Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

SỰ TIỆN ÍCH CỦA COMPUTER VÀ INTERNET

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (240.54 KB, 13 trang )

1

SỰ TIỆN ÍCH CỦA COMPUTER VÀ INTERNET.
L.m. Trần Mạnh Hùng

PHẦN DẪN NHẬP
Theo cái đà phát triển mau chóng và sự phổ biến rộng rãi của máy điện toán hiện nay.
Chúng ta đang chứng kiến trong những năm cuối của thế kỷ thứ 20 và đầu thế kỷ 21
này, sự bùng nổ toàn diện và rộng lớn chưa từng có trong lịch sử nhân loại các
phương tiện và kỹ thuật truyền thông có tính hiện đaị, quy mô và vượt qua tất cả mọi
biên giới. Do đó, hơn lúc nào hết chúng ta cần có một cái nhìn xác thực và đúng đắn
về những điểm lợi - hại trong việc sử dụng các phát minh tiến bộ của khoa học trong
ngành truyền thông mới mẻ này, ngõ hầu nâng cao trình độ dân trí của môĩ nguời
trong chúng ta, đặc biệt là trong phương diện giáo dục con em của chúng ta, và giúp
chúng biết cách tận dụng những phương tiện trên cho đúng cách, hầu đem lại lợi ích
tốt đẹp cho việc học vấn của con em chúng ta.
Theo chiều hướng đó tôi mạn phép xin được nêu lên một số vấn đề cụ thể như sau
trong phần trình bày dưới đây:
I) TẦM QUAN TRỌNG CỦA COMPUTER VÀ INTERNET1 CHO VIỆC HỌC

1

. INTERNET là m
, như đă
.
.

.
- .

".


:
.
.


2

TẬP VÀ SỰ PHÁT TRIỂN KIẾN THỨC TỔNG QUÁT ĐỐI VỚI CÁC EM.

Ngày nay, ít có ai phủ nhận sự hữu ích và tiện lợi của computer, cũng như tầm quan
trọng của nó trong mọi lãnh vực sinh hoạt của xã hội. Từ ngày có Internet, số người
sử dụng computer và Internet ngày càng gia tăng, khiến cho computer không những
trở nên thông dụng mà còn hết sức đa dụng. Người ta dùng computer để viết lách bài
vở, nghiên cứu, làm sách báo, lưu trữ hồ sơ, soạn nhạc, vẽ họa đồ kiến trúc, quảng
cáo, cung cấp các dịch vụ online... khi buồn và rãnh rỗi thì chơi games.
Nối đường dây điện thoại vào computer, connect vô Internet, người ta bắt liên lạc với
cả thế giới mà hầu như không phải tốn kém gì nhiều cho lắm. Người ta có thể gơỉ và
nhận điện thư (email) trong vòng tích tắc. Vì những ưu điểm đó, computer và Internet
trở thành phương tiện truyền thông hữu hiệu, nhanh chóng và rẻ tiền nhất hiện nay và
sẽ trở nên bá chủ trong một tương lai rất gần.
Vì những lợi ích quá lớn đó, giới truyền thông và giới thương mại đã đổ xô vào khai
thác để làm giàu. Từ đó nó trở nên nguy hiểm, nhất là cho trẻ em. Nó giống như con
dao hai lưỡi thật sắc bén, vừa hữu ích vừa nguy hiểm; nhưng dù sao đi chăng nữa,
chúng ta không thể phủ nhận sự hiện hữu của ngành điện toán trong kỹ nghệ khoa
học hôm nay.

II) NHỮNG MẶT TÍCH CỰC VÀ TIÊU CỰC CỦA COMPUTER VÀ INTERNET
TRONG VIỆC HỌC TẬP VÀ GIÁO DỤC CON EM.
A) NHỮNG MẶT TÍCH CỰC:


.
.

.
, như

.
.


