CÁC CHÍNH SÁCH ĐÃ ĐƯỢC ÁP DỤNG
Năm 1997
Mức lương tối thiểu là 144.000 đồng/tháng.
Năm 2000
Mức lương tối thiểu là 180.000 đồng/tháng - Nghị định 10/2000/NĐ-CP ngày 27/3/2000 của Chính Phủ
Năm 2002
Mức lương tối thiểu là 210.000 đồng/tháng.
Năm 2003
Từ 01/01, các đối tượng hưởng lương và phụ cấp từ nguồn kinh phí thuộc ngân sách Nhà nước và người
lao động trong các doanh nghiệp (trừ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) được nâng lên 290 ngàn
đồng.
Năm 2004
Không tăng.
Năm 2005
Ngày 15/09/05, Chính phủ (thủ tướng Phan Văn Khải) ký Nghị định 118/2005/NĐ-CP về việc điều chỉnh
mức lương tối thiểu chung. Điều chỉnh áp dụng từ ngày 01-10-2005 là 350.000 đồng/tháng.
Theo Bộ LĐ-TB-XH, phương án tăng mức lương tối thiểu lên 350.000 đồng/tháng có ưu điểm là phù hợp
mức tăng giá các mặt hàng tiêu dùng, bảo đảm tiền lương, thu nhập thực tế và có cải thiện (do thay đổi
quan hệ tiền lương từ ngày 1-10-2004).
Mức lương tối thiểu này áp dụng từ ngày 1-10-2005 đến ngày 30-9-2006 trong khu vực nhà nước, doanh
nghiệp hoạt động theo Luật Doanh nghiệp và là căn cứ để điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội.
Năm 2006
Ngày 11.9, Văn phòng Chính phủ đã công bố Nghị định 94/2006/NĐ-CP của Chính phủ được Thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng ký trước đó 4 ngày (7.9) điều chỉnh mức lương tối thiểu chung. Theo Nghị định
này, kể từ ngày 1.10.2006, mức lương tối thiểu chung hiện hành (được quy định tại Nghị định số
118/2005/NĐ-CP ngày 15.9.2005 của Chính phủ) từ 350.000 đồng/tháng lên 450.000 đồng/tháng.
Năm 2007
Không tăng.
Năm 2008
Chính phủ ban hành ba Nghị định 166, 167 và 168/2007/NĐ-CP, ngày 16/11/2007 về mức lương tối thiểu
chung cho người lao động. Từ 1-1-2008, người lao động thuộc khối cơ quan nhà nước, lực lượng vũ trang,
tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội sẽ được hưởng mức lương tối thiểu là 540.000 đồng/tháng (tăng
20% so với mức lương tối thiểu là 450.000 đồng).
Đối với lao động Việt Nam làm việc cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI), cơ quan, tổ chức
nước ngoài, tổ chức quốc tế và cá nhân người nước ngoài tại Việt Nam, Chính phủ cũng có nghị định điều
chỉnh mức lương tối thiểu theo hướng tăng lên.
Chính phủ khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện mức lương tối thiểu cao hơn mức lương tối thiểu vùng
mà Chính phủ qui định. Riêng với người lao động đã qua học nghề (kể cả lao động do doanh nghiệp tự dạy
nghề), Chính phủ yêu cầu phải trả mức lương cho họ cao hơn ít nhất 7% so với mức lương tối thiểu vùng
đã qui định...
Năm 2009
Chiều 13/10, Bộ LĐ - TB và XH họp báo giới thiệu nội dung, từ ngày 1/1/2009, mức lương tối thiểu vùng
được thực hiện theo Nghị định số 110/2008/NĐ-CP ngày 10/10/2008 và Nghị định số 111/2008/NĐ-CP quy
định mức lương tối thiểu vùng đối với người lao động làm việc ở các doanh nghiệp trong nước và doanh
nghiệp FDI. Doanh nghiệp trong nước đó là các công ty, doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác, trang trại, hộ
gia đình, cá nhân và các tổ chức khác của Việt Nam có thuê mướn lao động.
Doanh nghiệp FDI là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức
quốc tế và cá nhân người nước ngoài tại Việt Nam của Chính phủ.
Theo đó, các mức lương tối thiểu vùng được áp dụng như sau:
Vùng I: Đối với doanh nghiệp trong nước là 800.000 đồng/tháng; Đối với doanh nghiệp FDI là 1.200.000
đồng/tháng.
Vùng II: Đối với doanh nghiệp trong nước là 740.000 đồng/tháng; Đối với doanh nghiệp FDI là 1.080.000
đồng/tháng.
Vùng III: Đối với doanh nghiệp trong nước là 690.000 đồng/tháng; Đối với doanh nghiệp FDI là 950.000
đồng/tháng.
Vùng IV: Đối với doanh nghiệp trong nước là 650.000 đồng/tháng; Đối với doanh nghiệp FDI là 920.000
đồng/tháng.
Ngày 6/4, Chính phủ đã ban hành Nghị định 33/2009/NĐ-CP quy định mức lương tối thiểu chung thực hiện
từ ngày 1/5/2009 là 650.000 đồng/ tháng.
Năm 2010
01/01/2010
Chính phủ đã ban hành Nghị định 97/2009/NĐ-CP quy định mức lương tối thiểu vùng đối với doanh nghiệp
trong nước và Nghị định 98/2009/NĐ- CP quy định mức lương tối thiểu vùng đối với lao động Việt Nam làm
việc cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế và cá nhân
nước ngoài tại Việt Nam, áp dụng từ ngày 01/01/2010.
Nghị định 97, các đối tượng chịu điều chỉnh là người lao động làm việc ở công ty, doanh nghiệp, hợp tác xã,
tổ hợp tác, trang trại, hộ gia đình, cá nhân và các tổ chức khác của Việt Nam. Mức lương tối thiểu sẽ chia
thành 4 vùng, sát với mức tiền công, tiền lương và mức sống tại vùng đó. Cụ thể: vùng I là 980.000
đồng/tháng; vùng II: 880.000 đồng/tháng; vùng III: 810.000 đồng/ tháng; vùng IV: 730.000 đồng/tháng. Tại
Nghị định 98, lao động tại doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được quy định: vùng I là 1.340.000
đồng/ tháng; vùng II: 1.190.000 đồng/tháng; vùng III: 1.040.000 đồng/tháng; vùng IV: 1.000.000 đồng/tháng.
Lúc trước, mức lương tối thiểu vùng đang áp dụng đối với doanh nghiệp trong nước lần lượt theo từng vùng
là 800.000; 740.000; 690.000; 650.000 đồng /tháng và đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là
1.200.000; 1.080.000; 950.000; 920.000 đồng/ tháng. Như vậy, mức lương tối thiểu vùng năm sau cao hơn
mức lương năm trước khoảng từ 80.000-180.000 đồng/ tháng. Đối với doanh nghiệp hoạt động theo Luật
Doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài..., mức tiền lương thấp nhất
trả cho người lao động đã qua học nghề (kể cả lao động do doanh nghiệp tự dạy nghề) phải cao hơn ít nhất
7% so với mức lương tối thiểu vùng.
01/05/2010
Ngày 25.3; Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký Nghị định số 28/2010/NĐ-CP quy định mức lương tối thiểu
chung. Ngày 1.5.2010 tăng từ 650.000 lên 730.000 đ/tháng, tăng 80.000đ
Mức lương này được áp dụng đối với: Cơ quan nhà nước, lực lượng vũ trang, tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội; đơn vị sự nghiệp của Nhà nước, đơn vị sự nghiệp của tổ chức chính trị - xã hội, đơn vị sự
nghiệp ngoài công lập; công ty được thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp Nhà
nước (DNNN) và công ty TNHH 1 thành viên do Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ được tổ chức quản lý
và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp và hoạt động theo quy định của pháp luật.
