Tải bản đầy đủ (.pdf) (70 trang)

tìm hiểu về tết của người việt ở đồng bằng sông cửu long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.5 MB, 70 trang )

Tìm hiểu về tết của người Việt ở Đồng bằng sông Cửu Long.

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA SƯ PHẠM
BỘ MÔN: SƯ PHẠM LỊCH SỬ

Đề tài

TÌM HIỂU VỀ TẾT CỦA NGƯỜI VIỆT
Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Cán bộ hướng dẫn

Sinh viên thực hiện

Ths: Trần Minh Thuận

Trần Thị Thanh Hằng
MSSV: 6095937

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH SƯ PHẠM LỊCH SỬ

Cần Thơ, tháng 04/1013

SVTH: Trần Thị Thanh Hằng

Trang 1


Tìm hiểu về tết của người Việt ở Đồng bằng sông Cửu Long.


LỜI CẢM ƠN
Trong suốt bốn năm học tập, rèn luyện tại trường Đại học Cần Thơ, tôi đã
tích lũy được rất nhiều kinh nghiệm, kiến thức bổ ích mà các Thầy Cô trong trường
nói chung và các Thầy Cô bộ môn sư phạm Lịch Sử nói riêng đã truyền đạt cho tôi
không chỉ là kiến thức mà còn là phương pháp tư duy, tác phong sư phạm, lòng say
mê, yêu nghề. Những điều ấy chính là cơ sở để tôi tiến hành thực hiện luận văn tốt
nghiệp của mình.
Trong suốt quá trình tìm hiểu, nghiên cứu để hoàn thành luận văn tốt nghiệp
của mình, ngoài việc động viên của gia đình, tôi đã nhận được sự hướng dẫn, giúp
đỡ nhiệt tình của các thầy cô thuộc bộ môn Sư phạm Lịch sử của trường Đại học
Cần Thơ, các thầy cô trong trường, các bạn lớp sư phạm lịch sử K35 và đặc biệt là
thầy Trần Minh Thuận.
Tôi xin đặc biệt gửi lời cảm ơn chân thành đến thầy Trần Minh Thuận đã tận
tình giúp đỡ, hướng dẫn, góp ý cho bài viết của tôi. Tôi xin chân thành cảm ơn đến
các thầy cô trong bộ môn sư phạm lịch sử đã dìu dắt và truyền đạt kiến thức cho tôi
trong suốt bốn năm học vừa qua.
Ngoài ra tôi cũng chân thành cảm ơn tất cả các thầy cô trong Trung tâm học
liệu, trong Thư viện khoa Sư phạm và thư viện thành phố Cần Thơ đã tạo mọi điều
kiện thuận lợi để tôi có được các tài liệu cần thiết phục vụ cho việc nghiên cứu và
hoàn thành luận văn tốt nghiệp của mình. Đồng thời tôi cũng cảm ơn các bạn trong
lớp sư phạm lịch sử K35 đã quan tâm giúp đỡ tôi trong suốt thời gian làm luận văn.
Do thời gian có hạn và vốn kiến thức còn hạn chế nên không tránh khỏi
những thiếu sót, rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô và các bạn, tôi xin
chân thành cảm ơn.

SVTH: Trần Thị Thanh Hằng

Trang 2



Tìm hiểu về tết của người Việt ở Đồng bằng sông Cửu Long.

MỤC LỤC
PHẦN MỘT: PHẦN MỞ ĐẦU...............................................................................4
1. Lý do chọn đề tài.................................................................................................5
2. Mục đích của đề tài. ............................................................................................6
3. Phạm vi đề tài......................................................................................................7
4. Đối tượng nghiên cứu. ........................................................................................7
5. Phương pháp nghiên cứu. ...................................................................................8
6. Đóng góp của đề tài. ...........................................................................................8
7. Kết cấu bài luận văn............................................................................................8
PHẦN HAI: PHẦN NỘI DUNG. ............................................................................0
Chương một: Khái quát về Tết ở Đồng bằng sông Cửu Long........................10
1.1. Sơ lược về Đồng bằng sông Cửu Long. .....................................................10
1.1.1. Vị trí địa lí và điều kiện tự nhiên. ........................................................10
1.1.2. Lịch sử hình thành. ..............................................................................11
1.2. Một số khái niệm về Tết.............................................................................15
Chương hai: Tết của người Việt ở Đồng bằng sông Cửu Long......................18
2.1. Các công việc chuẩn bị cho Tết. ................................................................18
2.1.1. Trang trí nhà cửa, chùa chiền, nhà thờ, cơ quan xi nghiệp..................18
2.1.2. Dọn dẹp, trưng bày trên các bàn thờ....................................................18
2.1.2.1. Bàn thờ tổ tiên ...............................................................................18
2.1.2.2. Các bàn thờ khác trong gia đình. ..................................................20
2.1.3. Mâm ngũ quả. ......................................................................................21
2.1.4. Cây nêu. ...............................................................................................22
2.1.5. Câu đối. ................................................................................................24
2.1.6. Hoa tết..................................................................................................28
2.1.6.1. Hoa mai. ........................................................................................28
2.1.6.2. Hoa cúc..........................................................................................29
2.1.6.3. Cây quất.........................................................................................30

2.1.7. Chợ Tết. ...............................................................................................31
SVTH: Trần Thị Thanh Hằng

Trang 3


Tìm hiểu về tết của người Việt ở Đồng bằng sông Cửu Long.

2.1.8. Tảo mộ. ................................................................................................33
2.2. Những ngày giáp Tết..................................................................................34
2.2.1. Ngày cúng Ông Táo.............................................................................34
2.2.2. Ngày dựng cây nêu. .............................................................................36
2.2.3. Ngày gói bánh chưng, bánh tét. ...........................................................37
2.2.4. Bữa cơm tất niên.. ................................................................................40
2.3. Ẩm thực ngày Tết.......................................................................................40
2.4. Phong tục ngày Tết.....................................................................................42
2.4.1 Tục mặc quần áo mới............................................................................42
2.4.2. Tục đón giao thừa. ...............................................................................42
2.4.3. Tục giữ năm trong đêm trừ tịch. ..........................................................46
2.4.4. Tục đốt pháo trong đêm giao thừa. ......................................................47
2.4.5. Tục xông đất. .......................................................................................49
2.4.6. Tục xuất hành, hái lộc..........................................................................50
2.4.7. Tục thăm viếng, chúc Tết. .................................................................521
2.4.8. Tục lì xì................................................................................................53
2.4.9. Tục múa lân ngày Tết. .........................................................................54
2.4.10. Tục xin xăm ngày Tết. .......................................................................54
2.5. Giải trí, vui chơi ngày tết............................................................................55
2.6. Những điều kiêng kỵ. .................................................................................55
PHẦN: KẾT LUẬN................................................................................................59
PHỤ LỤC ................................................................................................................66

TÀI LIỆU THAM KHẢO .....................................................................................70

SVTH: Trần Thị Thanh Hằng

Trang 4


Tìm hiểu về tết của người Việt ở Đồng bằng sông Cửu Long.

PHẦN MỘT: PHẦN MỞ ĐẦU

SVTH: Trần Thị Thanh Hằng

Trang 5


Tìm hiểu về tết của người Việt ở Đồng bằng sông Cửu Long.