3

Cách đây 20 năm, có thể nói ngành điện toán (computer) vẫn còn là một thuật ngữ rất
xa lạ đối với đại đa số trong chúng ta. Ngày nay, kiến thức về computer đã trở nên rất
phổ thông và computer đã được sử dụng rộng rãi trong hầu hết mọi lãnh vực của đời
sống của con người. Ứng dụng của computer trong nhiều lãnh vực thực sự đã mang
lại những thành quả rất lớn lao. Tuy nhiên, theo John Ward và Pat Griffiths (1996),
thì những thành quả này chỉ có được nếu hội đủ bốn điều kiện sau đây.
1) Trước hết, những người hoạch định việc ứng dụng computer phải hiểu rõ cái
lãnh vực mà mình muốn ứng dụng. Họ phải nắm vững lãnh vực nào có thể
computer hóa được, lãnh vực nào vẫn phải làm như bình thường.
2) Thứ hai, họ phải có kiến thức tối thiểu về khả năng của computer. Điều gì
computer thực sự làm được, điều gì thực ra chỉ là huyền thoại từ những quảng
cáo của các công ty điện toán, từ những lời đồn đại vô căn cứ, hoặc từ sự thiếu
hiểu biết.
3) Thứ ba, cần phải có một kế hoạch chi tiết để đề phòng những hệ quả xấu.
4) Cuối cùng, phải có sự theo dõi và điều chỉnh kịp thời những trường hợp xảy
ra ngoài dự liệu.
Việc dùng computer ở các trường trung học lại càng phải thận trọng hơn vì nó có tác
động trực tiếp và sâu rộng đến mức độ lĩnh hội của học sinh, và sự phát triển hài hòa

của các em (Valdemar, 1995).
Hiện nay, bộ giáo dục ở các tiểu bang đều có những ủy ban, hoặc những chuyên gia
chuyên lo việc soạn thảo nội dung cho bộ môn computer và kế hoạch ứng dụng
computer cho các bộ môn khác. Nhìn chung, việc đưa computer vào hệ thống giáo
dục phổ thông ở Úc đang đi theo một chiều hướng rất thận trọng. Thế nhưng, trong
phạm vi gia đình, do computer càng ngày càng rẻ, nhiều bậc cha mẹ gần như không
cân nhắc đến việc lợi - hại khi mua computer cho con em. Nhiều người do sự suy
nghĩ nông cạn cho rằng computer là một dụng cụ học tập vạn năng, hoặc do thấy
người ta có, nhà mình cũng phải có, hoặc do sốt ruột sợ con mình không bằng con
người ta nên cũng cố gắng sắm cho được computer, dù chưa có những hiểu biết tối
thiểu về computer, và không có cả thời giờ để xem con mình sử dụng computer như
thế nào.
Valdemar đã làm một cuộc thăm dò và thử nghiệm đối với 1000 học sinh người Ba


4

Tây có computer ở nhà. Kết quả có đến 56% các em chỉ dùng computer để chơi
game, 67% các em bỏ ra trên 2 giờ mỗi ngày để dùng computer vào những việc
không liên quan gì đến chuyện học, 14% các em thức rất khuya không phải để học
bài nhưng để tán dóc (chat), chuyện trò với các em khác trên Internet.
1) SO SÁNH TRUYỀN THÔNG TRÊN INTERNET VÀ CÁC PHƯƠNG TIỆN
TRUYỀN THÔNG KHÁC
Mỗi phương tiện truyền thông hiện đại đều có những ưu khuyết điểm riêng. Cái này
không thể thay cho cái khác nhưng chúng bổ túc lẫn cho nhau. Truyền thông trên
Internet cũng không tránh khỏi đinh luật này. Tuy nhiên, có thể thấy ngay lập tức
những ưu điểm rất nổi bật của việc truyền thông qua mạng lưới Internet.
Trước hết, trong khi truyền hình chỉ cho phép truyền hình ảnh, truyền thanh chỉ cho
phép truyền âm thanh và báo chí chỉ cho phép truyền văn bản, Internet cho phép cho
chúng ta truyền tất cả các loại thông tin nói trên trong cùng một lúc. Tỷ dụ, bạn có thể