Nó còn được dùng làm cơ sở để tính các mức lương trong hệ thống thang lương, bảng lương, mức phụ
cấp lương và thực hiện một số chế độ khác theo quy định của pháp luật...
Đồng thời, được dùng để tính trợ cấp từ ngày 1/5/2010 đối với lao động dôi dư do sắp xếp lại công ty nhà
nước theo Nghị định 110/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007; ngoài ra, dùng để tính các khoản trích và các chế độ
được hưởng tính theo lương tối thiểu chung.
Năm 2011
Ngày 29 tháng 10 năm 2010 Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã ký Nghị định số 108/2010/NĐ-CP về việc quy
định mức lương tối thiểu vùng đối với người lao động làm việc ở công ty, doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp
tác, trang trại, hộ gia đình, cá nhân và các tổ chức khác của Việt Nam có thuê mướn lao động. Mức lương
tối thiểu vùng cụ thể: Mức 1.350.000 đồng/tháng áp dụng với các doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn
thuộc vùng I. Mức 1.200.000 đồng/tháng áp dụng với các doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn thuộc vùng
II. Mức 1.050.000 đồng/tháng áp dụng với các doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn thuộc vùng III. Mức
830.000 đồng/tháng áp dụng với các doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn thuộc vùng IV.
Năm 2012
Từ ngày 01/05/2012, lương tối thiểu là 1.050.000 đồng/tháng. Theo Nghị định số 31/2012/NĐ-CP về mức
lương tối thiểu chung được Chính phủ ban hành ngày 12/4/2012, mức lương tối thiểu từ ngày
01/05/2012 sẽ là 1.050.000 đồng/tháng, tăng 220.000 đồng/tháng thay vì 830.000 đồng/tháng như
hiện nay.
Mức lương tối thiểu chung nêu trên áp dụng với cán bộ, công chức, viên chức, các đối tượng
thuộc lực lượng vũ trang và người lao động làm việc ở các cơ quan, đơn vị, tổ chức gồm: Cơ
quan nhà nước, lực lượng vũ trang, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội; Đơn vị sự nghiệp
của Nhà nước; đơn vị sự nghiệp của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội; Công ty trách
nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu được tổ chức quản lý và hoạt động
theo Luật Doanh nghiệp.
Mức lương tối thiểu chung quy định trên được dùng làm cơ sở để tính các mức lương trong hệ
thống thang lương, bảng lương, mức phụ cấp lương và thực hiện một số chế độ khác theo quy
định của pháp luật đối với cán bộ, công chức, viên chức, các đối tượng thuộc lực lượng vũ trang
và người lao động làm việc ở các cơ quan, đơn vị, tổ chức theo quy định.
Bên cạnh đó, còn dùng để tính trợ cấp kể từ ngày 01/5/2012 trở đi đối với lao động dôi dư theo
Nghị định số 91/2010/NĐ-CP ngày 20/8/2011 của Chính phủ quy định chính sách đối với người
lao động dôi dư khi sắp xếp lại công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm
chủ sở hữu; tính các khoản trích và các chế độ được hưởng tính theo lương tối thiểu chung.
•
Chính sách tiền lương trong phát triển kinh tế. Phân tích chính sách
tiền lương của Nhà nước Việt Nam và tác động của nó đến phát triển
kinh tế
Chính sách tiền lương là một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính sách kinh tế- xã
hội. Chính sách tiền lương không chỉ ảnh hưởng trực tiếp tới đến đời sống của những
người làm công ăn lương, đến đời sống của mọi người dân trong xã hội mà còn ảnh
hưởng đến sản xuất, đến năng suất và hiệu quả công tác, đến tích lũy và tiêu dùng, đến
động lực phát triển và phát triển tăng trưởng kinh tế, đến vấn đề ổn định chính trị - xã
hội. Khi kinh tế xã hội thay đổi bên cạnh sự thay đổi của chính sách kinh tế xã hội,
chính sách tiền lương cũng phải thay đổi theo.
Chính sách tiền lương luôn được nhà nước chú trọng, thường xuyên đổi chỉnh, bổ sung
và cải tiến vì vậy đã đóng góp thúc đẩy kinh tế phát triển, cải thiện một bước đời sống
của cán bộ, công chức và người lao động. Đặc biệt, trong sự phát triển kinh tế và đời
sống xã hội của nhân dân nước ta như hiện nay thì chính sách tiền lương phải được
xem xét và bổ sung kịp thời để ngày càng đáp ứng tốt hơn các yêu cầu của nền kinh tế
cũng như của người lao động. Tuy nhiên, so với sự phát triển nhanh chóng của nền
kinh tế nhiều thành phần như ở nước ta hiện nay thì chính sách tiền lương đang trở nên
lạc hậu, bộc lộ nhiều nhược điểm và trở thành trở lực của nền kinh tế, kìm hãm động
lực làm việc của người lao động. Các nghiên cứu, đánh giá gần đây cho thấy chính
sách tiền lương ở Việt Nam còn nhiều bất cập, chưa phù hợp và theo kịp với cơ chế thị
trường, sự phát triển đa dạng của nền kinh tế. Đặc biệt trong khu vực nhà nước, các
mức lương còn thấp, chưa đảm bảo cho người hưởng lương, nhất là cán bộ, công chức
thực sự “ sống được bằng lương”, cơ chế tiền lương trong nhiều khu vực còn “ cứng
nhắc ”, chưa thực hiện được khuyến khích người lao động nâng cao trình độ, thu hút
nhân tài, chưa góp phần thúc đẩy sự phát triển của thị trường sức lao động.
Chính sách tiền lương là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng vì vậy nó được hình
thành trên cơ sở hạ tầng nhất định, do cơ sở này quyết định và nó tác động trở lại đối
với cơ sở hạ tầng đó. Chính sách tiền lương luôn luôn tồn tại và phát huy tác dụng
trong những điều kiện, không gian, thời gian nhất định, nhằm đáp ứng mục tiêu, yêu
cầu cụ thể của từng giai đoạn lịch sử, khi các điều kiện đó thay đổi thì chính sách tiền
lương cũng phải thay đổi để giải quyết các mục tiêu, yêu cầu do giai đoạn lịch sử mới
đặt ra.
Vì vậy, để hiểu sâu hơn những tác động của sự phát triển kinh tế xã hội trong những
điều kiện lịch sử tác động tới chính sách tiền lương như thế nào để có những điều
chỉnh phù hơp, tích cực đối với sự phát triển của nước nhà, em đã nghiên cứu và hoàn
thành đề án với đề tài: “Chính sách tiền lương trong phát triển kinh tế. Phân tích chính
sách tiền lương của Nhà nước Việt Nam và tác động của nó đến phát triển kinh tế ”
Đối tượng nghiên cứu: Chính sách tiền lương – tiền lương tối thiểu của Việt Nam
Phạm vi nghiên cứu : Toàn đất nước
Phương pháp nghiên cứu : Vận dụng phương pháp thu thập thông tin từ chuyên môn,
thống kê, phân tích và tổng hợp để phân tích được bản chất vấn đề.
Nội dung của đề án gồm có 3 phần :
Phần thứ nhất : Sự cần thiết nghiên cứu chính sách tiền lương trong phát triển kinh tế
Phần thứ hai : Phân tích chính sách tiền lương tối thiểu của Việt Nam và tác động của
nó tới phát triển kinh tế.