1. Lý do chọn đề tài.
Trong một năm, người Việt Nam có rất nhiều lễ hội. Mỗi dân tộc, vùng miền
lại có những phong tục tập quán riêng được lưu truyền qua nhiều thế hệ. Trong số
những lễ hội ấy phải kể đến Tết. Tết là thời điểm hội tụ của sinh hoạt văn hóa dân
tộc. Trong những ngày này, văn hóa dân tộc được bổ sung, phát triển phong phú
lên. Tết là dịp mọi người đi xa trở về tụ họp với gia đình, trở về với quê hương, cội
nguồn. Dù có đi dâu xa nhưng đến ngày Tết, dù không ai bảo ai, mọi người cũng cố
gắng trở về quê hương, sum họp với gia đình, thăm mồ mả tổ tiên, thăm lại họ
hàng, bà con xóm giềng, cùng ăn bữa cơm với gia đình.
Tết thường được diễn ra khi đất trởi đã chuyển mình sang xuân. Từ xa xưa,
khi khoa học chưa phát triển nhưng con người cũng đã tính được một năm có 365
ngày và năm nhuận có 366 ngày. Ba trăm sáu mươi lăm ngày ấy được chia thành

12 tháng và chia đều cho 4 mùa. Như vậy thời gian cho một mùa trong năm là 3
tháng. Mùa xuân thường là những tháng đầu năm tức là tháng 1, 2, 3. Khi ấy, khí
trời ấm áp, cỏ cây đua nhau nảy lộc, ra hoa, kết trái sau một thời gian lạnh giá suốt
mùa đông. Mùa xuân là lúc con người cảm thấy hưng phấn nhất trong năm. Mọi
người dường như trẻ lại khi mỗi độ xuân về.
Tuy nhiên, trong bốn mùa ấy, chúng ta có thể nhận biết rõ ràng khi ở miền
Bắc, còn ở miền Nam, khí hậu có khác chút ít, do gần xích đạo, nắng nóng, mưa
nhiều quanh năm nên việc cảm nhận được một năm có bốn mùa thì không rõ rệt. Ở
miền Nam, trong đó có Đồng bằng sông Cửu Long chỉ thấy rõ nét nhất là có 2 mùa
là mùa khô và mùa mưa. Mùa mưa kéo dài từ tháng 4 đến tháng 11 và mùa khô kéo
dài từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Mặc dù chỉ có hai mùa nhưng cũng có lúc con
người cảm nhận được cái se lạnh của một chút gió đông, cái nắng ấm nồng nàn của
ngày xuân. Và trong những ngày này, đồng bào miền Nam vẫn cùng với anh em
miền Bắc, miền Trung chung hưởng một ngày hội lớn của dân tộc, cùng chào đón
một năm mới với những hy vọng mới.
Vùng đất miền Nam là một vùng đất trẻ so với hai miền anh em Bắc, Trung.
Cư dân ở đây chủ yếu là những người từ miền Trung, miền Bắc di cư vào đây khai
phá đất hoang, lập nghiệp và trong quá trình di cư ấy, những lớp người đầu tiên
sinh sống trên mảnh đất thiêng liêng này đã mang theo những phong tục, tập quán,
SVTH: Trần Thị Thanh Hằng

Trang 6


Tìm hiểu về tết của người Việt ở Đồng bằng sông Cửu Long.

nét sinh hoạt của cha ông. Tuy nhiên những phong tục, nét sinh hoạt ấy đã được cư
dân miền Nam nói chung và Đồng bằng sông Cửu Long nói riêng biến chuyển cho
phù hợp với cuộc sống mới, cuộc sống của những ngày khai hoang mở đất, đấu
tranh với thiên nhiên để chinh phục thiên nhiên. Vì vậy ngày Tết ở miền Nam hay

nói riêng là ở Đồng bằng sông Cửu Long có những đặc điểm riêng mang đậm dấu
ấn Nam Bộ.
Cư dân Đồng bằng sông Cửu Long không chỉ có người Việt sinh sống mà
trên mảnh đất này, còn có sự chung tay xây dựng của các anh em dân tộc khác như
Hoa, Khmer, Chăm. Bốn dân tộc đã hòa mình cùng nhau góp phần làm đa dạng,
phong phú văn hóa Nam Bộ. Thế nhưng việc này không có nghĩa là các dân tộc xóa
bỏ đi các giá trị văn hóa riêng của dân tộc mình để hòa nhập thành một văn hóa
chung. Mỗi dân tộc có những phong tục riêng, nét sinh hoạt riêng nhưng họ đã biết
cách làm cho những phong tục riêng ấy có thể trường tồn trong cuộc sống, phù hợp
hoàn cảnh để có thể chung sống với các dân tộc khác.
Trong một năm, bốn dân tộc sinh sống trên mảnh đất Đồng bằng sông Cửu
Long đề có những ngày lễ, ngày hội khác nhau. Tuy nhiên trong luận văn này, tôi
chủ yếu nghiên cứu về ngày Tết của người Việt sinh sống tại Đồng bằng sông Cửu
Long. Với mong muốn tìm hiểu về ngày Tết truyền thống và những sinh hoạt trong
cộng đồng của người Việt trong những ngày Tết tại vùng đất Đồng bằng sông Cửu
Long.
2. Mục đích của đề tài.
Hằng năm, mỗi độ xuân về Tết đến, người Việt ở Đồng bằng sông Cửu Long
lại cùng với nhân dân cả nước hòa mình vào không khí vui tươi của ngày hội lớn –
ngày Tết Nguyên Đán. Mỗi dân tộc, mỗi vùng miền lại có những đặc trưng riêng
trong ngày Tết này. Chỉ với bốn dân tộc cùng chung sống trên mảnh đất thành đồng
của tổ quốc thì có hai dân tộc chào đón Tết Nguyên Đán theo âm lịch.
Thành phần người Việt ỏ Đồng bằng sông Cửu Long gồm các thành phần
khác nhau: Người Việt sống ở đây từ khi mở đất khai hoang cho đến ngày nay,
người Việt di cư từ miền Bắc, Trung vào từ năm 1954 và 1978 đến nay. Ngoài ra,
cách thức tổ chức một cái Tết cũng như sinh hoạt Tết dựa theo tiêu chí tôn giáo có

SVTH: Trần Thị Thanh Hằng

Trang 7



Tìm hiểu về tết của người Việt ở Đồng bằng sông Cửu Long.

thể được chia thành hai thành phần: Những người theo đạo Thiên Chúa, những
người theo các tôn giáo khác.
Chính vì khác nhau về thành phần dân cư cho nên trong việc chuẩn bị cho
Tết, việc đón Tết, sinh hoạt trong Tết có khác nhau đôi phần. Vì vậy với đề tài
“Tìm hiểu về Tết của người Việt ở Đồng bằng sông Cửu Long”, bài luận văn nhằm
mục đích tìm hiểu nét đặc sắc, nét riêng trong Tết của người Việt ở vùng đất thành
đồng này.
3. Phạm vi đề tài.
Như trên đã trình bày, trên mảnh đất với bề dày ba trăm năm hình thành và
phát triển, cư dân Đồng bằng sông Cửu Long đã tạo nên một nền văn hóa riêng cho
vùng đất trẻ trung của tổ quốc này. Nền văn hóa ấy có sự hội tụ văn hóa của bốn
dân tộc anh em cùng chung sống. Trong nền văn hóa ấy, ngày Tết đã góp phần
không nhỏ, làm phong phú văn hóa ấy. Bốn dân tộc, mỗi dân tộc đều có ngày Tết
riêng của dân tộc mình. Người Khmer có Tết Chol Chnam Thmay, người Chăm có
Tết Păng-Katê và Păng-Chabư,… Tuy nhiên trong bài nghiên cứu này tôi chủ yếu
nghiên cứu về Tết và những sinh hoạt trong ngày Tết của người Việt ở Đồng bằng
sông Cửu Long.
4. Đối tượng nghiên cứu.
Tết là một nét sinh hoạt văn hóa. Trong 54 dân tộc anh em cả nước, chỉ riêng
ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long đã có bốn dân tộc cùng chung sống. Bốn dân
tộc ấy cùng với bốn nền văn hóa khác nhau. Tất nhiên sẽ có bốn cái Tết khác nhau.
Trong phạm vi nghiên cứu có hạn của đề tài, tôi chủ yếu nghiên cứu về Tết của
người Việt. Để cho thấy được những nét cơ bản của một cái Tết miền Tây, một cái
Tết đậm tính miệt vườn.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Trong tiến trình làm luận văn, tôi vận dụng nhiều phương pháp như: phương

pháp lịch sử, phương pháp logic, tổng hợp, so sánh.
6. Đóng góp của đề tài.
Với những tìm hiểu của tôi trong bài luận văn này, tôi mong muốn rằng sẽ
đóng góp cho việc tìm hiểu thêm về những sinh hoạt, phong tục trong ngày Tết
Nguyên Đán – Tết cổ truyền của dân tộc Việt Nam nói chung và của đồng bào
SVTH: Trần Thị Thanh Hằng

Trang 8


Tìm hiểu về tết của người Việt ở Đồng bằng sông Cửu Long.

người Việt sinh sống tại Đồng bằng sông Cửu Long nói riêng. Giúp cho người đọc
hiểu sâu sắc hơn về Tết của dân tộc. Bên cạnh đó có sự so sánh giữa cái Tết cổ
truyền của người miền Nam và miền Bắc, miền Trung.
7. Kết cấu bài luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, bài luận văn còn
gồm các chương sau:
- Chương một: Khái quát về Tết ở Đồng bằng sông Cửu Long.
- Chương hai: Tết của người Việt ở Đồng bằng sông Cửu Long.

