Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

VỤ án HÌNH sự về tội đánh bạc và gá bạc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.75 KB, 15 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU…………………………………………………………………….. 2
NỘI DUNG…………………………………………………………………… 3
I.
II.
1.
2.
3.
4.
5.
III.
1.
2.
3.
4.
5.
IV.

TÌNH HUỐNG…………………………………………………….. 3
LÝ THUYẾT………………………………………………………. 6
Khách thể của tội phạm………………………………………………. 6
Mặt khách quan của tội phạm………………………………………….. 6
Chủ thể của tội phạm…………………………………………………. 7
Mặt chủ quan của tội phạm…………………………………………… 8
Hình phạt………………………………………………………………. 8
PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG……………………………………… 9
Về khách thể…………………………………………………………… 9
Về mặt khách quan………………………………………………………9
Về chủ thể……………………………………………………………… 10
Về mặt chủ quan………………………………………………………. 10


Hình phạt………………………………………………………………. 10
BÌNH LUẬN CỦA NHÓM………………………………………… 10

KẾT LUẬN…………………………………………………………………... 14
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………. 15

1


MỞ ĐẦU
Từ trước đến nay, đánh bạc, tổ chức đánh bạc và gá bạc luôn được xem là
một loại tệ nạn xã hội mà chưa có giải pháp tối ưu nào có thể loại trừ được loại tội
phạm này ra khỏi đời sống xã hội. Nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội
của hành vi trên nên trong các văn bản pháp luật hình sự của nước Việt Nam từ
trước đến nay đã quy định: Đánh bạc, tổ chức đánh bạc và gá bạc là một loại tội
phạm hình sự.
Năm 1985, khi xây dựng bộ luật hình sự đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa, tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc và gá bạc đã được pháp điển hóa tại Điều
200 BLHS. Cùng với sự phát triển đi lên của đất nước, tội phạm về đánh bạc cũng
phát triển mạnh mẽ hơn với nhiều hình thức mới và tính nguy hiểm cho xã hội cũng
ngày càng tăng lên. Chính vì sự phát triển của loại tội phạm này mà khi xây dựng
BLHS 1999, các nhà làm luật đã tách Điều 200 BLHS 1985 thành Điều 248 quy
định về “Tội đánh bạc” và Điều 249 quy định về “Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá
bạc”.
Tội đánh bạc và tội tổ chức đánh bạc, gá bạc là loại tội phạm nguy hiểm gây
hậu quả nghiêm trọng cho toàn xã hội, xâm hại đến các quan hệ xã hội, gây mất trật
tự công cộng của xã hội. Loại tội phạm này còn kéo theo sự phát triển của nhiều
loại tội phạm nguy hiểm khác như tội tham nhũng, tham ô, ma túy, mại dâm, trộm
cắp, cướp tài sản... Chính vì vậy, việc nghiên cứu bản chất của loại tội phạm này
nhằm tìm ra nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh hành vi phạm tội cũng như tìm

ra các giải pháp để loại bỏ hành vi nguy hiểm ra khỏi đời sống xã hội là điều hết
sức cần thiết.
Để tìm hiểu rõ hơn về “Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc”, cùng với đề tài
nghiên cứu: “Tìm kiếm hoặc xây dựng một vụ án hình sự theo Điều 249 BLHS
hiện hành. Sau đó phân tích và giải quyết vụ án theo quan điểm của nhóm”, sau
đây chúng em xin nêu ra một tình huống có thật đã được Tòa án xét xử về tội phạm
này, qua đó phân tích đi sâu và làm rõ hơn về dấu hiệu pháp lý, cấu thành tội phạm
và chế tài xử phạt đối với tội phạm này.

2


NỘI DUNG
I.

TÌNH HUỐNG:

Bị cáo: Nguyễn Thị Trắc – Sinh năm: 1966
Nội dung vụ án:
Khoảng 18h45’ ngày 28/01/2010, tại quán nước đầu ngõ 126 Đại La, phường
Đồng Tâm, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội, Nguyễn Thị Trắc đang ngồi bán nước thì
có một nam thanh niên không quen biết đến chỗ Trắc và bảo Trắc ghi cho anh ta số
đề: 07 = 30.000 đồng. Trắc liền ghi số đề trên vào một bảng cáp để trên mặt bàn rồi
lại ghi số đề trên vào một tờ tích kê. Khi Trắc vừa đưa tờ tích kê trên cho người
khách mua đề và nhận 30.000 đồng của anh ta thì bị tổ công tác của Công an
phường Đồng Tâm bắt quả tang. Người khách mua số đề của Trắc chạy thoát mất.
Công an phường đã thu giữ trên tay Trắc 01 tích kê đề trong đó có số 07 = 30.000
đồng. Qua kiểm tra tại chỗ Trắc ngồi bán nước, Công an phường còn phát hiện và
thu giữ của Trắc 01 bảng cáp đề ngày 28/01/2010. Sau đó tổ công tác đã đưa Trắc
về trụ sở giải quyết.