Phần thứ ba : Những giải pháp hoàn thiện chính sách tiền lương tối thiểu để tăng
cường phát triển kinh tế ở Việt Nam
Mục đích nghiên cứu : Đề án đã đi sâu vào phân tích, lí giải và làm rõ bản chất chính
sách tiền lương, đặc biệt là chính sách tiền lương tối thiểu cũng như vai trò của nó đối
với sự phát triển kinh tế xã hội Việt Nam, và đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện
chính sách tiền lương tối thiểu để tăng cường phát triển kinh tế nước ta. .
TÁC ĐỘNG
1.Sơ lược nói chung :
Việc quy định mức lương tối thiểu nhằm bảo vệ người lao động, bên
cạnh đó, lương tối thiểu còn có một số tác động tích cực khác như khuyến
khích người lao động làm việc tăng năng suất lao động và làm giảm số
lượng người trợ cấp xã hội, nó còn có mặt tích cực là tăng tiêu dùng, tổng
cầu.
Tuy nhiên, trong một số nghiên cứu ở nước ngoài đã chỉ ra rằng tăng
lương tối thiểu cũng có thể dẫn đến những tác động không mong muốn
như tăng lạm phát, ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp, bên cạnh
đó, do tăng lương tối thiểu dẫn đến tăng chi phí lao động của doanh
nghiệp nên nó còn có một tác động tiêu cực khác là sự giảm cầu về lao
động và gia tăng thất nghiệp đối với những người lao động có TNT. Một
số nghiên cứu khác lại cho rằng, việc tăng lương tối thiểu sẽ có ít tác động
lên việc làm nếu mức lương tối thiểu ở gần mức lương thị trường hoặc
người lao động có khả năng “đàm phán” tiền lương hay có thông tin tốt về
thị trường lao động.
2.Đôi nét về tình hình mức lương tối thiểu :
Tại Việt Nam, tiền lương tối thiểu là mức tiền lương tháng thấp nhất
mà người sử dụng lao động trả cho người lao động trong một tháng. Tiền
lương tối thiểu được điều chỉnh theo lạm phát, khả năng chi trả của ngân
sách nhà nước và mức tăng trưởng kinh tế. Cho đến năm 2010, Việt Nam
đã có khoảng 10 lần điều chỉnh lương tối thiểu. Mức lương tối thiểu thực
tế và mức lương tối thiểu danh nghĩa ở giai đoạn đầu tương đối gần nhau.
Bởi ở thời điểm này tỷ lệ lạm phát không cao, do vậy khi điều chỉnh lương
tối thiểu danh nghĩa thì mức lương tối thiểu thực tế người lao động nhận
được có tăng lên. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, do tỷ lệ lạm phát
cao nên khi tăng lương tối thiểu thì trên danh nghĩa mức lương tối thiểu là
cao, song lương thực tế người lao động nhận được (theo giá so sánh) lại
tăng rất chậm. Có thể thấy khoảng cách giữa lương danh nghĩa và lương
thực tế tăng dần theo thời gian. Nghiên cứu của TS Nguyễn Việt Cường
cho thấy, tiền lương tối thiểu danh nghĩa tăng 508% từ mức 120 lên 730
nghìn đồng thời kỳ 1994 – 2010. Tuy nhiên, mức lương thực tế (giá so
sánh) chỉ tăng lên khoảng 120% thời kỳ này. Tốc độ tăng lương tối thiểu
thực tế vẫn thấp hơn so với tốc độ tăng GDP. Tốc độ tăng lương tối thiểu
thực tế bình quân năm là khoảng 5%, trong đó tốc độ tăng GDP bình quân
năm vào khoảng 7%. Hiện nay mức lương tối thiểu chỉ khoảng gấp 2 lần
chuẩn nghèo. Nghiên cứu này cũng đưa ra con số cụ thể như: tháng
5/2009, mặc dù tiền lương tối thiểu danh nghĩa tăng khoảng 20% từ 540 –
650 nghìn đồng, nhưng do tỷ lệ lạm phát, tiền lương tối thiểu thực tế lại
giảm 3%.
3.Tác Động
a.Tác động tích cực:
Đảm bảo đời sống cho người lao động.Kích cầu tiêu dùng , góp phần
chống suy giảm kinh tế.Thu hẹp khoảng cách chênh lệch mức lương tối
thiểu giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước . Góp phần giảm
tỷ lệ thất nghiệp
b.Mặt trái của chính sách:
Tăng chi phí của các dpang nghiệp , tăng chi ngân sách nhà nước ,
tăng giá cả ngoài thị trường
c.Tác động đối với việc làm:
Lương tối thiểu có làm tăng thất nghiệp?
Các giáo trình kinh tế học phổ thông thường coi lao động là một hàng
hóa, và mức lương sẽ điều chỉnh để cân bằng giữa cung và cầu lao động.
Vì thế, khi ấn định một mức lương tối thiểu cao hơn mức tự nhiên của thị
trường, giới chủ muốn thuê ít công nhân hơn, trong khi nhiều người muốn
làm việc với mức lương thấp hơn lương tối thiểu sẽ không tìm được việc.
Như thế, lương tối thiểu làm tăng tỉ lệ thất nghiệp.
Tuy nhiên, các nghiên cứu thực nghiệm trên thế giới vẫn tiếp tục đưa
ra các bằng chứng trái ngược. Cuối năm 2005, tạp chí Các Quan Điểm
Kinh Tế phỏng vấn các nhà kinh tế thuộc các trường đại học hàng đầu của
Mỹ. Hai phần ba tin rằng lương tối thiểu làm tăng thất nghiệp. Sau hơn
100 năm, cuộc tranh cãi thế kỷ vẫn chưa có dấu hiệu ngã ngũ.
Đình công vì bị cô lập
Một lý thuyết đình công cho rằng nhóm xã hội bị cô lập khỏi các thành
phần khác có xu hướng đình công cao hơn. Đợt đình công vừa qua tập
trung vào khu vực có mức lương tối thiểu cao nhất (vừa FDI, vừa thuộc
vùng kinh tế phát triển), chứ không phải khu vực khó khăn nhất (các
doanh nghiệp tư nhân trong nước). Điều này cho thấy còn có các điều kiện
xã hội tác động đến đình công.
Sự tập trung hàng trăm ngàn công nhân vào trong một khu công
nghiệp làm cho sự lan tỏa thông tin và phối hợp trong nhóm xã hội này
được dễ dàng hơn. Vì thế, họ trở thành một nhóm xã hội khá vững chắc
(ngược với công nhân của doanh nghiệp tư nhân trong nước, vốn phân tán
trong xã hội). Mặt khác, với điều kiện làm việc quá tải (có khi đến 12
tiếng/ngày) làm cho công nhân bị cô lập khỏi đời sống bình thường.
Người công nhân có khi không thấy ánh mặt trời vì vào công xưởng từ
6g30 sáng tới 8-9 giờ khuya. Điều kiện sinh hoạt quá khó khăn bên lề
trung tâm kinh tế lớn nhất nước cũng làm cho công nhân dễ coi mình là kẻ
bị gạt ra lề. Mặc dù làm việc từ 10 – 14 tiếng/ngày, công việc rất vất vả
nhưng họ chỉ nhận được số tiền lương khiêm tốn đủ nuôi họ sống qua
ngày. Bị ép buộc, bóc lột sức lao động họ đã liên kết lại đòi quyền lợi.
Đ ình c ông tr ên th ế gi ới, g ần đ ây nh ất ở Anh v ào n ăm 2006:
Các hoạt động ở trường học, bệnh viện, giao thông trên toàn nước
Anh đã tê liệt khi hơn 2 triệu công nhân ở nước này tham gia cuộc
đình công để phản đối các kế hoạch của chính phủ muốn giảm bớt
tiền trợ cấp trong lĩnh vực công.