SVTH: Trần Thị Thanh Hằng

Trang 9


Tìm hiểu về tết của người Việt ở Đồng bằng sông Cửu Long.

PHẦN HAI: PHẦN NỘI DUNG.


SVTH: Trần Thị Thanh Hằng

Trang 10


Tìm hiểu về tết của người Việt ở Đồng bằng sông Cửu Long.

Chương một: Khái quát về Tết ở Đồng bằng sông Cửu Long.
1.1. Sơ lược về Đồng bằng sông Cửu Long.
1.1.1. Vị trí địa lí và điều kiện tự nhiên.
Khu vực Đồng bằng sông Cửu Long còn được gọi là miền Tây Nam Bộ. Tên
gọi này có từ thời lục tỉnh Nam Kỳ dưới triều vua Minh Mạng. Năm 1832, vua
Minh Mạng tiến hành một cuộc cải cách hành chính lớn trong cả nước. Khu vực
Nam Bộ được chia thành sáu tỉnh, trong đó miền Tây Nam Bộ (ngày nay gọi là
Đồng bằng sông Cửu Long) gồm: Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên.
Trải qua những thăng trầm lịch sử, địa giới hành chính của các tỉnh trong cả
nước có nhiều thay đổi. Khu vực Nam Bộ cũng có nhiều thay đổi theo. Tính đến
năm 2004, ở Đồng bằng sông Cửu Long có 13 đơn vị hành chính bao gồm: Long
An, Tiền Giang, Vĩnh Long, Trà Vinh, Bến Tre, Cần Thơ, Hậu Giang, Sóc Trăng,
Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang, An Giang và Đồng Tháp.
Đồng bằng sông Cửu Long có vị trí từ 110B đến 8030’B, nằm hoàn toàn
trong vùng nội chí tuyến Bắc và gần đường xích đạo cho nên khí hậu của khu vực
luôn điều hòa và ổn định. So với các vùng khác thì Đồng bằng sông Cửu Long có
khí hậu thuận lợi cho các hoạt động sản xuất nhất là sản xuất nông nghiệp, cho sinh
hoạt và điều kiện sống. Tuy nhiên cũng có những hiện tượng khí hậu và thời tiết
khó khăn nhưng cơ bản vẫn có những điều kiện thuận lợi hơn các vùng khác của cả
nước như: khí hậu nóng ẩm quanh năm, mưa đủ, nắng nhiều, ít thiên tai và thời tiết
thất thường. Biên độ nhiệt trung bình năm chỉ khoảng từ 1 -20C. Nhiệt độ trung
bình năm là 26,50C và không có tháng nào dưới 250C. Lượng mưa trung bình hằng
năm là 1600mm.

Tổng diện tích đất tự nhiên của Đồng bằng sông Cửu Long khoảng gần bốn
triệu ha, rộng hơn gấp ba lần đồng bằng sông Hồng, bằng 12% diện tích cả nước.
Hằng năm, sông Mêkông vào Việt Nam theo hai nhánh sông Tiền và sông Hậu đem
theo một lượng phù sa từ 200 đến 220 triệu tấn/năm trải dàn khắp mặt đồng bằng
làm cho đồng bằng càng thêm màu mỡ, phì nhiêu và trẻ lại.
Ba mặt giáp biển với nhiều đảo và quần đảo, miền Tây Nam Bộ đã trở thành
một vùng nuôi trồng và đánh bắt thủy – hải sản lớn của cả nước. Đồng bằng sông
Cửu Long còn là khu vực tiếp giáp với vùng biển của các nước Đông Nam Á khác
SVTH: Trần Thị Thanh Hằng

Trang 11


Tìm hiểu về tết của người Việt ở Đồng bằng sông Cửu Long.

như Singapores, Thái Lan, Malaysia, Philippines, Indonesia,… Đồng bằng sông
Cửu Long còn nằm trong khu vực có những đường giao thông hàng hải quốc tế
quan trọng, có vị trí là cửa ngõ quốc tế quan trọng (nối Đông Nam Á với Ấn Độ
Dương).
1.1.2. Lịch sử hình thành.
Từ xa xưa, tại vùng đất ngày nay gọi là Đồng bằng sông Cửu Long, theo
nghiên cứu của các nhà sử học thì nơi đây đã từng tồn tại một vương quốc khá phát
triển - vương quốc Phù Nam - với hoạt động kinh tế chủ yếu là buôn bán. Theo các
cứ liệu lịch sử và các hiện vật thời Phù Nam tìm thấy được đã cho thấy phạm vi
lãnh thổ của vương quốc Phù Nam khá rộng lớn, bao gồm từ vùng đèo Cả của Việt
Nam và bao trùm hết đất nước Campuchia ngày nay, một phần nước Lào, miền
Nam Thái Lan, bán đảo Mã Lai và cả vùng hải đảo rộng lớn phía Nam. Mặc dù địa
bàn rộng lớn nhưng nơi phát triển nhất của vương quốc này là cảng thị Óc Eo. Đây
là một cảng thị hình thành trước khi có sự ra đời của vương quốc Phù Nam. Những
phát hiện mới về các di vật thời kỳ văn hóa Óc Eo ở các tỉnh Long An, Đồng Tháp,

An Giang, Kiên Giang và một số địa điểm khác đã chứng tỏ vùng đất Nam Bộ là
trung tâm của vương quốc hùng mạnh Phù Nam và là minh chứng cho sự xuất hiện
con người đầu tiên trên vùng đất Nam Bộ.
Kinh tế chủ yếu của người Phù Nam là trồng trọt (trồng lúa nước), chăn
nuôi. Việc săn bắt thú rừng, đánh bắt thủy hải sản được duy trì và phát triển. Người
Phù Nam cũng khéo léo trong việc điêu khắc, chạm trổ, chế tạo đồ đá, làm đồ gốm,
đồ kim loại. Sản phẩm sản xuất ra khá đa dạng và tinh xảo. Ngoài ra để phục vụ
cho việc đi lại, cư dân Phù Nam cũng đã biết đóng thuyền. Hoạt động trao đổi buôn
bán diễn ra khá đa dạng. Vừa có sự trao đổi buôn bán giữa các miền trong nội địa
vừa có sự buôn bán với các nước trong khu vực.
Thế kỷ III – IV, Phù Nam và Óc Eo đã khống chế nền kinh thế thương mại
đường biển ở khu vực Đông Nam Á, đưa Phù Nam trở thành một đế quốc hàng hải.
Nhưng đến thế kỷ IV, cảng thị Óc Eo suy tàn. Phù Nam không còn thực lực mạnh
về kinh tế, dần dần cũng suy tàn theo. Lúc bấy giờ, một thuộc quốc của Phù Nam là
Chân Lạp mạnh lên, lợi dụng sự suy yếu của Phù Nam đã đánh bại Phù Nam thông
qua các cuộc chiến tranh, chiếm lấy vùng trung tâm kinh tế của Phù Nam. Như vậy
SVTH: Trần Thị Thanh Hằng

Trang 12


Tìm hiểu về tết của người Việt ở Đồng bằng sông Cửu Long.

từ thế kỷ VII đến thế kỷ XVII, Đồng bằng sông Cửu Long ngày nay là một bộ phận
của vương quốc Chân Lạp. Trên danh nghĩa, vùng đất này tuy thuộc sở hữu của
Chân Lạp (và được gọi là vùng đất Thủy Chân Lạp) nhưng thực tế thì chính quyền
Chân Lạp chưa xác lập thực quyền của mình tại vùng đất này. Hơn nữa, trong thời
gian này, Đồng bằng sông Cửu Long gần như rơi vào tình trạng hoang hóa, không
có sự hiện diện của con người. Tình trạng này kéo dài cho đến thế kỷ XVIII, Lê
Quý Đôn đã nhận xét rằng nơi đây từ khu vực Đồng Nai cho đến các của biển như