Tại cơ quan công an, Trắc khai nhận: Đã ghi số đề đến hôm bị bắt là được 03
ngày, Trắc trực tiếp làm chủ đề và tự thanh toán tiền nếu khách trúng. Trắc chỉ ghi
số đề, không ghi số lô. Ngày 28/01/2010, Trắc đã ghi được các số đề cụ thể như
sau:
48 = 10.000 đồng

84 = 10.000 đồng

19 = 30.000 đồng

28 = 20.000 đồng

82 = 20.000 đồng

36 = 10.000 đồng

09 = 10.000 đồng

90 = 10.000 đồng

07 = 30.000 đồng

91 = 20.000 đồng

63 = 10.000 đồng

Tổng cộng là 180.000 đồn tiền đề. Còn hai ngày trước không thu được bảng
cáp.
Cơ quan CSĐT – Công an quận Hai Bà Trưng đã ra quyết định trưng cầu giám
định chữ số, chữ viết tại bảng cáp đề thu giữ được của Trắc tại phòng Kỹ thuật hình

sự - Công an thành phố Hà Nội, kết luận chữ số, chữ viết tại bảng cáp đề trên là
chữ viết của Trắc.
3


Tính theo Nghị quyết 01 năm 2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao, số tiền Trắc tổ chức đánh bạc là:
180.000 đồng X 70 + 180.000 đồng = 12.780.000 đồng
Đối với nam thanh niên mua đề với số tiền là 30.000 đồng đã chạy thoát, Trắc
không rõ tên tuổi, địa chỉ nên cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý.
Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng đã ra Bản án sơ thẩm số 229/2010/HSST
giải quyết vụ án trên với nhận định:
Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ
quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, phù hợp với các tài liệu
chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt giữ người có hành vi phạm
tội quả tang khi bị cáo ghi số đề cho người khác. Tang vật của vụ án là bảng cáp
đề ngày 28/01/2010, với số tiền thu được là 180.000 đồng. Căn cứ vào Nghị quyết
số 01 ngày 12/05/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì tổng
số tiền đánh bạc của bị cáo phải huy động được tính là 12.780.000 đồng. Hành vi
của bị cáo Nguyễn Thị Trắc đã cấu thành tội tổ chức đánh bạc quy định tại khoản
1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội đã xâm phạm trật tự an
toàn xã hội, xâm phạm đến kỷ cương pháp luật. Bị cáo nhận thức và biết rõ mọi
hình thức tổ chức đánh bạc được thu bằng tiền trái phép đều vi phạm pháp luật.
Nhưng do hám lợi, bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Do vậy việc áp dụng
hình phạt tù đối với bị cáo là cần thiết để tính giáo dục riêng và phòng ngừa
chung.
Tuy nhiên, xét tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn nhận tội, lần đầu phạm tội
nên hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo và xét thấy
nhân thân bị cáo chưa có tiền án tiền sự nên không cần thiết phải cách ly bị cáo

khỏi đời sống xã hội, cho bị cáo được hưởng án treo, cải tạo ngoài xã hội, ấn định
thời gian thử thách đối với bị cáo là đủ để giáo dục. Nhưng bị cáo phải chịu sự
giám sát giáo dục của chính quyền địa phương nơi cư trú.
Bị cáo không có khả năng kinh tế nên Hội đồng xét xử miễn hình phạt tiền đối
với bị cáo.
Số tiền 180.000 đồng mà bị cáo đã ghi số đề ngày 28/01/2010 cần phải tịch thu
sung quỹ nhà nước.
4