Đình công ở Anh tiếp nối làn sóng bất ổn xã hội đang dấy lên khắp
châu Âu
Báo chí Anh hôm qua đưa tin về cuộc đình công và cho đây là cuộc
đình công lớn nhất trong cả một thế hệ, tiếp nối làn sóng bất ổn xã hội
đang dấy lên khắp châu Âu.
Người lao động thuộc hơn 30 công đoàn phản đối những kế hoạch của
chính phủ định cắt giảm 185 tỷ USD thâm hụt ngân sách bằng cách giảm
bớt phúc lợi trợ cấp, tăng khoản đóng góp của công nhân để hưởng trợ
cấp, và buộc người lao động phải làm việc nhiều giờ hơn.
Hàng chục cuộc tuần hành với sự tham gia của giáo viên, bác sĩ, lái xe
cứu thương, nhân viên an ninh biên giới, giới nhà báo... được dự kiến diễn
ra trên khắp cả nước.
Chính quyền cảnh báo các chuyến bay sẽ bị đình hoãn khá lâu tại phi
trường Heathrow của London, nơi nhân viên đại sứ quán được đưa tới để
thay thế các nhân viên kiểm soát hộ chiếu đang đình công.
Một số hãng hàng không cũng hủy các chuyến bay tới London để giảm bớt
khả năng bị quá tải.
Hầu hết trường học và các hệ thống vận chuyển công cộng hôm nay đóng
cửa và nhiều bệnh viện chỉ cung cấp các dịch vụ thiết yếu.
Chính phủ Anh nói sẽ không bị lay chuyển bởi cuộc đình công vì hệ thống
hưu bổng hiện thời không còn đủ khả năng chi trả.
Giới hữu trách khuyến cáo các công đoàn rằng hành động đình công sẽ
gây tổn thất cho nền kinh tế gần 800 triệu USD.
Đ ình c ông ở Vi ệt Nam:
Ở TP HCM n ă m 2006 đã diễn ra cuộc đình công với quy mô lớn
nhất từ trước đến nay tại Công ty Freetrend (Khu chế xuất Linh Trung I,
Q. Thủ Đức) vào sáng 28/12.
Khoảng 18.000 công nhân của Công ty Freetrend (công ty có 100%
vốn nước ngoài) đồng loạt đình công đòi tăng lương. Đỉnh điểm của cuộc
đình công là trong lúc chờ các cơ quan trách nhiệm tiến hành đàm phán,
giải quyết nội tình, hàng chục công nhân quá khích đã đập phá cửa kính,
nhà xưởng, lấy cắp thành phẩm. Cảnh sát 113, Công an quận Thủ Đức kịp
thời xuống hiện trường can thiệp và thiết lập lại ổn định.
Tiếp xúc với giới báo chí, các công nhân trình bày như sau: Tháng
11/2005, Công ty Freetrend thông báo sẽ đồng loạt nâng 30% lương cho
toàn thể công nhân và sẽ bắt đầu áp dụng lương mới từ ngày 1/1/2006 trở
đi. Thế nhưng, sau đó, công ty thông báo lại chỉ nâng lương cho công nhân
tối đa 100.000 đồng/người. Các công nhân cho biết, cách điều chỉnh lương
cào bằng này không đánh gía hết được tay nghề và mức độ đóng góp của
họ, nhất là những công nhân đã làm việc lâu năm ở công ty.
Vụ đình công tại Công ty Freedend được coi là có số
lượng công nhân tham gia lớn nhất từ trước đến nay tại
TP.HCM.
Tuy vậy, đến ngày xảy ra vụ đình công (28/12), công ty tiếp tục thông
báo điều chỉnh mức lương theo chủ trương mới. Theo đó, đối tượng công
nhân thử việc được nâng lương từ 628.000 đồng/người/tháng lên 790.000
đồng/người/tháng; Còn công nhân làm việc lâu năm chỉ được cộng thêm
160.000 đồng/người/tháng (tức chỉ tăng 100.000 đồng/ người/ tháng) trong
khi đó, bình thường mỗi công nhân có thâm niên đều được hưởng phụ cấp
60.000 đồng/ người/ tháng.
Buổi sáng cùng ngày, đại diện Công ty Freetrend đã có buổi làm việc
với Công đoàn và Phòng Quản lý lao động của Khu chế xuất Linh Trung I.
Kết quả, phía công ty đã có hướng giải quyết mới. Theo đó, công ty giữ
nguyên mức điều chỉnh lương cho công nhân mới là 790.000
đồng/người/tháng; Công nhân làm việc lâu năm sẽ được cộng thêm
160.000 đồng và giữ nguyên khoản phụ cấp thâm niên 60.000 đồng như
trước đây. Riêng trợ lý và nhân viên cấp 3 được điều chỉnh 860.000
đồng/người/tháng.
Theo đánh giá của một cán bộ công đoàn, đây là vụ đình
công có số lượng công nhân tham gia lớn nhất từ trước đến nay
tại TP.HCM.
Trong 11 tháng đầu năm 2011 đã có 857 cuộc đình công
diễn ra tại Việt Nam, và theo số liệu của chính phủ công bố thì
mức lạm phát trung bình hàng năm lên đến 18%. Số lượng các
cuộc đình công năm 2011 nhiều hơn gấp đôi so với năm 2010,
và nhiều hơn nữa so với năm 2008 – năm có kỷ lục đình công
cao nhất, khi lạm phát đạt đỉnh điểm ở 28%.
Theo truyền thông nhà nước, Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện
Nhân phát biểu tại một cuộc họp chính phủ về vấn đề này hồi
đầu tháng cho rằng, “đây là một con số rất đáng lo ngại”.
“Chúng tôi cần phải nghiên cứu xem đây có phải là một xu
hướng mới hay không, và có phải là vấn đề địa phương hay
toàn quốc.”
Tiền lương cho một công nhân nhà máy không có tay nghề
tại Việt Nam vẫn còn thấp so với Trung Quốc, ở khoảng $100
USD mỗi tháng so với $300 USD, theo tài liệu của các quản lý
nhà máy cho biết.
Mức lương thấp đã giúp Việt Nam, nơi cai trị bởi Đảng
Cộng sản, thu hút các công ty sản xuất quốc tế bao gồm cả công
ty điện tử Nhật Bản Canon, nhà sản xuất chip hàng đầu của Mỹ
là Intel, và hàng trăm công ty chủ yếu đến từ Đài Loan và Hàn
Quốc, cùng với các các thương hiệu sản xuất giày dép, quần áo
may mặc quốc tế như Nike.
Tuy nhiên, tiền lương gần đây đã tăng mạnh tại Việt Nam,
đặc biệt trong các ngành công nghiệp đòi hỏi tay nghề có nhiều
kinh nghiệm.
Một số công ty đã tăng lương ở bốn thời điểm khác nhau hồi
năm ngoái để tránh các cuộc đình công xảy ra, và chính phủ
tăng mức lương tối thiểu trong các lĩnh vực trọng điểm công
nghiệp lên mức 2.000.000 VNĐ ($95 USD) trong tháng Tám
vừa qua, tương đương với mức tăng 49%.
“Công ty sản xuất đang bị siết chặt ở cả hai mặt, người mua
muốn ép giá sản phẩm xuống và công nhân liên tục đòi hỏi
tăng lương vì các chi phí trong cuộc sống ngày nay đã gia
tăng,” ông Jonathan Pincus nói, người hiện đứng đầu chương
trình giảng dạy chương trình kinh tế thuộc Đại học Harvard ở
TP Hồ Chí Minh.
d.Tác động đến kinh tế:
Lương tối thiểu có làm giảm FDI?