Cửa Tiểu, Cửa Đại toàn là rừng rậm.
Từ thế kỷ XVII, những lưu dân người Việt đã sớm từ vùng đất Thuận Quảng của chúa Nguyễn đến vùng đất Mô Xoài (Bà Rịa), Đồng Nai (Biên Hòa) để
khai khẩn đất hoang, lập làng, lập xã của những người Việt đầu tiên trên vùng đất
Nam Bộ. Điều này có thể phần nào cho chúng ta nhận thấy rằng vùng đất Mô Xoài
- Đồng Nai chính là nơi mở đầu cho công cuộc khai phá vùng đất mới, định cư lập
nghiệp của người Việt và là bàn đạp để mở rộng ra các vùng phụ cận và xuống sâu
hơn là Đồng bằng sông Cửu Long ngày nay.
Đến năm 1623, chúa Nguyễn sai sứ sang Chân Lạp xin lập đồn thu thuế ở
Prei Nokor và Krobey (tức là Sài Gòn và Bến Nghé) và đã được triều đình Chân
Lạp chấp thuận. Cũng trong khoảng thời gian này, tình hình chính trị ở Chân Lạp
không ổn định. Điều này không những không ảnh hưởng đến công cuộc khai phá
vùng đất Nam Bộ mà ngược lại, nó còn tạo điều kiện thuận lợi cho chính quyền
chúa Nguyễn dần dần thiết lập quyền kiểm soát chính thức của mình trên vùng đất
mà cư dân người Việt đã mở mang khai phá. Và cũng nhân cơ hội này lấn dần đất
của Chân Lạp.
Năm 1672, chiến tranh Trịnh – Nguyễn chấm dứt càng tạo điều kiện thuận
lợi hơn cho việc Nam tiến của tập đoàn phong kiến Nguyễn trong việc bình định,
kiểm soát, chiếm cứ và mở mang thêm đất đai cho tới vùng đất thuộc sông Tiền,
sông Hậu sau này.
Cùng với các cư dân người Việt sống tại vùng đất Nam Bộ, thời gian này
triều đình Mãn Thanh thay thế vai trò của nhà Minh ở Trung Quốc, một số quan lại
đại thần, quân lính trung thành với nhà Minh không chấp nhận sự thống trị của nhà
Thanh đã vượt biển đến Đàng Trong tìm đất sinh sống và gây dựng thế lực, chờ
SVTH: Trần Thị Thanh Hằng

Trang 13


Tìm hiểu về tết của người Việt ở Đồng bằng sông Cửu Long.


thời cơ thuận lợi sẽ trở về khôi phục lại triều đình nhà Minh. Sự việc này càng thúc
đẩy mạnh hơn quá trình khai phá và mở rộng thêm vùng đất Nam Bộ đến tận khu
vực Mỹ Tho (Tiền Giang).
Với khả năng buôn bán, thương mại của người Hoa và sự có mặt của lưu dân
người Việt có từ trước mà vùng đất từ Bà Rịa đến khu vực sông Tiền đã nhanh
chóng trở thành trung tâm kinh tế quan trọng với nhiều làng mạc trù phú, phố
phường sầm uất, hải cảng nhộn nhịp với thuyền buôn của người Trung Quốc, các
nước Phương Tây, Đồ Bàn… tấp nập ra vào buôn bán.
Trên cơ sở những làng mạc trù phú và kinh tế phát triển tại vùng đất Nam
Bộ, chúa Nguyễn đã sai thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược vùng đất
Đồng Nai vào năm 1698. Tại đây, Ông đã “Tách đất Đông Phố, lấy Đồng Nai (Lộc
Dã) làm huyện Phước Long (tức Biên Hòa), Sài Gòn làm huyện Tân Bình (tức Gia
Định), Các nơi đều đặt quan lưu giữ” [13,43]. Đất đai được mở rộng hơn nghìn
dặm. Quy tụ nhân dân các nơi lập làng, lập xóm.
Như vậy chủ quyền quản lý về mặt nhà nước của chính quyền họ Nguyễn
đối với các xứ Đồng Nai – Sài Gòn được chính thức sáp nhập vào lãnh thổ xứ Đàng
Trong. Các đơn vị hành chính và bộ máy chính quyền từ cấp dinh trấn cho đến các
xã, thôn được tổ chức. Quyền lực nhà nước trong việc quản lý đất đai, hộ khẩu, thu
thuế và trưng thu các nguồn lợi tự nhiên cũng như thu thuế qua lại trong việc trao
đổi buôn bán với thương nhân nước ngoài cũng được thực thi. Sự kiện năm 1698 đã
đánh dấu mốc quan trọng trong quá trình xác lập và thực thi chủ quyền của chính
quyền họ Nguyễn nói riêng và nước ta nói chung trên vùng đất Nam Bộ này.
Khi nói đến lịch sử hình thành vùng đất Đồng bằng sông Cửu Long thì
không thể không nhắc đến vai trò của Mạc Cửu ở Hà Tiên. “Cửu người Lôi Châu,
Quảng Đông. Nhà Minh mất, ông để tóc chạy sang Nam, đến Chân Lạp làm Ốc
Nha” [13, 44]. Vốn là thương nhân Hoa Kiều, và lại thường xuyên buôn bán với
các nước ở khu vực Đông Nam Á nên ông đã sớm nhận ra vị trí quan trọng và
thuận lợi của vùng đất Mang Khảm (mà sau này đổi thành Hà Tiên). Vì vậy ông đã
lưu ngụ lại, chiêu mộ dân xiêu tán ở các xứ đến khai phá đất đai, mở mang chợ búa,
phát triển thương mại, biến một vùng đất vốn hoang sơ trở thành một đô thành sầm

uất với các hoạt động thương mại là chủ yếu.
SVTH: Trần Thị Thanh Hằng

Trang 14


Tìm hiểu về tết của người Việt ở Đồng bằng sông Cửu Long.

Lúc đầu, vùng đất Hà Tiên dưới sự cai quản của Chân Lạp nhưng đến năm
1708, nhận thấy rằng Chân Lạp không đủ sức bảo vệ vùng đất này tránh khỏi
những sách nhiễu của người Xiêm. Mạc Cửu quyết định dâng đất sáp nhập vào lãnh
thổ của xứ Đàng Trong, quy phục chúa Nguyễn. Với hy vọng rằng với sức mạnh
của chính quyền họ Nguyễn lúc bấy giờ có thể bảo vệ được vùng đất này,
Vùng đất Hà Tiên được sáp nhập vào lãnh thổ của Đàng Trong đã đánh dấu
một bước phát triển quan trọng trong quá trình mở rộng chủ quyền của chúa
Nguyễn trên vùng đất Nam Bộ. Như vậy, đến thế kỷ XVIII, chủ quyền của Việt
Nam đã mở rộng đến tận Hà Tiên và mũi Cà Mau, và cả các hải đảo ngoài Biển
Đông cũng như vịnh Thái Lan.
Sau khi Mạc Cửu mất, Mạc Thiên Tứ tiếp tục sự nghiệp của Mạc Cửu và
được chúa Nguyễn phong làm đô đốc trấn Hà Tiên. Mạc Thiên Tứ không chỉ ra sức
xây dựng, phát triển Hà Tiên trở thành trung tâm kinh tế phồn thịnh mà còn nêu cao
ý thức bảo vệ chủ quyền với tư cách là người được giao nhiệm vụ bảo vệ vùng đất
cực Nam của đất nước. Đại Nam Thực Lục cho biết vào năm 1739 “Nặc Bồn nước
Chân Lạp lấn Hà Tiên... Thiên Tứ đem hết quân bản hộ ra đánh, đuổi tới Sài Mạt,
ngày đêm đánh đến hăng, lương thực không tiếp kịp. Vợ là Nguyễn Thị đốc suất vợ
lính vận lương đến nuôi quân, quân không bị thiếu ăn, hăng hái cố đánh phá được
quân Bồn. Tin thắng trận báo lên, chúa cả khen ngợi, đặc biệt cho Thiên Tứ chức
đô đốc tướng quân, ban cho áo bào đỏ và mũ đai, phong Nguyễn Thị làm phu nhân.
Do đó Chân Lạp không dám dòm ngó Hà Tiên nữa.”[ 4, 10]
Từ ngày được sáp nhập vào lãnh thổ của xứ Đàng Trong, vùng đất Hà Tiên