Đối với đối tượng đã ghi đề của bị cáo, cơ quan công an không có tài liệu điều
tra làm rõ xử lý, hội đồng xét xử không xét.
Bị cáo còn phải chịu án phí và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Từ nhận định trên, Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng đã tuyên xử:
Bị cáo Nguyễn Thị Trắc phạm tội “Tổ chức đánh bạc” căn cứ vào các quy
định tại Khoản 1 Điều 249 BLHS; điểm p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 BLHS; Điều
41 BLHS; Điều 99 BLTTHS và Điều 234 BLTTHS.
Tòa tuyên án xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Trắc 12 tháng tù, cho hưởng án treo
thử thách 24 tháng kể từ ngày tuyên án. Đồng thời, giao bị cáo về Ủy ban nhân
dân phường Đồng Tâm, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội giám sát giáo dục trong thời
hạn thử thách.
Miễn hình phạt tiền đối với bị cáo.
Buộc bị cáo phải truy nộp số tiền 150.000 đồng thu lời bất chính sung quỹ nhà
nước.
Tịch thu số tiền 180.000 đồng mà bị cáo tổ chức đánh bạc ngày 28/01/2010
sung công quỹ nhà nước.
Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo
trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
II.


LÝ THUYẾT:

Điều 249 Bộ luật hình sự quy định về “Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc” như
sau:
“1. Người nào tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc với quy mô lớn hoặc đã bị xử
phạt hành chính về hành vi quy định tại Điều này và Điều 248 của Bộ luật này
hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm,
thì bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến ba trăm triệu đồng hoặc phạt tù từ một năm
đến năm năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba
năm đến mười năm:
a) Có tính chất chuyên nghiệp;
5


b) Thu lợi bất chính lớn, rất lớn hoặc đặc biệt lớn;
c) Tái phạm nguy hiểm.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến một trăm
triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”
Vậy, Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc là gì?
Tổ chức đánh bạc là hành vi chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, cưỡng bức, đe dọa
người khác tham gia trò chơi có được thua bằng tiền hoặc tài sản dưới bất kỳ hình
thức nào. Gá bạc là dùng địa điểm (nhà ở, cửa hàng, khách sạn, phòng trọ, tầu, xe,
thuyền, bè…) đang do mình quản lý sử dụng để cho người khác đánh bạc thu tiền
(tiền hồ).
Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc là hành vi tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trái
phép với quy mô lớn hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi đánh bạc, tổ chức
đánh bạc hoặc gá bạc hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xóa án
tích mà còn vi phạm.
1.


Khách thể của tội phạm:

Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trực tiếp xâm phạm trật tự công cộng. Việc
quy định các tội này nhắm đấu tranh phòng chống tệ nạn cờ bạc trong xã hội, giữ
gìn trật tự công cộng, bảo vệ tính mạng, sức khỏe và tài sản của công dân.
2.

Mặt khách quan của tội phạm:

Điều 249 quy định hai tội độc lập: tội tổ chức đánh bạc và tội gá bạc.
Mặt khách quan của tội tổ chức đánh bạc thể hiện ở hành vi rủ rê, lôi kéo, tụ tập
những người khác vào việc đánh bạc dưới bất kỳ hình thức nào với mục đích được
thua bằng tiền hay hiện vật mà không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho
phép hoặc được cho phép nhưng thực hiện không đúng với quy định trong giấy
phép được cấp. Người đánh bạc có thể đồng thời là người tổ chức đánh bạc.

Mặt khách quan của tội gá bạc thể hiện ở hành vi dùng nhà ở hay một địa điểm
khác của mình hoặc thuê, mượn của người khác để cho những người khác đánh
bạc. Người gá bạc cũng có thể đồng thời là người đánh bạc và tổ chức đánh bạc.
6


Trong trường hợp này, người đó bị truy cứu trách nhiệm hình sự về cả ba tội: đánh
bạc, tổ chức đánh bạc và gá bạc.
Các hành vi trên chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 249, nếu
tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc với quy mô lớn hoặc đã bị xử phạt hành chính về
hành vi quy định tại Điều này và Điều 248 hoặc đã bị kết án về một trong các tội
này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, cụ thể như sau:
-


Tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc thuộc một trong các trường hợp sau đây là
“với quy mô lớn”:

+ Tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trong cùng một lúc cho mười người đánh bạc trở
lên hoặc cho từ hai chiếu bạc trở lên mà số tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc có giá
trị từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng.
+ Có tổ chức nơi cầm cố tài sản cho người tham gia đánh bạc; có lắp đặt trang thiết
bị phục vụ cho việc đánh bạc; khi đánh bạc có phận công người canh gác, người
phục vụ, có sắp đặt lối thoát khi bị vây bắt, sử dụng phương tiện như ô tô, xe máy,
xe đạp, điện thoại... để trợ giúp cho việc đánh bạc.
+ Tổng số tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trong cùng một lần có giá trị từ
20.000.000 đồng trở lên.
-

-

3.