Câu hỏi này đến nay vẫn chưa được trả lời dứt điểm. Một nghiên cứu
mới đây so sánh mức FDI giữa các bang của Ấn Độ cho thấy FDI ở nước
này đặc biệt nhạy cảm với tỉ lệ đình công (và sự dồi dào về nguồn vốn tại
chỗ). Trong khi đó, một nghiên cứu khác về FDI ở các vùng của Mỹ lại
không cho thấy điều này. Đây vẫn còn là một vấn đề để ngỏ của các nhà
kinh tế. Nhìn vào các nước phát triển như G7, dù công đoàn rất phát triển
và lương tối thiểu cao, họ vẫn thu hút phần lớn FDI của thế giới. Như vậy,
có nhiều cách khác để thu hút đầu tư ngoài việc đặt giá lao động rẻ.
Trên thực tế, ở các nước đang phát triển, lương tối thiểu không phải là
một định chế bền vững mà co giãn rất nhiều cùng với môi trường kinh tế.
Trong các thời kỳ khủng hoảng, mức lương tối thiểu thường bị hi sinh để
kích thích đầu tư.
Chẳng hạn, trong gần 10 năm suy thoái thập kỷ 1980, trong số 48 nước
mà Tổ chức Lao động quốc tế có số liệu, có tới 38 nước đánh tụt lương tối
thiểu xuống ít nhất 20%, thậm chí tới 50% như Mexico. Một lần nữa, việc
giảm lương tối thiểu trong các doanh nghiệp FDI ở VN từ 50 USD vào
năm 1990 xuống còn 45, 40 và 35 USD từ cuộc khủng hoảng tài chính tiền
tệ Đông Nam Á cũng không nằm ngoài thông lệ này.
Có một lo ngại là hiện nay nếu tiếp tục qui định các mức lương tối
thiểu khác nhau giữa doanh nghiệp trong và ngoài nước, thì đi ngược lại
xu hướng tiến tới bình đẳng giữa hai khu vực và khó hội nhập. Đây là lo
ngại hoàn toàn chính đáng về mặt pháp lý. Một chiến lược vừa đảm bảo
nhu cầu hội nhập, vừa đảm bảo quyền của người lao động là: thay vì áp
một mức lương tối thiểu thật cao cho doanh nghiệp nước ngoài, hãy tạo
điều kiện cho các công đoàn cơ sở “đeo bám” từng doanh nghiệp để đòi
hỏi mức lương cao hơn mức lương tối thiểu chung.
Lương tối thiểu và tăng trưởng kinh tế?
Dường như ít có nghiên cứu về ảnh hưởng của lương tối thiểu lên tốc
độ tăng trưởng dài hạn của các quốc gia. Thiếu những phân tích định
lượng, khó mà đánh giá được lương tối thiểu sẽ ảnh hưởng tiêu cực hay
tích cực lên tăng trưởng kinh tế. Nhìn vào sự phát triển của từng nước, ta
thấy những dấu chỉ khác nhau: trong khi lương tối thiểu của Hàn Quốc
tăng đều đặn trong suốt mấy thập kỷ tăng trưởng thì lương tối thiểu ở Mỹ
lại giảm 29% từ năm 1979-2003 (dù lương thực tế liên tục tăng).
Một mặt, lương tối thiểu có thể làm tăng thất nghiệp, giảm đầu tư (nhất
là đầu tư nước ngoài), do đó ảnh hưởng xấu đến tăng trưởng. Mặt khác,
lương tối thiểu có chức năng phân phối lại thu nhập. Các nhà kinh tế
tương đối thống nhất là bình đẳng trong thu nhập thì có lợi cho phát triển.
Kết Luận
Tác động của việc tăng tiền lương tối thiểu lên việc làm nói chung rất
nhỏ và không có ý nghĩa thống kê. Việc tăng tiền lương tối thiểu làm giảm
khả năng có việc làm trong khu vực chính thức. Tuy nhiên, kết quả này
cần phải được phân tích một cách thận trọng vì có thể lao động khu vực
chính thức tự chuyển sang khu vực phi chính thức để có thu nhập cao hơn.
Kết quả này còn cho thấy vai trò quan trọng của khu vực phi chính thức
trong việc tạo việc làm. Vì vậy, hoạt động kinh tế của khu vực phi chính
thức cũng cần nhận được sự quan tâm phù hợp.Mặc dù đã qua 4 lần cải
cách , nhưng đến nay chính sách tiền lương nước ta vẫn còn nhiều bất
cập . VD lao động trình độ cao trả lương thấp hơn giá thị trường .
Trong nền kinh tế thị trường tiền luơng bị chi phối bởi quy luật cung cầu thị
trường lao động việc tìm kiếm biện pháp để đảm bảo mức tiền lương thoả đáng
cho người lao động là mối quan tâm từ lâu của chính phủ và các tổ chức quốc
tế về lao động
Một mức tiền lương hợp lý có vai trò quan trọng tạo động lực làm việc nâng
cao năng suất lao động phát triển sản xuất thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Mặt khác mức tiền luơng hợp lí phải đảm bảo cho con người chủ thể của lao
động sống đầy đủ về vật chất và tinh thần , duy trì chất lượng nguồn lao động
Tiền lương tối thiểu được lấy làm cơ sở để tính mức tiền lương cho các loại lao
động khác , tiền lương tối thiểu do nhà nước quy địnhvà có vai trò quan trọng
trọng đến đảm bảo chất lượng nguồn nhân lực . Việt Nam từ năm 1993 đến nay
đã thực hiện 7 lần cải cách tiền lưong tối thiểu và tiếp tục đổi mới tiền lương tối
thiểu đến năm 2010 đạt mục tiêu thống nhất mức lưong tối thiểu chung . Trong
quá trình cải cách tiền lương tối thiểu sẽ có sự tác động qua lại giữa các yếu tố
của thị trường lao động và mức lương tối thiểu .Vì vậy mục tiêu nghiên cứu đề
tài này là “ tiền lương tối thiểu tác động đén cung cầu lao động Việt Nam
’’.Trong quá trình nghiên cứu được sự hướng dẫn của thầy cô giáo và tham
khảo các tài liệu sách báo tạp chí , bài viết đã đưa ra cơ sở lí luận về tiền lương
tối thiểu trong nền kinh tế thị trường cũng như ảnh hưởng của tiền lương tối
thiểu trong nền kinh tế thị trường đến giá cả , thất nghiệp,tiền lưong và tăng
trưởng kinh tế . Mặt khác bài viết còn nêu lên thực trạng tiền lương Việt Nam
từ đó đưa ra phương hướng cải cách tiền lương tối thiểu trong trong những năm
tiếp theo
Tiền lương tối thiểu được tính toán dựa trên cơ sở đảm bảo được các nhu cầu tối thiểu
của người lao động.Do vậy, mục tiêu của Nhà Nước khi đặt ra mức lương tối thiểu ko
phải là để điều tiết cung cầu trên thị trường sức lao động. Khi nền KT có lạm phát cao thì
NN có thể xem xét tăng mức TLTT để bù lạm phát đồng thời đảm bảo được mức sống tối
thiểu cho người lao động. Trên thực tế ở nước ta hiện nay, khi người dân nhận được
thông tin tăng TLTT là mọi người đã tranh thủ tăng giá cả các mặt hàng do họ kỳ vọng
lạm phát sẽ tiếp tục tăng cao. Đây có thể xem là lạm phát do tâm lý.
