Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

Đề tài Quản lý giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (285.62 KB, 37 trang )

UỶ BAN NHÂN DÂN TỈNH HÀ TĨNH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÀ TĨNH

VÕ THỊ THANH LỊCH

THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ CHỈ ĐẠO CÔNG TÁC KIỂM TRA ĐÁNH
GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP CỦA HỌC SINH
TRƯỜNG TIỂU HỌC THẠCH TRUNG II-THÀNH PHỐ HÀ TĨNH

(Bài tập nghiên cứu khoa học quản lý giáo dục)

Cán bộ hướng dẫn:
ThS. Nguyễn Thị Hương Giang

Hà Tĩnh, tháng 2 năm 2009

2


MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Mục đích dạy học ở trường tiểu học là làm cho học sinh chiếm lĩnh được hệ
thống tri thức, kỹ năng cơ bản phù hợp với thực tiễn, trên cơ sở đó hình thành và
phát triển nhân cách toàn diện cho học sinh.
Trong quá trình dạy học, kiểm tra - đánh giá là nhân tố quan trọng không thể
thiếu, nó tạo ra mối liên hệ nghịch, là đòn bẩy thúc đẩy việc lĩnh hội tri thức để đạt
được mục tiêu đã đề ra. Chính vì vậy, quản lý việc kiểm tra đánh giá tri thức, kỹ
năng, kỹ xảo của học sinh là giúp cho giáo viên và học sinh biết kiểm tra, đánh giá
và tự kiểm tra, đánh giá trong hoạt động dạy và học của mình.
Kiểm tra, đánh giá còn có tác dụng giúp cho người quản lý nắm được tình
hình thực hiện và hiệu quả của các quyết định quản lý, nắm được chất lượng dạy


và học của các đối tượng để điều chỉnh các quyết định quản lý cho phù hợp.
Như vậy, kiểm tra - đánh giá chính là đòn bẩy thúc đẩy phong trào giảng dạy
và học tập trong nhà trường nói chung và trường tiểu học nói riêng.Do đó nếu
không có sự chỉ đạo, kiểm tra chặt chẽ trong công tác đánh giá kết quả học tập của
học sinh thì sẽ có những ảnh hưởng của mặt trái cơ chế thị trường như hiện tượng
chạy điểm, xin điểm, dạy thêm, học thêm tràn lan…
Xác định được tầm quan trọng đó, tại trường tiểu học Thạch Trung 2,chúng
tôi không ngừng đổi mới phương pháp chỉ đạo công tác kiểm tra đánh giá, sự nổ
lực cố gắng đó của hội đồng nhà trường đã có những thành công nhất định: Việc
đánh giá kết quả học tập của học sinh luôn được chú trọng và được thực hiện một
cách tương đối chặt chẽ, nghiêm túc, đúng quy chế đã đảm bảo được tính khách
quan, công bằng trong đánh giá, khuyến khích được học sinh trong học tập… song
vẫn không tránh khỏi những tồn tại: việc quản lý chỉ đạo công tác kiểm tra, đánh
giá kết quả học tập của học sinh, đặc biệt là công tác thi cử vẫn còn nhiều thiếu sót,
vẫn còn hiện tượng học sinh quay cóp, sử dụng tài liệu trong phòng thi, một số phụ
huynh lại tìm cách xin điểm…Đâu đó vẫn còn hiện tượng chạy theo bệnh thành
tích nên việc kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh đôi lúc còn thiếu chính
xác, khách quan.
3


Hưởng ứng cuộc vận động “nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành
tích trong giáo dục” của Bộ trưởng Bộ Giáo dục - đào tạo, với trách nhiệm của
người cán bộ quản lý giáo dục, bản thân tôi rất băn khoăn, trăn trở với thực trạng
trên, tôi luôn mong muốn có cái nhìn thực sự khoa học về công tác này để từ đó
tìm ra các giải pháp nhằm thực hiện tốt công tác kiểm tra, đánh giá kết quả học tập
của học sinh, vì vậy tôi đã chọn đề tài nghiên cứu: “Thực trạng vấn đề chỉ đạo
công tác kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh tiểu học tại trường Tiểu
học Thạch Trung 2 - thành phố Hà Tĩnh”
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn vấn đề kiểm tra, đánh giá và chỉ
đạo công tác kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh tại trường Tiểu học
Thạch Trung 2, từ đó đề xuất một số biện pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả
công tác chỉ đạo việc kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh .
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Chỉ đạo công tác kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng công tác chỉ đạo kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học
sinh tại trường Tiểu học Thạch Trung 2 trong năm học 2006-2007 và 2007-2008.
4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Việc đánh giá kết quả học tập của học sinh là một tiêu chí quan trọng trong
quá trình dạy - học, nếu biết đánh giá đúng thực trạng và có biện pháp chỉ đạo công
tác kiểm tra đánh giá thì sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy - học trong nhà
trường.
5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
5.1. Nghiên cứu các vấn đề lý luận làm cơ sở cho đề tài.
5.2. Điều tra thực trạng về mức độ phù hợp và các giải pháp điều chỉnh đối với các
biện pháp chỉ đạo công tác kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh tại
trường Tiểu học Thạch Trung 2 – TP Hà Tĩnh
5.3. Xây dựng quy trình chỉ đạo công tác kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của
học sinh tại trường Tiểu học.
4


6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
6.1. Phương pháp đọc sách, nghiên cứu tài liệu.
6.2. Phương pháp điều tra viết.
6.3. Phương pháp đàm thoại, phỏng vấn.
6.4. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.

6.5. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm.

5


Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Công tác quản lý - Quản lý trường học
1.1. Khái niệm về quản lý
Khi xã hội loài người xuất hiện, một loạt các quan hệ: Quan hệ giữa con
người với con người; giữa con người với thiên nhiên, giữa con người với xã hội và
cả quan hệ giữa con người với chính bản thân mình xuất hiện theo, điều này làm
nảy sinh nhu cầu về quản lý. Quản lý trở thành một hoạt động phổ biến, diễn ra
trong mọi lĩnh vực, ở mọi cấp độ và liên quan đến mọi người.
Theo Đại Bách khoa toàn thư [Liên Xô - 1977], quản lý là chức năng của
những hệ thống có tổ chức với bản chất khác nhau (xã hội, sinh vật, kỹ thuật) nó
bảo toàn cấu trúc xác định của chúng, duy trì chế độ hoạt động, thực hiện những
chương trình mục đích hoạt động.
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang : Quản lý là những tác động có định
hướng, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến đối tượng hệ quản lý trong tổ chức để
vận hành tổ chức, nhằm đạt mục đích nhất định
Theo Trần Kiểm trong cuốn “Giáo trình quản lý GD và trường học”, Viện
Khoa học Giáo dục Hà Nội 1997: “Quản lý là nhằm phối hợp nỗ lực của nhiều
người sao cho mục tiêu của từng cá nhân biến thành những thành tựu của xã hội.”
Theo Nguyễn Bá Sơn trong cuốn “Một số vấn đề cơ bản về khoa học quản
lý” NXB chính trị QGHN 2000: “Quản lý là tác động có mục đích đến tập thể
những con người để tổ chức và phối hợp các hoạt động của họ trong quá trình lao
động”.
Các khái niệm về quản lý (thuộc lĩnh vực quản lý xã hội) nói trên, tuy khác
nhau, song chúng có chung những dấu hiệu chủ yếu sau đây:
- Hoạt động quản lý được tiến hành trong một tổ chức hay một nhóm xã hội.