trông thấy Đức Giáo Hoàng, nghe tiếng ngài lần chuỗi mân côi và nhìn thấy bản văn
ngài đang đọc để đọc theo cùng một lúc như nhau.
Truyền thông trên Internet mang tính toàn cầu. Báo chí, truyền hình truyền thanh chủ
yếu mang tính khu vực (local). Trước đây, chủ yếu chỉ có người Việt định cư ở Âu
Châu là đọc được Dân Chúa Âu Châu. Bây giờ Dân Chúa Âu Châu lên Internet,
người Việt khắp nơi trên thế giới đọc được Dân Chúa Âu Châu cách dễ dàng.
Truyền thông trên Internet có thể tiếp cận được với một số rất lớn khán, thính, độc
giả. Điều đó có được trước hết là do tính toàn cầu của Internet. Henry Edward Hardy
(1996) ước lượng mỗi ngày có từ 250,000 tới 500,000 người sử dụng InternetCác
chuyên gia ước lượng con số này phải lên đến hơn 800,000 trong năm 1997 và
1,200,000 trong năm 1998. Con số này chắc chắn đã gia tăng hiện nay và dĩ nhiên là
khác hẳn so với trước đây theo như Hardy và các chuyên gia ước tính. Thứ nữa,
giống như sách báo, tài liệu phát trên Internet có thể được duy trì trong thời gian rất
lâu. Sóng truyền hình, truyền thanh đến mắt, tai người nghe là mất ngay. Ai không
nghe, không coi kịp thì đành chịu. Mặt khác, các tài liệu trên Internet có thể được lấy
xuống (download) và truyền đi bằng các phương tiện truyền thông khác để đến với
một nhóm khán, thính, độc giả mới. Một bài viết, hay chia sẻ lấy từ Internet gần như
đã sẳn sàng để in vào một trang sách báo.
Có thể tóm tắt những thành tựu gần đây của ngành truyền thông trên Internet như sau.


5

Thứ nhất, người ta đã có thể trao đổi, chia sẻ cho nhau không chỉ là những dòng văn
bản mà còn hình ảnh, âm thanh nữa. Thứ hai, việc tìm kiếm trên mạng nhện toàn cầu
(World Wide Web =www) đã đạt đến mức cực nhanh. Trong nhiều trường hợp, tìm
một tài liệu trên mạng nhện toàn cầu còn nhanh hơn tìm một địa chỉ trong cuốn niên
giám điện thoại. Chẳng hạn, nếu bây giờ bạn muốn đọc thơ Hàn Mặc Tử, bạn có thể
đánh vào trên màn ảnh computer "Han Mac Tu", máy sẽ tìm cho bạn các tập thơ Hàn
Mặc Tử rải rác khắp nơi trong các Web site của người Việt trong nháy mắt.

2) KHẢ NĂNG THỰC SỰ CỦA COMPUTER TRONG GIÁO DỤC HỌC SINH
BẬC TRUNG HỌC
Nhìn chung, computer có bốn ứng dụng chính trong chương trình giáo dục phổ thông.
Ứng dụng thứ nhất, khởi xướng bởi Seymour Papert, là sử dụng lập trình điện toán
(computer programming) để phát triển khả năng suy luận toán học của học sinh. Theo
phương pháp Papert, học sinh dùng một ngôn ngữ lập trình (programming language)
rất đơn sơ là LOGO với các lệnh đơn giản là tiến, lùi, quay trái, quay phải để chỉ
đường cho một con logo di chuyển từ vị trí này đến vị trí khác. Phương pháp này
giúp cho học sinh làm quen với việc hoạch định các bước cần thiết theo một trình tự
hợp lý để giải quyết một vấn đề. Trình tự này thường được gọi là thuật giải
(algorithm).
Ứng dụng thứ hai của computer là chương trình hóa các môn học. Bài học, bài thực
hành và các câu hỏi ôn tập được viết thành các chương trình điện toán để học sinh tự
học. Tỷ dụ như: CD tự học tiếng Việt của Dân Chúa Úc Châu là một thí dụ điển
hình. Theo Bower (1995), 85% các nhu liệu điện toán dành cho giáo dục đang bán
trên thị trường là thuộc dạng này.
Các chương trình điện toán này thường tận dụng các kỹ thuật hiện đại về âm thanh,
mầu sắc, hình vẽ (graphics), hoạt họa (animation) ... nên rất thành công. Đối với học
sinh tiểu học, các chương trình này đặc biệt dễ thu hút các em vì hầu hết chúng được
biên soạn theo phương pháp học mà chơi, chơi mà học. Học sinh trung học cũng rất
thích các chương trình loại này vì nó có vẻ bớt trừu tượng và đỡ khô khan hơn những
bài học ở trường. Về mặt sư phạm các chương trình này nếu được biên soạn công phu
cũng giúp cho việc truyền thụ kiến thức được chính xác, nhất là những chương trình
học sinh ngữ, hay những đề tài đã được chuẩn hóa.
Tuy nhiên, các chương trình này cũng còn rất nhiều khuyết điểm. Thứ nhất, các
chương trình này không đánh giá được trình độ học sinh cách toàn diện. Để đánh giá