Tiền lương tối thiểu ảnh hưởng đến thị trường:
- Thông thường khi tiền lương tối thiểu tăng sẽ kéo theo hệ lụy tăng giá các sản phẩm tiêu dùng
thiết yếu dẫn đến chỉ số lạm phát CPI tăng. Mà chỉ số này về mặt tương đối tăng cao hơn so với
mức tăng lương ( cái này chỉ đúng với các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam ).
- Tiền lương tối thiểu nếu tăng sẽ ảnh hưởng đến cân đối ngân sách đối với khu vực công, phát
sinh thêm một khoản chi phí đối với các doanh nghiệp. Đây cũng là một lý do làm tăng giá bán
sản phẩm.
Còn rất nhiều yếu tố ảnh hưởng..... bạn có thể tham khảo thêm ý kiến của những người khác.
Thực trạng và giải pháp cải cách tiền lương tại Việt Nam
Trong các thời kỳ phát triển đất nước, Việt
Nam đã nhiều lần cải cách chính sách tiền
lương để phù hợp với xây dựng nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
hội nhập. Dù đạt được những thành công
nhất định, song vẫn còn rất nhiều hạn chế,
nhất là cơ chế tạo nguồn chưa được tháo gỡ
dẫn đến việc cải cách tiền lương bị rơi vào
vòng luẩn quẩn.
Những mặt được
Thứ nhất, quan điểm, chủ trương về cải cách chính sách tiền lương của Đảng
từ năm 2003 đến nay là đúng đắn, phù hợp với nền kinh tế thị trường (KTTT) định
hướng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt quan điểm coi việc trả lương đúng cho người lao
động là thực hiện đầu tư cho phát triển, tạo động lực để phát triển kinh tế và nâng
cao chất lượng dịch vụ công, góp phần làm trong sạch và nâng cao hiệu lực, hiệu
quả hoạt động của bộ máy Nhà nước. Đặc biệt, Luật Cán bộ, Công chức đã quy định
công chức có 2 năm liên tiếp không hoàn thành nhiệm vụ sẽ bị cho thôi việc. Thực
hiện tốt việc xác định vị trí việc làm sẽ là cơ sở và căn cứ để tính toán được biên chế
công chức phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, phạm vi và đối tượng quản lý trong
từng cơ quan, tổ chức, đơn vị. Người nào không đáp ứng được các yêu cầu của vị trí
việc làm sẽ bị đưa ra khỏi công vụ. Chính phủ đã xác định lộ trình thực hiện việc xây
dựng hệ thống vị trí việc làm trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị, phấn đấu đến năm
2015, 50% cơ quan hành chính nhà nước có cơ cấu cán bộ, công chức theo vị trí việc
làm.
Thứ hai, tách dần tiền lương khu vực sản xuất kinh doanh với khu vực hành
chính nhà nước (HCNN) và khu vực sự nghiệp cung cấp dịch vụ công; chính sách tiền
lương với chính sách bảo hiểm xã hội và ưu đãi người có công, trợ giúp xã hội. Đó là
bước ngoặt rất quan trọng cải cách tiền lương trong điều kiện mới theo định hướng
thị trường.
Thứ ba, chú ý gắn cải cách tiền lương cán bộ, công chức, viên chức (CBCCVC)
với cải cách hành chính và xây dựng nền công vụ, tinh giảm biên chế khu vực HCNN,
phát triển khu vực sự nghiệp cung cấp dịch vụ công theo nhu cầu phát triển của xã
hội. Tuy phải tiến hành dần từng bước nhưng là hướng đi đúng đắn. Một số ý kiến
cho rằng cần tiếp tục cắt giảm 40% cán bộ công chức hiện nay để có nguồn bổ sung
cho cải cách tiền lương, nếu không cải cách tiền lương khó thành công.
Thứ tư, tiếp tục đổi mới cơ chế tiền lương, mở rộng và làm rõ trách nhiệm,
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của đơn vị sự nghiệp công lập trong việc xếp
lương, trả lương gắn với chất lượng và hiệu quả cung cấp dịch vụ công theo tinh thần
xã hội hóa. Đây cũng là định hướng rất quan trọng trong cải cách và trong cơ chế tạo
nguồn cải cách tiền lương CBCCVC.
Thứ năm, tiền lương danh nghĩa của CBCCVC có xu hướng tăng do nhiều lần
điều chỉnh mức lương tối thiểu chung trên cơ sở bù trượt giá và tăng trưởng kinh tế,
mở rộng quan hệ tiền lương tối thiểu - trung bình - tối đa, từng bước tiền tệ hóa các
khoản ngoài lương nhằm khắc phục bình quân, bao cấp và ổn định đời sống của
CBCCVC. Theo Bộ Nội vụ, từ năm 2003 đến nay, mức lương tối thiểu chung cho
người lao động trong khu vực hành chính - sự nghiệp đã điều chỉnh 7 lần từ 210.000
đồng/tháng lên 830.000 đồng/tháng, với mức tăng gần 4 lần. Từ ngày 1/5/2012,
mức lương tối thiểu đã được quyết định tăng lên mức 1.050.000 nghìn đồng/tháng.
Việc điều chỉnh này được thực hiện trên cơ sở các mức đã dự kiến trong Đề án tiền
lương giai đoạn 2003 - 2007 và 2008 - 2012, có điều chỉnh linh hoạt theo mức tăng
trưởng kinh tế, chỉ số giá tiêu dùng và khả năng của NSNN.
Theo Vụ Tiền lương (Bộ Nội vụ), sẽ cố gắng đến năm 2018 điều chỉnh lương
tối thiểu của công chức đảm bảo nhu cầu tối thiểu - khoảng 3 triệu đồng/tháng và
phụ cấp công vụ khoảng 30%. Tuy nhiên, theo PGS., TS.Trần Văn Thiện, Viện trưởng
Viện nghiên cứu phát triển nguồn nhân lực – Trường Đại học Kinh tế TP.Hồ Chí Minh,
mặc dù đã qua 7 lần điều chỉnh mức lương tối thiểu nhưng nếu tính tới chỉ số lạm
phát và giá cả tiêu dùng thì lương tối thiểu thực tế chỉ tăng hơn 0,05 lần. Tính ra,
trung bình mỗi năm lương tối thiểu thực tế chỉ tăng 0,64%.
Những tồn tại và bất cập
Thứ nhất, duy trì quá lâu một chính sách tiền lương thấp đối với CBCCVC. Các
lần cải cách vừa qua luôn bị chi phối tuyệt đối bởi khả năng của NSNN, nên đã thực
hiện một chính sách tiền lương quá thấp đối với CBCCVC và gắn chặt với tiền lương
tối thiểu chung vốn rất thấp (chỉ đáp ứng 65% - 70% nhu cầu mức sống tối thiểu
của người lao động). Hơn nữa, chính sách tiền lương thấp này đã lại ngày càng thấp
xa so với khu vực sản xuất kinh doanh, chưa bảo đảm cho CBCCVC sống chủ yếu
bằng tiền lương. Đó là một bất cập, nghịch lý và mâu thuẫn lớn. Theo kết quả điều
tra của Công đoàn Viên chức Việt Nam, tiền lương cứng của CBCCVC khá thấp, phần
lớn là hưởng lương ở mức cán sự và chuyên viên, chiếm khoảng 73% (cán sự chiếm
32% và chuyên viên 41%), còn ở mức chuyên viên chính là 24% và chuyên viên cao
cấp là 3%.