- Hoạt động quản lý là những tác động có tính hướng đích.
- Hoạt động quản lý là những tác động phối hợp nỗ lực của các cá nhân
nhằm thực hiện mục tiêu của tổ chức.
Như vậy có thể khái quát: Quản lý là sự tác động có tổ chức, có định hướng
của củ thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả các tiềm
6


lực,các cơ hội của hệ thống để đạt được mục tiêu đã đề ra trong điều kiện biến đổi
của môi trường.
1.2. Quản lý giáo dục
Khái niệm quản lý giáo dục cũng có nhiều quan niệm khác nhau, chẳng hạn:
Quản lý giáo dục được hiểu là những tác động tự giác (có ý thức, MĐ, có kế
hoạch có hệ thống, hợp quy luật) của chủ thể quản lý đến tất cả các mắt xích của hệ
thống (từ cấp cao nhất đến các cơ sở giáo dục nhà trường) nhằm thực hiện có chất
lượng và hiệu quả mục tiêu phát triển giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ mà xã hội đặt ra
cho ngành giáo dục.
Hoặc “quản lý giáo dục là sự tác động liên tục, có tổ chức có hướng đích của
chủ thể quản lý lên hệ thống giáo dục nhằm tạo ra tính trồi của hệ thống; sử dụng
một cách tối ưu các tiềm năng, các cơ hội của hệ thống nhằm đưa hệ thống đến
mục tiêu một cách tốt nhất trong điều kiện bảo đảm sự cân bằng với môi trường
bên ngoài luôn luôn biến động.
Cũng có thể định nghĩa: Quản lý giáo dục là hoạt động tự giác của chủ thể
quản lý nhằm huy động, tổ chức điều phối, điều chỉnh, giám sát... một cách có hiệu
quả các nguồn lực giáo dục (nhân lực, vật liệu, tài liệu) phục vụ cho mục tiêu phát
triển giáo dục, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Có thể thấy, các khái niệm trên không khác nhau mà ngược lại bổ sung cho
nhau: Nếu khái niệm thứ nhất và thứ hai đòi hỏi tính định hướng đồng bộ, toàn
diện đối với những tác động quản lý, thì khái niệm thứ ba đòi hỏi tính cụ thể của
những tác động quản lý vào các đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu quản lý.

1.3. Khái niệm quản lý trường học.
Quản lý trường học là hoạt động của các cơ quan quản lý giáo dục nhằm tập
hợp và tổ chức các hoạt động của giáo vỉên, học sinh và các lực lượng giáo dục
khác, huy động tối đa các nguồn lực giáo dục để nâng cao chất lượng giáo dục và
đào tạo trong nhà trường.
1.4. Chu trình quản lý
1.4.1.Khái niệm.
Quá trình quản lý thường diễn ra có tình chu kỳ, chu kỳ của quá trình quản lý
gọi là "Chu trình quản lý ".
7


Chu trình quản lý là sự kết hợp các chức năng quản lý theo một trật tự thời
gian xác định, theo thứ tự các hoạt động quản lý diễn ra kế tiếp nhau.
1.4.2. Các giai đoạn của chu trình quản lý.
Gồm có 5 bước sau:
-Tiền kế hoạch
- Kế hoạch hoá
- Tổ chức thực hiện
- Chỉ đạo
- Kiểm tra
* Giai đoạn tiền kế hoạch.
Giai đoạn này gồm các nội dung công việc sau:
- Xây dựng bộ phận lập kế hoạch, thiết lập các mối quan hệ giữa các bộ phận
hợp thành. Hiệu trưởng là người chịu trách nhiệm chính.
- Chẩn đoán: Xác định trạng thái xuất phát và những phân tích sư phạm về
những trạng thái đó.
- Xác định nhu cầu và các mục tiêu.
- Dự đoán, phác thảo các phương án chọn lựa có tính đến tiềm năng của
nguồn lực dự trữ và những mong muốn chủ quan.

- Kết thúc giai đoạn này trong tay hiệu trưởng phải có một bản dự thảo kế
hoạch của nhà trường.
* Giai đoạn kế hoạch hoá.
Đây là giai đoạn quan trọng của quá trình quản lý. Ở đây phải xác định rõ hệ
thống mục tiêu, nội dung hoạt động, các biện pháp cần thiết, chỉ rõ trạng thái mong
muốn của nhà trường khi kết thúc năm học.
Để làm được việc đó, người lãnh đạo cần phải:
- Định rõ kế hoạch các mục tiêu cần đạt tới.
- Lựa chọn các biện pháp này.
- Lập chương trình hoạt động của nhà trường trong suốt cả năm học.
- Thông qua tập thể sư phạm và trình duyệt cấp trên.
- Điều chỉnh và hoàn thiện kế hoạch.

8


*Tổ chức thực hiện kế hoạch.
Đây là giai đoạn hiện thực hoá những ý tưởng đã được kế hoạch hoá để đưa
nhà trường từng bước đi lên, đó chính là sự sắp đặt con người và công việc một
cách hợp lý để mọi người đều thấy hài lòng, hào hứng làm cho công việc trôi chảy.
Ở giai đoạn này phải thực hiện những hoạt động sau:
- Thông báo kế hoạch, chương trình hành động đến từng người, làm cho mỗi
thành viên trong trường tự giác chấp nhận kế hoạch và tự nguyện hành động theo
kế hoạch.
- Xác định cấu trúc bộ máy, sắp xếp các bộ phận và các cá nhân sao cho đúng
người đúng việc, quy định chức năng, quyền hạn cho từng người, từng bộ phận.
- Tiếp nhận và phân phối các nguồn lực (người, kinh phí, trang thiết bị …)
theo cấu trúc bộ máy.
- Xác lập cơ chế phối hợp giữa các bộ phận và thành viên, thiết lập các mối
quan hệ quản lý, các cơ chế thông tin, xác định mức độ can thiệp khi cần thiết.

* Chỉ đạo.
Nội dung chủ yếu của giai đoạn này là:
- Chỉ huy, ra lệnh;
- Động viên, khích lệ;
- Theo dõi và giám sát
- Điều chỉnh, sữa chữa, bù đắp, chỉnh lý.
* Kiểm tra
- Đánh giá trạng thái kết thúc của nhà trường, xác định chính xác mức độ đạt
được so với mục tiêu đã đặt ra.
- Phát hiện những sai lạc, sai sót và các nguyên nhân, những vấn đề mới nẩy
sinh.
- Tổng kết, tạo thông tin cho chu trình tiếp theo.
Như vậy, chu trình quản lý có thể gồm 5 giai đoạn được thể hiện theo sơ đồ
sau:
Tiền
KH

