1
Câu 1: Tính tất yếu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam hiện nay:
* Khái niệm công nghiệp hoá, hiện đại hoá:
- Theo nghĩa chung, khái quát nhất, công nghiệp hoá là quá trình biến một nước có
nền kinh tế lạc hậu thành một nước có nền kinh tế công nghiệp phát triển.
- Kế thừa có chọn lọc và phát triển những tri thức của văn minh nhân loại về công
nghiệp hoá vào điều kiện lịch sử cụ thể của nước ta hiện nay, Đảng ta nêu ra quan
niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa như sau: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là
quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ
và quản lý kinh tế - xã hội, từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng
một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến
hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ, tạo
ra năng suất lao động xã hội cao.
- Quan niệm nêu trên cho thấy, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta
hiện nay phải kết hợp chặt chẽ hai nội dung công nghiệp hoá và hiện đại hoá trong
quá trình phát triển. Quá trình ấy không chỉ đơn thuần phát triển công nghiệp mà
còn phải thực hiện chuyển dịch cơ cấu trong từng nghành, từng lĩnh vực và toàn bộ
nền kinh tế quốc dân theo hướng kỹ thuật và công nghệ hiện đại. Quá trình ấy
không chỉ tuần tự trải qua các bước cơ giới hoá, tự động hoá, tin học hoá mà còn
sử dụng kết hợp kỹ thuật thủ công truyền thống với công nghệ hiện đại, tranh thủ
đi nhanh vào hiện đại ở những khâu có thể và mang tính quyết định.
* Tính tất yếu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá:
- Mỗi phương thức sản xuất xã hội nhất định có một cơ sở vật chất - kỹ thuật tương
ứng. Cơ sở vật chất - kỹ thuật của một xã hội là toàn bộ hệ thống các yếu tố vật chất
của lực lượng sản xuất xã hội, phù hợp với trình độ kỹ thuật (công nghệ) tương
ứng mà lực lượng lao động xã hội sử dụng để sản xuất ra của cải vật chất đáp ứng
nhu
cầu
xã
hội
- Chỗ dựa để xem xét sự biến đổi của cơ sở vật chất - kỹ thuật của một xã hội là sự
biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất; sự phát triển khoa học - kỹ thuật;
tính chất và trình độ của các quan hệ xã hội; đặc biệt là quan hệ sản xuất thống trị
- Nói cơ sở vật chất - kỹ thuật của một phương thức sản xuất nào đó là nói cơ sở vật
chất - kỹ thuật đó đã đạt đến một trình độ nhất định làm đặc trưng cho phương
thức
sản
xuất
đó.
- Đặc trưng của cơ sở vật chất - kỹ thuật của các phương thức sản xuất trước chủ
2
nghĩa tư bản là dựa vào công cụ thủ công, nhỏ bé, lạc hậu. Đặc trưng của cơ sở vật
chất - kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản là nền đại công nghiệp cơ khí hoá.
- Chủ nghĩa xã hội - giai đoạn thấp của phương thức sản xuất mới cao hơn chủ
nghĩa tư bản - đòi hỏi một cơ sở vật chất - kỹ thuật cao hơn trên cả hai mặt: trình
độ kỹ thuật và cơ cấu sản xuất, gắn với thành tựu của cách mạng khoa học và công
nghệ
hiện
đại.
- Do vậy, có thể hiểu, cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội là nền công
nghiệp lớn hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, có trình độ xã hội hóa cao dựa trên
trình độ khoa học và công nghệ hiện đại được hình thành một cách có kế hoạch và
thống
trị
trong
toàn
bộ
nền
kinh
tế
quốc
dân.
- Từ chủ nghĩa tư bản hay từ trước chủ nghĩa tư bản quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan,
một quy luật kinh tế mang tính phổ biến và được thực hiện thông qua công nghiệp
hóa,
hiện
đại
hóa.
- Đối với các nước quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, dù đã có công
nghiệp, có cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản tiến bộ đến đâu cũng chỉ
là những tiền đề vật chất chứ chưa phải là cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa
xã hội. Muốn có cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, các nước này phải
thực hiện quy luật nói trên bằng cách tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa về
quan hệ sản xuất, tiếp thu vận dụng và phát triển cao hơn những thành tựu khoa
học và công nghệ vào sản xuất, hình thành cơ cấu kinh tế mới xã hội chủ nghĩa có
trình độ cao và tổ chức, sắp xếp lại nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa một cách
hợp lý, hiệu quả hơn.
- Đối với các nước có nền kinh tế kém phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội như
nước ta, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội phải thực hiện từ
đầu, từ không đến có, từ gốc đến ngọn thông qua công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Mỗi bước tiến của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một bước tăng cường
cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản
xuất và góp phần hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
3
Câu 2: Những tiền đề cần thiết của công nghiệp hoá, hiện đại hoá:
Để đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay thì cần có
5 tiền đề sau:
* Tạo vốn cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm
phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật ngày một hiện đại,
đòi hỏi phải có nhiều vốn trong và ngoài nước, trong đó nguồn vốn trong nước là
quyết định, nguồn vốn bên ngoài là quan trọng.
- Tích luỹ vốn từ nội bộ nền kinh tế được thực hiện trên cơ sở hiệu quả sản xuất,
nguồn của nó là lao động thặng dư của người lao động thuộc tất cả các thành phần
kinh tế. Con đường cơ bản để giải quyết vấn đề tích luỹ vốn trong nước là tăng
năng suất lao động xã hội trên cơ sở ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, hợp
lý hoá sản xuất, thực hiện tiết kiệm....
- Nguồn vốn bên ngoài được huy động từ các nước trên thế giới dưới nhiều hình
thức khác nhau: vốn viện trợ của các nước, các tổ chức kinh tế - xã hội, vốn vay
ngắn hạn, dài hạn với các mức lãi suất khác nhau của các nước và các tổ chức kinh
tế, vốn đầu tư của nước ngoài vào hoạt động sản xuất kinh doanh.... Biện pháp cơ
bản để tận dụng, thu hút vốn bên ngoài là đẩy mạnh mở rộng các hình thức hợp tác
quốc tế, tạo môi trường đầu tư thuận lợi cho các nhà sản xuất kinh doanh nước
ngoài, tranh thủ mọi sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế, vay vốn ở các nước...
* Đào tạo nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá:
-Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự nghiệp cách mạng của quần chúng,
trong đó lực lượng cán bộ khoa học và công nghệ, khoa học quản lý và công nhân
lành nghề đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Trong quá trình phát triển công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đòi hỏi phải có đầy đủ nguồn nhân lực về số lượng, đảm bảo về
chất lượng và có trình độ cao. Để đáp ứng đòi hỏi đó phải coi trọng con người và
đặt con người vào vị trí trung tâm của sự phát triển kinh tế. Phải coi việc đầu tư
cho giáo dục đào tạo là một trong những hướng chính của đầu tư phát triển, giáo
dục và đào tạo phải thực sự trở thành quốc sách hàng đầu.
* Xây dựng tiềm lực khoa học, công nghệ theo yêu cầu của công nghiệp hoá, hiện
đại hoá: Khoa học và công nghệ được xác định là động lực của công nghiệp hoá,
hiện đại hoá. Khoa học và công nghệ có vai trò quyết định lợi thế cạnh tranh và tốc
độ phát triển kinh tế nói chung, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nói riêng. Tiềm lực
khoa học và công nghệ suy cho cùng là tiềm lực trí tuệ và sáng tạo của cả dân tộc.
-Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế kém phát triển nên tiềm
lực về khoa học và công nghệ còn yếu kém. Muốn tiến hành công nghiệp hoá, hiện
đại hoá thành công với tốc độ nhanh thì phải xây dựng một tiềm lực khoa học và
công nghệ thích ứng với đòi hỏi của nhiệm vụ. Đây là một công việc rất khó khăn và
lâu dài, nhưng trước mắt chúng ta cần tập trung giải quyết các vấn đề sau:
+ Vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
để xây dựng cơ sở khoa học cho việc hoạch định và triển khai đường lối, chủ trương
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đạt hiệu quả cao với tốc độ nhanh.
+ Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học để đánh giá chính xác tài nguyên
quốc gia, nắm bắt các công nghệ cao cùng những thành tựu mới về khoa học của
thế giới, hướng mạnh vào việc nâng cao năng suất lao động, đổi mới sản phẩm,
nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường.
4
+ Xây dựng tiềm lực nhằm phát triển một nền khoa học tiên tiến, bao gồm: đẩy
mạnh các hình thức đào tạo và sử dụng cán bộ khoa học, chuyên gia; tăng cường cơ
sở vật chất kỹ thuật cho các nghành khoa học và công nghệ; xây dựng và thực hiện
tốt cơ chế, chính sách tạo động lực cho sự phát triển khoa học và công nghệ; đẩy
mạnh hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học và công nghệ.
- Nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động khoa học công nghệ bao gồm phát triển
khoa học xã hội; phát triển khoa học tự nhiên và khoa học công nghệ; đổi mới cơ
chế quản lý khoa học và công nghệ.
* Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại: Ngày nay cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ với xu hướng toàn cầu hoá kinh tế đang tạo ra mối liên hệ và sự phụ thuộc lẫn
nhau giữa các nền kinh tế của các nước. Do đó việc mở rộng quan hệ kinh tế giữa
nước ta với các nước khác trở thành một tất yếu, tạo ra khả năng và điều kiện để
các nước chậm phát triển tranh thủ vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm tổ chức quản lý... để
đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Quan hệ kinh tế đối ngoại càng
mở rộng và có hiệu quả bao nhiêu, thì sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá càng
thuận lợi và nhanh chóng bấy nhiêu.
* Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước: Đây là tiền đề
quyết định thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nước ta. Công
cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta nên nó là một cuộc đấu tranh gian khổ,
phức tạp. Dĩ nhiên công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự nghiệp của toàn dân, thế
nhưng sự nghiệp đó phải do một Đảng Cộng sản tiên phong, dày dạn kinh nghiệm
từ đổi mới không ngừng lãnh đạo và một Nhà nước của dân, do dân và vì dân,
trong sạch, vững mạnh và có hiệu lực quản lý, thì công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước mới có thể hoàn thành tốt đẹp.