Thứ hai, quan hệ tiền lương tối thiểu - trung bình - tối đa cũng chưa hợp lý,
nhất là hệ số trung bình quá thấp trong quan hệ tiền lương tối thiểu - trung bình - tối
đa nên không cải thiện được đời sống và khuyến khích được CBCCVC có hệ số lương
thấp; tiền lương trả cho CBCCVC được quy định bằng hệ số được tính trên cơ sở tiền
lương tối thiểu chung; tiền lương chưa được trả đúng với vị trí làm việc, chức danh
và hiệu quả công tác, chất lượng cung cấp dịch vụ công. Theo Bộ Nội vụ, giai đoạn
2016-2020 thực hiện mở rộng quan hệ mức lương tối thiểu - trung bình - tối đa từ
mức 1 - 2,34 - 10 hiện nay lên mức 1 - 3,2 - 15.
Thứ ba, trong khi tiền lương không đủ sống, thì thu nhập ngoài lương lại rất
cao (phụ thuộc vào vị trí, chức danh công việc, lĩnh vực quản lý, vùng, miền…) và
không có giới hạn, không minh bạch, cũng không kiểm soát được. Trong phần thu
nhập ngoài lương cho đến nay không ai có thể thống kê, đánh giá định lượng được,
có thể có phần chính đáng, song chủ yếu là không chính đáng do lợi dụng quyền lực
để tham nhũng, tiêu cực trong thi hành công vụ (từ biếu xén, cơ chế xin - cho, cơ
chế ăn chia…). Mức lương tối thiểu của công chức năm nay được nâng lên 1.050.000
đồng, song vẫn là mức quá thấp, không đủ cho chi phí trong cuộc sống vốn ngày
càng đắt đỏ do lạm phát. Chính điều này đã tạo “đất sống” cho tham nhũng, tiêu cực
ngày càng nhức nhối…
Thứ tư, tiền lương Nhà nước quy định trả cho CBCCVC mặc dù còn rất thấp,
nhưng tổng quỹ lương và trợ cấp do NSNN bảo đảm lại chiếm tỷ lệ khá cao trong
tổng chi NSNN, cho nên buộc phải “gọt chân cho vừa giày”. Đó là một trong những
nút thắt khó gỡ nhất trong cải cách chính sách tiền lương đối với CBCCVC vừa qua.
Theo Viện Chiến lược và Chính sách tài chính (Bộ Tài chính), hiện nay mức độ đảm
bảo từ NSNN cho trả lương và các khoản có tính chất lương là khá cao và liên tục
tăng nhanh. Cụ thể, năm 2011, lương, phụ cấp ước chiếm 51% chi thường xuyên
của NSNN, đạt gần 9,6% GDP. Trong khi năm 2010, con số này chỉ là 6,7% GDP.
Ngoài ra, 21 ngành được hưởng ở 16 loại phụ cấp ưu đãi khác nhau đang có xu
hướng mở rộng hơn, khiến NSNN dành cho lương tối thiểu ngày càng bị mỏng đi.
Thứ năm, việc thực hiện chủ trương xã hội hóa các hoạt động sự nghiệp công
(dịch vụ công) còn chậm và đạt kết quả thấp, nhất là trong y tế, giáo dục và đào
tạo… gây khó khăn cho cải cách tiền lương và tạo nguồn để trả lương cao cho
CBCCVC. Đối với các tỉnh, thành phố lớn đông dân cư như Hà Nội, TP.Hồ Chí Minh…
dễ dàng kêu gọi các nhà đầu tư trong và ngoài nước triển khai thực hiện, nhưng đối
với cấp huyện, nhất là đối với huyện thuộc vùng núi cao, trung du, hải đảo, việc triển
khai thực hiện xã hội hóa rất khó khăn. Đây cũng là một trong những cản trở lớn
nhất của cải cách tiến lương, do chưa tách bạch rõ ràng chính sách tiền lương đối với
công chức khu vực HCNN và viên chức khu vực sự nghiệp cung cấp dịch vụ công.
Có thể nói rằng, cải cách chính sách tiền lương đối với CBCCVC từ năm 2003
đến nay chưa thành công và vẫn không thoát ra được vòng luẩn quẩn: Đó là chính
sách tiền lương thấp không đủ sống, nhưng thu nhập ngoài lương lại rất cao, mỗi lần
tăng lương tối thiểu làm cho gánh nặng của NSNN càng tăng. Chính sách tiền lương
dù đã “cải cách” vẫn chưa tạo ra động lực đủ mạnh cho người hưởng lương phát huy
tài năng và cống hiến. Tiền lương thấp không kích thích được CBCCVC gắn bó với
Nhà nước, không thu hút được nhân tài; ngược lại, người làm việc giỏi, người có tài
bỏ khu vực nhà nước ra làm việc cho khu vực ngoài nhà nước, nơi có tiền lương và
thu nhập cao, có xu hướng tăng. Mặt khác, lương thấp cũng là nguyên nhân quan
trọng của tiêu cực, tham nhũng.
Giải pháp tạo nguồn cải cách tiền lương
Cơ chế tạo nguồn cải cách tiền lương CBCCVC về nguyên tắc phải dựa trên cơ
sở mục tiêu, định hướng cải cách tiền lương CBCCVC. Các lần cải cách vừa qua chúng
ta đã làm một bài toán ngược là từ miếng bánh NSNN dành cho cải cách tiền lương
để từ đó có định hướng cải cách cho phù hợp. Tuy nhiên, cách làm này đã dẫn đến
thất bại và nhiều hệ lụy. Bởi vậy, đổi mới cơ chế tạo nguồn cải cách tiền lương
CBCCVC giai đoạn 2011 - 2020 phải bắt đầu từ quyết tâm chính trị rất cao của cấp
có thẩm quyền và tư duy chiến lược của Đảng và Nhà nước, đồng thời phải có những
đột phá. Dưới đây xin nêu một số vấn đề quan trọng nhất:
Thứ nhất, quản lý chặt và giảm đến mức tối đa đối tượng hưởng lương từ
NSNN. Theo đó, cần xây dựng một nền hành chính và công vụ chuyên nghiệp, hiện
đại trên cơ sở đó xác định rõ từng vị trí làm việc với chức danh tiêu chuẩn rõ ràng để
xác định ai là công chức và phải quản lý công chức theo chức danh của vị trí làm
việc. Đồng thời, rà soát và đánh giá lại cán bộ, công chức, thực hiện tinh giảm bộ
máy, cải cách hành chính, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức. Trong đó,
chọn lọc, kiểm định chất lượng cán bộ, công chức và áp dụng công nghệ thông tin
hiện đại, nối mạng trong toàn bộ hệ thống hành chính (Chính phủ điện tử) là khâu
đột then chốt.
Thứ hai,đột phá vào mở cơ chế để đẩy mạnh xã hội hóa khu vực sự nghiệp
cung cấp dịch vụ công nhằm giảm dần tỷ trọng chi từ NSNN cho đầu tư cơ sở vật
chất, giảm tối đa viên chức hưởng lương từ NSNN. Khu vực này chia ra làm 3 loại cơ
sở cung cấp dịch vụ công với 3 cơ chế khác nhau: (i) Các cơ sở cung cấp dịch vụ
công không có nguồn thu thì NSNN trả lương và áp dụng chính sách tiền lương như
cán bộ, công chức; (ii) Các cơ sở cung cấp dịch vụ công có nguồn thu nhưng chưa tự
trang trải được toàn bộ chi phí hoạt động và tiền lương thì được Nhà nước hỗ trợ
phần thiếu hụt (Có lộ trình, bước đi thích hợp để giảm dần hỗ trợ từ NSNN cho trả
lương viên chức thuộc loại này); (iii) Các cơ sở cung cấp dịch vụ công có nguồn thu
tự trang trải được toàn bộ chi phí hoạt động và tiền lương thì được áp dụng chính
sách tiền lương theo cơ chế thị trường. Nhà nước quy định các khoản thu phí, lệ phí
trên cơ sở từng bước tính đúng, tính đủ sát với thị trường, phù hợp với từng loại dịch
vụ và loại hình đơn vị cung cấp dịch vụ (giáo dục, y tế, văn hoá, khoa học, nghệ
thuật…); quy định cơ chế uỷ quyền, đặt hàng cho các đơn vị cung cấp dịch vụ nhằm
thúc đẩy các đơn vị sự nghiệp công phát triển lành mạnh, nâng cao chất lượng cung
cấp dịch vụ công và tạo nguồn trả lương cho người lao động. Đồng thời, Nhà nước
ban hành chính sách hỗ trợ đối với người nghèo, đối tượng chính sách xã hội, đồng
bào dân tộc thiểu số khi sử dụng dịch vụ.