Lập
KH

Tổ
chức

Chỉ
đạo
9

Kiểm
tra


Tiền
KH


2. Công tác kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh.
2.1. Ý nghĩa.
Trong quá trình dạy học, kiểm tra đánh giá là hai công việc được tiến hành
theo trình tự nhất định hoặc đan xen lẫn nhau nhằm khảo sát, xem xét cả về định
lượng và định tính kết quả học tập, đánh giá mức độ chiếm lĩnh nội dung học vấn
của học sinh. Điều đó có nghĩa là muốn kiểm tra, đánh giá khả năng và mức độ
lĩnh hội tri thức, kỹ năng, kỷ xảo các môn học cần phải xác định " thước đo" và
chuẩn đánh giá một cách khoa học, khách quan.
Đối với học sinh, nhân vật trung tâm của quá trình dạy học, kiểm tra, đánh giá
có tác dụng thúc đẩy quá trình học tập phát triển không ngừng. Qua kết quả kiểm
tra, học sinh tự đánh giá mức độ chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng so với yêu cầu của
môn học và tự mình ôn tập, củng cố, bổ sung, hoàn thiện học vấn bằng các phương
pháp tự học với hệ thống các thao tác tư duy của chính mình. Do đó, kiểm tra đánh
giá chẳng những là biện pháp để hoàn thiện nội dung học tập mà còn là điều kiện
để rèn luyện phương pháp và hình thành thái độ học tập tích cực cho học sinh.
Đối với giáo viên: Kết quả kiểm tra, đánh giá chẳng những phản ánh thành
tích học tập của học sinh, qua đó, mỗi giáo viên tự đánh giá vốn tri thức, trình độ
chuyên môn, năng lực sư phạm, nhân cách và uy tín của mình với học sinh. Trên
cơ sở đó, không ngừng nâng cao và hoàn thiện mình cả về trình độ học vấn, về
nghệ thuật sư phạm và nhân cách người thầy giáo.
Đối với các cấp quản lý lãnh đạo nhà trường và ngành giáo dục - đào tạo,
kiểm tra đánh giá là biện pháp để đánh giá kết quả đào tạo cả về định lượng và
định tính. Đó là cơ sở để xây dựng chiến lược giáo dục về mục tiêu, về đội ngũ
giáo viên, về vấn đề đổi mới nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức hoạt
động dạy học….
Vì vậy, kiểm tra đánh giá tri thức, kỹ năng, kỷ xảo là một khâu quan trọng,

không thể tách rời trong hoạt động dạy học ở các trường Tiểu học nói riêng và các
loại hình nhà trường nói chung.
2.2. Các chức năng cơ bản của kiếm tra đánh giá:
Gồm 3 chức năng: Chức năng phát hiện, điều chính; chức năng củng cố phát
triển trí tuệ; chức năng giáo dục phẩm chất, nhân cách của học sinh trong dạy học.
10


2.2.1. Chức năng phát hiện, điều chính.
Chức năng này được thể hiện thông qua việc tiến hành các hình thức kiểm tra
kết quả học tập, Giáo viên có thể phát hiện kịp thời trình độ và năng lực nhận thức
của học sinh cả về khối lượng và chất lượng chiếm lĩnh nội dung học vấn; kịp thời
phát hiện, xem xét những chỗ đúng và sai, mức độ nông sâu, rộng hẹp của vốn hiểu
biết của các em trên cơ sở đối chiếu với yêu cầu đã đặt ra.Từ đó giáo viên có nhận
xét đánh giá, xác định kết quả đã đạt được về số lượng và chất lượng, khẳng định
những hạn chế, sự yếu kém và tìm ra những nguyên nhân chủ quan và khách quan
ảnh hưởng tới hoạt động học tập của các em. Mặt khác giáo viên và các cấp quản
lý căn cứ vào những "liên hệ ngược" phản ánh từ kết quả kiểm tra, đánh giá để kịp
thời có phương hướng, biện pháp khắc phục, hoàn thiện quá trình dạy học, đặc biệt
là điều chỉnh những sai sót, lệch lạc mà học sinh đã bộc lộ thông qua các hình thức
kiểm tra.
2.2.2. Chức năng củng cố phát triển trí tuệ của học sinh.
Trong suốt quá trình chuẩn bị cho các đợt kiểm tra, nhất là các kỳ thi, học
sinh phải học tập tích cực, phát huy cao độ năng lực tư duy, độc lập, sáng tạo của
bản thân nhằm tái hiện, chính xác hoá, hoàn thiện và khắc sâu một cách có hệ
thống những tri thức đã thu lượm được. Trên cơ sở đó củng cố, rèn luyện, hoàn
thiện những kỷ năng, kỷ xảo và phát triển năng lực chú ý, khả năng ghi nhớ, vận
dụng, đặc biệt là năng lực tư duy sáng tạo của các em.
2.2.3. Chức năng giáo dục trong kiểm tra đánh giá thành tích học tập của học
sinh.

Chức năng này được phản ánh thông quá thái độ nghiêm túc của các em trong
suốt quá trình chuẩn bị và thực hiện các nhiệm vụ của bài kiểm tra, thái độ đối với
kết quả đánh giá và tự đánh giá. Cụ thể là việc kiểm tra và đánh giá phải giúp học
sinh có nhu cầu, động cơ đúng đắn trong học tập, có thói quen tự giác tích cực, tự
lực huy động vốn tri thức, kỹ năng của chính mình để giải quyết các nhiệm vụ học
tập. Đồng thời học sinh phải có năng lực tự kiểm tra, tự đánh giá và tự hoàn thiện
học vấn của mình, luôn có ý thức trách nhiệm cao, có ý chí vươn lên đạt kết quả
cao trong học tập. Đặc biệt phải quan tâm giáo dục ý thức tổ chức kỷ luật, tuyệt đối
tránh những biểu hiện sai trái về thái độ, hành vi, thói quen xấu trong khi làm bài.
11


Như vậy chức năng giáo dục của kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh đã
thể hiện sự thống nhất giữa hoạt động dạy học và sự giáo dục phẩm chất, nhân
cách cho học sinh thể hiện sự thống nhất giữa kiểm tra và tự kiểm tra, giữa sự đánh
giá của thầy và tự đánh giá của trò, giữa dạy học và tự học…
Ba chức năng của kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh có mối quan hệ
mật thiết với nhau, trong đó chức năng phát hiện, điều chỉnh là chức năng cơ bản nhất
là chức năng có tính đặc thù của việc kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh.
Trong quá trình kiểm tra đánh giá nếu chức năng này được thực hiện tốt thì sẽ
tạo cơ sở cho học sinh củng cố tri thức, phát triển thao tác trí tuệ nói riêng, mang
lại hiệu quả giáo dục trong dạy học nói chung.
Khi kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh, cán bộ quản lý giáo dục
và giáo viên cần coi trọng cả 3 chức năng đảm bảo quá trình kiểm tra đánh giá tri
thức, kỉ năng, kỉ xảo của học sinh vừa có thể phát hiện, điều chỉnh kịp thời và hoàn
thiện quá trình dạy học, vừa góp phần phát triển năng lực hoạt động trí tuệ nói
riêng, phát triển toàn diện nhân cách học sinh nói chung.
2.3. Các yêu cầu sư phạm đối với việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập
của học sinh.
2.3. 1. Yêu cầu đảm bảo tính khách quan trong quá trình kiểm tra.