ngày càng hưng thịnh hơn với các hoạt động buôn bán sầm uất. Và đã trở thành nơi
mà nhiều thế lực phong kiến trong vương triều Chân Lạp tìm đến với hy vọng được
giúp đỡ. Trong giai đoạn này, các vùng đất Tầm Đôn, Soi Rạp, Trà Vinh, Baxac,
Tầm Phong Long (tức là vùng đất An Giang ngày nay),… lần lượt được sáp nhập
vào lãnh thổ của xứ Đàng Trong.
Như vậy về cơ bản đến năm 1757 Nam bộ đã trở thành một bộ phận của lãnh
thổ xứ Đàng Trong dưới thời của các chúa Nguyễn.

SVTH: Trần Thị Thanh Hằng

Trang 15


Tìm hiểu về tết của người Việt ở Đồng bằng sông Cửu Long.

1.2. Một số khái niệm về Tết.
Tết Nguyên Đán (hay còn gọi là Tết cả) là Tết cổ truyền lớn, có từ lâu đời
của người Việt.
Từ xa xưa, cha ông ta đã cử hành lễ Tết một cách trang trọng. Trong một
năm, Tết Nguyên Đán được xem là mốc thời gian kết thúc mọi công ăn việc làm
của một năm cũ và mở đầu cho một năm mới.
“Nguyên” trong tiếng Hán có nghĩa là “đầu tiên”, còn “Đán” là “buổi sớm”.
Vì vậy Tết Nguyên Đán mang ý nghĩa khởi đầu cho một năm mới theo âm lịch.
Mỗi dân tộc đều có một lịch riêng để tính ngày, tháng trong năm. Với những
nước ở phương Đông có truyền thống trồng lúa nước, vì nhu cầu phải tính thời gian
để gieo trồng cho đúng thời vụ thì họ dựa theo sự vận chuyển của mặt trăng để tính
lịch. Có nhiều loại âm lịch như lịch Ai Cập, lịch Hy Lạp, lịch Trung Hoa… lịch âm
của nước ta được tính giống như lịch âm của Trung Quốc nhưng không phải là sử
dụng lịch âm của người Trung Quốc. Ngay từ khi nước ta còn là một quốc gia theo
chế dộ quân chủ chuyên chế, đứng đầu là vua thì nước ta cũng đã tính được lịch

thông qua việc quan sát sự vận chuyển của mặt trăng và các ngôi sao trên bầu trời.
Phép làm lịch của ta cũng giống với Trung Quốc nhưng không phải sao chép y bản
của lịch Trung Quốc.
Không ai biết Tết có từ bao giờ, mà chỉ biết rằng mỗi năm đều cùng với mọi
người đón một cái Tết trong không khí hạnh phúc, ấm nồng của ngày xuân. Với
bánh chưng, bánh tét, với những thứ hàng quà mà chỉ khi đến Tết mới có. Cái
không khí ấm áp được cùng với cả gia đình sum họp ăn bữa cơm chung vui mà
trong năm đôi lúc muốn cũng không có được. Cái khao khát chờ mong đến Tết để
được đi chơi, chúc Tết họ hàng ở xa. Nhưng không ai hỏi rằng Tết có tự bao giờ?
Tết có nguồn gốc ở đâu?
Theo sử sách của Trung Quốc thì Tết có từ thời Tam Hoàng Ngũ Đế và được
thay đổi theo từng thời kỳ của lịch sử Trung Quốc. “Đời Tam Vương, nhà Hạ
chuộng màu đen nên chọn tháng Giêng, tức tháng Dần. Nhà Thương thích màu
trắng nên lấy tháng Sửu, tức tháng Chạp làm tháng đầu năm. Nhà Chu ưa sắc đỏ
nên chọn tháng Tý, tức tháng mười một, làm tháng Tết. Các vua chúa nói trên quan
niệm về ngày giờ tạo thiên lập địa như sau: giờ Tý thì có trời, giờ Sửu thì có đất,
SVTH: Trần Thị Thanh Hằng

Trang 16


Tìm hiểu về tết của người Việt ở Đồng bằng sông Cửu Long.

giờ Dần sinh loài người nên đặt ra ngày Tết khác nhau”. “Đời nhà Đông Chu,
Khổng Phu Tử đổi ngày Tết vào một tháng nhất định là tháng Dần. Đời nhà Tần
(Thế kỷ 3 trước công nguyên), Tần Thủy Hoàng lại đổi qua tháng Hợi, tức tháng
mười. Cho đến khi nhà Hán, Hán Vũ Đế (140 trước công nguyên) lại đặt ngày Tết
vào tháng Dần, tức tháng Giêng. Từ đó về sau, trải qua bao nhiêu thời đại, không
còn nhà vua nào thay đổi về tháng Tết nữa”.
Sử sách còn cho biết rằng, Đông Phương Sóc – một văn nhân Trung Hoa –

cho rằng “ngày tạo thiên lập địa có thêm giống Gà, ngày thứ hai có thêm Chó, ngày
từ ba có Lợn, ngày thứ tư sinh Dê, ngày thứ năm sinh Trâu, ngày thứ sáu sinh
Ngựa, ngày thứ bảy sinh loài Người và ngày thứ tám thì sinh ra ngũ cốc” [11, 9].
Vì theo truyền thống cho nên ngày Tết được tính từ mồng một cho đến mồng bảy
tháng Giêng.
Lịch Trung Quốc ra đời từ thời Tam Hoàng Ngũ Đế và được hoàn chỉnh vào
thời nhà Hạ (thế kỷ XXI TCN – XVIII TCN) tức vào khoảng thời gian từ 2205
TCN – 1818 TCN. Họ Hồng Bàng ở nước ta thì có từ năm 2075 TCN. Nước ta
trong giai đoạn này vẫn còn sơ khai, phong tục chưa nhiều. Có lẽ trong giai đoạn
này, nước ta vẫn chưa có tục đón năm mới mà tục này có lẽ được du nhập từ Trung
Quốc trong thời gian hơn một ngàn năm đô hộ, cai trị của người phương Bắc. Hai
nhân vật có ảnh hưởng rất lớn trong việc truyền bá văn hóa Hán vào nước ta là Tích
Quang và Nhâm Diên thông qua chính sách đồng hóa về mặt văn hóa của nhà Hán.
Như vậy, Tết có nguồn gốc từ Trung Quốc và được nước ta tiếp nhận, mạnh
mẽ nhất là trong thời gian hơn một ngàn năm Bắc thuộc. Hằng năm lễ Tết đều được
tổ chức và dần dần trở thành một nét văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Ngày Tết mang lại cho kho tàng văn hóa dân tộc một giá trị sâu sắc. Nó mang một
ý nghĩa rất đậm tính dân tộc.
Theo phong tục cổ truyền của Việt Nam, Tết Nguyên Đán là Tết của gia
đình. Trong những ngày này, dù ai buôn bán trăm nghề cũng đều nghỉ làm việc và
cùng cả nhà sum vầy, đoàn tụ. Những người đi làm hay đi học nơi xa cũng thường
để dành tiền và thời gian để về ăn Tết với gia đình. Vì quan niệm rằng, mấy ngày
đầu năm mà không trở về với gia đình được thì trong suốt năm đó, họ sẽ long đong
lận đận và thường xuyên xa gia đình.
SVTH: Trần Thị Thanh Hằng

Trang 17


Tìm hiểu về tết của người Việt ở Đồng bằng sông Cửu Long.