6


mức độ lĩnh hội của học sinh, phần lớn các chương trình dùng những câu hỏi trắc
nghiệm. Học sinh đánh vào máy, hoặc nhấn vào các nút trên màn hình để trả lời.
Chương trình không đánh giá được một bài luận văn, cũng không đọc được một bài
toán chứng minh do học sinh làm. Thứ hai, các chương trình không chẩn đoán nổi tại
sao các em mắc phải sai lầm để có những hướng dẫn thích hợp. Trả lời đúng thì máy
hoan hô, trả lời sai thì máy bảo sai, cùng lắm cho một hướng dẫn rất chung chung.
Thứ ba, học sinh cũng không thể nêu thắc mắc vì máy không thể làm những việc nó
chưa được lập trình. Thứ tư, khi trả lời, học sinh bắt buộc phải theo những ước lệ của
chương trình điện toán. Những ước lệ này được đặt ra bởi những người biên soạn
chương trình và tuỳ thuộc phần lớn vào khả năng của lập trình viên, nên đôi khi có
thể gây mâu thuẫn với những điều các em được học ở nhà trường. Thứ năm, chương
trình học thay đổi theo thời gian, theo từng quốc gia, từng tiểu bang. Hai trường trong
cùng một thành phố cũng có thể có chương trình học khác nhau. Do đó, kiến thức
trình bày trong các chương trình này không có gì bảo đảm là nằm trong phạm vi
chương trình học của các em.
Tuy còn nhiều khuyết điểm, nhưng công tâm mà nói, những chương trình này khá
thành công và một số khuyết điểm hiện nay có thể khắc phục được theo đà tiến của
kỹ thuật điện toán. Thành công của các chương trình này làm cho nhiều người, chẳng
hạn như Skinner (1989), tin rằng có thể dùng máy thay cho thầy cô giáo. Thực tế và
lý luận khẳng định rằng quan điểm đó là sai lầm. Dù có khắc phục được hết các
khuyết điểm nêu trên, máy vẫn không thể nào thay cho thầy cô giáo được. Về phương
diện luân lý, quan điểm của hệ thống giáo dục Công Giáo rất rõ ràng về vấn đề này.
Chúng ta dạy người (bao gồm huấn luyện và đào tạo), chứ không chỉ dạy hay truyền
đạt những kiến thức suông. Qua việc tiếp xúc với thầy cô giáo và bạn bè cùng lớp,
học sinh hình thành và phát triển những tình cảm, những chuẩn mực đạo đức, và
những quan hệ xã hội với người khác. Về phương diện sư phạm, máy rất cứng nhắc
không thể thay đổi theo đối tượng và tình huống cụ thể. Khi dạy trẻ, với những học
trò ngoan thầy cô nói theo cách này, với những em rắn mắt hay nghịch ngợm, họ nói
theo cách khác. Họ cũng nhìn phản ứng của trẻ mà thay đổi thái độ cho phù hợp, lúc
ôn tồn, dịu dàng, lúc nghiêm khắc, lúc giảng giải chi tiết, lúc nhấn mạnh những điểm

quan trọng, lúc chỉ lướt qua.
Theo Bower, các chương trình này chỉ thành công nếu như có sự tích cực tham gia
của phụ huynh để có sự điều chỉnh kịp thời, đặc biệt với các chương trình dành cho
học sinh tiểu học và học sinh ở những năm đầu trung học. Cuối cùng, có một điểm
quan trọng bạn cần lưu ý. Khi mua những nhu liệu điện toán loại này, bạn phải cân
nhắc cho kỹ. Bạn có thể mua nhầm một chương trình không có liên quan gì hoặc liên
quan rất ít đến chương trình con bạn đang học. Do đó, nên hỏi kỹ trước khi mua.