Tính khách quan của việc kiểm tra đánh giá tri thức, kĩ năng, kĩ xảo là sự phản
ánh trung thực kết quả lĩnh hội nội dung tài liệu học tập của học sinh so với yêu
cầu do chương trình quy định.
Tính khách quan của việc kiểm tra thể hiện ở những điều sau:
- Nội dung kiểm tra phải phù hợp với yêu cầu chung của chương trình đề ra:
Không thể theo ý chủ quan của giáo viên hay người ra đề thi.
- Tổ chức kiểm tra phải nghiêm minh theo đúng những quy định của cấp trên
đề ra như bí mật đề thi, coi thi, kiểm tra nghiêm túc để tránh những hiện tượng tiêu
cực có thể xảy ra.
Tính khách quan trong việc đánh giá thể hiện ở chỗ: chuẩn đánh giá đúng đắn
rõ ràng toàn diện, tính chất chấm bài phải nghiêm minh, người chấm bài có tinh
thần trách nhiệm trong việc đánh giá tránh thiên kiến.

12


Để đảm bảo tính khách quan trong kiểm tra đánh giá tri thức, kĩ năng, kĩ xảo
của học sinh cần cải tiến, đổi mới các phương pháp, hình thức kiểm tra đúng từ
khâu ra đề, tổ chức thi, kiểm tra với khâu cho điểm.
2.3.2. Yêu cầu đảm bảo tính toàn diện.
Yêu cầu đảm bảo sự đánh giá kết quả học tập của học sinh về cả số lượng và
chất lượng chiếm lĩnh tri thức, kĩ năng, kĩ xảo của các môn học, về kết quả phát
triển năng lực hoạt động trí tuệ, đặc biệt là năng lực tư duy, độc lập sáng tạo, về ý
thức, tinh thần, thái độ học tập tự giác, tích cực, tự lực… trong đó cần chú ý đánh
giá cả số lượng và chất lượng cả nội dung và hình thức.
2.3.3. Yêu cầu đảm bảo tính thường xuyên và hệ thống của việc kiểm tra đánh
giá kết quả học tập của học sinh.
Trong quá trình dạy học việc kiểm tra đánh giá tri thức, kỉ năng, kỉ xảo của
học sinh cần được tiến hành thường xuyên, liên tục và có hệ thống, có như vậy
giáo viên mới thu được những thông tin ngược về kết quả học tập của học sinh để

từ đó có cơ sở thực tiễn kịp thời đánh giá và điều chỉnh hoạt động học tập nói riêng
của học sinh, điều chỉnh quá trình dạy học nói chung. Mặt khác kiểm tra thường
xuyên, có hệ thống còn tạo nên nguồn kích thích tính tích cực học tập, không
ngừng vươn lên đạt những thành tích mới trong các môn học.
2.3.4. Yêu cầu đảm bảo tính phát triển
Quá trình dạy học luôn vận động và phát triển. Kiểm tra đánh giá tri thức, kỉ
năng, kỉ xảo là một khâu của quá trình dạy học nên khi tiến hành quy trình kiểm tra
đánh giá thành tích học tập của học sinh cần được xem xét theo hướng phát triển
trong tương lai.
Điều đó có nghĩa là khi kiểm tra đánh giá cần nhìn chung cả quá trình trên cơ
sở xem xét, đúng từng giai đoạn, từng khâu của hoạt động học tập, rèn luyện của
các em. Tuyệt đối không nên nhầm lẫn giữa kết quả có thể chưa tốt ở những thời
điểm nhất định với kết quả khả quan chung của cả quá trình học tập. Trong quá
trình dạy học, người giáo viên có lương tâm, có phương pháp sư phạm là người
biết trân trọng sự cố gắng, biết đánh giá cao những tiến bộ trong học tập của học
sinh mình dù đó chỉ là những dấu hiệu, những mầm muống, những tia hy vọng nhỏ
bé. Đối với những học sinh yếu kém, giáo viên không được thành kiến, không vùi
13


dập, không coi thường những cố gắng, tiến bộ của các em trái lại phải thường
xuyên động viên tạo điều kiện giúp đỡ để các em tiếp tục vươn lên đạt kết quả với
sự nổ lực cá nhân cao nhất.
2.3. Các hình thức kiểm tra đánh giá ở trưởng Tiểu học.
2.3.1. Kiểm tra thường xuyên và kiểm tra định kỳ.
Kiểm tra thường xuyên là tiến trình thu nhập thông tin về việc học tập của học
sinh một cách liên tục trong lớp. Các hình thức kiểm tra thường xuyên dùng để
đánh giá những phương diện cụ thể hay những phần của chương trình học. Kết quả
của kiểu kiểm tra này được dùng để theo dõi sự tiến bộ của người học trong suốt
tiến trình giảng dạy và cung cấp những phản hồi liên tục cho học sinh và giáo viên,

nhằm giúp giáo viên có những biện pháp điều chỉnh kịp thời việc giảng dạy cũng
như giúp học sinh nhận ra những tiến bộ và chưa tiến bộ của bản thân để từ đó tự
điều chỉnh và phát hiện.
*. Kiểm tra định kỳ: Là phương thức xem xét kết quả học tập của học sinh
theo thời điểm, mục đích của việc KTĐK là giúp giáo viên biết xem mỗi học sinh
đã tiếp thu được những gì sau những đơn vị bài học hay sau những phần học để có
thể kịp thời bổ khuyết hay điều chỉnh nội dung và phương pháp dạy học những
phần kế tiếp.
2.3.2. Kiểm tra đột xuất chẩn đoán và kiểm tra tổng kết.
* Kiểm tra đột xuất chẩn đoán: Là phương thức xem xét kết quả học tập của
học sinh theo thời điểm được ấn định trước. Kết quả thu được từ những bài kiểm
tra đột xuất phản ánh hành vi học tập điển hình của người học, nghĩa là những điều
người học làm được trong điều kiện bình thường, không có sự chuẩn bị hay nổ lực
tối đa như trong hình thức kiểm tra tổng kết.
Những đánh giá dựa trên kết quả của những bài kiểm tra đột xuất trong phạm
vi lớp học được dùng để chẩn đoán các mặt tồn tại của quá trình dạy học, từ đó đề
ra phương hướng hay quy định điều chỉnh việc dạy và học.
Kiểm tra đột xuất còn được dùng như một công cụ thanh tra hoặc quản lý giáo
dục nhằm xác định trình độ học sinh của một trường so với trình độ của nhóm
chuẩn hay so với hệ thống tiêu chí về kĩ năng và kiến thức mà người học cần lĩnh
hội ở một cấp học nào đó.
14


* Kiểm tra tổng kết: Là phương thức xem xét thành quả học tập được thực
hiện vào cuối khoá học (môn học). Các kết quả thu được từ kiểm tra tổng kết chỉ
ra khả năng người học có thể đạt là gì khi nổ lực hết mình cũng như khi có sự
chuẩn bị tối đa. Kiểm tra tổng kết còn được gọi là hình thức đánh giá thành tích
học tập của học sinh và có ý nghĩa quan trọng về mặt quản lý.
2.4. Các hình thức đánh giá ở trường Tiểu học.

2.4.1. Đánh giá bằng nhận xét.
Đánh giá bằng nhận xét là giáo viên đưa ra những phân tích hoặcnhững phán
đoán về học lực hoặc hạnh kiểm của người học bằng cách sử dụng các nhận xét
được rút ra từ việc quan sát các hành vi hoặc sản phẩm học tập của học sinh theo
những tiêu chí được cho trước.
2.4.2. Đánh giá bằng điểm số:
Đánh giá bằng điểm số là sử dụng những mức điểm khác nhau trên một thang
điểm để chỉ mức độ về kiến thức và kĩ năng mà học sinh đã thể hiện được qua một
hoạt động hoặc sản phẩm học tập.