Vậy để có được các tiền đề đã nêu ở trên thì cần phải có các giải pháp sau:
- Do hiện nay nguồn vốn trong nước ở nước ta còn hạn hẹp nên ta phải tận dụng,
khai thác nguồn vốn từ bên ngoài, đồng thời phải kết hợp chặt chẽ với quản lý sử
dụng tốt, có hiệu quả cao và khai thác tối đa khả năng vốn đã có.
- Phải có quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên nguồn nhân lực,
đảm bảo cơ cấu, tốc độ và quy mô phát triển hợp lý, đáp ứng yêu cầu của mỗi thời
kỳ trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đồng thời bố trí, sử dụng tốt
nguồn nhân lực đã được đào tạo, phải phát huy đầy đủ khả năng, sở trường và
nhiệt tình lao động sáng tạo của mỗi người để họ tạo ra năng suất, chất lượng và
hiệu quả kinh tế cao, đónh góp xứng đáng vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước.
-Để mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại thì chúng ta cần phải xây dựng một đương
lối kinh tế đối ngoại đúng đắn vừa đạt hiệu quả kinh tế cao, kết hợp được sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại, vừa giữ vững được độc lập, chủ quyền dân tộc, xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
5
Câu 3:
Thời kỳ quá độ ở nước ta có nhiều hình thức phân phối: phân phối theo lao động;
phân phối theo vốn, theo giá cả sức lao động, phân phối thông qua phúc lợi tập thể,
phúc lợi xã hội.
Tạo ra sự đa dạng về hình thức trong quan hệ phân phối thu nhập là do các nguyên
nhân chủ yếu sau:
- Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiều thành phần. Mỗi thành phần kinh tế là
một kiểu quan hệ kinh tế dựa trên cơ sở một hình thức sở hữu nhất định, mà nước
ta tồn tại nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, trong báo cáo chính trị tại đại
hội lần thứ IX, Đảng ta xác định nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt
Nam có nhiều hình thức sở hữu, trong đó có ba hình thức sở hữu cơ bản là sở hữu
toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân, tương ứng với mỗi hình thức sở hữu
nhất định sẽ có một hình thức phân phối nhất định. Mặc dù các hình thức sở hữu,
các thành phần kinh tế nước ta không tồn tại biệt lập mà chúnh đan xen vào nhau
và hợp thành một cơ cấu kinh tế thống nhất, song khi chúng còn tồn tại nhiều hình
thức sở hữu nhiều thành phần kinh tế khác nhau thì sẽ còn tồn tại nhiều hình thức
phân phối thu nhập khác nhau.
- Trong nền kinh tế nước ta còn tồn tại nhiều hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh
khác nhau. Trong nền kinh tế có nhiều chủ thể sản xuất, kinh doanh thuộc nhiều
thành phần kinh tế tham gia. Các thành phần kinh tế có hình thức tổ chức sản xuất
kinh doanh khác nhau. Ngay trong mỗi thành phần kinh tế cũng có thể có các loại
hình tổ chức sản xuất kinh doanh khác nhau, do đó tồn tại nhiều hình thức phân
phối thu nhập khác nhau.
- Trong điều kiện nền kinh tế thị trường các chủ thể sản xuất kinh tế có sự khác
nhau về sở hữu của cải, tiền vốn, trình độ chuyên môn, tay nghề, năng lực sở trường
do đó khác nhau về thu nhập.
- Lực lượng sản xuất ở nước ta còn kém phát triển, do đó để huy động tối đa mọi
nguồn lực vào phát triển sản xuất, tạo thêm công ăn việc làm, làm tăng của cải cho
xã hội, cũng phải thực hiện nhiều hình thức phân phối khác nhau tương ứng với sự
đóng góp các nguồn lực đó.
- Nước ta đang trong thời kỳ hình thành và phát triển kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, do đó quan hệ phân phối cũng phải là sự kết hợp các hình
thức phân phối của cơ chế thị trường, với các hình thức phân phối của chủ nghĩa xã
hội.
6
Câu 4:
-Kinh tế đối ngoại là tổng thể các quan hệ kinh tế, khoa học, kỹ thuật, công nghệ của
một quốc gia nhất định với các quốc gia khác hoặc với các tổ chức kinh tế khu vực
và quốc tế, được thực hiện dưới nhiều hình thức, hình thành và phát triển trên cơ
sở phát triển của lực lượng sản xuất và phân công, hợp tác quốc tế ngày càng sâu
rộng.
- Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại đã và đang là xu hướng tất yếu vơi hầu hết các
nước. Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại bắt nguồn từ yêu cầu của quy luật về sự
phân công và hợp tác quốc tế giữa các nước từ sự phân bố tài nguyên thiên nhiên
và sự phát triển không đều về kinh tế kỹ thuật giữa các nước. trong mấy chục năm
gần đây sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học - công nghệ và tác động
của nó đã khiến cho việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại trở nên cấp thiết hơn
bao giờ hết đối với tất cả các quốc gia. Cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại
đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế.
- Cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đẩy nhanh sự phát triển của lực lượng
sản xuất, làm cho lực lượng sản xuất vượt khỏi khuôn khổ quốc gia để trở thành
lực lượng sản xuất mang tính quốc tế và đẩy nhanh quá trình hình thành nền kinh
tế thế giới như một chỉnh thể có nhiều quốc gia tham gia, vừa hợp tác vừa đấu
tranh với nhau, hình thành thị trường quốc tế với giá cả quốc tế chi phối mọi hoạt
động buôn bác quốc tế. Điều đó ảnh hưởng sâu sắc và trực tiếp đến hoạt động kinh
tế của mỗi quốc gia.
- Mặt khác cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại dẫn tới sự phát triển mạng
mẽ của các phương tiện thông tin liên lạc và phương tiện giao thông, vận tải. Chính
các phương tiện này đã làm rút ngắn khoảng cách và thời gian đi lại, thu nhận và
xử lý thông tin giữa các nước, các khu vực và trên toàn thế giới nhanh chóng và
thuận tiện, làm cho quá trình giao lưu, liên kết, phân công và hợp tác quốc té phát
triển nhanh chóng cả về chiều rộng và chiều sâu.
- Sự phân công và hợp tác quốc tế giữa các nước, các khu vực ngày càng phát triển.
Hiện nay có nhiều sản phẩm quan trọng được đăng ký ở một nước nhưng tham gia
chế tạo nó có hàng trăn công ty của hàng chục nước.
- Sự phụ thuộc lẫn nhau về mặt kinh tế giữa các nước ngày càng tăng. Sự chuyên
môn hoá, hợp tác hoá sản xuất làm cho các nước phụ thuộc vapfnhau ngày càng
chặt chẽ về nhiều mặt như: nguyên liệu, kỹ thuật, công nghệ, vốn đầu tư, lao động...
Trong đó mỗi nước đều có những lợi thế riêng và đều tìm cách khai thác tối đa cả
lợi thế tuyệt đối và lợi thế so sánh của mình. Có thể nói thị trường của nền kinh tế
thế giới vừa là đầu vào vừa là đầu ra đối với hoạt động kinh tế của mỗi nước. Điều
đó làm cho các nước vừa phụ thuộc vào nhau, vừa lợi dụng lẫn nhau để phát huy
thế mạnh đồng thời khắc phục thế yếu của mình, sản xuất những sản phẩm của
mình có ưu thế để bán và mua các sản phẩm không sản xuất được.
- Sự hình thành kết cấu hạ tầng sản xuất quốc tế và chi phí sản xuất quốc tế.
Hệ thống giao thông quốc tế gồm có: đường biển, đường sông, đường sắt, đường ô
tô và hàng không. Hiện nay mỗi dạng phương tiện đều có những tiêu chuẩn và điều
kiện hoạt động khác nhau. Các tiêu chuẩn đó đã và đang được quốc tế hoá, đồng
thời mạng lưới thông tin, liên lạc hiện đại cũng được quốc tế hoá.
7
Quốc tế hoá đời sống kinh tế còn biểu hiện ở sự hình thành chi phí sản xuất quốc
tế, giá cả quốc tế. Các nước sản xuất ra cùng một loại hàng hoá sẽ có chi phí sản
xuất khác nhau. Dựa vào chi phí sản xuất quốc tế, các nước tìm cách khai thác các
thế mạnh của mình để đạt hiệu quả kinh tế cao trong quan hệ kinh tế quốc tế. Điều
đó lại thúc đẩy quá trình chuyên môn há và hợp tác quốc tế sẽ phát triển.
Như vậy khu vực hoá, quốc tế hoá dời sống kinh tế là một tất yếu khách quan, nó
đòi hỏi các quốc gia phải tăng cường mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại nhằm khai
thác có hiệu quả các nguồn lực quốc tế và trong nước. Đối với nước ta mở rộng
quan hệ kinh tế đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế không nằm ngoài
tính quy luật và mục đích nói trên.
Sự tác động của cách mạng khoa học và công nghệ cùng với sự phát triển của
các công ty xuyên quốc gia và vai trò ngày càng tăng của các định chế kinh tế - tài
chính toàn cầu và khu vực đã thúc đẩy quốc tế hoá đời sống kinh tế phát triển đến
giai đoạn cao - toàn cầu hoá kinh tế. Toàn cầu hoá kinh tế là xu thế khách quan của
thời đại, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia. Hội nhập kinh tế quốc tế đang
phát triển nhanh chóng, gia tăng mạnh mẽ quy mô và phạm vi giao dịch hàng hoá,
dịch vụ, vốn, công nghệ, kỹ thuật. Hội nhập kinh tế quốc tế tạo khả năng để mở rộng
thị trường, thu hút vốn, công nghệ, đồng thời đặt ra thách thức mới về nguy cơ tụt
hậu ngày càng xa của các nước kém phát triển và sự cạnh tranh quốc tế rất gay
gắt. Hội nhập kinh tế quốc tế khiến cho không một nền kinh tế nào có thể phát triển
một cách biệt lập, vì nếu biệt lập thì sẽ lạc hậu về kinh tế, xã hội... Đồng thời cộng
đồng quốc tế đứng trước nhiều vấn đề kinh tế, xã hội có tính toàn cầu mà không
một nước riêng lẻ nào có thể giải quyết được mà không cần có sự hợp tác đa
phương.