7

Ứng dụng thứ ba của computer là mô phỏng hóa (simulation). Thay vì quan sát hay
thực hiện những thí nghiệm thực sự trong phòng thí nghiệm hay tại hiện trường,
computer có thể được dùng để thay thế các quan sát và thí nghiệm này. Computer
cũng còn được dùng để mô phỏng những thí nghiệm mà thông thường không thể thực
hiện trong phòng thí nghiệm do khống chế bởi thời gian và phương tiện. Sự tuần hoàn
của máu trong cơ thể con người, sự di chuyển của các electron... là các thí dụ điển
hình. Các kỹ thuật hiện đại như hình ảnh, âm thanh, hoạt họa nếu được tận dụng có
thể làm cho những mô hình này trông rất giống thật.
Cuối cùng computer còn được sử dụng qua các software thông dụng như các chương
trình xử lý văn bản (word processing/ microsoft word), các bảng tính điện tử
(spreadsheet), các hệ thống quản trị dữ liệu (database) và các chương trình khác ít
thông dụng hơn như âm nhạc, vẽ kiến trúc (computer design) vẽ đồ họa
(graphics)…Trong các chương trình nói trên, có thể nói chương trình xử lý văn bản
và các bảng tính điện tư, đặc biệt đóng một vai trò quan trọng đối với học sinh các
năm cuối bậc trung học. Các chương trình xử lý văn bản giúp học sinh trình bày bài
làm cách gọn gàng đẹp đẽ và rõ ràng. Theo sự nhận xét của Trevor Kerr (1993), thì
các học sinh, hay sinh viên viết bài (assignment, report, essay, research..) bằng
computer luôn luôn có điểm trung bình cao hơn các học sinh, sinh viên viết tay. Bảng
tính điện tử giúp học sinh tính toán nhanh. Nó là dụng cụ đắc lực để giải quyết các

bài toán liên quan hàng loạt những con toán dài lê thê.
Có hai điểm bạn cần chú ý khi các em dùng các chương trình xử lý văn bản và các
bảng tính điện tử. Thứ nhất, với các em đang học tiểu học. Không nên cho các em
dùng các chương trình xử lý văn bản để kiểm tra lỗi chính tả và văn phạm. Các em
phải biết tự tra từ điển và ghi nhớ. Dùng computer, các em sẽ lười ghi nhớ và mắc
hoài lỗi chính tả (Spinner).
Thứ hai, chương trình ở các trường trung học phổ thông hầu như mang nặng tính chất
lý thuyết, vì các trường này không có chủ trương dạy nghề. Do đó, các thầy, cô giáo
chỉ dạy lướt qua các software2 coi như để minh họa cho bộ môn computer hay bộ
môn đánh máy (typing). Nói cách khác, nhà trường chỉ dạy một cách lướt qua các
chức năng chính của các software. Do đó, có nhiều chức năng của các software các
em không hề biết. Thành thử, các em không tận dụng được hết các khả năng của các
2

. P

.


8

software đó, trừ phi có ai biết chỉ thêm cho các em. Càng biết nhiều chức năng, các
em càng tiết kiệm được thời gian. Đó chính là lý do tại sao có mục Computer trên báo
Dân Chúa Úc Châu do anh Đặng Minh An phụ trách. Bạn nên xem qua và cùng lúc
hướng dẫn, khuyến khích các em đọc mục này.
B) NHỮNG MẶT TIÊU CỰC CỦA VIỆC SỬ DỤNG COMPUTER VÀ
INTERNET.
Việc dùng computer không chỉ mang lại những điều tiện lợi. Nó cũng có thể mang lại
những bất lơị và nguy hại nghiêm trọng. Tôi chỉ xin mạn phép được đề cập đến hai
nguyên nhân chủ yếu gây ra những tai hại này là computer games, và internet.

1. Computer games:
Theo Daniel Chandler (1994), computer games chiếm hơn 85% các nhu liệu điện
toán. Có thể chia các computer games thành 5 loại chính:
Arcade games: gồm những trò chơi đòi hỏi người dùng phản ứng thật nhanh;
mô hình (simulation), đòi hỏi người chơi phải có kế hoạch phân công, điều hành hoạt
động của những thành phần trong mô hình, chẳng hạn, một thành phố với xe cộ tấp
nập;
chiến lược (strategy), đòi hỏi người chơi phải tính toán đi bước nào trước, bước nào
sau;
thám hiểm (adventure), đòi hỏi người chơi phải mưu trí và phản ứng nhanh để có thể
sống sót hầu có thể thám hiểm càng sâu càng tốt;
và cuối cùng là các trò chơi mang tính giáo dục (vô cùng hiếm hoi).
Nhiều phụ huynh cho rằng computer games là vô thưởng vô phạt, chẳng qua chỉ là
trò giải trí sau những giây phút mệt nhọc. Điều này xét cho kỹ thì có lẽ không đúng
cho lắm vì:
Các loại games thuộc loại arcade và thám hiểm chiếm một tỉ lệ rất lớn (90-95%,
Thomas Malone (1992). Trong các loại games này người chơi phải bắn giết hàng
loạt. Bắn giết vô tội vạ. Bắn giết càng nhanh càng tốt. Điều này trực tiếp cổ võ những
tư tưởng bạo lực đi nghịch lại với điều răn của Thiên Chúa, tỷ dụ, điều răn thứ năm:
chớ giết người. Một khi các trẻ em quen dần với những cảnh tượng này, sử dụng bạo
lực để giải quyết các khó khăn với thầy cô giáo, và các trẻ em khác sẽ là ý tưởng đến
với chúng rất mau lẹ (Valdemar).