Không chỉ có những người còn sống mới về quây quần, đoàn tụ với gia đình,
mà ngày Tết cũng được xem là ngày đoàn tụ của những người đã khuất. Ngày Tết
cũng là ngày mọi người dâng hương lễ phật, cầu mong thần thánh ban cho họ nhiều
ân phước như sức khỏe, tiền tài, may mắn, hạnh phúc.
Ngày Tết là ngày đầu tiên của năm mới. Năm mới thì mọi thứ từ vật chất đến
tinh thần cũng đều phải mới thì cái may, cái hên mới đến với gia đình mình. Nhà
cửa được trang trí, dọn dẹp, sơn sửa lại. Người lớn cũng như trẻ em thường mặc bộ
quần áo mới nhất, đẹp nhất. Mọi nợ nần đều được thanh toán trước khi bước vào
năm mới. Những buồn phiền, xích mích với nhau trong năm cũ đều được bỏ qua và
vui vẻ với nhau. Vì người ta tin rằng, năm mới vui vẻ thì cả năm sẽ gặp được nhiều
điều tốt đẹp.
Ngày Tết là ngày của hy vọng. Mọi người đều hy vọng khi bước sang năm
mới thì đều gặp nhiều may mắn hơn năm cũ. Mọi xui xẻo trong năm vừa qua sẽ qua
hết và năm mới sẽ đem lại nhiều điều tốt lành đối với mọi người hơn.
Ngày Tết cũng là ngày mọi người kính nhớ đến ông bà tổ tiên của mình. Vì
trong suốt một năm vừa qua, nhờ ân đức của tổ tiên mà họ được an lành. Và cũng là
ngày mà mọi người cám ơn nhau. Con cái cám ơn cha mẹ đã nuôi dưỡng mình,
nhân viên cảm ơn cấp trên đã cho mình công ăn việc làm, cho mình phát huy khả
năng của mình, lãnh đạo cám ơn những người đã cộng tác, giúp mình trong suốt
năm qua.

SVTH: Trần Thị Thanh Hằng

Trang 18


Tìm hiểu về tết của người Việt ở Đồng bằng sông Cửu Long.

Chương hai: Tết của người Việt ở Đồng bằng sông Cửu Long.

2.1. Các công việc chuẩn bị cho Tết.
2.1.1. Trang trí nhà cửa, chùa chiền, nhà thờ, cơ quan xi nghiệp.
Năm hết Tết đến, ai ai cũng muốn mọi điều tốt lành sẽ đến với gia đình
mình. Vì vậy, mọi nhà đều được trang trí, sơn sửa lại cho sáng, cho đẹp hơn. Mặt
khác để cho khỏi phải thấy ngại ngần khi có khách viếng thăm, chúc Tết gia đình
mình trong những ngày đầu xuân. Công việc này được thực hiện trước hoặc sau khi
đưa Ông Táo về trời nhưng ít nhất cũng được hoàn thành trước lúc giao thừa. Có
nhà thì được xây lại cho mới. Những nhà kiên cố thì thay nước sơn mới, quét vôi
cho nhà được mới hơn. Không chỉ có nhà mà ngay cả hàng rào, cổng ngõ trước nhà
và xung quanh nhà cũng được sơn sửa, trang trí lại.
Các vật dụng trong nhà đều được lau chùi sạch sẽ và được sắp xếp gọn gàng.
Trong nhà cũng được trang trí vài chậu cảnh hoặc chậu mai vàng nhằm tạo cảm
giác thoải mái, ấm êm cho ngôi nhà trong những ngày đầu xuân. Xung quanh nhà,
đặc biệt là mặt trước của ngôi nhà được quét dọn sạch sẽ, đôi khi cũng được sắp
xếp vài chậu cây, chậu hoa nếu như chưa có trồng cây trước nhà. Nếu có cây thì
những cây ấy cũng được cắt tỉa gọn gàng.
Tại những xí nghiệp, cơ quan, trường học, bệnh viện,… cũng có những đội
ngũ làm công việc này trước khi cơ quan, xí nghiệp, trường học đó nghỉ Tết. Cũng
giống như gia đình, có lẽ lãnh đạo cơ quan, xí nghiệp,… cũng mong muốn trong
năm mới, nơi mình làm việc cũng gặp được nhiều may mắn, thuận lợi hơn.
Những nơi thờ phụng, phục vụ cho nhu cầu tín ngưỡng như nhà thờ, chùa
chiền, đền, miếu,… cũng được mọi người quan tâm. Đây là nơi cử hành nghi lễ tôn
giáo, là nơi chung mọi người ai cũng có thể đến nên mọi người có ý thức, trách
nhiệm với nơi này. Vì vậy, những ngày giáp Tết, dù việc nhà có bận rộn đến mấy
thì cũng giành chút ít thời gian, cùng nhau dọn dẹp, trang trí lại nơi này.
2.1.2. Dọn dẹp, trưng bày trên các bàn thờ.
2.1.2.1. Bàn thờ tổ tiên
Ngày Tết ai cũng nghĩ về tổ tiên. Vì vậy gia đình nào trong khi dọn dẹp lại
nhà cửa cũng đều không quên lau chùi, trang trí lại bàn thờ tổ tiên, bàn thờ Phật,
Chúa tùy theo tín ngưỡng, tôn giáo của từng gia đình. Bàn thờ tổ tiên là nơi tưởng

SVTH: Trần Thị Thanh Hằng

Trang 19


Tìm hiểu về tết của người Việt ở Đồng bằng sông Cửu Long.

nhớ và cũng là thế giới thu nhỏ của những người đã khuất. Cũng giống như bàn thờ
của những gia đình theo Phật giáo ở miền Bắc, miền Trung, bàn thờ thường được
đặt ở vị trí quan trọng trong nhà, nơi mà khi bước vào nhà, thứ mà ai cũng dễ dàng
thấy trước tiên đó là bàn thờ tổ tiên. Thường thì với kiến trúc nhà ba gian ở Nam
Bộ, bàn thờ được đặt ở gian giữa. Trước bàn thờ là một bộ ghế dài dùng để tiếp
khách, hai bên bàn thờ là hai cánh cửa để đi vào hai phòng hoặc một phòng phía
sau. Ngày nay, vì nhà được xây dựng theo nhiều kiểu kiến trúc khác nhau đôi khi
cũng không còn là nhà ba gian mà là một gian có lầu hoặc gác, hoặc hai gian. Vì
vậy bàn thờ có thể đặt ở nhiều vị trí khác nhau. Nhưng nhìn chung thì bàn thờ của
người Việt dù ở thành thị hay nông thôn cũng được đặt ở vị trí mà bước vào nhà
đều có thể dễ dàng nhìn thấy đầu tiên. Thường là ở phòng khách vì người Việt Nam
không có phòng dành riêng cho việc thờ tự.
Người ta quan niệm rằng, hai cây đèn trên bàn thờ tượng trưng cho mặt trời,
mặt trăng. Nhang (hương) là tượng trưng cho tinh tú. Ngoài ra còn cho rằng, trục
đứng của nhang được xem là mạch nối giữa trời và đất. Hai bên lư hương, ở phía
sau hai cây đèn thường có hai cành hoa cúc giấy với những bông hoa nhỏ bao
quanh một bông lớn. Hai cành hoa này tượng trưng cho ngày âm, dương. Xen giữa
hai cây đèn và hương là hai đĩa để đặt quả lễ, bánh trái. Phía trước lư hương để một
bát nước trong coi như nước thiêng. Ở miền Bắc, trên bàn thờ thường có một cành
đào được cắm xinh xắn trong một chiếc bình cao cổ. Nhưng ở miền Nam, vì điều
kiện địa lí nên không có hoa đào mà thay vào đó là hoa mai.
Với quan niệm năm mới đến thì mọi vật đều phải mới, cho nên bàn thờ cũng
được chú ý nhiều. Thường thì người ta mua sắm, thay mới những vật dụng cần thiết

như: nến (đèn cầy), nhang, …, còn những gì có thể sử dụng lâu dài như: lư hương,
chân đèn, ly, chén,… thì có thể làm mới bằng cách lau chùi, đánh bóng lại cho
sáng, cho mới. Di ảnh (nếu có) cũng được lau chùi lớp bụi bên ngoài cho ảnh được
sáng hơn, đẹp hơn.
Hoa chưng trên bàn thờ nếu được thì có thể thay thế bằng một bình hoa mới,
nếu là hoa tươi thì thay thường xuyên. Nhưng ngày nay, bên cạnh việc chưng hoa
tươi, hoa khô, hoa vải cũng được dùng nhiều. Vì vậy để đỡ tốn kém, hoa vải được
giặt rửa cho sạch lớp bụi để sáng và mới như khi mới mua về.
SVTH: Trần Thị Thanh Hằng

Trang 20


Tìm hiểu về tết của người Việt ở Đồng bằng sông Cửu Long.