Như vậy toàn cầu hoá kinh tế càng khẳng định tính tất yếu khách quan của mở
rộng quan hệ kinh tế đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế.
Công nghiệp hóa hiện đại - bước chuyển quan trọng đưa nước ta sớm trở
thành nước công nghiệp
20:40' 23/2/2015
TCCS - Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng là bước ngoặt có tính
lịch sử quan trọng, đột phá về đổi mới tư duy, trong đó có việc tiến hành
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta. Từ đó đến nay, Đảng ta tiếp tục
không ngừng đổi mới tư duy nhận thức về công nghiệp hóa, hiện đại hóa để
ngày càng phù hợp với tình hình thực tiễn trong nước và quốc tế.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam: Một số vấn đề đặt ra
Sau gần 30 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng. Từ
một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu với 90% dân số làm nghề nông, đến nay đã xây
dựng được cơ sở vật chất kỹ thuật, hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước đáp ứng
được cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) và chuyển toàn bộ
mọi hoạt động của nền kinh tế nông nghiệp tự cung tự cấp sang nền kinh tế có tư
8
duy công nghiệp. Quy mô của nền kinh tế tăng nhanh, thu nhập đầu người vượt
khỏi ngưỡng thu nhập thấp, đưa Việt Nam thoát khỏi tình trạng kém phát triển, trở
thành nước có mức thu nhập trung bình. Kinh tế Việt Nam từng bước hội nhập sâu
vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Những thành tựu của quá trình CNH, HĐH đưa
đất nước ngày càng phát triển, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân
và
góp
phần
bảo
đảm
an
ninh,
quốc
phòng.
Những năm qua, quá trình cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng
trưởng bước đầu đạt được một số kết quả nhất định. Hội nhập quốc tế ngày càng
sâu rộng và hiệu quả đã đem lại nhiều nguồn lực bên ngoài cho công cuộc CNH,
HĐH của nước ta. Đồng thời, làm cho hệ thống chính sách, pháp luật, thể chế và quá
trình thực thi có bước tiến quan trọng và ngày càng hiệu quả. Với những thành quả
đạt được đã tạo ra cho nước ta thế và lực lớn hơn nhiều so với trước. Vị thế của
Việt Nam trên trường quốc tế được nâng lên. Đây chính là những tiền đề quan
trọng để đẩy nhanh hơn tiến trình CNH, HĐH của đất nước, đưa nước ta sớm trở
thành
một
nước
công
nghiệp.
Tuy nhiên, đất nước còn đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen lẫn nhau, tác
động tổng hợp và diễn biến phức tạp. Tốc độ tăng trưởng kinh tế trong những năm
gần đây đã bị suy giảm, cho thấy mô hình CNH, HĐH của nước ta có những điểm
không còn phù hợp; CNH, HĐH phát triển chưa bền vững, chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo hướng CNH, HĐH đang chững lại; hiệu quả sử dụng nguồn lực còn nhiều
hạn chế, chất lượng nguồn nhân lực thấp so với yêu cầu; một số vấn đề xã hội phát
sinh chậm được giải quyết. Trong khi đó, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tệ quan liêu,
tham nhũng, lãng phí vẫn nghiêm trọng, làm giảm sút niềm tin của nhân dân đối
với Đảng và Nhà nước. Môi trường ở nhiều nơi đang bị ô nhiễm, tài nguyên, đất đai
chưa được quản lý tốt. Các thế lực thù địch tiếp tục thực hiện âm mưu “diễn biến
hòa bình”, bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”, hòng làm
thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. Tất cả những vấn đề đó ảnh hưởng không nhỏ
tới
công
cuộc
CNH,
HĐH
đất
nước.
Ngoài ra, đang có sự lệch pha giữa nhận thức về lý luận và thực tiễn bởi một thực
tế là các nghị quyết thường bao hàm quá nhiều nội dung nhưng lại thiếu những
giải pháp có tính khả thi và cụ thể, nên dẫn tới tình trạng đầu tư dàn trải, kém hiệu
quả; các định hướng CNH, HĐH trong từng thời kỳ chưa có trọng tâm, trọng điểm;
giải pháp thiếu đồng bộ, nhất là trong mối quan hệ hoàn thiện thể chế, xây dựng
chính sách đi đôi với giải pháp, cân đối các nguồn lực. Mô hình CNH, HĐH còn có sự
thiên lệch về cơ cấu ngành; dựa nhiều vào khai thác và bán tài nguyên, phát triển
theo chiều rộng, sử dụng nhiều vốn hơn là sử dụng lao động và công nghệ cao nên
đã gây nên một số hạn chế trong quá trình phát triển, khiến tiến trình đẩy mạnh
CNH, HĐH diễn ra chậm, ngày càng bộc lộ những hạn chế, chưa đáp ứng được yêu
cầu của đổi mới, nhiều vấn đề đặt ra cần phải nghiêm túc xem xét để giải quyết. Cụ
thể
như
sau:
9
Về
các
vấn
đề
lý
luận
- Mô hình CNH, HĐH của Việt Nam còn đang ở dạng khái niệm, chưa được cụ thể
hóa thành những tiêu chí cụ thể của một nước công nghiệp.
- Các khái niệm về công nghiệp phụ trợ chưa được xác định đúng theo nghĩa nội
hàm của nó, theo đó việc xây dựng các chính sách chưa sát với những yêu cầu phát
triển
trong
nước
và
hội
nhập
quốc
tế.
- Tư duy CNH, HĐH theo yêu cầu “rút ngắn” cũng chưa làm rõ được những nội dung
cơ bản và động lực để thực hiện quá trình CNH, HĐH rút ngắn.
- Cần làm rõ nội hàm và bước đi về tư duy phát triển kinh tế phải đi đôi với tiến bộ
và công bằng xã hội để đạt được cả hai mục tiêu quan trọng, tránh sự kiềm chế lẫn
nhau.
- Coi trọng mục tiêu bảo vệ môi trường và phát triển bền vững trong phát triển
kinh
tế
xã
hội.
Về
các
vấn
đề
thực
tiễn
- Nền kinh tế Việt Nam đang ở trình độ phát triển chậm, hiệu quả và sức cạnh tranh
thấp, có nguy cơ tụt hậu xa so với các nước khác có cùng điều kiện.
- Trong chiến lược CNH, HĐH thời gian qua đề ra quá nhiều mũi nhọn, nhưng lại
thiếu trọng tâm, trọng điểm cần thiết cho từng giai đoạn, dẫn đến việc đầu tư bị
dàn trải, kém hiệu quả trong điều kiện kinh tế và nguồn lực hạn hẹp. Chưa xác định
các “điểm then chốt” để thực hiện “3 đột phá” chiến lược nhằm đẩy nhanh tiến trình
CNH,
HĐH
đất
nước.
- Công nghiệp vật liệu và hệ thống các sản phẩm chủ lực tham gia chuỗi giá trị toàn
cầu còn rất nhỏ bé, chưa có nhiều thương hiệu có giá trị trên thị trường khu vực và
quốc
tế.
- Tỷ lệ nội địa hóa thấp, ưu thế trong xuất khẩu hiện nay thuộc về các nhà đầu tư
nước
ngoài.
- Giá trị gia tăng của công nghiệp chủ yếu tăng nhờ sự phát triển theo bề rộng, tốc
độ tăng giá trị sản xuất cao hơn tốc độ tăng giá trị tăng thêm.
- Trình độ công nghệ lạc hậu so với khu vực và thế giới, tốc độ đổi mới công nghệ,
thiết
bị
thấp.
- CNH, HĐH chưa phát huy lợi thế của vùng, chưa có sức lan tỏa để thúc đẩy phát
triển
kinh
tế
và
huy
động
các
nguồn
lực
xã
hội.
10
- Sự phát triển của các ngành công nghiệp nền tảng, mũi nhọn, như điện, cơ khí, tự
động, vật liệu... còn thấp, chưa đủ khả năng để tham gia toàn cầu hóa và đẩy nhanh
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, các ngành kinh tế, dịch vụ khác.
- Mặc dù hệ thống kết cấu hạ tầng là một trong những khâu đột phá, song tính kết
nối giữa các phương thức vận tải chưa cao, còn là điểm nghẽn của quá trình phát
triển.
- Quá trình đô thị hóa diễn ra với tốc độ nhanh nhưng chất lượng cung cấp dịch vụ
kém, phân bố dân cư không đồng đều, chưa đáp ứng tốt cho công cuộc CNH, HĐH
của
đất
nước.
Trong thời gian tới, tình hình chính trị và kinh tế thế giới sẽ còn có nhiều bất ổn gây
ra tác động đa chiều, song kinh tế vẫn là vấn đề chủ đạo bảo đảm sự ổn định và
phát triển. Toàn cầu hóa với kinh tế tri thức vẫn là xu thế chủ yếu trong phát triển
kinh tế. Nền kinh tế thế giới sẽ chuyển dịch theo theo chiều hướng từ Tây sang
Đông, từ “nâu” sang “xanh” và có nhiều biến đổi sâu sắc về thể chế lẫn trình độ công
nghệ và cơ cấu sản phẩm. Có mấy đặc điểm nổi bật sau:
- Trong quá trình toàn cầu hóa, các chuẩn mực, nguyên tắc và các định chế quốc tế
sẽ trở thành nền tảng chi phối sự vận hành của nền kinh tế thế giới. Theo đó, sự
cạnh tranh giữa các quốc gia về nguồn lực và công nghệ ngày càng gay gắt hơn.
- Sự phụ thuộc lẫn nhau của các nước trên thế giới ở phạm vi khu vực và toàn cầu,
cũng như khoảng cách về phát triển giữa các nền kinh tế ngày càng lớn.
- Sự trỗi dậy của một số nền kinh tế mới nổi (nhất là Trung Quốc và Ấn Độ) làm dịch
chuyển mạnh mẽ cơ cấu kinh tế trên phạm vi toàn cầu và theo vùng địa lý.
- Tiến bộ khoa học và công nghệ cùng sự phát triển của kinh tế tri thức tạo cơ hội
cho các nước đi sau bắt nhịp, tham gia chuỗi kinh tế toàn cầu và là thời cơ để “rút
ngắn”
quá
trình
CNH,
HĐH.
