô hình là 16,73±4,34 tr.đ/ha/vụ. Chi phí cố
định chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng chi phí (4,50%), tổng chi phí cố định của mô hình là
0,72±0,46 tr.đ/ha/vụ. Chi phí biến đổi của mô hình chiếm tỷ lệ rất cao 95,5%.
Trong cơ cấu chi phí biến đổi của tôm càng xanh, chi phí con giống chiếm tỷ lệ cao nhất
46,70%. Chi phí quan trọng kế tiếp là chi phí nhiên liệu 18,67%, vì mô hình này đòi hỏi
phải thay nước thường xuyên nên chiếm tỷ lệ quan trọng trong cơ cấu chi phí. Chi phí sên
vét, bón vôi chiếm tỷ lệ lần lượt là 11,33%, 12,80%. Các khoản chi phí khác chiếm tỷ lệ
thấp như: chi phí thức ăn 4,76%, chi phí thuốc và hóa chất 3,36% và chi phí khác 2,38%.
Ở đây phần người dân nuôi tôm càng xanh chỉ là quảng canh cải tiến nên ít tốn chi phí
thức ăn và tôm ít bệnh nên ít tốn chi phí thuốc hóa chất.
Trong cơ cấu chi phí biến đổi của lúa, chi phí thu hoạch chiếm tỷ lệ cao nhất 30,54%. Các
chi phí quan trọng sau đó là chi phí phân bón, thuốc bảo vệ thực vật (BVTV), chi phí
giống, chi phi cải tạo đất và chi phí sữa chữa (máy dầu, xới, trục…) chiếm tỷ lệ tương
ứng là 21,05%, 18,09%, 16,34%, 11,65% và 2,33%.
7
Bảng 5: Tổng chi phí đầu tư trong mô hình nuôi tôm càng xanh xen canh với lúa
Diễn giải
Giá trị
Tổng chi phí (tr.đ/ha/vụ)
16,73±4,34
Chi phí cố định (tr.đ/ha/vụ)
0,72±0,46
Chi phí biến đổi (tr.đ/ha/vụ)
16,01±4,12
100
Cơ cấu chi phí biến đổi (%)
Tôm càng xanh
Chi phí sên vét (%)
11,33
Chi phí bón vôi (%)
12,80
Chi phí con giống (%)
46,70
Chi phí thức ăn (%)
4,76
Chi phí thuốc và hóa chất (%)
3,36
Chi phí nhiên liệu (%)
18,67
Chi phí khác (%)
2,38
Lúa
Chi phí cải tạo đất (%)
11,65
Chi phí lúa giống (%)
16,34
Chi phí phân bón (%)
21,05
Chi phí thuốc BVTV (%)
18,09
Chi phí thu hoạch (%)
30,54
Chi phí sữa chữa (%)
2,33
Bảng 6 cho thấy, chi phí đầu tư cho nuôi tôm càng xanh tương đối thấp dao động từ 2,75
– 17,35 tr.đ/ha/vụ, trung bình là 5,99±2,76 tr.đ/ha/vụ. Kết quả này cao hơn so với kết quả
nghiên cứu trước đó của Tạ Hoàng Bảnh (2011) có chi phí đầu tư là 5,557±2,092 tr.đ/ha.
Chi phí này thấp hơn chi phí đầu tư cho nuôi tôm càng xanh trong mô hình tôm càng xanh
– lúa của Huỳnh Thị Mộng Cầm (2012), chi phí bình quân là 16,07 ± 3,30 tr.đ/ha. Chi phí
thấp nguyên nhân là do mô hình này có kỹ thuật đơn giản nên có thể tận dụng được lao
động sẵn có của nông hộ và có nguồn thức ăn tự nhiên sãn có. Thu nhập trung bình của
tôm càng xanh nuôi trong ruộng là 18,34±6,13 tr.đ/ha/vụ, dao động 8,18 – 35,20
tr.đ/ha/vụ. Lợi nhuận từ nuôi tôm càng xanh dao động từ 0,35 – 18,10 tr.đ/ha/vụ, đạt
trung bình 11,07±3,55 tr.đ/ha/vụ. Tỷ suất lợi nhuận của tôm càng xanh đạt trung bình
109,96±96,56%.