9

Computer games thường trình bày những điều không có thật. Trong các trò chơi,
người dùng không bị chi phối bởi các định luật vật lý. Thời gian có thể quay ngược
lại, chết mạng này còn mạng khác. Người lớn có thể phân biệt đâu là thật, đâu là giả.
Trẻ em chưa phát triển được khả năng đó. Thành thử, chúng có thể gặp những nguy

hiểm do những hiểu lầm gây ra bởi các trò chơi điện tử. Tại Anh Quốc và nước Mỹ,
một vài trẻ em dưới tuổi vị thành niên đã mang bản án giết người. Quan tòa thẩm vấn
các em, sau đó mới khám phá ra các em học được thuật giết người từ những
Computer games mà các em hay chơi.
Tò mò là đặc tính cố hữu của trẻ em. Do đó, khi đã chơi thi phải chơi cho đến giai
đoạn cuối cùng (cũng như một số anh chị em, người lớn chúng ta coi phim tập của
Hong Kong vậy). Với những games lớn gồm nhiều giai đoạn, có khi phải chơi hàng
tháng mới xong. Việc học, do đó, đâm ra bê trễ.
Về mặt y học, ngồi hàng giờ trước máy computer với những mầu sắc rực rỡ rất có hại
cho mắt các em. Nhịp tim đập nhanh hơn bình thường - khi chơi các trò chơi Arcade
games hay thám hiểm - có thể gây ra những xáo trộn về tim và hệ thần kinh.
2. Internet:
Internet là một nguồn tài nguyên vô tận. Tuy nhiên, rất ít nhà giáo dục khuyến khích
việc dùng Internet cho học sinh bậc trung học trong phạm vi gia đình vì:
Kiến thức phổ thông mang tính kinh điển, nghĩa là, thường không cần phải cập nhật
hóa từng ngày, từng tháng, từng năm. Những kiến thức ấy học sinh có thể tra cứu
bằng các phương tiện rẻ hơn nhiều. Chẳng hạn, bạn có thể mua một CD bách khoa từ
điển (encyclopedia) với giá vài chục đô la. Ngược lai, nếu nối vô mạng Internet, bạn
có thể phải trả vài trăm đô la mỗi năm chưa kể tiền điện thoại cho mỗi lần gọi. Cho
nên, trừ phi bạn đã nối sẵn vào Internet vì những mục đích khác, không nên bỏ tiền
nối vào Internet chỉ để cho con bạn học, nếu các em chưa ở vào trình độ đại học.
Lang thang trên Internet - từ chuyên môn gọi là surf - con em của các bạn có thể nhìn
thấy những hình ảnh xấu, những tuyên truyền bạo lực, thù hận chủng tộc, sự cổ võ
cho những lối sống, những tư tưởng chống lại sự giáo huấn của Giáo Hội Công Giáo.
Rất nhiều học sinh thức thâu đêm không phải để học bài nhưng để (chat) có nghĩa là:
tán dóc, nói chuyện gẫu, đấu láo với những em khác trên thế giới. Tuy nhiên, cũng
có những người sử dụng phương tiện này để tìm bạn bốn phương và có kẻ đã nên
duyên nghĩa vợ chồng, xây dựng tổ ấm gia đình vơí nhau sau khi đã vô Internet.