Tất cả những đặc điểm trên sẽ tác động không nhỏ tới quá trình CNH, HĐH ở Việt
Nam.
Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong thời gian
tới
Quan
điểm
về
công
nghiệp
hóa,
hiện
đại
hóa
Trên cơ sở phân tích những thành tựu, hạn chế của quá trình CNH, HĐH thời gian
qua, cũng như phân tích các xu hướng phát triển của thế giới và khu vực, xin đề
xuất một số quan điểm về vấn đề CNH, HĐH như sau:
11
- CNH, HĐH phải được coi là nhiệm vụ trung tâm, quan trọng nhất của toàn Đảng,
toàn dân trong thời gian tới. Kiên định các mục tiêu, đường lối về CNH, HĐH đã
được
Đảng
ta
xác
định.
- CNH, HĐH phải gắn liền với kinh tế tri thức, phát triển bền vững. Đây là con
đường duy nhất đúng để “rút ngắn” quá trình CNH, HĐH, tránh nguy cơ tụt hậu
ngày
càng
xa
với
các
nước
trên
thế
giới.
- Thực hiện CNH, HĐH bằng thể chế của nền kinh tế thị trường, tuân theo các quy
luật
khách
quan
của
cơ
chế
thị
trường.
- Phát huy tối đa các nguồn lực trong nước (nội lực phải đóng vai trò quyết định),
đồng thời thu hút có hiệu quả những nguồn lực nước ngoài (ngoại lực đóng vai trò
quan trọng) cho công cuộc CNH, HĐH. Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, chủ
động
hội
nhập
quốc
tế
ngày
càng
sâu
rộng.
- Lấy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững.
Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập
trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt
chẽ giữa phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công
nghệ.
- Khoa học và công nghệ là nền tảng cho CNH, HĐH phát triển. CNH, HĐH tạo ra
kinh tế tri thức và ngược lại kinh tế tri thức có vai trò thúc đẩy CNH, HĐH phát
triển
nhanh,
bền
vững.
- Lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương án phát
triển
và
lựa
chọn
dự
án
đầu
tư,
công
nghệ.
- CNH, HĐH gắn với bảo vệ môi trường, chủ động ứng phó có hiệu quả với biến đổi
khí
hậu
và
phòng,
chống
thiên
tai.
- CNH, HĐH phải bảo đảm giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ, bảo đảm an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội.
Đề
xuất
mô
hình
công
nghiệp
hóa
Qua nghiên cứu một số mô hình CNH, HĐH và liên hệ thực tiễn cho thấy mô hình
CNH, HĐH rút ngắn theo hướng hiện đại của nước ta thời gian qua về mặt lý thuyết
là chưa rõ. Vì “theo hướng hiện đại” nên chúng ta chưa dứt khoát phải sử dụng
công nghệ hiện đại và trong thực tế các nhà đầu tư sử dụng nhiều công nghệ lạc
hậu hoặc đã qua sử dụng với giá rẻ, vừa làm hao tốn nguyên, nhiên liệu, vừa gây ô
nhiễm môi trường, tăng chi phí và giá thành sản phẩm, làm cho tiến trình CNH,
HĐH bị chậm lại. Đã đến lúc chúng ta phải dứt bỏ cái cũ để đi thẳng ngay vào cái
12
mới, cái hiện đại. Với nhiều lý do, xin đề xuất mô hình CNH, HĐH của nước ta thời
gian tới là mô hình “Công nghiệp hóa hiện đại”. CNH hiện đại bao gồm các ngành
công nghiệp nền tảng, công nghiệp mũi nhọn và các sản phẩm chủ lực tham gia
chuỗi
giá
trị
toàn
cầu.
Cụ
thể:
- Các ngành công nghiệp nền tảng: Đây là những ngành công nghiệp có tính chất
cần thiết, quan trọng đối với tất cả các lĩnh vực của quốc gia, là nền tảng của công
nghiệp hóa, đòi hỏi đầu tư ban đầu lớn, thời gian thu hồi vốn dài nên cần có sự hỗ
trợ của Nhà nước và có cơ chế ưu đãi. Các ngành công nghiệp nền tảng bao gồm
ngành công nghiệp năng lượng, công nghiệp chế tạo, tự động và công nghiệp vật
liệu.
- Các ngành công nghiệp mũi nhọn: Các ngành công nghiệp mũi nhọn là những
ngành có lợi thế cạnh tranh và có điều kiện phát triển, Nhà nước cần tạo cơ chế,
chính sách nhằm khuyến khích và huy động các nguồn lực của mọi thành phần kinh
tế và Nhà nước chỉ đầu tư trong trường hợp thật cần thiết. Các ngành công nghiệp
mũi nhọn có thể phân thành các nhóm theo tính đặc thù như sau:
+ Nhóm công nghiệp mũi nhọn công nghệ cao, bao gồm sản xuất năng lượng, cơ
khí, chế tạo, công nghiệp hỗ trợ, công nghệ thông tin...
+ Nhóm công nghiệp mũi nhọn có lợi thế, bao gồm công nghiệp chế biến, nông, lâm,
thủy,
hải
sản
và
công
nghiệp
du
lịch.
+ Nhóm công nghiệp mũi nhọn có cơ hội, bao gồm công nghiệp điện tử, công nghiệp
giải trí, dịch vụ tài chính, dịch vụ vận tải đa phương thức.
- Sản phẩm chủ lực tham gia chuỗi giá trị toàn cầu: Để tham gia sâu vào chuỗi sản
xuất và cung ứng toàn cầu cần phải định hướng phát triển các sản phẩm chủ lực có
thế mạnh. Muốn thế, Chính phủ phải yêu cầu các bộ, ngành, địa phương hoàn chỉnh
quy hoạch phát triển các ngành hàng, sản phẩm có lợi thế cạnh tranh để định
hướng cho các doanh nghiệp mở rộng đầu tư. Các bộ, ngành và địa phương cần xây
dựng và đăng ký sản phẩm chủ lực tham gia chuỗi giá trị toàn cầu; tăng cường tính
kết nối sản xuất nông nghiệp với công nghiệp chế biến, bảo quản và xuất khẩu; gắn
kết việc sản xuất những sản phẩm có lợi thế và khả năng cạnh tranh với chuỗi giá
trị hàng hóa trên thị trường thế giới. Chẳng hạn, trong ngành công nghiệp vật liệu
đó là những sản phẩm, như thép chế tạo, hợp kim các loại, thép dụng cụ, chất dẻo,
nhựa,... cung cấp cho các ngành công nghiệp xe hơi, quốc phòng, sản xuất hàng tiêu
dùng...
Một số giải pháp đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa hiện đại
Một là, xây dựng hệ thống tiêu chí nước CNH hiện đại. Đây là việc cần thiết để có
định hướng thực hiện. Trên cơ sở nghiên cứu các tiêu chí của một số quốc gia phát
triển trên thế giới và điều kiện thực tiễn của Việt Nam hiện nay, xin đề xuất một số
13
tiêu
chí
Nhóm
1:
cơ
Các
tiêu
chí
bản
về
tăng
như
trưởng
kinh
sau:
tế
vĩ
mô
Các tiêu chí này phản ánh trình độ CNH của một quốc gia. Một số tiêu chí thường
được
sử
dụng
như:
- Quy mô, tốc độ tăng GDP hằng năm; thu nhập bình quân đầu người.
- Tỷ trọng giá trị các ngành công nghiệp, dịch vụ, nông nghiệp trong GDP.
- Tỷ trọng xuất khẩu hàng chế tạo, hàng công nghệ cao trong tổng kim ngạch xuất
khẩu.
- Trình độ hạ tầng kỹ thuật, như điện, nước sạch, viễn thông, giao thông...
-
Tỷ
Nhóm
2:
lệ
Các
tiêu
chí
đô
phản
ánh
thị
về
sự
hóa.
phát
triển
xã
hội
- Quy mô, tốc độ tăng dân số hằng năm, tỷ lệ dân sống dưới mức nghèo, tỷ lệ dân
thành
thị,
cơ
cấu
lao
động
trong
các
ngành...
-
Chỉ
số
phát
triển
con
người
(HDI).
- Tỷ lệ chi phí cho giáo dục, y tế trong GDP; tỷ lệ trẻ em nhập học ở cấp tiểu học,
trung
học;
tỷ
lệ
dân
được
chăm
sóc
y
tế.
-
Chỉ
Chỉ
số
số
phân
phối
thu
bình
nhập
đẳng
và
khoảng
cách
giới.
giàu
nghèo.
Nhóm 3: Các tiêu chí đánh giá mức độ hội nhập kinh tế quốc tế
-
Giá
-
Lượng
Hai
trị
kim
vốn
đầu
Mức
là, hoàn
thiện
ngạch
tư
xuất,
trực
nợ
thế
chế
tiếp
nhập
khẩu.
nước
ngoài.
nước
cho
CNH
hiện
ngoài.
đại.
Cụ
thể:
- Xây dựng cơ chế cụ thể để phát triển từng ngành công nghiệp.
- Hoàn thiện cơ chế quản lý nhà nước nhằm hạn chế sự chồng chéo trong lĩnh vực
14
sản
xuất
công
nghiệp.
- Tăng cường quản lý theo ngành, vùng và lãnh thổ, nâng cao hiệu quả của công tác
chỉ đạo, điều hành nhằm liên kết có hiệu quả giữa các địa phương trong phát triển
CNH
hiện
đại.
- Phân cấp sâu hơn trong quản lý nhà nước về đầu tư cho phát triển CNH hiện đại.
Duy trì tập trung hóa đối với một số lĩnh vực quan trọng mà Nhà nước cần nắm giữ
và đẩy mạnh phi tập trung hóa trong quản lý để nâng cao hiệu quả thể chế và quản
lý
nhà
nước.
- Tạo sự bình đẳng giữa các khu vực kinh tế, đặc biệt tập trung nâng cao vai trò của
khu vực kinh tế tư nhân thông qua việc thực thi có hiệu quả việc bảo hộ quyền sở
hữu
và
bình
đẳng
hóa
trong
tiếp
cận
nguồn
lực.