Trong trường hợp, người tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trái phép chưa đến
mức quy mô lớn nhưng trước đó đã bị xử phạt hành chính về hành vi đánh
bạc hoặc tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc hoặc đã bị kết án về một trong các tội
này mà chưa được xóa án tích thì vẫn phải chịu TNHS về tội tổ chức đánh
bạc hoặc gá bạc.
Người tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc chưa đến mức quy mô lớn theo các
điểm a, b và c khoản 1 Điều 2 NQ số 01/2010/NQ - HĐTP, nếu tổng số tiền
hoặc hiện vật dùng để đánh bạc có giá trị từ 2.000.000 đồng trở lên thì tuy họ
không phải chịu TNHS về tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc nhưng họ vẫn
phải chịu trách nhiệm hình sự về đồng phạm tội đánh bạc.
Chủ thể của tội phạm:


Cũng tương tự như tội đánh bạc, chủ thể của tội phạm này không phải là chủ thể
đặc biệt, chỉ cần đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có năng lực trách nhiệm hình
sự đều có thể là chủ thể của tội phạm này.
4.

Mặt chủ quan của tội phạm:
7


Tội phạm này được thực hiện với lỗi cố ý. Động cơ phạm tội là tư lợi và mục
đích là nhằm thu lợi bất chính.
5.

Hình phạt:

Điều 249 quy định ba khung hình phạt:
-

Khung hình phạt cơ bản tại khoản 1:

Quy định phạt tiền từ mười triệu đồng đến ba trăm triệu đồng hoặc phạt tù từ
một năm đến năm năm, áp dụng đối với người phạm tội trong trường hợp không có
tình tiết tăng nặng.
-

Khung hình phạt tăng nặng tại khoản 2:

Quy định hình phạt tù từ ba năm đến mười năm, áp dụng đối với người phạm tội
thuộc một trong các trường hợp sau:

+ Có tính chất chuyên nghiệp là trường hợp người phạm tội đã đánh bạc từ năm
lần trở lên, chuyên sống bằng nghề tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc, lấy đó là nguồn
thu nhập chính.
+ “Thu lợi bất chính lớn, rất lớn hoặc đặc biệt lớn” được xác định như sau:




Thu lợi bất chính từ 10.000.000 đồng đến dưới 30.000.000 đồng là thu lợi
bất chính lớn
Thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng đến dưới 90.000.000 đồng là thu lợi
bất chính rất lớn
Thư lợi bất chính từ 90.000.000 đồng trở lên là thu lợi bất chính đặc biệt
lớn

+ Tái phạm nguy hiểm
-

Hình phạt bổ sung tại khoản 3:

Ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung:
phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng; tịch thu một phần hoặc toàn bộ
tài sản.
III.

PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG:

Sau khi nghiên cứu và tìm hiểu tình huống trên, nhóm em xin phân tích tình
huống như sau:
8



1.

Về khách thể:

Thông qua hành vi phạm tội của mình, bà Trắc đã xâm phạm trực tiếp đến trật tự
công cộng và nếp sống văn minh, lành mạnh trong địa bàn phường Đồng Tâm,
quận Hai Bà Trưng, Hà Nội.
2.

Về mặt khách quan:

Trong tình huống trên, hành vi của bà Trắc đã cấu thành tội phạm được quy định
cụ thể tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Bà Trắc đã thực hiện hành vi “ghi cho một nam thanh niên không quen biết số
đề: 07 = 30.000 đồng vào một bảng cáp để trên mặt bàn và vào một tờ tích kê. Sau
đó, bà Trắc vừa đưa tờ tích kê cho người khách mua đề và nhận 30.000 đồng của
anh ta”. Đồng thời, bà Trắc cũng khai nhận rằng: “Đã ghi số đề đến hôm bị bắt là
được 03 ngày, Trắc trực tiếp làm chủ đề và tự thanh toán tiền nếu khách trúng”.
Ngày 28/01/2010, Trắc đã ghi được các số đề cụ thể như sau:
48 = 10.000 đồng