10

Về phương diện giáo dục, bạn nên biết qua những thông tin sau đây về Internet.
Không ai làm chủ Internet cả. Các mạng thông tin (network) trên thế giới tự nối với
nhau hình thành Internet.
Khi bạn nối vào Internet, các hình ảnh khỏa thân (nude picture) mang tính cách khêu
gợi tính dục, không tự nhiên xuất hiện trên màn hình. Tuy nhiên, nếu muốn nhìn
những hình ảnh này thì hoàn toàn không mấy khó và không gặp bất cứ một cản trở
nào. Các em thậm chí không cần mách bảo lẫn nhau vẫn có thể biết làm cách vào
những chỗ này.
Hiện nay, đã có những nhu liệu điện toán nhằm cản trở trẻ em xâm nhập vào những
chỗ không hay này. Những nhu liệu này thường được biết đến với tên chung là
Internet filter. Có nhiều nhu liệu được cho không (sử dụng miễn phí). Bạn có thể lấy
xuống và cài vào máy. Những nhu liệu này ghi nhớ địa chỉ của những Web sites
(nhằm phổ biến những hình ảnk có tính cách khêu gơị) và những từ ngữ liên quan
đến sex. Khi người sử dụng Internet muốn vào những địa chỉ này, thông thường họ
hay đánh những chữ chính (keyword) liên quan tới sex để tìm những địa chỉ,
computer sẽ từ chối. Tuy nhiên, bạn phải thường xuyên lấy xuống (download) hoặc
mua những chương trình mới, vì các Web site loại này đang mọc lên như nấm.
Ở các nước Âu Mỹ, tất cả các cố gắng hiện nay để hạn chế những hình ảnh khỏa thân,
có tích cách khêu gợi vấn đề tính dục, hơn là để phô trương vẻ đẹp tư nhiên mà
thượng đế đã ban tặng cho con người, hầu như đều thất bại dưới áp lực của nhóm
người không tốt, vì mục đích và chủ trương của họ là chỉ để kiếm tiền.
Gần đây nhất là thất bại của quốc hội và tổng thống Mỹ. Năm 1994, thượng nghị sĩ
Mỹ James Exon của tiểu bang Nebraska dựa vào tài liệu của Marty Rimm, đăng tải
trên báo Time để hô hào và đề nghị vơí chính phủ Mỹ đưa ra một dự luật kiểm soát
tất cả các hãng thông tin phát và nhận trên lãnh thổ Hoa Kỳ. Dự luật này thất bại vì
trong tài liệu của Marty Rimm có nhiều chi tiết không đúng sự thật và nhiều con số
đã được thổi phồng quá đáng với mục đích gây xúc động mạnh trong dân chúng. Tuy
nhiên, một phần trong những cố gắng của James Exon, dự luật về sự đứng đắn trong

truyền thông (Communication Decency Act), gọi tắt là CDA, để chống những hình
ảnh thiếu tính cách lành mạnh trên Internet, được lưỡng viện quốc hội và tổng thống
Mỹ ủng hộ. Ngày 14 tháng 6 năm 1995, thượng viện Mỹ thông qua CDA với 84
phiếu thuận trên 16 phiếu chống. Ngày 4 tháng 8 năm 1995 hạ viện Mỹ thông qua
CDA với đa số áp đảo 420 phiếu thuận và 4 phiếu chống. Ngày 8 tháng 2 năm 1996,
tổng thống Mỹ ký CDA theo đó những tổ chức hay cá nhân nào trên lãnh thổ Hoa Kỳ
đưa những hình ảnh dâm ô lên Internet sẽ bị phạt 250,000 đô la và có thể bị tù đến 5


11

năm. Các tổ chức chống CDA kiện lên tối cao pháp viện. Ngày 26 tháng 6 năm 1997,
tối cao pháp viện tuyên bố CDA là vi hiến vì nó vi phạm cái quyền lợi căn bản của
con người, đó là quyền tự do ngôn luận và phát biểu.
Tuyên bố của tối cao pháp viện Mỹ đã mang lại sự thất bại hoàn toàn cho dự luật về
sự đứng đắn trong truyền thông (Communication Decency Act).
Ở các nước Âu Châu và Úc Châu, một số nghị sĩ và dân biểu đã bày tỏ sự quan tâm
của họ trước những nguy hại có thể xảy đến cho tầng lớp giới trẻ, trước sự bành
trướng mỗi ngày một rộng lớn của các Web Sites chuyên quảng cáo những tư tưởng
và hình ảnh không được lành mạnh cho lắm trên mạng lưới Internet. Họ lên tiếng đòi
chính phủ điạ phương nên có những biện pháp cụ thể, nhưng tới nay chưa có một cố
gắng chính thức nào về việc này.
Ở Singapore, sau khi một nhóm học sinh trung học ở Singapore bị bắt quả tang vì đã
mang những hình ảnh khỏa thân tới trường, báo chí Singapore đã làm rùm beng. Sự
căm phẫn của dân chúng lên đến mức chính quyền phải ra một đạo luật kiểm duyệt
Internet gắt gao nhất trên thế giới.
Nhưng ngược lại, tại một vài quốc gia khác trên thế giới, đặc biệt là các nước mà
nhân quyền của con người không được tôn trọng, thì các nhà chính quyền tại đây
chụp lấy cơ hội này để cấm luôn các thông tin không có ích lợi cho chế độ của họ,
được đăng tải và phổ biến trên mạng lưới Internet.