- Nhà nước có vai trò tạo động lực cạnh tranh quốc gia; thiết lập hạ tầng đồng bộ;
tạo nguồn nhân lực chất lượng cao; đổi mới phương pháp quản trị, điều hành,
giám sát thị trường nhằm tạo nên sự lành mạnh, ổn định, công bằng cho mọi thành
phần kinh tế tham gia thị trường, xây dựng, phát triển thị trường quốc tế và khu
vực.
- Triệt để sử dụng những ưu việt của “cơ chế thị trường” trong việc tạo ra của cải
vật chất cho xã hội và kiên định thực hiện phương thức quản lý theo cơ chế thị
trường có sự điều tiết của Nhà nước. Phát huy vai trò, chức năng của thị trường
trong việc giúp doanh nghiệp nâng cao năng lực; đổi mới công nghệ và trình độ
quản lý; tăng năng suất, hiệu quả, nhất là trong phát triển các ngành công nghiệp
nền
tảng;
phân
bổ
nguồn
lực
hiệu
quả
hơn.
- Thực hiện cải cách hành chính theo hướng các cơ quan quản lý nhà nước hướng
mạnh về doanh nghiệp và vì doanh nghiệp. Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng
cao chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh; nghiên cứu áp dụng chính phủ điện tử
trong việc cung cấp các dịch vụ công để bảo đảm công khai, minh bạch, tạo điều
kiện
thuận
lợi
cho
doanh
nghiệp
và
người
dân.
- Tập trung tổ chức, triển khai công tác quy hoạch, kế hoạch, bảo đảm quy hoạch
phát triển công nghiệp là cơ sở quan trọng định hướng phát triển của các cấp, các
ngành
và
doanh
nghiệp.
Ba là, đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng khoa học - công nghệ.
- Nhanh chóng ứng dụng những thành tựu khoa học - công nghệ của thời đại, đi
ngay vào những công nghệ tiên tiến, hiện đại; khai thác những nguồn lực bên
ngoài, trong đó đặc biệt là nguồn vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý tiên tiến để
thực
hiện
CNH,
HĐH.
15
- Đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động đầu tư cho khoa học và công nghệ, tăng cường sự
gắn kết chặt chẽ giữa khoa học và công nghệ với sản xuất, thúc đẩy phát huy sáng
kiến cải tiến kỹ thuật để nâng cao năng lực sản xuất và sức cạnh tranh của nền kinh
tế.
- Nhà nước cần làm tốt công tác định hướng cho các doanh nghiệp đổi mới công
nghệ. Đối với doanh nghiệp có khó khăn về nguồn vốn thì hiện đại hóa từng phần,
từng công đoạn trong dây chuyền sản xuất, đặc biệt các công đoạn có tính quyết
định đến chất lượng sản phẩm. Đối với các dự án đầu tư mới (kể cả đầu tư nước
ngoài) cần quy định áp dụng công nghệ phù hợp, kiên quyết không nhập khẩu công
nghệ,
thiết
bị
lạc
hậu
và
đã
qua
sử
dụng.
- Mở rộng hợp tác quốc tế về khoa học công nghệ, đa dạng hóa các loại hình hợp tác
để tranh thủ tối đa sự chuyển giao công nghệ hiện đại từ đối tác nước ngoài. Trong
các dự án đầu tư phát triển và trong hợp tác sản xuất, kinh doanh cần đặc biệt coi
trọng yếu tố chuyển giao công nghệ mới, coi đây là một trong những yếu tố để
quyết định dự án đầu tư và hợp đồng hợp tác sản xuất.
- Khuyến khích phát triển các dịch vụ công nghệ, xây dựng thị trường công nghệ,
định kỳ mở hội chợ công nghệ, lập ngân hàng dữ liệu thông tin công nghệ mới.
Bốn là, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho CNH hiện đại. Đào tạo và phát
triển nguồn nhân lực có chất lượng cao là yếu tố quyết định trực tiếp đến chất
lượng phát triển CNH hiện đại. Do vậy, cần phát triển nhanh nguồn nhân lực chất
lượng cao, nhất là nguồn nhân lực đạt tiêu chuẩn quốc tế. Tập trung đổi mới
chương trình đào tạo tại các viện nghiên cứu công nghệ, công nghiệp quốc gia, các
trường đại học công nghiệp, công nghệ, trường dạy nghề kỹ thuật. Gắn kết chặt chẽ
giữa phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ.
Từng bước hình thành đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật và quản trị doanh nghiệp
có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ ngang tầm quốc
Ba mươi năm hội nhập kinh tế quốc tế: Một vài suy ngẫm và đề xuất hướng
tới
8:41' 14/3/2015
TCCS - Trong gần 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, Việt Nam
đã từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Những kết quả
đạt được trong quá trình hội nhập đó góp phần quan trọng vào phát triển
kinh tế - xã hội, nâng cao vị thế, vai trò của đất nước trên trường quốc tế.
Nhìn lại chặng đường gần 30 năm qua giúp chúng ta thấy rõ hơn những
thuận lợi, khó khăn, những cơ hội, thách thức để có thể gặt hái được những
thành quả mới trong chủ động và tích cực hội nhập quốc tế thời gian tới.
16
1- Có thể nói, thực chất công cuộc đổi mới về kinh tế trong gần 30 năm qua của
nước ta bao gồm hai nội dung chủ yếu. Đó là chuyển từ thể chế kinh tế kế hoạch hóa
tập trung, quan liêu bao cấp sang thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa; chuyển từ nền kinh tế tự cung, tự cấp sang mở cửa, hội nhập với kinh tế khu
vực và thế giới. Trong gần ba thập niên đó, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của
nước ta trải qua nhiều thang bậc: Về nội dung, từ chỗ Đảng ta sử dụng khái niệm
“mở rộng hợp tác” chuyển thành khái niệm “hội nhập kinh tế quốc tế” (Đại hội VIII
của Đảng, năm 1995) rồi “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế” (Đại hội IX, năm
2001), “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế” (Đại hội X, năm 2005), và,
“chủ động và tích cực hội nhập quốc tế” nói chung (Đại hội XI, năm 2011); Về cấp
độ, từ hội nhập kinh tế khu vực nâng thành hội nhập kinh tế toàn cầu khi Việt Nam
gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO); Về mức độ cam kết hội nhập kinh tế
quốc tế, đã chuyển dần từ thấp lên cao, từ hẹp sang rộng, phù hợp với khả năng của
đất nước và xu thế phát triển của kinh tế khu vực và thế giới.
2- Hội nhập kinh tế quốc tế là một chủ trương lớn của Đảng, vì thế để góp phần
triển khai trên thực tế, đã có rất nhiều cuộc hội thảo, tọa đàm, đặc biệt Chính phủ
đã tổ chức Hội nghị toàn quốc để đánh giá những mặt được, kiểm điểm những
nguyên nhân, hạn chế trong quá trình triển khai và đề xuất phương hướng hội
nhập
quốc
tế
trong
các
năm
tới.
Trong gần 30 năm qua, ngoài những chủ trương cơ bản về hội nhập kinh tế quốc tế
được nêu tại các kỳ Đại hội Đảng, Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương đã ban
hành ba nghị quyết chuyên đề về hội nhập kinh tế quốc tế, đó là: Nghị quyết số 07NQ/TW, ngày 27-11-2001, của Bộ Chính trị về hội nhập kinh tế quốc tế; Nghị quyết
số 08-NQ/TW, ngày 5-2-2007, của Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương
khóa X, về “Một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và
bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới”, Nghị quyết
số 22-NQ/TW, ngày 10-4-2013, của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế. Các văn kiện
này nêu rõ một số quan điểm chỉ đạo công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế. Mặc dù
cách thể hiện có ít nhiều khác nhau, nhưng một cách khái quát, có thể thấy tám
quan điểm chủ yếu. Để chuẩn bị hành trang cho “cuộc viễn du” mới, tiến những
bước mới trên con đường hội nhập quốc tế sâu hơn về nội hàm và rộng hơn về
phạm vi, chúng ta cần rà soát xem các quan điểm chỉ đạo của Đảng về hội nhập
kinh tế quốc tế đã được thực hiện đến đâu? Có những điều gì cần chỉnh sửa hay bổ
sung?,...
Một là, “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo tinh thần giữ vững độc lập tự chủ
và định hướng xã hội chủ nghĩa”. Mặc dù hội nhập kinh tế quốc tế có nghĩa là tuân
thủ những “luật chơi” chung, nhưng chúng ta vẫn giữ vững độc lập, tự chủ về chế
độ chính trị - xã hội, về đường lối, chính sách đối nội và đối ngoại. Nói như vậy
không có nghĩa là chúng ta hành động theo tinh thần “đường ta, ta cứ đi”, mà
chúng ta đã chủ động điều chỉnh hệ thống văn bản pháp quy, thể chế kinh tế phù
hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà ta đang từng
bước xây dựng và phát triển cũng như các “luật chơi” quốc tế.
17
Hai là, “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo tinh thần phát huy tối đa nội lực,
nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội
chủ nghĩa”. Về phương diện này còn tồn tại nhiều vấn đề, như năng suất, hiệu quả
của nền kinh tế chưa cao, cơ cấu kinh tế còn lạc hậu, sức cạnh tranh còn yếu, thể
chế còn nhiều vướng mắc,... Có thể nói, điểm yếu nhất trong quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế của nước ta là chưa triển khai trên thực tế một cách mạnh mẽ, căn cơ
quan điểm cốt tử này. Nếu trong quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng hơn mà chúng
ta không thực hiện nghiêm túc các quan điểm, đường lối chỉ đạo này của Đảng thì
sẽ “lợi bất cập hại”. Thiết tưởng, cần sử dụng quá trình hội nhập quốc tế làm động
lực thúc đẩy quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, từ
đó nâng cao mạnh mẽ khả năng cạnh tranh của nền kinh tế đất nước.