15


CHƯƠNG 2 : KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN
1. Đặc điểm tình hình chung:
1.1. Tình hình địa phương.
Xã Thạch Trung là một xã ngoại thành có diện tích rất rộng lớn có lẽ là rộng
nhất trong 16 xã, phường thuộc thành phố Hà Tĩnh. Thạch Trung có 1830 hộ dân
với hơn 70% là giáo dân. Tình hình chính trị, xã hội, an ninh quốc phòng ổn định,
người dân chủ yếu làm nghề nông, một bộ phận dân cư con đông nên kinh tế khó khăn,
hộ nghèo chiếm 70 %.
Trên địa bàn có 4 đơn vị trường học từ mầm non đến THCS đều đạt chuẩn
quốc gia giai đoạn một, gồm 1 trường mầm non với 2 cơ sở, 2 trường tiểu học và 1
trường THCS. Chính quyền địa phương luôn luôn quan tâm đến các phong trào
văn hoá, văn nghệ, TDTT. Đặc biệt là một xã nghèo nhưng mấy năm liền được
UBND Thành phố tặng đơn vị có phong trào giáo dục toàn diện.
1.2. Tình hình trường:
1.2.1. Tình hình chung: Trường Tiểu học Thạch Trung 2 được đóng trên địa
bàn trung tâm của xã, gần UBND xã, gần trạm y tế xã, 4 năm liền trường giữ vững
danh hiệu trường chuẩn quốc gia giai đoạn 1, trường tiên tiến cấp Thành phố và

đang xây dựng chuẩn giai đoạn 2. Trường có truyền thống dạy và học, chất lượng
giáo dục khá toàn diện, các phong trào văn hoá, văn nghệ, TDTT khá sôi nổi.
Hiện nay trường có 11 lớp với tổng số học sinh là 311 em, Cán bộ giáo viên
có 24 người trong biên chế. Trình độ đạt chuẩn và trên chuẩn 100% ,số đảng viên
13/24 CBGV chiểm tỷ lệ 54,2 %. Giáo viên giỏi Quốc gia có 1 đồng chí, giáo viên
giỏi cấp Thành phố có 4 đồng chí.
Cơ sở vật chất phục vụ cho dạy và học 2 buổi/ngày đầy đủ và khá khang
trang, có đủ các phòng chuyên biết (hát nhạc, mỹ thuật, phòng đọc, thư viện) có đủ
giáo viên chuyên biệt, bàn ghế đúng tiêu chuẩn.
Kết quả rèn luyện và giáo dục:
Hạnh kiểm: Thực hiện đầy đủ: 100%
Văn hoá: Học sinh giỏi, khá chiếm tỷ lệ 61%
16


Không có học sinh yếu.
1.2.2. Tình hình công tác kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh ở
trường Tiểu học Thạch Trung 2:
Trong quá trình dạy học thì kiểm tra đánh giá là một khâu hết sức quan trọng,
ảnh hưởng đến chất lượng của cả quá trình. Đánh giá kết quả học tập của học sinh
Tiểu học là quá trình hình thành những nhận định, rút ra những kết luận hoặc phán
đoán về phẩm chất, hành vi, lối sống (Hạnh kiểm) và năng lực học tập các môn
học, các hoạt động giáo dục (Học lực) của học sinh. Chính vì vậy trong quá trình
chỉ đạo công tác kiểm tra đánh giá học tập của học sinh, Ban giám hiệu Nhà trường
đã triển khai cho CBGV học tập quy chế đánh giá xếp loại học sinh theo QĐ
30/2005-BGDĐT, sau đó kiểm tra việc thực hiện của giáo viên và tổ chức rút kinh
nghiệm.
* Đánh giá hạnh kiểm của học sinh Tiểu học: Căn cứ vào 4 nhiệm vụ của
người học sinh Tiểu học được quy định trong điều lệ nhà trường cụ thể như sau:
- Biết vâng lời thầy giáo, cô giáo; lễ phép trong giao tiếp hàng ngày; đoàn kết,

thương yêu, giúp đỡ bạn bè.
- Thực hiện nội quy nhà trường; đi học đều và đúng giờ; tích cực tham gia các
hoạt động học tập; giữ gìn sách vở và đồ dùng học tập.
- Giữ gìn vệ sinh cá nhân; đầu tóc, quần áo gọn gàng, sạch sẽ; ăn uống hợp vệ
sinh.
- Tham gia các hoạt động tập thể trong và ngoài giờ lên lớp của trường, của
lớp; giữ gìn, bảo vệ tài sản của trường, lớp và nơi công cộng; bước đầu biết giữ gìn
và bảo vệ môi trường, thực hiện các quy tắc về ATGT và trật tự xã hội.
Thông qua việc thực hiện 4 nhiệm vụ này, học sinh bộc lộ ra bên ngoài tình
cảm, thái độ, ý thức trách nhiệm của mình đối với thầy cô, bạn bè cũng như đối với
bản thân mình, việc này giúp giáo viên có thể lượng hoá xem học sinh thực hiện
được mấy nhiệm vụ, đạt được bao nhiêu nhận xét từ đó đi đến đánh giá học sinh đã
thực hiện đầy đủ hay chưa.
* Đánh giá học lực của học sinh:
Học lực được hiểu là kết quả học tập (Thành tích học tập) mà mỗi học sinh đạt
được kiến thức kỹ năng theo chuẩn đã được xác định ở mỗi bài học, mỗi chương,
17


mỗi phần của mỗi môn học. Tổng hợp kết quả đánh giá học lực ở các môn học vào
những thời điểm khác nhau như giữa kỳ, cuối kỳ, cuối năm học ta có kết quả đánh
giá học lực của học sinh. Theo QĐ 30/2005-BGDĐT về đánh giá rèn luyện của
học sinh Tiểu học có 2 hình thức đánh giá.
- Đánh giá bằng điểm số: Toán, Tiếng Việt, Khoa học, Lịch sử, Địa lý, Ngoại
ngữ, Tin học các môn học đánh giá bằng điểm số cho điểm từ 1 đến 10, không cho
điểm 0 và điểm thập phân ở các lần kiểm tra.
- Đánh giá bằng nhận xét
+ Ở các lớp 1,2,3: Đạo đức, Thể dục, TN và XH, Nghệ thuật
+ Ở các lớp 4,5 Đạo đức, Thể dục, Âm nhạc, Mỹ thuật, kỹ thuật
Các môn học đánh giá bằng nhận xét được đánh giá theo 2 mức độ .