Khi được lau chùi sạch sẽ xong, bàn thờ cũng được trang trí trang hoàng
hơn. Trên bàn thờ có mâm ngũ quả, bánh, mứt,… Ngoài mâm ngũ quả, trên bàn thờ
cũng có thể trưng bày các loại trái cây như: bưởi, quýt, dưa hấu, na, hồng, … Đặc
biệt ngày Tết trên bàn thờ tổ tiên thường có một cặp dưa hấu to, tròn, da xanh
mượt, trên thân dưa có dán chữ “phúc”, chữ “lộc”, chữ “thọ” để tăng thêm không
khí thiêng liêng, trang trọng và ấm cúng cho gia đình.
Ngoài ra, kể từ đêm giao thừa, ông bà tổ tiên đã khuất cũng được con cháu
thỉnh về để cùng với con cháu chào đón một năm mới. Vì vậy trong những ngày
này, nhà nhà đều làm mâm cơm cúng ông bà. Với những gia đình công giáo thì
không làm mâm cơm cúng ông bà mà ngoài lư hương, đèn, di ảnh trên bàn thờ,
cũng có chưng hoa, trái cây, bánh, mứt,…
2.1.2.2. Các bàn thờ khác trong gia đình.
Ngoài ra còn trong gia đình còn có các bàn thờ khác như bàn thờ Thiên
Chúa, bàn thờ Phật, bàn thờ Quan Âm, Thần Tài, Ông Táo,… dù theo đạo Thiên
chúa hay theo đạo Phật thì bao giờ hai bàn thờ này cũng được để cao hơn bàn thờ tổ

tiên. Còn các bàn thờ khác tùy chức năng của các vị thần mà chủ nhà thờ mà có các
vị trí để khác nhau. Khi đến Tết, các bàn thờ này cũng được dọn dẹp và bày trí lại.
Trên bàn thờ cũng có tượng, ảnh, lư hương, chân đèn và các vật dụng phục vụ cho
lễ nghi khác,… Tất cả đểu được lau chùi sạch sẽ. Và cũng có một cành đào hay
cành mai hoặc một vài bông cúc ở bên cạnh bàn thờ.
2.1.3. Mâm ngũ quả.
Trên bàn thờ tổ tiên trong những ngày Tết, ngoài nhang, đèn, hoa thì bao giờ
cũng có một đĩa trái cây để trên đó gọi là “mâm ngũ quả”. Ở miền Bắc có tục gói
bánh chưng nên mâm ngũ quả thường được đặt ở giữa bàn thờ, hai bên là hai cặp
bánh chưng. Ở miền Nam, mọi người chuộng bánh Tét hơn nên trên bàn thờ sẽ có
một đĩa đựng một cặp hoặc ba, bốn đòn bánh. Vì vậy mâm ngũ quả ở miền Nam
thường được đặt kế bên đĩa bánh Tét.
Mâm ngũ quả được đặt trên một cái đĩa to hoặc trên đĩa nhựa ở phía dưới có
chân. Mâm ngũ quả có năm loại tương ứng với quan niệm ngũ hành: Kim, Mộc,
Thủy, Hỏa, Thổ. Mâm ngũ quả cũng là tượng trưng cho năm lời chúc: Phúc, Lộc,
Thọ, Khang, Ninh. (Phúc: Ước mong gia đình sum họp, đông vui, hạnh phúc. Lộc:
SVTH: Trần Thị Thanh Hằng

Trang 21


Tìm hiểu về tết của người Việt ở Đồng bằng sông Cửu Long.

Cầu cho nhà được hưởng sự no đủ trong cuộc sống quanh năm. Thọ: Ước mong
trọn đời khỏe mạnh, sống trăm tuổi. Khang: An khang, an nhàn, tự tại, luôn minh
mẫn, hoạt bát trong suốt năm. Ninh: Mong ước gia đình ấm êm, tai qua nạn khỏi
của cả gia đình và nhà cửa). Mâm ngũ quả còn thể hiện cho hương vị cuộc sống:
ngọt, bùi, chua, cay, đắng (ngũ vị). Mâm ngũ quả cũng được xem là “thành quả”
của quá trình lao động trong suốt một năm. Vì vậy mâm ngũ quả cúng trong đêm
giao thừa mang một ý nghĩa sâu sắc, nó thấm sâu trong tâm thức người Việt ý niệm

dâng lên trời đất mồ hôi, công sức lao động nhọc nhằn của mình.
Mâm ngũ quả có năm loại quả (trái cây) nhưng tùy vùng, miền và mùa mà
có các loại quả khác nhau. Trên mâm ngũ quả của người Việt ở miền Bắc thường
có phật thủ, nếu không có phật thủ thì thay bằng bưởi, và có thêm đào, quýt, hồng,
chuối,… Nhưng ở miền Nam, do cách phát âm của địa phương nên mâm ngũ quả
thường gồm mãng cầu, sung, dừa xiêm, đu đủ, xoài với mong muốn rằng trong năm
mới này họ chỉ mong được “cầu – sung – vừa – đủ - xài”. Vì vậy mâm ngũ quả
thường không có chuối, cam, lê.
Trên mâm ngũ quả, mỗi loại chỉ cần một quả, còn riêng sung, nếu không có
thì có thể thay bằng quả khác cũng có chùm nhiều trái giống sung như nho, nhãn,…
Trái chưng không nhất thiết phải là những quả chín mà chỉ cần dùng được. Vì trái
trên mâm ngũ quả chỉ mang tính tượng trưng để thể hiện mong muốn của con
người trong năm mới. Ở miền Bắc, mâm ngũ quả đi với cành đào, bánh chưng, câu
đối, tràng pháo làm cho cái Tết trở nên ấm cúng hơn. Nhưng ngược lại, mâm ngũ
quả của miền Nam thì lại đi với cành mai vàng, với cặp dưa hấu, và đôi đòn bánh
tét. Nó mang lại ý nghĩa trong năm mới sẽ gặp nhiều may mắn (mai), mọi sự như ý,
vạn sự cát tường. Ngày nay với công nghệ tiên tiến, người ta đã tạo ra được những
giống cây trái trái mùa, không còn “mùa nào thì thức ấy” nữa nhưng người miền
Nam vẫn thích chưng cầu, dừa, đủ, xoài, sung hơn.
Nhưng không phải nhà nào cũng chưng năm loại quả kể trên mà ngược lại,
những người miền Bắc di cư vào miền nam sau này vẫn còn giữ lại nét quê hương,
họ chỉ chưng một hoặc hai, ba loại trái giống như người Việt ở miền Bắc như:
hồng, cam, quýt, bưởi,… Hoặc đôi khi họ cũng xen kẽ giữa các loại quả của miền
Nam và miền Bắc như trên mâm có xoài, sung, cam, quýt,…
SVTH: Trần Thị Thanh Hằng

Trang 22


Tìm hiểu về tết của người Việt ở Đồng bằng sông Cửu Long.