Cũng liên quan tới quan điểm chỉ đạo nói trên hiện còn nhiều ý kiến khác nhau về
mối tương quan giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI). Một số ý kiến cho rằng, các doanh nghiệp FDI đang lấn lướt
doanh nghiệp trong nước, theo đó ta đang mất dần sự độc lập, tự chủ về kinh tế. Có
ý kiến khác lại cho rằng, cần đổi mới tư duy về độc lập, tự chủ về kinh tế trong thời
đại toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Thực tế cho thấy, quốc gia nào cũng phải xây
dựng cho được nền tảng của nền kinh tế nước mình, đứng vững và đi bằng đôi chân
của mình. Hội nhập chỉ là phương tiện góp phần làm cho nền tảng đó vững chắc và
hiệu
quả
hơn
chứ
không
thể
thay
thế
hoàn
toàn.
Ba là, để thực hiện quan điểm “hội nhập kinh tế quốc tế là sự nghiệp của toàn dân”,
trong quá trình hội nhập cần phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành
phần kinh tế, của toàn xã hội, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Tuy
nhiên, đáng tiếc là trong quá trình thực hiện chưa có sự phân vai rõ rệt. Nhiều địa
phương, doanh nghiệp còn lúng túng trong quá trình hội nhập quốc tế. Hội nhập
quốc tế (hay cả tiến trình công nghiệp hóa) chỉ có thể được thực hiện phù hợp với
điều kiện cụ thể của từng địa phương, từng doanh nghiệp chứ không thể nhất loạt
như nhau ở tất cả các địa phương, doanh nghiệp; hội nhập quốc tế hay tiến hành
công nghiệp hóa là câu chuyện của cả nước, được thực hiện trong một không gian
kinh tế thống nhất chứ không thể làm theo phong trào.
Đối với các thành phần kinh tế cũng vậy, dù là doanh nghiệp nhà nước hay doanh
nghiệp ngoài nhà nước cũng cần căn cứ vào yêu cầu và khả năng để từng bước hội
nhập, không nên đánh đồng. Ở Việt Nam, phần lớn các doanh nghiệp là doanh
nghiệp vừa và nhỏ, vì thế, để có thể hội nhập thành công, các doanh nghiệp này cần
có sự trợ giúp của Nhà nước, của các hiệp hội ngành, nghề - điều còn khá hạn chế ở
nước
ta
hiện
nay.
Bốn là, đối chiếu với quan điểm hội nhập cần có “kế hoạch và lộ trình hợp lý” có thể
thấy, Việt Nam đã và đang từng bước chủ động hội nhập quốc tế; sau mỗi bước hội
nhập chúng ta đều xây dựng chương trình hành động, tuy nhiên đôi khi các chương
trình hành động này còn xa rời thực tiễn; việc thực thi còn nhiều lúng túng, thậm
18
chí
lãng
quên,
buông
lỏng
giữa
chừng.
Năm là,“kết hợp chặt chẽ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với yêu cầu giữ vững
an ninh quốc phòng, thông qua hội nhập để tăng cường sức mạnh tổng hợp của
quốc gia…giữ vững bản sắc văn hóa dân tộc”. Mặc dù ở một số nơi còn có những
thiếu sót, lúng túng, thậm chí có những hiện tượng đáng ngại, song về cơ bản, quan
điểm này đã được quan tâm quán triệt trên thực tế. Tuy nhiên, cũng nổi lên không
ít những vấn đề đáng lo ngại cần quan tâm, giải quyết liên quan đến an ninh phi
truyền thống, bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc, an ninh kinh tế, trật tự an toàn xã
hội,...
Sáu là, quan điểm “hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu
tranh” được quán triệt khá nhuần nhuyễn trong quá trình đàm phán, song khi thực
hiện trên thực tế lại tỏ ra có sự lúng túng, chẳng hạn như trong việc vận dụng
những biện pháp không trái với cam kết quốc tế để bảo vệ sản xuất trong nước,
hoặc trong quan hệ với các doanh nghiệp FDI còn nặng về tranh thủ, thu hút mà
chưa ngăn chặn và xử lý kịp thời, chưa mạnh dạn đấu tranh với những hành vi,
biểu hiện gian lận của họ. Đối với các cuộc tranh chấp thương mại, chúng ta cũng
chưa đấu tranh thành thạo và chưa có phương thức giải quyết hiệu quả.
Bảy là, đối chiếu với quan điểm trên cơ sở thực hiện các cam kết hội nhập kinh tế
quốc tế “đẩy nhanh nhịp độ cải cách thể chế, cơ chế, chính sách kinh tế” chúng ta đã
làm được không ít việc, song vẫn còn nhiều việc phải làm, như tiếp tục đổi mới thể
chế và coi đây là một khâu đột phá, yêu cầu gắn kết việc đổi mới thể chế trong nước
với thể chế hội nhập một cách hài hòa, nhuần nhuyễn,...
Tám là, liên quan tới quan điểm “chủ động, tích cực tham gia xây dựng và tận dụng
hiệu quả các quy tắc, luật lệ quốc tế, chủ động đề xuất chính sách, sáng kiến, cơ chế
hợp tác” vẫn còn nhiều hạn chế trong tư duy, nhận thức và khả năng hội nhập kinh
tế
quốc
tế.
Nhìn chung, những mặt hạn chế cho thấy tính tích cực, chủ động trong hội nhập
chưa cao, nội lực còn yếu, tổ chức thực hiện còn nhiều hạn chế, bất cập. Nếu những
điểm này không được khắc phục thì những khó khăn chúng ta phải đối mặt trong
giai đoạn hội nhập mới sâu rộng hơn sẽ lớn hơn, không xử lý thỏa đáng được
những thách thức mới nảy sinh, và không tận dụng được triệt để các cơ hội mà hội
nhập
mang
lại.
3- Bước vào giai đoạn mới với nhiều khó khăn, thách thức, để nâng cao chất lượng
và hiệu quả hội nhập quốc tế, chúng ta cần quan tâm một số vấn đề sau:
Thứ nhất, chúng ta đang tiến hành các cuộc đàm phán hiệp định thương mại tự do
(FTA) mới với rất nhiều đối tác lớn, như Liên minh châu Âu (EU), Hàn Quốc, Liên
minh Thuế quan (gồm Nga, Bê-la-rút và Ca-dắc-xtan), Khối thương mại tự do
(EFTA - gồm các nước Thụy Sĩ, Na Uy, Ai-xơ-len, Lích-ten-xtanh); đàm phán Hiệp
19
định đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP), trong đó đã kết thúc
cơ bản đàm phán với Hàn Quốc và Liên minh Thuế quan; trong khuôn khổ ASEAN,
chúng ta đàm phán FTA với EU (ASEAN - EU), trong khuôn khổ ASEAN + 6, đàm
phán Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện (RCEP),...Cần gắn kết, lồng ghép các cam
kết mới theo Cộng đồng ASEAN và các FTA thành một kế hoạch tổng thể có trọng
tâm, trọng điểm rõ ràng về mục tiêu, đối tác, khu vực,...
Thứ hai, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cần xoáy mạnh vào nhiệm vụ trọng tâm
là cơ cấu lại nền kinh tế, đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo
hướng
hiện
đại.
Thứ ba, kết hợp nhuần nhuyễn giữa hội nhập kinh tế quốc tế với quá trình hội nhập
trên những lĩnh vực khác, như chính trị, an ninh - quốc phòng, văn hóa, xã hội...
trong một tổng thể, bổ sung, hỗ trợ cho nhau nhằm mục tiêu chung của đất nước
trong từng thời kỳ, ở từng khu vực, với mỗi đối tác.
Trên ngưỡng cửa của hành trình mới với nhiều vận hội nhưng cũng kèm theo
không ít tác động phụ đòi hỏi chúng ta bổ sung thêm những quan điểm cần thiết về
hội nhập quốc tế, đặc biệt là cần tổ chức triển khai, thực hiện một cách thấu đáo
quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về hội nhập quốc tế
trong thực tế cuộc sống./.
Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam: Một số vấn đề cần tiếp tục làm rõ
21:11' 20/2/2015
TCCS - Kinh tế thị trường là sản phẩm của văn minh nhân loại, nhưng không
có mô hình kinh tế thị trường chung cho mọi quốc gia. Sự vận dụng những
quy luật khách quan của thị trường trong phát triển kinh tế tùy thuộc vào
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, chế độ chính trị của xã hội và
truyền thống văn hóa, tập quán của quốc gia. Vì vậy trong mỗi chế độ xã hội,
mô hình kinh tế thị trường có những đặc trưng riêng. Tuy nhiên, sự kiểm
chứng của lịch sử và thực tiễn cũng cho thấy, trên thế giới không một quốc
gia nào muốn phát triển kinh tế nhanh và hiệu quả, muốn thực hiện hiện đại
hóa và có được xã hội thịnh vượng mà lại không áp dụng kinh tế thị trường.
Ở nước ta, tư tưởng về phát triển kinh tế thị trường trong xây dựng chủ nghĩa xã
hội (CNXH) được đề cập tại Đại hội VI của Đảng, thừa nhận có sản xuất hàng hóa
trong chủ nghĩa xã hội. Qua các Đại hội VII và VIII, vai trò khách quan của kinh tế
thị trường từng bước được nhận thức rõ hơn. Đại hội IX đã khẳng định: Phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là đường lối chiến lược nhất quán,
là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam. Tiếp theo, Đại hội X và XI của Đảng tiếp tục từng bước làm rõ hơn những
vấn đề cốt lõi về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, về xử lý mối quan hệ giữa
Nhà nước với thị trường, giữa phát triển kinh tế trên tinh thần độc lập, tự chủ gắn
20
với
hội
nhập
quốc
tế...
Về phương diện lý luận, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN)
của nước ta vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ
sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của CNXH, trong đó các
thiết chế, công cụ và nguyên tắc vận hành kinh tế thị trường được tạo lập và sử
dụng để giải phóng sức sản xuất, huy động mọi nguồn lực phát triển, đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm an
sinh xã hội, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Đây là kết quả sau nhiều năm nghiên cứu, tìm tòi, tổng kết thực tiễn; và là bước
phát triển mới về tư duy lý luận của Đảng ta trên lĩnh vực kinh tế.