Loại hoàn thành (A) đạt được yêu cầu cơ bản về kiến thức và kỹ năng của
môn học đạt được từ 50% số nhận xét trở lên trong từng học kỳ hay cả năm học.
Những học sinh đạt loại hoàn thành nhưng có biểu hiện rõ về năng lực học tập môn
học, đạt 100% số nhận xét trong từng học kỳ hay cả năm học được giáo viên đánh
giá là hoàn thành tốt (A+) và ghi nhận xét cụ thể trong học bạ để nhà trường có kế
hoạch bồi dưỡng.
Loại chưa hoàn thành (B): Chưa đạt được những yêu cầu theo quy định, đạt
dưới 50% số nhận xét trong từng học kỳ hay cả năm học.
Nhìn chung việc kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh ở trường Tiểu
học Thạch Trung 2 đã thực hiện khá nghiêm túc, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý
lứa tuổi. Giáo viên thực sự coi trọng và thực hiện một cách thường xuyên liên tục
phán ánh chất lượng thực chất, góp phần thực hiện tốt cuộc vận động “Hai không”
của Bộ GD-ĐT và chấm dứt hiện tượng học sinh ngồi nhầm lớp.
- Giáo viên đã bám sát quyết định 30/2005/QĐ-BGD-ĐT, đánh giá học sinh
một cách công bằng, chính xác và khoa học đã giúp học sinh biết được mình đã đạt
được những gì và chưa đạt được điều gì theo yêu cầu để tiếp tục thực hiện cho đến
lúc đạt được vì thế việc lựa chọn thời điểm để đánh giá năng lực của học sinh cũng
được giáo viên cân nhắc cẩn thận và lựa chọn thời điểm thích hợp.
Đối với các môn khi được đánh giá bằng nhận xét giáo viên sử dụng như một
giải pháp nhằm khơi dậy tiềm năng, tính sáng tạo tư duy độc lập của học sinh.
18


Đối với các môn đánh giá bằng điểm số thì cũng rất nhẹ nhàng, không gây áp
lực, điểm số được quy tròn, không lấy điểm thập phân.
Tuy nhiên trong quá trình đánh giá vẫn còn những bất cập, vẫn còn giáo viên
đánh giá hạnh kiểm của học sinh bằng cảm tính của mình, chẳng hạn: Việc không
thích cá tính của em này, thích hình dáng, điệu bộ cử chỉ của em kia sẽ dẫn đến
những ý kiến đánh giá bị thiên lệch.
- Trong đánh giá bằng nhận xét thì ranh giới giữa hoàn thành (A) với hoàn

thành tốt (A+) nhiều khi chưa rõ ràng.
Một số học sinh còn được lời điểm dẫn đến có sự điều chỉnh về xếp loại so
với năng lực thực sự của các em.
VD: 8,5 -> 9; 6,5 - 7
- Một số giáo viên còn coi trọng điểm thi mà học sinh đạt được hơn là việc
các em nắm bài, hiểu bài và biết cách áp dụng kiến thức, kỹ năng đã được học vào
trong cuộc sống nên dẫn đến học sinh tiếp thu kiến thức như một cái máy theo một
công thức sắp sẵn nên học sinh rất bị động khi gặp dạng bài kiểm tra khác. Vì thế
hiện tượng đánh giá chênh nhau là có.
- Một số bộ phận giáo viên còn xem nhẹ khâu kiểm tra đánh giá hoạt động của
học sinh nên nhiều khi đánh giá theo cảm tính, nâng điểm để chiều lòng phụ huynh
để đạt được chỉ tiêu đăng ký thi đua, việc tổ chức thi cử nhiều khi còn dễ dãi và sai
quy chế coi, chấm thi.
2. Kết quả nghiên cứu thực tiễn.
Cách tiến hành nghiên cứu.
Phương pháp chính được thực hiện trong đề tài này là phương pháp điều tra
bằng Anket, tôi đã tiến hành điều tra 2 BGH và 20 giáo viên trong trường về sự
thành công của các biện pháp kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh tại
trường Tiểu học Thạch Trung 2, ngoài ra đề tài còn được thực hiện bằng phương
pháp phỏng vấn trực tiếp và phương pháp nghiên cứu sản phẩm.

19


2.2. Kết quả thể hiện ở bảng sau:

TT

Mục đích hoạt
động


1
Đảm bảo tính
khách quan

Đảm bảo tính
toàn diện

Đảm bảo tính
thường xuyên
và hệ thống

Đảm bảo tính
phát triển

Biện pháp thực hiện

Mức độ thành công
Rất thành
Đạt yêu
Chưa đạt
công
cầu
SL
(%) SL
(%) SL
(%)

- Kiểm định chất lượng
- Sử dụng ngân hàng đề

- Đổi chéo GV coi thi,chấm thi, chấm
tập trung.

22
22
22

100
100
100

- Sử dụng nhiều hình thức kiểm tra
(miệng, vấn đáp, trắc nghiệm, tự luận).
- Đề thi cấn đối giữa tri thức và kỹ
năng, giữa nhớ , hiểu, vận dụng..
- Tập huấn cho GV cách ra đề thi, chấm
thi.

18

81,8

15

68,2

7

11


50

11

- Kiểm tra định kỳ, kiểm tra thường
xuyên.
- Kiểm tra đột xuất, kiểm tra tổng kết
- Phối hợp với phụ huynh để kiểm tra
học sinh
- HS tự kiểm tra

22

100

16
15

72,7
68,2

20

90,9

- Đề thi có tính kế thừa
- Đề thi phân loại được HS
- Chấm bài động viên, khuyến khích
học sinh.


15
11
11

68,2
50
50

20

4

6

18,2

27,3
7
2

7

31,8
11
11

Phương án điều chỉnh (Nếu
cần thiết)

-BGH dự giờ đột xuất, thanh

tra GV, kiểm tra sổ điểm sổ
31,8 chủ nhiệm.
-Thành lập tổ nghiệp vụ
50 thẩm định đề thi
-Tổ chức chuyên đề hướng
dẫn GV cách ra đề
-Tạo thói quen cho GV và
HS trong kiểm tra
-Làm tốt công tác XHH
31,8 GD.Quán triệt trong phụ
huynh từ đầu năm học
9,1 -Hướng dẫn HS cách kiểm
tra đánh giá.
-Thành lập tổ nghiệp vụ
50 -Tập huấn GV cách ra đề
50 một cách hệ thống hơn
-Chấm thanh tra một số bài


Qua bảng trên ta thấy việc kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh
tại trường Tiểu học Thạch Trung 2 cơ bản được thực hiện tốt đảm bảo được 4
yêu cầu của công tác kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh trong đó các
biện pháp thực hiện yêu cầu đảm bảo tính khách quan, tính thường xuyên và hệ
thống là thành công nhất. Sỡ dĩ đạt được những thành công đó là do BGH nhà
trường đã xác định được tầm quan trọng của công tác kiểm tra đánh giá kết quả
của học sinh trong dạy học, từ đó đã xây dựng được kế hoạch kiểm tra cụ thể,
phù hợp với tình hình của trường, đánh giá một cách chính xác, khách quan, tổ
chức các lần kiểm tra nghiêm túc và có sự theo dõi so sánh đối chiếu giữa các
lần kiểm tra, sau những lần kiểm tra có nhận xét đánh giá rút kinh nghiệm để có
biện pháp kịp thời khắc phục những tồn tại của mình.