84 = 10.000 đồng

19 = 30.000 đồng

28 = 20.000 đồng

82 = 20.000 đồng


36 = 10.000 đồng

09 = 10.000 đồng

90 = 10.000 đồng

07 = 30.000 đồng

91 = 20.000 đồng

63 = 10.000 đồng

Tổng cộng là 180.000 đồng tiền đề.
Tính theo Nghị quyết 01 năm 2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao, số tiền bà Trắc tổ chức đánh bạc là:
180.000 đồng X 70 + 180.000 đồng = 12.780.000 đồng
Ở đây, bà Trắc đã có hành vi chủ mưu, cầm đầu, có tổ chức khi trực tiếp làm chủ
đề, ghi số đề và tự thanh toán tiền nếu khách trúng. Hành vi trên hoàn toàn do lỗi
cố ý và phù hợp với ý chí của bà Trắc.
Như vậy hành vi của bà Trắc phù hợp với mô tả trong cấu thành “Tội tổ chức
đánh bạc” quy định tại khoản 1 Điều 249 BLHS, với tình tiết “với quy mô lớn”
được hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP.

9


Xét tính chất nguy hiểm của hành vi: Những hành vi gây thiệt hại hoặc đe dọa
gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội mà pháp luật bảo vệ đều là những hành vi nguy
hiểm cho xã hội. Tuy nhiên, xét thấy hành vi của bà Trắc chưa gây nguy hại lớn cho

xã hội; tính chất, quy mô cũng chưa lớn. Đồng thời, bà Trắc đã thành khẩn nhận tội,
ăn năn hối cải; lần đầu phạm tội và nhân thân chưa có tiền án tiền sự nên hành vi
của bà vẫn được pháp luật khoan hồng.
3.

Về chủ thể:

Chủ thể của tội phạm trong tình huống này là bà Nguyễn Thị Trắc – sinh năm
1966. Bà Trắc đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có năng lực trách nhiệm hình
sự.
4.

Về mặt chủ quan:

Thứ nhất, trong tình huống trên, bà Trắc thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp.
Bà Trắc nhận thức được rằng, hành vi của mình gây nguy hiểm cho xã hội và đã
xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội và kỷ cương pháp luật. Đồng thời bà cũng biết
rõ mọi hình thức tổ chức đánh bạc được thu bằng tiền trái phép đều vi phạm pháp
luật. Nhưng do hám lợi nên bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội thông qua
việc trực tiếp làm chủ đề và ghi số đề cho các khách hàng của mình.
Thứ hai, bà Trắc thực hiện hành vi phạm tội xuất phát từ động cơ hám lợi, tư lợi
nhằm thu lợi bất chính từ việc ghi số đề cho khách hàng.
5.

Hình phạt:

Theo quyết định trong bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng,
bà Trắc bị xử phạt 12 tháng tù giam, cho hưởng án treo thử thách 24 tháng kể từ
ngày tuyên án.
IV.



BÌNH LUẬN CỦA NHÓM:
Thứ nhất, việc Tòa án áp dụng Nghị quyết số 01/2006/NQ - HĐTP ngày
12.5.2006 của Hội đồng thẩm phán TANDTC để giải quyết vụ án trên là
hoàn toàn chính xác.

Theo diễn biến trong tình huống trên, thời hiệu truy cứu TNHS đối với hành vi
phạm tội của bà Trắc được tính từ khi bà Trắc thực hiện hành vi ghi số đề vào ngày
28/01/2010. Vì vậy, khi xét xử Tòa án đã áp dụng Nghị quyết số 01/2006/NQ HĐTP để giải quyết vụ việc trên là chính xác.
10


Tại thời điểm hiện tại, khi chúng ta đọc vụ án này thì nhiều người sẽ nhầm rằng
phải áp dụng Nghị quyết 01/2010/NQ - HĐTP hướng dẫn cụ thể Điều 249 để giải
quyết. Tuy nhiên Nghị quyết 01/2010/NQ - HĐTP được Hội đồng Thẩm phán Toà
án nhân dân tối cao thông qua ngày 23 tháng 9 năm 2010 và có hiệu lực thi hành
sau bốn mươi lăm ngày, kể từ ngày ký ban hành, tức là đến tháng 11/2010 thì nghị
quyết này mới có hiệu lực thi hành.