Kiên trì phát triển theo mô hình này, sau gần 30 năm đổi mới, các yếu tố cấu thành
cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam đã được tạo lập và
đi vào hoạt động, từng bước hoàn thiện. Những thành tựu đổi mới về kinh tế cùng
với đổi mới về chính trị đã tạo nên bầu không khí dân chủ mới trong xã hội, tạo nên
động lực mới, đưa đất nước không chỉ thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội,
mà còn vươn lên được xếp vào nhóm nước có trình độ phát triển trung bình với tốc
độ tăng trưởng kinh tế liên tục đạt mức khá cao so với mức bình quân của khu vực
và thế giới. Cơ cấu kinh tế có sự chuyển biến tích cực, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã
hội đã được cải thiện đồng bộ và hiện đại hơn; nền tảng khoa học, giáo dục có
những bước phát triển khá. Nền tảng của nền kinh tế thị trường và thể chế kinh tế
thị trường trở thành phương thức để chúng ta đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước và thực hiện thành công các mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Nhờ vậy,
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt, công cuộc xóa
đói, giảm nghèo đạt nhiều thành tựu được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Quốc
phòng và an ninh được giữ vững. Công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế được chủ
động triển khai sâu rộng và có hiệu quả, đưa đất nước hội nhập khu vực và thế giới
ngày càng toàn diện, sâu rộng hơn, tạo môi trường hòa bình, ổn định, qua đó làm
tăng thêm thế và lực cho công cuộc phát triển kinh tế đất nước. Sức mạnh tổng hợp
của quốc gia tăng lên rõ rệt so với thời kỳ trước đổi mới.
Tuy nhiên, nếu như trên thế giới, kinh tế thị trường đã có lịch sử hàng mấy trăm
năm, thì kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là một mô hình kinh tế
hoàn toàn mới, chưa có tiền lệ trong lịch sử và thời gian phát triển chưa đầy 30
năm. Cho nên, trong quá trình phát triển, chúng ta gặp không ít trở ngại, khó khăn
và cả thiếu sót. Quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị trường ở nước ta còn chưa
hoàn tất; những thách thức và rào cản còn rất lớn trong cả tư tưởng, nhận thức, cơ
chế, chính sách và tổ chức thực hiện. Xây dựng thể chế, chế độ sở hữu, quản lý, phân
phối chưa bắt kịp những yêu cầu và đòi hỏi của công cuộc đổi mới toàn diện và hội
nhập quốc tế. Các yếu tố thị trường và các loại thị trường mới phát triển chậm,
manh mún, thiếu đồng bộ, vận hành chưa thông suốt. Các nguồn lực của quốc gia,
như đất đai, tài nguyên, lao động, vốn, nhất là ngân sách nhà nước, chưa được
quản lý và phân bổ, sử dụng một cách hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả. Các tài sản
công bị phân tán, cát cứ và lãng phí trong khi thiếu các cơ chế giám sát có hiệu lực
21
và hiệu quả. Tăng trưởng kinh tế vẫn dựa nhiều vào các yếu tố phát triển theo chiều
rộng, chủ yếu dựa trên đầu tư vốn và tăng trưởng tín dụng, trong khi chậm chuyển
sang phát triển theo chiều sâu - phương thức phát triển dựa trên năng suất các yếu
tố tổng hợp với các trụ lực căn bản là khoa học công nghệ, tri thức và lao động có
kỹ năng; vì thế nền kinh tế dù tăng trưởng nhưng vẫn chưa bền vững, chất lượng
tăng trưởng chưa cao, năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp; các cân đối vĩ
mô chưa thật sự vững chắc; hệ thống tài chính đang bộc lộ nhiều bất cập, rủi ro.
Mặt khác, trong gần 10 năm trở lại đây, tình hình thế giới, khu vực và trong nước
có nhiều biến động lớn, trong đó đặc biệt chú ý là ảnh hưởng của khủng hoảng tài
chính - suy thoái kinh tế toàn cầu và khu vực gắn với những bất ổn tiềm ẩn về địa
chính trị - xã hội và đe dọa chủ quyền quốc gia; tốc độ tăng trưởng và động lực phát
triển của thành phần kinh tế nhà nước, kinh tế tư nhân và khu vực kinh tế nông
nghiệp, hộ gia đình đang giảm dần động cơ tăng trưởng và đứng trước nhiều thách
thức, trở ngại. Hoạt động của hệ thống tài chính - ngân hàng còn nhiều khó khăn,
nhất là nợ xấu và sở hữu chéo, lãi suất vay bình quân còn cao,... ảnh hưởng đến sản
xuất, kinh doanh. Những điểm nghẽn hay nút thắt đang cản trở sự phát triển của
đất nước chưa được tháo gỡ là thể chế, chất lượng nguồn nhân lực và kết cấu hạ
tầng.
Qua gần 30 năm đổi mới, bối cảnh trong nước và quốc tế đã có nhiều thay đổi, sự
tác động của toàn cầu hóa đối với mỗi quốc gia ngày càng sâu sắc, để xác định con
đường phát triển tiếp theo của đất nước, chúng ta cần phải làm rõ hơn những căn
cứ lý luận và thực tiễn về phát triển kinh tế thị trường phù hợp với điều kiện cụ thể
của Việt Nam và về những yếu tố cốt lõi bảo đảm định hướng XHCN trong phát
triển
kinh
tế
thị
trường.
Cụ
thể
như
sau:
1- Cần làm sâu sắc và làm rõ hướng điều chỉnh trong mô hình tổng quát phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN của nước ta để phù hợp với việc đất nước
sẽ hội nhập đầy đủ vào nền kinh tế toàn cầu vào năm 2018.
2- Xác định những đặc trưng mang tính phổ biến của nền kinh tế thị trường hiện
đại để tham chiếu, vận dụng vào việc xây dựng, phát triển đất nước trong giai đoạn
tới phù hợp với bối cảnh quốc tế và điều kiện mới của đất nước.
3- Vận dụng các quy luật thị trường trong điều kiện phát triển của đất nước hiện
nay, liệu có thể khẳng định thị trường và theo đó là cạnh tranh có phải là cơ chế
huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, giải phóng triệt để sức
sản xuất, đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cơ cấu nền kinh tế?
4- Xác lập cụ thể hơn vai trò chủ thể của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN để Nhà nước vừa định hướng, kiến tạo phát triển thị trường, tạo
lập môi trường thuận lợi cho đầu tư, kinh doanh, khuyến khích cạnh tranh, vừa
thúc đẩy hội nhập và phát triển, bảo đảm toàn dân được hưởng thành quả của sự
tăng trưởng, thịnh vượng. Nhà nước không làm thay thị trường, nhưng những mặt
22
trái của thị trường và nhất là khi những thất bại của thị trường xuất hiện, Nhà
nước sẽ có những thể chế kiến tạo phát triển, các công cụ điều tiết và kiểm soát
nhằm khắc phục các khuyết tật và sửa chữa những bất cập, hạn chế này.
5- Xác định rõ hơn vai trò động lực thúc đẩy tăng trưởng của kinh tế tư nhân trong
tương lai để từ đó hoàn thiện thể chế khuyến khích các thành phần kinh tế phát
triển và cạnh tranh bình đẳng, khuyến khích người dân làm giàu và thực hiện đồng
bộ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Có thể khẳng định rằng đẩy mạnh cải cách kinh tế theo cơ chế thị trường là con
đường duy nhất đưa nước ta tới sự phát triển thịnh vượng. Tuy nhiên, những thiết
kế cụ thể để mô hình kinh tế thị trường hoạt động hiệu quả, phù hợp với điều kiện
quá độ đi lên CNXH của Việt Nam là một thách thức lớn của Đảng, Nhà nước và
nhân dân ta. Không còn cách nào khác chúng ta phải kiên định mục tiêu và con
đường đã chọn, mạnh dạn vừa làm, vừa rút kinh nghiệm để tìm ra giải pháp tối ưu
trong điều kiện của mình, coi mục tiêu phát triển bền vững, bảo đảm lợi ích của
nhân dân lao động và sự công bằng xã hội trong quá trình phát triển là những tiêu
chí quan trọng nhất cần đặt ra trong hoạch định chính sách phát triển đất nước./.
Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta:
Nhận thức lý luận, thực tiễn và kiến nghị
0:8' 18/2/2015
Nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa sau gần
30
năm
đổi
mới
Sau gần 30 năm đổi mới, nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ
nghĩa
ngày
càng
sáng
tỏ
hơn:
Thứ nhất, kinh tế thị trường (trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hóa, khi mọi
sản phẩm đều có thể trở thành hàng hóa) là sản phẩm của văn minh nhân loại, xuất
hiện từ cuối chế độ cộng sản nguyên thủy, được phát triển tới trình độ cao dưới chủ
nghĩa tư bản, do vậy tự bản thân kinh tế thị trường không đồng nghĩa với chủ
nghĩa tư bản. Nghĩa là, kinh tế thị trường không phải là sản phẩm riêng có của chủ
nghĩa tư bản, mà kinh tế hàng hóa, nguồn nuôi dưỡng và xuất phát điểm của kinh
tế thị trường, tồn tại trong nhiều chế độ xã hội khác nhau, song không có kinh tế thị
trường chung, đồng nhất cho mọi chế độ xã hội khác nhau. Trong mỗi chế độ xã hội
khác nhau, kinh tế thị trường mang những đặc trưng, bản chất khác nhau tùy
thuộc vào trình độ phát triển lực lượng sản xuất, vào bản chất chính trị của chế độ
xã hội đó, phù hợp với lịch sử, văn hóa, tập quán của từng quốc gia dân tộc. Mặc dù
rằng, những quy luật kinh tế chi phối sự vận động, phát triển của nền kinh tế thị
trường là khách quan, có những yêu cầu tất yếu như nhau; nhưng quan điểm, tập
quán, thói quen vận dụng những quy luật kinh tế khách quan đó trong mỗi quốc gia
23
là khác nhau. Không thể có nền kinh tế thị trường ở nước này lại là bản sao của
kinh
tế
thị
trường
ở
nước
khác.
Thứ hai, thực tiễn gần 30 năm đổi mới ở nước ta đã chứng minh đầy sức thuyết
phục rằng: con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta phải kinh qua kinh tế thị
trường. Không phát triển kinh tế thị trường thì không thể đi tới chủ nghĩa xã hội.