8
Bảng 6: Hiệu quả mô hình lúa – tôm càng xanh xen canh ở Hồng Dân – Bạc Liêu
Diễn giải
n
Nhỏ nhất
Lớn nhất
Trung
bình
Độ lệch
chuẩn
Giá bán trung bình (1000đ/kg)
30
115
160
140,67
14,55
Giá thành trung bình (1000đ/kg)
30
20,65
115,67
50,75
20,04
Thu nhập (tr.đ/ha/vụ)
Tôm
càng Chi phí (tr.đ/ha/vụ)
xanh
Lợi nhuận (tr.đ/ha/vụ)
30
8,18
35,20
18,34
6,13
30
2,75
17,35
5,99
2,76
30
0,35
18,10
11,07
4,55
Tỷ suất lợi nhuận (%)
30
1,49
440,00
109,96
96,56
Hiệu quả chi phí (lần/vụ)
30
1,06
7,02
3,13
1,20
Thu nhập (tr.đ/ha/vụ)
30
13,20
50,00
27,06
9,49
Chi phí (tr.đ/ha/vụ)
30
6,50
16,33
10,02
2,85
Lúa Lợi nhuận (tr.đ/ha/vụ)
30
1,75
35,21
16,15
7,40
Tỷ suất lợi nhuận (%)
30
3,82
353,54
108,83
68,70
Hiệu quả chi phí (lần/vụ)
30
1,15
6,30
2,80
1,08
Tổng chi phí (tr.đ/ha/vụ)
30
11,52
29,62
16,73
4,34
Tổng thu nhập (tr.đ/ha/vụ)
30
20,56
53,08
37,01
7,91
30
5,57
38,28
20,28
7,16
30
37,16
258,65
128,94
55,84
30
1,37
3,59
2,29
0,56
TCX
Tổng lợi nhuận (tr.đ/ha/vụ)
– Lúa
Tỷ suất lợi nhuận (%)
Hiệu quả chi phí (lần/vụ)
Chi phí đầu tư cho trồng lúa ở các hộ bình quân 10,02±2,85 tr.đ/ha/vụ. Thu nhập lúa dao
động từ 13,20 – 50,0 tr.đ/ha/vụ, trung bình 27,06 tr.đ/ha/vụ. Lợi nhuận lúa đạt từ 1,75 –
35,21 tr.đ/ha/vụ, trung bình đạt 16,15±7,40 tr.đ/ha/vụ. Tỷ suất lợi nhuận trung bình của
lúa là 108,83±68,70%. Hiệu quả đầu tư trong sản xuất lúa đạt trung bình 2,80±1,08
lần/vụ. Kết quả này cao hơn kết quả nghiên cứu của Tạ Hoàng Bảnh (2011), chi phí trồng
lúa 5,69±1,04 tr.đ/ha, thu nhập từ cây lúa 10,45±4,10 tr.đ/ha, lợi nhuận đạt 3,80±4,66
tr.đ/ha/vụ, tỷ suất lợi nhuận 0,67. Kết quả cao hơn là vì trồng lúa là nghề truyền thống nên
người dân có nhiều kinh nghiệm trong sản xuất.