Thứ hai, số tiền đánh bạc mà bà Trắc đã tham gia tổ chức đánh bạc được
tính theo hướng dẫn tại Nghị quyết 01/2006/NQ - HĐTP là 180.000 đồng
X 70 + 180.000 đồng = 12.780.000 đồng là chính xác. Cụ thể, Nghị quyết
01/2006/NQ - HĐTP quy định như sau:

“ b) Số tiền hoặc giá trị hiện vật của người chơi số đề, cá độ bóng đá, cá độ đua
ngựa... với nhiều người là tổng số tiền, giá trị hiện vật mà họ và những người chơi
khác dùng để đánh bạc.
Ví dụ: B là chủ đề của năm người chơi đề khác nhau, mỗi người chơi đề với

số tiền là hai mươi ngàn đồng; nếu với tỷ lệ chơi 1/70 (1 ăn 70) thì số tiền dùng để
đánh bạc được xác định như sau:
- Tiền dùng để đánh bạc của một người chơi đề với B sẽ được xác định là
một triệu bốn trăm hai mươi ngàn đồng [20.000 đồng tiền của một người chơi
dùng để đánh bạc + (20.000 đồng x 70 lần) tiền của B dùng đánh bạc với người
chơi đó = 1.420.000 đồng)].
- Tiền dùng để đánh bạc của B với năm người chơi đề là bảy triệu một trăm
ngàn đồng (1.420.000 đồng tiền của B dùng đánh bạc với một người chơi x 5
người chơi = 7.100.000 đồng). ”
Còn theo quy định tại Nghị quyết 01/2010/NQ - HĐTP thì số tiền mà bà Trắc
dùng để đánh bạc là 180 000 đồng. Nghị quyết 01/2010/NQ – HĐTP quy định cụ
thể như sau :
“ 5.2. Xác định số tiền hoặc giá trị hiện vật của chủ đề, chủ cá độ dùng đánh bạc
a) Trường hợp có người chơi số đề, cá độ trúng số đề, thắng cược cá độ thì số tiền
chủ đề, chủ cá độ dùng đánh bạc là toàn bộ số tiền thực tế mà chủ đề, chủ cá độ đã
nhận của những người chơi số đề, cá độ và số tiền mà chủ đề, chủ cá độ phải bỏ ra
để trả cho người trúng (có thể là một hoặc nhiều người).
11


Ví dụ: D là chủ đề của 5 người chơi số đề khác nhau, mỗi người chơi một số đề với
số tiền là 50.000 đồng (tổng cộng là 250.000 đồng); tỷ lệ được thua là 1/70 lần và
có 2 người đã trúng số đề thì số tiền D dùng để đánh bạc trong trường hợp này là
250.000 đồng + (50.000 đồng × 70 lần × 2 người) = 7.250.000 đồng.
b) Trường hợp không có người chơi số đề, cá độ trúng số đề, thắng cược cá độ
hoặc bị phát hiện, ngăn chặn trước khi có kết quả mở thưởng, kết quả bóng đá, kết
quả đua ngựa... thì số tiền chủ đề, chủ cá độ dùng đánh bạc là tổng số tiền mà chủ
đề, chủ cá độ đã nhận của những người chơi số đề, cá độ.
Ví dụ 1: Trong ví dụ nêu tại tiết a điểm 5.2 khoản 5 Điều này, nếu cả 5 người chơi
không trúng số đề thì số tiền mà chủ đề dùng đánh bạc là 50.000 đồng × 5 người =

250.000 đồng.
Ví dụ 2: Trong ví dụ nêu tại tiết a điểm 5.2 khoản 5 Điều này, nếu hành vi của D bị
phát hiện, ngăn chặn trước khi có kết quả mở thưởng thì số tiền D dùng đánh bạc
trong trường hợp này là 50.000 đồng × 5 người = 250.000 đồng (không phụ thuộc
vào việc khi có kết quả mở thưởng có hay không có người trúng số đề). ”


Thứ ba, tại thời điểm xét xử vụ án, hành vi của bà Trắc phù hợp với cấu
thành tội tổ chức đánh bạc là “ tổ chức đánh bạc với quy mô lớn” được
hướng dẫn tại Nghị quyết 02/2003/NQ-HĐTP (lưu ý là tại thời điểm này
nghị quyết 01/2010 chưa có hiệu lực) như sau:

“7. Về các tình tiết "với quy mô lớn", "thu lợi bất chính lớn, rất lớn hoặc đặc biệt
lớn" quy định tại Điều 249 Bộ luật Hình sự.
7.1. Tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc thuộc một trong các trường hợp sau đây là "với
quy mô lớn":
a. Tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trong cùng một lúc cho từ mười người đánh bạc
trở lên hoặc cho từ hai chiếu bạc trở lên;”
Cụ thể ở đây bà Trắc đã nhận ghi số đề cho 11 người.
→ Từ những phân tích cụ thể nêu trên, nhóm em hoàn toàn đồng ý với cách
giải quyết của Tòa án trong vụ án này.