Đánh giá các biện pháp cụ thể như sau:
2.1.Đảm bảo tính khách quan của kiẻm tra đánh giá kết quả học tập
của học sinh
2.1.1. Biện pháp kiểm định chất lượng.
Qua số liệu khảo sát ở trên ta thấy có 100% giáo viên có đánh giá là nhà
trường đã sử dụng rất thành công biện pháp này trong kiểm tra đánh giá kết quả
học tập của học sinh. Tôi đã phỏng vấn trực tiếp cô Trần Thu Hằng - dạy lớp 3C
với câu hỏi : “Xin cô cho biết suy nghĩ của cô khi nhà trường sử dụng biện pháp
kiểm định chất lượng học sinh để kiểm tra đánh giá kết quả học tập của các em?”
Tôi đã thu được ý kiến trả lời như sau: “Với cá nhân tôi thì ngoài việc giáo viên
kiểm tra đánh giá học sinh thường ngày thì nhà trường tổ chức kiểm định chất
lượng 2 lần/ kì là thích hợp. Đó là cơ sở để nhà trường quản lý chỉ đạo công tác
kiểm tra đánh giá của giáo viên đối với học sinh và cũng qua đó giáo viên tự
điều chỉnh phương pháp kiểm tra đánh giá của mình để đảm bảo được tính khách
quan.’’
Cô giáo Võ Thuý Hằng - dạy lớp 5B thì cho biết: “Đối với học sinh việc
kiểm tra đánh giá thường xuyên của giáo viên là rất cần thiết tuy nhiên có những
lần kiểm định chất lượng của nhà trường như thế giúp cho HS, GV thấy được
mặt bằng chung về chất lượng trong khối, trong trường đồng thời một lần nữa
21


qua kiểm định này để phân loại được HS từ đó có phương án điều chỉnh bổ sung
vào việc dạy buổi 2/ ngày.”
Như vậy biện pháp kiểm định chất lượng trong kiểm tra đánh giá là rất
khách quan và được sự đồng tình ủng hộ cao trong GV, HS. Cần tiến hành 2 lần/
kỳ và 4 lần/ năm.Ngoài ra có thể kiểm định chất lượng học sinh giỏi, học sinh
yếu.
2.1.2. Biện pháp sử dụng ngân hàng đề.
Với biện pháp này, có 100% ý kiến cho rằng rất thành công.

Cách tiến hành xây dựng ngân hàng đề của chúng tôi như sau: Đầu năm
chúng tôi quán triệt tinh thần xây dựng ngân hàng đề sau đó cho các khối lớp ký
hợp đồng với BGH và BGH sẽ đốc thúc quá trình thực hiện hợp đồng, nghiệm
thu đề
Để hiểu sâu hơn vấn đề này, tôi đã phỏng vấn trực tiếp một số giáo viên với
câu hỏi: " Xin cô cho biết thực trạng sử dụng ngân hàng đề hiện nay của trường
ta" Tôi đã thu được một số câu trả lời như sau:
" Tôi thấy trường đã có ngân hàng đề để sử dụng trong các lần kiểm tra như
thế là rất tốt" (Ý kiến của cô Lê Vân)
"Nhà trường đã sử dụng ngân hàng đề trong kiểm tra đánh giá kết quả học
tập của học sinh là rất khách quan, nhưng ngân hàng đề cần khảo sát, rút kinh
nghiệm và điều chỉnh trước khi sử dụng đại trà" (Ý kiến cô Phan Hiền).
Vậy theo tôi để thực hiện thành công biện pháp này nhà trường phải triển
khai xây dựng ngân hàng đề đến từng đồng chí giáo viên từng khối, tổ xây dựng
qui trình làm ngân hàng đề một cách khoa học hơn nữa để đảm bảo tính chính
xác hơn nữa của ngân hàng đề của nhà trường.
2.1.3. Biện pháp đổi chéo giáo viên coi thi, chấm thi, chấm tập trung.
Ở biện pháp này, tôi tiến hành điều tra lấy ý kiến 22 người thì cả 22 người
đều nhất trí rất thành công (100%)
Như chúng ta biết giáo viên chủ nhiệm không nên coi thi, chấm thi bài học
sinh vì như vậy sẽ không đảm bảo tính khách quan.. Chính vì thế mà BGH
chúng tôi đã thống nhất phân công coi thi, chấm thi chéo giữa các khối với nhau.
22


Trong coi thi phân công cả giáo viên chuyên biệt coi thi các môn văn hoá. Yêu
cầu giáo viên chấm tập trung tại phòng, mỗi tổ chấm một phòng. Đồng chí tổ
trưởng chịu trách nhiệm nhận bài, trả bài, phân công cặp chấm, thống nhất biểu
điểm cũng như quan điểm cho điểm trước khi chấm. Tuy nhiên để biện pháp
này tối ưu cần thực hiện như sau:

Trước khi coi thi, chấm thi, tổ chức họp hội đồng giám khảo, phân công tổ
chấm, và sau mỗi buổi có tổng kết, rút kinh nghiệm. Trong chấm thi yêu cầu các
giám khảo chấm độc lập. Mỗi tổ phải chấm chung ít nhất là 2 bài và BGH chấm
thanh tra một số bài để xác suất tính chính xác, khách quan
2.2. Đảm bảo tính toàn diện.
2.2.1. Biện pháp sử dụng nhiều hình thức kiểm tra.(Miệng, vấn đáp, trắc
nghiệm, tự luận).
Biện pháp này có 81,8% đánh giá tốt, 18,2% đánh giá khá.
Đây là biện pháp quan trọng trong công tác kiểm tra đánh giá kết quả học
tập của học sinh, qua các hình thức kiểm tra này, giáo viên xác định được năng
lực học tập của từng học sinh ở từng môn, trên cơ sở đó giáo viên có biện pháp
tác động tích cực riêng cho từng đối tượng tạo động lực thúc đẩy học sinh học
tập và đây thực sự là một công cụ để quản lý học sinh. Tuy nhiên kiểm tra miệng
và vấn đáp nhiều khi đang tập trung vào một số học sinh giỏi hay học sinh yếu
mà chưa chú ý đến tất cả các đối tượng học sinh. Hơn nữa trong quá trình giảng
dạy, nhiều khi, nhiều lúc giáo viên còn bỏ qua kiểm tra miệng như kiểm tra bài
cũ ở nhà, bỏ qua vấn đáp vì sợ cháy giáo án.
Chúng tôi đã quán triệt tinh thần nghiêm túc kiểm tra miệng đến tận từng
giáo viên, đã giao cho trưởng Khối lớp kiểm tra công tác này, tuy vậy hiệu quả
vẫn chưa tối ưu.
Do đó để tối ưu hoá phương pháp này thì BGH phải dự giờ đột xuất, thanh
tra giờ dạy của giáo viên, kiểm tra vở bài tập học sinh, sổ ghi điểm, sổ chủ
nhiệm của giáo viên thường xuyên.
2.2.2. Đề thi cân đối giữa tri thức, kỷ năng, giữa nhớ, hiểu, vận dụng.