Bên cạnh đó, cho phép khu vực ngoài nhà nước tham gia cung cấp dịch vụ
theo quy định và hướng dẫn của Nhà nước, khuyến khích khu vực này cung cấp dịch
vụ công không vì mục tiêu lợi nhuận. Đồng thời, cần phải có kế hoạch và chương
trình rà soát tất cả các đơn vị sự nghiệp công lập cung cấp dịch vụ công hiện nay để
xếp vào 3 loại trên; xây dựng lộ trình thực hiện cơ chế tiền lương mới cho các đơn vị
này. Nghiên cứu chuyển các cơ sở sự nghiệp công lập sang khu vực ngoài công lập
(cổ phần hóa các trường học, bệnh viện đủ điều kiện).
Thứ ba, thực hiện nghiêm chủ trương đầu tư vào tiền lương là đầu tư cho phát
triển, từ đó, điều chỉnh mạnh chi tiêu công, cơ cấu lại chi NSNN; trong đó, tăng huy
động các nguồn ngoài NSNN (của doanh nghiệp, trong dân, ODA...) cho đầu tư phát
triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, giảm tỷ trọng NSNN trong tổng mức đầu tư toàn
xã hội, dành nguồn cho trả lương CBCCVC đảm bảo CBCCVC có mức tiền lương bình
quân trên trung bình của lao động khu vực thị trường (doanh nghiệp).
Thứ tư, tách dần tổng quỹ lương từ NSNN và Quỹ BHXH, nguồn chi trả chính
sách ưu đãi người có công, trợ giúp xã hội theo một cơ chế tạo nguồn và chi trả
tương đối độc lập với NSNN, giảm dần áp lực tăng kinh phí từ NSNN khi thực hiện cải
cách tiền lương CBCCVC. Trong đó, cần tách chính sách BHXH của CBCCVC hưởng
lương từ NSNN và BHXH cho lao động khu vực thị trường.
Thứ năm, thiết kế lộ trình cải cách tiền lương CBCCVC phù hợp với khả năng
tạo nguồn, theo hướng tăng dần, tránh những đột biến gây sốc về nguồn và tác
động mạnh tiêu cực đến các quan hệ kinh tế - xã hội vĩ mô. Giai đoạn 2011 - 2015,
tập trung vào nâng tiền lương thấp nhất lên để đảm bảo mức sống của CBCCVC
(tương đương với mức bình quân tiền lương tối thiểu thực trả của khu vực thị
trường); tinh giảm biên chế hành chính và đẩy mạnh xã hội hóa khu vực sự nghiệp
công lập. Giai đoạn 2016 - 2020 tiếp tục thực hiện các giải pháp trên, đồng thời tập
trung vào mở rộng quan hệ tiền lương; điều chỉnh cơ cấu đầu tư cho phát triển; tách
nguồn chi trả BHXH, ưu đãi người có công, trợ giúp xã hội...
TÁC ĐỘNG ĐẾN ĐỜI SỐNG CỦA NGƯỜI DÂN LAO ĐỘNG TRONG XÃ HỘI
Hiện nay, đa số các doanh nghiệp đă triển khai thực hiện quy định về điều chỉnh lương tối thiểu
theo quy định chi trả cho người lao động bằng và cao hơn mức lương tối thiểu do Chính phủ
công bố. Theo báo cáo của Bộ LĐTB&XH (thực hiện quư I/2009) có tới 98% các doanh nghiệp
trả lương cho người lao động cao hơn hoặc bằng lương tối thiểu được quy định. Trong năm
2010 và đầu năm 2011 do giá cả tăng cao, các doanh nghiệp đă chủ động điều chỉnh mức lương
tối thiểu, hoặc hỗ trợ khó khăn cho người lao động. Trên địa bàn Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh
đă điều chỉnh mức lương tối thiểu đạt từ 1,6 – 1,9 triệu đồng/tháng; các địa phương khác đạt từ
1,5 – 1,7 triệu đồng/tháng. Trong thỏa ước lao động tập thể kư kết giữa Hiệp hội Dệt may và
Công đoàn Tổng công ty Dệt may ngày 24/6/2011 có điều khoản tăng mức lương tối thiểu, Vùng I
là 1,95 triệu đồng/tháng; tương tự vùng II là 1,85; vùng II là 1,75; vùng IV Là 1,55 triệu
đồng/tháng. Các doanh nghiệp thực hiện khá tốt việc điểu chỉnh lương tối thiểu, thậm chí hỗ trợ
thêm cho CNLĐ khi lạm phát tăng, v́ mức tiền lương tối thiểu quy định đối với các doanh nghiệp
hiện nay là quá thấp.
Thực tế cho thấy lương tối thiểu hiện nay c̣n nhiều bất cập, như tiền lương tối thiểu chưa thống
nhất giữa các loại h́nh doanh nghiệp. Ở doanh nghiệp nhà nước, nơi thực hiện trả lương theo
thang bảng lương do nhà nước quy định, ngoài ra tùy theo kết quả sản xuất kinh doanh và năng
suất lao động c̣n được áp dụng hệ số điều chỉnh không quá 3 lần so với mức lương tối thiểu, cho
nên người lao động có thể có mức lương cao gấp nhiều lần so với các loại doanh nghiệp khác.
Cùng một ngành nghề, trên cùng một địa bàn nhưng lương của CNLĐ ở doanh nghiệp nhà
nước làm ăn có lăi cao gấp 2 – 3 lần doanh nghiệp khu vực FDI và tư nhân. Nhiều doanh nghiệp
khu vực FDI và doanh nghiệp tư nhân có xây dựng thang bảng lương nhưng chủ yếu là để đối
phó với cơ quan quản lư bằng cách chia thành nhiều bậc lương, khoảng cách giữa các bậc
lương có khi chỉ từ 10 đến 20 ngh́n đồng, dẫn đến t́nh trạng mỗi lần tăng lương CNLĐ cũng chỉ
được tăng ở mức rất thấp. Mức lương tối thiểu hiện nay cũng đang được áp dụng để đóng
BHXH, BHYT và Bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động. Với mức đóng đó th́ người lao động
sau mấy chục năm làm việc, khi về hưu sẽ nhận được khoản lương hưu dưới mức nghèo đói.
Việc xây dựng định mức lao động và đơn giá tiền lương hiện nay được giao cho doanh nghiệp tự
xây dựng, t́nh trạng này đă dẫn đến việc tùy tiện trong xây dựng định mức lao động. Nhiều doanh
nghiệp xây dựng định mức lao động quá cao, dẫn đến đơn giá tiền lương thấp, CNLĐ làm việc
cật lực trong 8 tiếng đồng hồ mà vẫn không hoàn thành định mức nên phải làm thêm giờ, dẫn
đến tiền lương sản phẩm của CNLĐ rất thấp và việc làm thêm giờ tràn lan, không kiểm soát
được.