Bởi vì, kinh tế thị trường có những lợi thế mà kinh tế hiện vật, tự cung, tự cấp
không thể so sánh được: Một là, kinh tế thị trường tạo động lực lao động tích cực,
tự giác cho từng người lao động thông qua cơ chế cạnh tranh để trở thành người
giỏi nhất (sáng tạo nhất, năng động nhất và hợp lý nhất); hai là, kinh tế thị trường
thúc đẩy chuyên môn hóa ngày càng sâu để phát huy tiềm năng nhiều mặt của
những con người khác nhau; ba là, kinh tế thị trường phối hợp, điều tiết hành vi
của mọi người một cách tự giác thông qua cơ chế trao đổi hàng hóa một cách tự
nguyện, thỏa thuận theo quy luật cung - cầu; bốn là, kinh tế thị trường phản ánh
mức độ tự do, dân chủ cao trong điều kiện nguồn lực để thỏa mãn nhu cầu còn
khan hiếm. So với cơ chế kế hoạch hóa tập trung của Nhà nước trong thời bao cấp,
kinh tế thị trường không tốn chi phí lập và điều hành kế hoạch, mà lại phát huy
được sức mạnh của mọi người. Nhưng cần khẳng định: kinh tế thị trường tự nó
không thể mang lại chủ nghĩa xã hội cho con người. Nước ta muốn đi lên chủ nghĩa
xã hội phải phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, do thiếu thông tin, cạnh tranh không lành mạnh, do khuyến khích tối đa
người tài giỏi, người nắm được thông tin, nên kinh tế thị trường vận động tự phát
sẽ tất yếu dẫn đến các tổn hại mà xã hội khó chấp nhận: phân hóa giàu - nghèo,
người chiến thắng trong cạnh tranh sẽ được hết còn người thua không được gì.
Hơn nữa, do nắm trong tay nhiều tư liệu sản xuất, người giàu có thể áp chế người
nghèo bằng trao đổi hàng hóa bất công bằng. Đặc biệt, khi của cải tập trung vào
tay một nhóm người, nếu họ không thỏa mãn với tỷ suất lợi nhuận mà thị trường
đặt ra, của cải sẽ chất đống trong kho, người lao động sẽ không có việc làm. Đây
chính là điểm mà C. Mác đã nói rõ: kinh tế hàng hóa (kinh tế thị trường) để tự phát
tất yếu tiến lên phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Kinh tế thị trường tự phát
cũng dẫn đến tàn phá môi trường sống chung vì lợi ích ngắn hạn, gây ra những cú
sốc cung - cầu làm cuộc sống trở nên quá bấp bênh... Chính vì thế, nhà nước cần
thay mặt xã hội điều tiết kinh tế thị trường, buộc nó phải hoạt động trong những
khuôn khổ nhất định. Nhà nước tư sản điều tiết kinh tế thị trường nhưng không
thay đổi những nền tảng cơ bản của nó, như sở hữu tư nhân, quyền tự do kinh
doanh, giá cả do thị trường định đoạt là chủ yếu, nhà nước chỉ tham gia điều tiết lại
của cải qua ngân sách nhà nước, tác động vào cung hoặc cầu, khi có những cú sốc...
Nhà nước xã hội chủ nghĩa có trách nhiệm có thể can thiệp sâu hơn vào nền kinh tế
thị trường thông qua thay đổi chế độ sở hữu của một khối lượng tư liệu sản xuất
nào đó hoặc nâng đỡ các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh có lợi cho người
lao động, như hợp tác xã, doanh nghiệp nhà nước... Ở đây, hình thức can thiệp có
thể giống nhau giữa các nhà nước tư bản chủ nghĩa và nhà nước xã hội chủ nghĩa,
nhưng mục tiêu thì có sự khác biệt: nhà nước tư bản chủ nghĩa chỉ hỗ trợ để ổn
định thị trường và hỗ trợ ở mức có thể cho những người thua thiệt. Nhà nước xã
24
hội chủ nghĩa chú trọng đào tạo người lao động, tạo điều kiện cho họ làm chủ quá
trình sản xuất, phân phối nhằm có lợi cho họ. Ngoài ra, những gì người lao động
không thể, thì nhà nước sẽ hỗ trợ thông qua lưới an sinh, trợ cấp xã hội, phúc lợi xã
hội... Đảng cộng sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa nỗ lực tìm kiếm những mô hình
tổ chức sản xuất, kinh doanh vừa có hiệu quả, vừa có lợi cho người lao động. Trong
giai đoạn hiện tại, kinh tế thị trường sẽ làm nhiệm vụ điều tiết chủ yếu, nhà nước xã
hội chủ nghĩa tham gia điều tiết dựa trên những lý luận và kinh nghiệm thực tiễn
để có nền kinh tế thị trường hiệu quả hơn, có lợi cho người lao động hơn... Chính vì
thế, nhà nước xã hội chủ nghĩa không tự giới hạn hoạt động của mình giống như
nhà nước tư bản chủ nghĩa. Đó là cơ sở để Đảng ta xác định nền kinh tế nước ta là
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: vừa chịu sự chi phối của các
quy luật kinh tế thị trường khách quan, vừa bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa
của nền kinh tế. Quy luật của kinh tế thị trường và bản chất xã hội chủ nghĩa không
phải là hai phần ghép vào với nhau một cách cơ học mà gắn bó hữu cơ với nhau, nó
quy định bản chất, mục đích và hướng phát triển của nền kinh tế. Vấn đề là không
có một nền kinh tế thị trường phi chính trị, phi lịch sử, phi quốc gia dân tộc. Yếu tố
xã hội chủ nghĩa đã thể hiện ở chỗ Đảng cộng sản là đội tiên phong của nhân dân
lao động (nếu Đảng cộng sản biến chất hoặc không đủ sức lãnh đạo thì đương
nhiên nền kinh tế thị trường sẽ tự phát lên chủ nghĩa tư bản). Nhà nước xã hội chủ
nghĩa cũng là thiết chế để nhân dân lao động có thể cải cách mọi thứ có lợi cho họ,
cũng là một chủ thể của kinh tế thị trường, chứ không chỉ thuần túy là thiết chế
chính trị. Nếu bộ máy và công chức nhà nước thoái hóa đến mức chỉ hành động vì
lợi ích của bản thân họ, chà đạp lên lợi ích của nhân dân lao động, thì Đảng cộng
sản sẽ lãnh đạo nhân dân lao động cải tổ nhà nước. Nếu Đảng và nhân dân không
làm được như vậy, thì kinh tế thị trường hoặc đưa đất nước tự phát lên chủ nghĩa
tư bản hoặc trở về chế độ phong kiến. Như vậy, không phải là lắp ghép mà là cuộc
đấu tranh nhân danh lợi ích của nhân dân lao động. Vì kinh tế thị trường có thể
thích ứng với nhiều chế độ chính trị khác nhau và phương thức sản xuất xã hội chủ
nghĩa chưa tự khẳng định bằng mô hình hiệu quả thực tiễn nên kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa thực chất là một cuộc tìm tòi: vừa tuân thủ các quy
luật của kinh tế thị trường (vì cho đến nay vẫn là hình thức tổ chức kinh tế hiệu quả
nhất), vừa tìm các mô hình kinh tế vừa có hiệu quả hơn, vừa thích nghi với kinh tế
thị trường, vừa có lợi cho người lao động. Nếu cuộc tìm tòi này thất bại, thì có
nghĩa một lần nữa kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa lại rơi vào quỹ
đạo tư bản chủ nghĩa như các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô (trước
đây). Như vậy, có nghĩa là nỗ lực sáng tạo và trung thành với lợi ích chung của
nhân dân lao động của Đảng, Nhà nước, nhân dân ta chính là bản chất xã hội chủ
nghĩa. Muốn
như
vậy,
cần
3
điều
kiện:
+ Nhân dân lao động phải giác ngộ, nâng cao trình độ chính trị và kinh tế của mình
để
vươn
lên
làm
chủ,
nắm
lấy
dân
chủ;
+ Đảng Cộng sản phải thực sự hành động vì nhân dân lao động và đủ năng lực lãnh
đạo
Nhà
nước
và
xã
hội;
25
+ Nhà nước (thực chất là luật pháp và công chức) phải vừa có năng lực quản lý,
vừa phải hành động vì lợi ích của nhân dân lao động.
Thứ ba, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nền kinh
tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đến nay, tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh
tế thị trường được xác định(1): “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là nền kinh tế trong đó có các thiết chế, công cụ và nguyên tắc vận hành kinh
tế thị trường được tự giác tạo lập và sử dụng để giải phóng triệt để sức sản xuất,
từng bước cải thiện đời sống của nhân dân, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh. Phát triển kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều
thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước
và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc
dân. Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói, giảm nghèo; từng bước
làm cho mọi thành viên xã hội đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng
trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, y tế, giáo dục, bảo vệ môi trường..., giải
quyết tốt vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người. Thực hiện chế độ phân
phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp
vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội. Phát huy quyền làm chủ
xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng”(2).
Thứ tư, tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
trên
những
phương
diện
sau:
+ Hoàn thiện thể chế về sở hữu: phát triển nền kinh tế thị trường có nhiều hình thức
sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, nhiều loại hình doanh nghiệp... bình đẳng trước
pháp luật, được pháp luật bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp, v.v...
+ Hoàn thiện thể chế về phân phối: hoàn thiện pháp luật, cơ chế, chính sách về phân
bổ các nguồn lực xã hội theo cơ chế thị trường phù hợp với chiến lược, quy hoạch,
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Phân phối và phân phối lại thu
nhập xã hội theo chính sách của Nhà nước sao cho duy trì được hiệu quả và công
bằng ở mức đông đảo nhân dân chấp nhận được theo nguyên tắc bảo đảm hài hòa
lợi ích quốc gia, lợi ích doanh nghiệp, lợi ích người lao động, tạo động lực cho phát
triển. Kết hợp nhiều hình thức phân phối: theo lao động, theo vốn, theo mức đóng
góp của các nguồn lực khác, chú trọng phân phối lại qua phúc lợi xã hội...
+ Tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động, khả năng sáng tạo,
sức cạnh tranh của các chủ thể trong nền kinh tế thị trường; các loại hình doanh
nghiệp,
các
tổ
chức
sản
xuất,
kinh
doanh...
+ Hoàn thiện thể chế bảo đảm đồng bộ các yếu tố thị trường: về giá, về cạnh tranh,
về
kiểm
soát
độc
quyền...