Hiệu quả mô hình tôm càng xanh – lúa khảo sát tại huyện Hồng Dân tỉnh Bạc Liêu cho
thấy, tổng chi phí bình quân của mô hình là 16,73±4,34 tr.đ/ha/vụ, dao động từ 11,52 –
29,62 tr.đ/ha/vụ. Tổng thu nhập bình quân từ 2 đối tượng lúa và tôm càng xanh trong mô
hình là 37,01 tr.đ/ha/vụ, thu nhập cao nhất 53,08 tr.đ/ha/vụ và thấp nhất là 20,56
tr.đ/ha/vụ. Tổng lợi nhuận trung bình từ mô hình đạt 20,28±7,16 tr.đ/ha/vụ, thấp nhất 5,57
tr.đ/ha/vụ và cao nhất là 38,28 tr.đ/ha/vụ. Tỷ suất lợi nhuận trung bình của mô hình lúa –
tôm càng xanh là 128,94±55,84%. Hiệu quả chi phí đạt được bình quân 2,29±0,56 lần/vụ.
9
Kết quả này cao hơn so với kết quả nghiên cứu trước đó của Tạ Hoàng Bảnh (2011), đạt
thu nhập 12,12±6,07 tr.đ/ha, lợi nhuận 6,56±5,71 tr.đ/ha và tỷ suất lợi nhuận 130%. So
sánh với kết quả của Hồ Thanh Thái (2011) tại huyện Hồng Dân lợi nhuận dao động từ
8,10 – 19,50 tr.đ/ha, tỷ suất dao động từ 74 – 146%.
Mô hình nuôi tôm càng xanh xen canh trong ruộng lúa mang lại hiệu quả đáng kể cho
người nuôi. Ngoài ra, mô hình còn giúp người dân tận dụng hết diện tích đất sẵn có trong
mùa mưa tăng thêm thu nhập trên cùng một diện tích canh tác, góp phần cải thiện làm
giảm ô nhiễm môi trường nuôi, giảm được nguy cơ lây lan dịch bệnh trên tôm. Tuy nhiên,
lợi nhuận chưa cao do vấn đề về chất lượng con giống, vì hiện nay bà con mua con giống
khắp nơi, không có nguồn gốc rõ ràng, chưa qua kiểm dịch.
3.4 Dự báo tính hiệu quả của mô hình nuôi
* Giả định các yếu tố khác không đổi: Khi giá bán tôm trung bình là 141.000 đồng/kg và
giá thành trung bình là 50.750 đồng/kg, lợi nhuận 90.250 đồng/kg:
Độ nhạy của mô hình theo giá thành:
(85.175 90.250) / 90.250
= -0,56
(55.825 50.750) / 50.750
Kết quả cho thấy: Lợi nhuận thay đổi tỷ lệ nghịch với giá thành đơn vị sản phẩm, khi giá
thành tăng 1% thì lợi nhuận giảm 0,56%. Mô hình có độ nhạy thấp với chỉ tiêu giá thành
sản phẩm, người dân nên tính toán và đầu tư hợp lý.
Độ nhạy của mô hình theo giá bán:
(76.150 90.250) / 90.250
= 1,56
(126.900 141.000) / 141.000
Kết quả cho thấy: Lợi nhuận thay đổi tỉ lệ thuận với giá bán tôm thương phẩm, khi giá
bán giảm 1% thì lợi nhuận giảm 1,56% đ/kg. Mô hình có độ nhạy cao với chỉ tiêu giá bán
thành phẩm, người dân cần chú trọng vào chất lượng sản phẩm để có giá bán cao.