Đồng thời, kể từ thời điểm bà Trắc chấp hành hình phạt theo quyết định
tại bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân Quận Hai Bà Trưng đến khi Nghị
quyết số 01/2010/NQ - HĐTP có hiệu lực, bà Trắc có thể được miễn chấp
12


hành hình phạt còn lại khi có lời đề nghị của Viện trưởng VKSND cùng

cấp.
Điểm b Khoản 4 Điều 3 Nghị quyết số 01/2010/NQ – HĐTP quy định cụ thể
như sau:
“4. Trường hợp người phạm tội đã bị kết án trước ngày Nghị quyết này có hiệu lực
theo đúng các văn bản trước đây và bản án đã có hiệu lực pháp luật thì không căn
cứ vào Nghị quyết này để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, trừ
trường hợp có những căn cứ kháng nghị khác; nếu theo Nghị quyết này họ không
phải chịu trách nhiệm hình sự thì giải quyết theo thủ tục miễn chấp hành hình phạt.
Việc miễn chấp hành hình phạt được thực hiện như sau:
b) Đối với người đang hoặc chưa chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ,
người bị xử phạt tù nhưng được hưởng án treo đang chấp hành thời gian thử thách
thì Chánh án Toà án nhân dân cấp huyện nơi người đó chấp hành hình phạt, chấp
hành thời gian thử thách của án treo ra quyết định miễn chấp hành toàn bộ hoặc
phần hình phạt còn lại theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cùng
cấp.”

KẾT LUẬN
Tệ nạn cờ bạc đã làm cho không biết bao gia đình phải ly tán, vợ chồng xa
cách, con cái phải bỏ học do hoàn cảnh gia đình khó khăn, trong gia đình thì nảy
sinh tâm lý coi thường lẫn nhau. Còn đối với xã hội, tệ nạn cờ bạc thường gây ra
mất trật tự công cộng tại các khu vực có các sòng bạc cũng như tại các khu vực
diễn ra các hình thức đánh bạc.
Tệ nạn đánh bạc đang ngày càng phát triển thành tội phạm nguy hiểm cho xã
hội, vấn đề đặt ra mang tính cấp bách hiện nay là làm sao ngăn chặn, kiểm soát, dần
13


tiến tới xoá bỏ mọi điều kiện và nguyên nhân cho tội đánh bạc phát triển và tồn tại
để làm lành mạnh hoá xã hội. Từ đó công tác phòng ngừa tội phạm đạt hiệu quả tốt,
việc làm đó mang tính nhân đạo và có ý nghĩa chính trị to lớn, không chỉ riêng

trách nhiệm của một ngành nào mà là trách nhiệm của toàn xã hội. Chính vì vậy
công việc không thể tiến hành trong ngày một, ngày hai mà phải bền bỉ lâu dài.
Xử lý nghiêm minh với những tội phạm nguy hiểm, chỉnh đốn ngay trong
hàng ngũ Đảng viên, cán bộ chức năng là việc làm cần thiết để từ đó dần dần hạn
chế và tiến tới loại trừ tệ nạn đánh bạc ra khỏi đời sống xã hội làm cho đất nước
thực sự vững mạnh về tất cả mọi mặt.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.

Bộ luật hình sự hiện hành
Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 –
Phần các tội phạm – TS. Nguyễn Đức Mai - Nxb. Chính trị quốc gia – 2013
Giáo trình luật hình sự Việt Nam – Tập 2 – Phần các tội phạm - Trường Đại
học Kiểm sát Hà Nội – 2015
Nghị quyết số 02/2003/NQ – HĐTP ngày 17/04/2003 hướng dẫn áp dụng
một số quy định của Bộ luật hình sự.
14


5.
6.

7.

Nghị quyết số 01/2006/NQ - HĐTP ngày 12/05/2006 của Hội đồng thẩm
phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự.

Nghị quyết số 01/2010/NQ – HĐTP ngày 22/10/2010 của Hội đồng thẩm
phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Điều 248 và Điều
249 Bộ luật hình sự.
Thuvienphapluat.vn

15



×