Riêng trong phạm vi Công Giáo Việt Nam hải ngoại, VietCatholic
là một trong những trung tâm thông tin lớn nhất, trình bày
bằng Việt Ngữ và cả Anh Ngữ các tin tức Công Giáo Việt Nam ở hải ngoại cũng như
trong nước; lịch sử Công Giáo Việt Nam; những bài suy niệm dành cho thánh lễ
Chúa Nhật; chú giải Thánh Kinh; những chương trình nhằm phát huy văn hóa và
phong tục tập quán của dân tộc Việt. Mục hôn nhân-tình yêu và bảo vệ hạnh phúc gia
đình, có cả các mục dành cho giới trẻ, thánh ca Việt Nam, và các sách báo Công
Giáo.
Đây là một Web Site đáng tin cậy và có rất nhiều điều hay lẽ đẹp, phù hợp cho việc
giáo dục của con em chúng ta, đặc biệt trong lãnh vực giáo dục đức tin Công Giáo.
Nếu như bạn cảm thấy thích thú và muốn viếng thăm các trang thông tin (Web Page)
Công Giáo bằng tiếng Việt tại Hải ngoại, thì sau đây là những điạ chỉ của các Web
page đó:
NHỮNG TRANG THÔNG TIN CÔNG GIÁO BẰNG TIẾNG VIỆT TRÊN


12

MẠNG INTERNET:
Liên Hiệp Truyền Thông Công Giáo – Vietcatholic.net:
/>Tại đây quý vị có thể truy cập các trang thông tin Công Giáo khác (Catholic
Websites) qua các useful links được liệt kê tại vietcatholic.net, ví dụ: Chương trình
Việt Ngữ của Đài Vatican: hoặc Chương trình Việt Ngữ
của Đài Phát Thanh Chân Lý Á Châu (Radio Veritas Asia) tại Phi Luật Tân:
/>Hoặc các Nguyệt San Công Giáo tại:
Mỹ Châu: />Âu Châu: />Úc Châu: />Cũng như một số các websites của các giáo phận tại Việt Nam có URL (
- address to an Internet or intranet site) tại
Vietcatholic.net: />Ví dụ Hội Đồng Giám Mục Việt Nam: />Hoặc các websites thông dụng khác:
Thánh Ca Việt Nam: />Ca Trưởng: />Đồng Hành:
Người Tín Hữu: />Trang dành kính Đức Mẹ Mân Côi: />Hiện nay với Google search engine – www.google.com (tiếng Anh) hoặc bằng tiếng

Việt - - qúy vị và các bạn có thể tìm một cách dễ dàng bất
kỳ websites nào hoặc bất cứ điều gì mà qúy vị muốn tham khảo, chỉ việc đánh các
chữ chính hoặc cần thiết cho lãnh vực mà mình muốn tìm kiếm, rồi nhấn nút search
(tìm kiếm), sau đó trên màn hình sẽ hiện ra các websites có thông tin mà các bạn
muốn tìm kiếm. Qúy vị và các bạn chỉ cần lựa chọn và đọc những trang thông tin nào
có liên quan đến lãnh vực mà mình cần học hỏi hay tham khảo.


13

Chúc quý vị và các bạn thành công trong công việc giáo dục con em mình biết sử
dụng computer và internet thành thạo và phát huy những chức năng tích cực của hai
hệ thống này.

Linh mục Trần Mạnh Hùng, STD
L.J. Goody Bioethic Centre
39 Jugan Street,
Mount Hawthorn, WA 6016.
AUSTRALIA.
Email:



×