23


Đề kiểm tra không chỉ nhằm đánh giá về kiến thức, kỹ năng học sinh cần
đạt mà còn nhằm phát hiện được khả năng vận dụng sáng tạo của học sinh vào

những tình huống khác với nhiều lựa chọn khác nhau; Không chỉ yêu cầu học
sinh thuộc bài mà còn tạo được cho các em đề xuất nhiều phương án trả lời,
nhiều cách diễn đạt sáng tạo cùng một vấn đề. Chúng ta cần biết chấp nhận
những phương án trả lời chưa đúng, những cách diễn đạt chưa đầy đủ, chưa
chính xác của học sinh nhưng qua đó giúp chúng ta có thêm thông tin về năng
lực sáng tạo của học sinh, để có những biện pháp tác động tích cực tới học sinh,
giúp các em hoàn thiện. Với biện pháp này có 15 người (68,2%) cho rằng quá
trình thực hiện rất thành công, còn 7 người (31,8%) cho rằng đạt yêu cầu. Khi
được hỏi về chất lượng đề thi, ý kiến đề xuất đối với vấn đề này là:
Trên cơ sở các đề thi do giáo viên cung cấp, nhà trường nên thành lập một
tổ nghiệp vụ để thẩm định lại các đề thi này và có thể điều chỉnh bổ sung, hoặc
lấy câu 1 ở đề này, câu 2 ở đề khác để có được những đề thi cân đối và hoàn
chỉnh.
2.2.3. Tập huấn cho giáo viên cách ra đề.
Ở biện pháp này, có 11 người (50%)đồng ý rất thành công còn 11 người (50
%)cho rằng chưa đạt.
Đối với biện pháp này, BGH đã theo dõi kiểm tra năng lực giảng dạy, ra đề
của giáo viên thông qua dự giờ thăm lớp, kiểm tra lại một số bài kiểm tra của
giáo viên, kiểm tra kiến thức của giáo viên.
Ở biện pháp này có 50% giáo viên cho rằng chưa thành công cũng có lý.Do
trong quá trình đào tạo họ chưa được bồi dưỡng về công tác ra đề hơn nữa theo
chương trình mới yêu cầu đề thi đảm bảo tính toàn diện trong đó có cả kiến thức,
kỹ năng, vận dụng, ghi nhớ. Ra một đề thi có cả trắc nghiệm cả tự luận là khó
đối với một số giáo viên, họ thật sự lúng túng trong ra đề trắc nghiệm dẫn đến có
những đề thi không đúng trong tâm.
Do đó cần phải tổ chức các chuyên đề hướng dẫn giáo viên ra đề vào đầu
năm học, cuối kỳ. Sau đó các tổ triển khai theo tổ, khối và có động viện, khen

24



thưởng thích đáng với những giáo viên có những bộ đề hay, đều về mặt tri
thức, kỹ năng và thiết thực.
2.3. Đảm bảo tính thường xuyên và hệ thống
2.3.1 Kiểm tra định kỳ, kiểm tra thường xuyên.
Có 22 giáo viên được hỏi thì cả 22 giáo viên đều đồng ý rất thành công đạt tỉ lệ
100%
Ban giám hiệu nhà trường đã quan tâm đến các hình thức kiểm tra này và
quán triệt đến từng giáo viên, coi kiểm tra định kỳ là phương thức xem xét kết
quả học tập của học sinh theo thời điểm để giúp giáo viên biết xem những học
sinh đã tiếp thu được gì sau những đơn vị bài học hay sau những phần học để kịp
thời bổ khuyết hay điều chỉnh nội dung và phương pháp dạy học những phần kế
tiếp còn kiểm tra thường xuyên dùng để đánh giá những phương diện cụ thể hay
những phần của chương trình học. Kết quả của kiểu kiểm tra này được dùng để
theo dõi sự tiến bộ của người học trong suốt tiến trình giảng dạy và cung cấp
những phản hồi liên tục cho học sinh và giáo viên, nhằm giúp giáo viên có
những biện pháp điều chỉnh việc giảng dạy cũng như giúp học sinh nhận ra
những tiến bộ và chưa tiến bộ của bản thân để tự điều chỉnh.
Trường chúng tôi đã thực hiện rất thành công biện pháp này, cách tiến
hành là xây dựng kế hoạch kiểm tra định kỳ và kiểm tra thường xuyên từ đầu
năm, coi kết quả đợt kiểm tra này là một tiêu chí quan trọng để đánh giá kết quả
hoạt động của giáo viên và thông qua kết quả học tập của học sinh trong đợt
kiểm tra đó để làm cơ sở điều chỉnh hoạt động dạy học của giáo viên
2.3.2.Kiểm tra đột xuất chẩn đoán và kiểm tra tổng kết.
Như chúng ta biết, kiểm tra đột xuất chẩn đoán không theo những thời điểm
được ấn định trước. Qua kiểm tra này phản ánh hành vi học tập điển hình của
người học, nghĩa là những điều người học làm được trong điều kiện bình thường,
không có sự chuẩn bị hay nổ lực tối đa. Những đánh giá dựa trên kết quả của
những bài kiểm tra đột xuất trong phạm vi lớp học thường được dùng để chẩn
đoán các mặt tồn tại của quá trình dạy học, từ đó đề ra phương hướng hay quá

25


trình điều chỉnh việc dạy và học. Còn kiểm tra tổng kết thường được thực hiện
vào cuối khoá học, môn học, kết quả thu được từ kiểm tra tổng kết chỉ ra khả
năng người học có thể đạt là gì khi nổ lực hết mình cũng như có sự chuẩn bị tối
đa và được dùng để xếp loại học tập của học sinh. Do vậy kiểm tra tổng kết rất
quan trọng, đối với học sinh, đối với nhà quản lý.
Chính vì thế nên khi điều tra việc thực hiện biện pháp này có 16 GV
(72,7%) được điều tra cho rằng rất thành công, còn 6 GV (27,3%) cho rằng đạt ở
yêu cầu là bởi vì 2 kiểu kiểm tra này mặc dầu đã được nhà trường chú trọng
song không tránh khỏi gây áp lực về mặt tâm lý cho HS. Các em chưa thực sự
vững vàng, chưa tự tin vào bản thân, còn nhiều lúng túng nên kết quả chưa được
như mong muốn.
Để thực hiện một cách tối ưu biện pháp này thì nhà trường cần tạo cho học
sinh, giáo viên thói quen trong kiểm tra tổng kết, kiểm tra đột xuất.
2.3.3. Phối hợp với phụ huynh để kiểm tra học sinh.
Khi được hỏi về mức độ thành công khi thực hiện biện pháp này thì có
15đ/c giáo viên (68,2%) cho là rất thành công còn 7đ/c giáo viên (31,8%) cho là
chưa thành công.
Sau khi kiểm tra trên phiếu trắc nghiệm tôi đã trực tiếp trao đổi với 2 giáo
viên với câu hỏi " Xin đ/c cho biết cơ sở đánh giá của đồng chí đối với mức độ
thành công của việc phối hợp với phụ huynh trong kiểm tra đánh giá học sinh ?"
Tôi đã thu được một số ý kiến trả lời như sau: "Theo tôi phối hợp với phụ huynh
để kiểm tra học sinh là rất thành công vì phụ huynh họ rất vui khi hàng ngày
hàng tháng họ đều được biết kết quả học tập rèn luyện của con em mình ở
trường và qua phụ huynh giáo viên cũng nắm được tình hình học sinh học tập
rèn luyện ở nhà để điều chỉnh phương pháp giảng dạy và kiểm tra, cũng qua phụ
huynh giáo viên hiểu được tâm tư nguyện vọng của học sinh, phụ huynh và nhờ
phụ huynh kiểm tra các cháu ở nhà đặc biệt đối với học sinh lớp 1,2,3 điều đó là

cực kì cần thiết (ý kiến cô Lê Thị Kim Tuyến - Tổ trưởng tổ 1).
Còn ý kiến của cô Lê Thị Thảo - lớp 4A cho biết nhiều phụ huynh tỏ ra
không bằng lòng khi thấy kết quả học tập của con em họ còn thấp và cho rằng lỗi
26


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×