Bảng 7: Dự báo tính hiệu quả của mô hình khi giá thành và giá bán tôm thay đổi
ĐVT: Đồng/kg
Lợi nhuận (90.250)
Giá
bán
Giảm 20%
Giảm 10%
Không đổi
Tăng 10%
Tăng 20%
112.800
126.900
141.000
155.100
169.200
Giảm
20%
40.600
72.200
86.300
100.400
114.500
128.600
Giảm
10%
45.675
67.125
81.225
95.325
109.425
123.525
Giá thành
Không
đổi
50.750
62.050
76.150
90.250
104.350
118.450
Tăng
10%
55.825
56.975
71.075
85.175
99.275
113.375
Tăng
20%
60.900
51.900
66.000
80.100
94.200
108.300
3.5 Những thuận lợi và khó khăn của mô hình nuôi tôm càng xanh nuôi xen canh với
lúa ở huyện Hồng Dân tỉnh Bạc Liêu
3.5.1 Thuận lợi
10
Theo kết quả điều tra cho thấy, mô hình này có nhiều thuận lợi để các hộ nông dân áp
dụng chẳng hạn như chi phí đầu tư cho mô hình này tương đối thấp (22,2%), phù hợp cho
nhiều hộ có ít vốn giúp hộ có thu nhập ổn định; giúp các hộ tận dụng được diện tích mặt
nước sẵn có (18,9%), tăng thu nhập trên cùng đơn vị canh tác; tận dụng được nguồn lao
động từ gia đình (13,3%) nên không tốn thêm chi phí thuê lao động, các hộ chỉ thuê mướn
lao động khi tiến hành thu hoạch lúa và cải tạo lại mặt ruộng; mô hình có kỹ thuật nuôi
tương đối đơn giản người nông dân dễ áp dụng (12,2%); thực hiện mô hình này giảm
được rủi ro dịch bệnh trong quá trình nuôi (10,0%) làm tăng hiệu quả kinh tế; trong điều
kiện độ mặn thấp dưới 10% nguồn thức ăn tự nhiên dồi dào, tận dụng được nguồn thức ăn
có sẵn: khoai sắn, ốc bưu vàng rất phong phú nên tôm phát triển tốt và lớn nhanh (8,9%);
tôm càng xanh dễ nuôi, nhu cầu thị trường rất ưa chuộng, đầu ra tương đối ổn định
(8,9%); điều kiện tự nhiên thích hợp cho tôm càng xanh sinh trưởng và phát triển (5,6%).
3.5.2 Khó khăn
Mô hình nuôi tôm càng xanh xen canh với trồng lúa hiện nay ở Hồng Dân, Bạc Liêu gặp
không ích khó khăn, kết quả nghiên cứu cho thấy: vấn đề về con giống là đáng lo ngại
nhất (28,9%), hiện nay giá tôm giống bản địa quá cao, số lượng cung chưa đáp ứng như
cầu người nuôi, trong khi đó nguồn tôm giống khó có thể phân biệt nguồn gốc lại giá rẻ;
nguồn nước bị nhiễn phèn nặng (26,7%) làm cho tôm nuôi chậm lớn, tỷ lệ sống không
cao; thời gian nuôi kéo dài (14,4%) đa phần hộ nuôi không đầu tư thức ăn, người nuôi ít
chủ động trong việc thay nước nên tôm dễ bị bệnh đen mang, đóng rong; nguồn nước hiện
nay bị ô nhiễm (10%) khi đưa vào mô hình nuôi thường không qua xử lý mang nhiều
mầm bệnh gây ảnh hưởng xấu đến mô hình nuôi; thời tiết cũng là một trong những nhân
tố ảnh hưởng đến hiệu quả mô hình nuôi (5,6%); vấn đề phun xịt thuốc BVTV cho lúa
làm cho tôm bị hao hụt chiếm tỷ lệ nhỏ khoảng 6,7%.
4 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
4.1 Kết luận
-
Diện tích mặt nước nuôi của mô hình tôm càng xanh xen canh với trồng lúa dao động
từ 0,50 – 1,36 ha, với mật độ thả từ 0,7 – 3 con/m2, kích cỡ giống từ 0,8 – 2,5
cm/con. Thời gian nuôi trung bình 6,9±1,27 tháng, có 30% số hộ cho tôm ăn, còn lại
70% số hộ cho tôm ăn thức ăn tự nhiên là chính. Tôm nuôi đạt trọng lượng trung bình
38,87±7,45 g/con, tỷ lệ sống trung bình 25,10±7,03%, năng suất bình quân
120,82±34,24 kg/ha/vụ.