Ngoài mâm ngũ quả, trên bàn thờ cũng có thể trưng bày các loại trái cây
như: bưởi, cam, quýt, dưa hấu, na,… Đặc biệt ngày Tết, trên bàn thờ tổ tiên thường
có một cặp dưa hấu to, tròn, da xanh mượt, trên thân dưa có dán chữ “phúc”, chữ
“lộc”, chữ “thọ” để tăng thêm không khí thiêng liêng, trang trọng và ấm cúng cho
gia đình.
2.1.4. Cây nêu.
Cú kêu ba tiếng cú kêu
Trông mau tới Tết dựng nêu ăn chè.
Cây nêu là cây tre dài 5 – 6 mét được dựng trước sân nhà từ ngày tiễn Ông
Táo về trời. Cây tre được tước hết cành, nhưng có để lại ở ngọn những cụm lá hoặc
buộc vào đó một túm lông gà trống, có nơi treo phướn (cờ) tượng trưng cho ngũ
hành (hành kim: trắng, hành thổ: màu vàng, hỏa: màu đỏ, thủy: màu đen, mộc: màu
xanh). Gần đỉnh treo một cái vòng tre, những chiếc chuông con và khánh bằng đất
sét nung – tượng trưng cho bát quái. Khi gió thổi, nó phát ra âm thanh nhẹ và êm
như tiếng chuông gió. Dưới cái vòng này có buộc một chiếc mũ thần, những thoi
vàng bằng giấy, những miếng trầu, lá dứa hoặc cành xương rồng gai. Ở đỉnh còn
treo một cái đèn nhỏ thắp ban đêm. Tùy theo từng địa phương mà trên cây nêu có
treo những thứ khác nhau. Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức có ghi
lại: “Ngày trừ tịch, ở trước cửa lớn mọi nhà đều dựng một cây tre, trên buộc cái giỏ
bằng tre, trong giỏ đựng trầu, cau, vôi, ở bên giỏ có treo giấy bạc, gọi là dựng nêu”.
[12, 182]. Trên cây nêu còn gắn thêm một dải pháo dài, đêm trừ tịch, người ta đốt
pháo để mừng năm mới, để xua đuổi ma quỷ, những điều không may. Ngày xưa
không có đèn điện như bây giờ, có lẽ đốt pháo cũng nhằm lấy ánh sáng của tràng
pháo để chỉ đường cho ông bà về ăn Tết với con với cháu.
Ánh sáng của bóng đèn hay của tràng pháo, cành gai, âm thanh của những
chiếc khánh đất làm cho ma quỷ sợ hãi mà không dám làm hại gì đến con người.
Ngoài ra bên trên ngọn cây nêu còn có treo một tấm phên nhỏ gồm bốn nan dọc
đan với năm nan ngang. Tấm phên này cũng nhằm mục đích xua đuổi ma quỷ.
Cây nêu được dựng từ ngày 23 tháng Chạp cho đến trước đêm giao thừa thì

việc dựng nêu phải hoàn tất. Dân gian quan niệm rằng từ ngày Ông Táo về trời (23
tháng Chạp) đến 30 tháng Chạp là những ngày vắng mặt Táo Quân, nên ma quỷ
SVTH: Trần Thị Thanh Hằng

Trang 23


Tìm hiểu về tết của người Việt ở Đồng bằng sông Cửu Long.

nhân cơ hội này về quấy nhiễu nhân dân. Cho nên trong nhân gian có quan niệm
rằng trồng nêu là muốn báo cho ma quỷ biết đây là nhà đã có chủ. Quan niệm này
xuất phát từ sự tích ngày xưa truyền lại. Truyện kể rằng, ngày xưa, khi con người
phải sống chung với ma quỷ. Mà ma quỷ luôn ra sức ức hiếp con người. Những
vùng đất đai tốt đều bị chúng chiếm hết, chỉ còn lại những vùng đất xấu do con
người canh tác nhưng chúng bảo đó là đất của chúng và hằng năm, con người phải
nộp thuế cho chúng. Cuộc sống của con người ngày càng cơ cực, nên mọi người
ngày đêm cầu trời khẩn Phật che chở. Phật liền ra tay cứu giúp, mách bảo cho con
người những phương cách chống lại sự áp bức của lũ quỷ. Nhưng lũ quỷ ngày càng
quá quắt, chúng đòi lại đất đai, không cho con người canh tác nữa. Đến đây Phật
xin cho con người làm chủ một miếng đất chỉ rộng bằng bóng của chiếc áo cà sa và
chúng đã chấp thuận. Phật tung chiếc áo sà sa lên trên cây tre cao, bóng của chiếc
áo dần dần che kín hết mặt đất, đuổi lũ quỷ ra đến Biển Đông. Từ đó, hằng năm,
con người đều dựng cây nêu để nhắc lại cho lũ quỷ nhớ giao ước với con người.
Việc dựng cây nêu mỗi dịp xuân về được nhân dân Nam Bộ đúc kết lại qua
những câu vè sau:
“Phải dùng cây trước (trúc)
Lấy nó làm nêu.
Thiên hạ cũng đều.
Lo trưng đồ đạc.
Sơ tam chánh ngoạt.

Canh giữ thường lai.” [1, 149]
Đến ngày mồng bảy Tết, sau khi làm lễ cúng trời đất, thì hạ cây nêu xuống.
Sự kiện này được gọi là Khai hạ. Đây được xem là thời điểm chấm dứt Tết, và mọi
người lại trở về với cuộc sống thường ngày. Ngày nay, không còn thấy xuất hiện
cây nêu trong những ngày Tết nữa và do cuộc sống nhiều bận rộn, lo toan nên hầu
như hết ngày mồng ba Tết thì cũng như hết Tết. Do đó tập tục dựng nêu và lễ cúng
trời đất trong ngày Khai hạ dường như mất hẳn. Thế hệ trẻ không có ấn tượng gì
với hình bóng của cây nêu, mà chỉ biết về nêu qua tranh, ảnh, sách vở ghi chép lại.
Thiết nghĩ rằng, ngày nay chúng ta nên tiến hành việc dựng nêu trong những ngày
Tết. Vì cây nêu là hình ảnh đẹp, biểu trưng cho Tết.
SVTH: Trần Thị Thanh Hằng

Trang 24


Tìm hiểu về tết của người Việt ở Đồng bằng sông Cửu Long.

2.1.5. Câu đối.
Người Việt ở miền Bắc xưa khi Tết đến thì có tục đến xin ở cụ Nghè, cụ Cử
hay những người hay chữ vài chữ trên giấy hồng điều gọi là câu đối để treo trong
nhà cho những ngày xuân thêm trang hoàng.
Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ
Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh
Có thịt, có dưa hành, có nêu, có pháo nhưng không có câu đối đỏ thì không
làm cho không khí ngày xuân thêm ấm cúng được. Câu đối được viết bằng chữ Hán
trên những tấm giấy đỏ hay hồng đào nên được gọi là câu đối đỏ. Câu đối cũng
được gọi là liễn. Liễn thường là những dải giấy màu đỏ hay hồng đào, hai đầu dải
giấy có làm trục bằng tre hay gỗ để khi treo lên thì dải câu đối được ngay ngắn. Có
khi liễn không cần có trục mà chỉ là những dải giấy để tiện dán vào những nơi cần
treo như hai bên bàn thờ, các cột nhà, cổng hay ngõ.

Ngày trước ở miền Bắc, cứ mỗi độ xuân về, hình ành “ông đồ già” ngồi viết
thuê lại xuất hiện.
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua
Khoảng mười ngày trước Tết, những ông đồ này thuê góc các mặt cửa hàng
hay vỉa hè hoặc một góc phố nào đó để bán những dải giấy đỏ với những câu đối
hay những bức hoành phi, hoặc viết lên trên giấy mà người khác đem lại.
Câu đối thuộc thể văn biền ngẫu gồm hai câu có số chữ bằng nhau và được
đối cả về câu lẫn về ý. Câu đối được viết trên hai dải giấy hồng điều bằng mực tàu
nhũ kim (loại mực lấp lánh vàng hay bạc). Người viết câu đối thường là những ông
đồ theo học chữ Hán và có văn hay, chữ đẹp. Câu đối được viết trên giấy đỏ gọi là
câu đối đỏ. Vì sao câu đối lại không viết trên những giấy màu khác mà phải là màu
đỏ (trừ những nhà đang có tang thì dùng giấy màu xanh hay vàng)? Vì dân gian
quan niệm rằng màu đỏ là màu của sức sống mãnh liệt, màu đỏ còn là màu của may
mắn. Treo câu đối trong nhà trong những ngày Tết mang ý nghĩa mong muốn sẽ
gặp may mắn, thuận lợi trong suốt năm.
SVTH: Trần Thị Thanh Hằng

Trang 25


×