-
Mô hình nuôi có tổng vốn đầu tư trung bình 16,73±4,34 tr.đ/ha/vụ, tổng thu nhập bình
quân 37,01±7,91 tr.đ/ha/vụ, tổng lợi nhuận từ mô hình đạt trung bình 20,28±7,16
tr.đ/ha/vụ, tỷ suất lợi nhuận từ mô hình đạt 128,94±55,84%, hiệu quả sử dụng vốn
2,29±0,56 lần/vụ. Lợi nhuận thu từ tôm càng xanh là 11,07±4,55 tr.đ/ha/vụ với tỷ suất
lợi nhuận là 109,96±96,56%,. Lợi nhuận thu từ lúa 16,15±7,40 tr.đ/ha/vụ với tỷ suất
lợi nhuận trung bình là 108,83±68,70%. Có 100% hộ nuôi thu được lợi nhuận không
có hộ nào bị lỗ.
11
-
Khó khăn lớn nhất hiện nay của mô hình nuôi tôm càng xanh xen canh với lúa là về
số lượng và chất lượng giống tôm càng xanh. Tuy nhiên mô hình cũng mang lại hiệu
quả tương đối cao cho người nuôi.
4.2 Đề xuất
-
Mô hình tôm càng xanh xen canh với trồng lúa cần được nhân rộng trong thời gian tới
để người dân tận dụng hết diện tích mặt nước sẵn có, góp phần tăng thêm thu nhập.
-
Cần tổ chức nhiều lớp tập huấn cho bà con nông dân nhằm nâng cao kỹ thuật nuôi và
kiến thức để phục vụ tốt cho việc sản xuất.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Hồ Thanh Thái, 2011. Khảo sát hiện trạng và thực nghiệm nuôi tôm càng xanh
(Macrobrachium rosenbergii) kết hợp trong ruộng lúa tại huyện Hồng Dân tỉnh
Bạc Liêu. Luận văn tốt nghiệp cao học ngành Nuôi trồng thủy sản, Đại học Cần
Thơ. 84 trang
Huỳnh Thị Mộng Cầm, 2012. Hiện trạng mô hình nuôi và thực nghiệm nuôi tôm càng
xanh (Macrobrachium rosenbergii) trong ruộng lúa kết hợp tại xã Vĩnh Lộc A,
huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu. Luận văn tốt nghiệp đại học chuyên ngành Nuôi
trồng thủy sản, Đại học Cần Thơ. 53 trang.
Lam Mỹ Lan, Dương Nhựt Long và Micha, J.C (2008). So sánh biện pháp kỹ thuật và
hiệu quả kinh tế mô hình nuôi tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii) xen
canh và luân canh với trồng lúa. Tạp chí khoa học. Đại học Cần Thơ. Quyển 2:
82-88
Lê Xuân Sinh, 2008. Mô hình kinh tế sinh học để cải thiện hiệu quả kinh tế - kỹ thuật của
trại sản xuất giống TCX (Macrobrachium rosenbergii) ở ĐBSCL. Tạp chí khoa
học 2008, 2, 143 – 156.
Lý Văn Khánh và Nguyễn Thanh Phương, 2005. So sánh hiệu quả mô hình nuôi tôm càng
xanh (Macrobrachium rosenbergii) luân canh và kết hợp với trồng lúa. Tạp chí
nghiên cứu khoa học, Đại học Cần Thơ. Số 04: 109-118.
Phạm Minh Truyền, 2003. Khảo sát các yếu tố môi trường và sinh học Tôm càng xanh
(Macrobrachium rosenbergii) trong mô hình tôm lúa ở Trà Vinh. Luận văn thạc sĩ
chuyên ngành Nuôi trồng thủy sản, Đại học Cần Thơ. 73 trang.
Tạ Hoàng Bảnh, 2011. Phân tích đặc điểm kỹ thuật và hiệu quả tài chánh của các mô hình
nuôi tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii) ở vùng nước ngọt và lợ Đồng
Bằng Sông Cửu Long. Luận văn tốt nghiệp cao học chuyên ngành Nuôi trồng thủy
sản, Đại học Cần Thơ. 89 trang.
12