Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

nguyễn trung trực những chiến công rực rỡ và sự tôn vinh ông của nhân dân nam bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.6 MB, 74 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA SƯ PHẠM
BỘ MÔN SƯ PHẠM LỊCH SỬ

Luận văn tốt nghiệp
Ngành: Sư phạm Lịch Sử

NGUYỄN TRUNG TRỰC:
NHỮNG CHIẾN CÔNG RỰC RỠ VÀ
SỰ TÔN VINH ÔNG CỦA NHÂN DÂN NAM BỘ

Cán bộ hướng dẫn

Sinh viên thực hiện

Th.sĩ Khoa Năng Lập

Phạm Thanh Sang
MSSV: 6095968

LỜI CẢM TẠ
Cần Thơ, 5/2013
1


Trong quá trình làm luận văn, tôi đã nhận được sự động viên và khích lệ của
gia đình, nhất là sự giúp đỡ nhiệt tình của các Thầy Cô và bạn bè để cho em hoàn
thành tốt đề tài.
Em thành kính biết ơn thầy Khoa Năng Lập đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ và
tạo điều kiện cho em hoàn thành tốt luận văn tốt nghiệp.
Em chân thành cảm ơn thầy cố vấn Trần Minh Thuận, Cán bộ giảng dạy Bộ


môn Sư phạm Lịch Sử, Khoa sư phạm, Trường Đại Học Cần Thơ đã tận tình giúp
đỡ và chỉ dẫn em trong suốt những năm đại học.
Các Thầy Cô trong trường Đại Học Cần Thơ, nhất là các Thầy Cô trong Bộ
môn Sư phạm Lịch Sử, Khoa sư phạm đã nhiệt tình giúp đỡ, dạy dỗ và truyền đạt
những kiến thức quí báo cho em.
Cuối cùng xin cảm ơn bạn bè đã quan tâm và đóng góp những ý kiến quý báo
để đề tài hoàn thành.

2


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................................5
1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................................... .5
2. Lich sử nghiên cứu .................................................................................................. 7
3. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................................. 7
4. Phương pháp ngiên cứu........................................................................................... 8
5. Bố cục luận văn........................................................................................................ 8
CHƯƠNG I: BỐI CẢNH THỜI ĐẠI VÀ CUỘC ĐỜI NGUYỄN TRUNG

TRỰC ............................................................................................................8
1.1. Bối cảnh thời đại lịch sử nghiên cứu....................................................................8
1.2. Cuộc đời Nguyễn Trung Trực............................................................................11
1.2.1. Quê hương gia đình .....................................................................................11
1.2.2. Cuộc đời làm dân chài và quản cơ..............................................................14
1.2.3. Vị thủ lĩnh nghĩa quân tài giỏi, cao thượng...............................................15
CHƯƠNG 2: NHỮNG CHIẾN CÔNG RỰC RỠ CỦA NGUYỄN TRUNG TRỰC
......................................................................................................................................18
2.1. Trận Nhật Tảo.....................................................................................................18
2.1.1. Tình hình chiến sự trước trận đánh............................................................18

2.1.2. Diễn biến trận đánh và kết quả ..................................................................20
2.1.3. Nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa............................................................24
2.2. Trận diệt Đồn Kiên Giang..................................................................................25
2.2.1. Chuẩn bị ......................................................................................................26
2.2.2. Diễn biến .....................................................................................................29
2.2.3. Kết quả ........................................................................................................30
2.3. Những ngày chiến đấu ở Phú Quốc....................................................................31
2.4. Sự hi sinh oanh liệt ..............................................................................................36
CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ CÔNG TRẠNG VÀ SỰ TRI ÂN NGUYỄN TRUNG
TRỰC ..........................................................................................................................39

3


3.1. Sự đánh giá công trạng và tri ân của người đương thời ....................................39
3.2. Lễ hội tưởng nhớ Anh hùng Nguyễn Trung Trực – sự tri ân của lòng dân Nam
Bộ........................ ........................................................................................................43
3.2.1. Đền thờ Nguyễn Trung Trực......................................................................43
3.2.2. Lễ hội tưởng nhớ Nguyễn Trung Trực ......................................................46
3.2.3. Ảnh hưởng lan tỏa từ lễ hội đến đời sống xã hội......................................51
KẾT LUẬN .................................................................................................................57
TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................................62
PHỤ LỤC ẢNH..........................................................................................................63

4


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Năm 1858 thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, trước tiên là vùng đất

Nam Bộ. Đặt nhân dân trước thách thức lớn, càng gay gắt hơn nữa khi triều
đình Tự Đức ký hiệp ước dâng ba tỉnh miền Đông Nam Bộ mở đường cho
giặc thôn tính ba tỉnh miền Tây và cả nước, đem lại thảm họa cả đất nước
bị giặc đô hộ gần trăm năm.
Nhìn lại trang sử của nước ta nửa sau thế kỷ XIX đau lòng trước tình
hình đất nước bấy nhiêu thì niềm tự hào về ông cha ta càng to lớn bấy
nhiêu. Hệ tư tưởng của Nho giáo và kỷ cương của nó được xây dựng, thiết
lập vững chắc từ lâu nhằm bảo vệ chế độ phong kiến đã bị sụp đổ khi triều
đình nhà Nguyễn ký những hiệp ước đầu hàng giặc.
Tư tưởng đầu hàng giặc của một triều đình làm đảo lộn hết mọi suy
nghĩ, tình cảm vốn có hàng ngày của dân tộc. Dù là triều đại lạc hậu về
nhiều mặt nhưng nếu nhà Nguyễn không nuôi ảo tưởng dựa vào lực lượng
bên ngoài để giữ vững ngai vàng mà hậu quả là tạo điều kiện chuẩn bị
chiến trường cho thực dân phương Tây từng bước xâm nhập nước ta thì
tình hình đất nước có thể cứu vãn và ngai vàng cũng không thể sụp đổ
nhanh như thế. Nước ta nửa sau thế kỷ XIX, sống trong nghịch cảnh. Triều
đình nhà Nguyễn với chủ trương là tiêu diệt các cuộc kháng chiến, đẩy
nhân dân và một bộ phận trí thức đến đường cùng buộc họ phải đứng lên
làm chống lại để giành cho mình quyền làm chủ đất nước. Tất cả người
cầm bút, cầm gươm ở tuyến lửa vẫn biết cuộc đầu hàng của triều đình là
bất lợi cho họ. Biết thua vẫn đánh, chịu chết không chịu hàng. Không có
sức mạnh nào, sự mua chuộc nào làm lung lay được ý chí sắt đá của họ.
Lịch sử dân tộc ta mãi in đậm nét tinh thần hào hùng, hiên ngang của một
5


thế hệ từ các anh hùng có tên đến các anh hùng không tên ở các làng xã.
Không có điều kiện học hành thi cử như các bạn chiến đấu cùng thời,
Nguyễn Trung Trực là một tướng xuất thân là nông dân làm nghề chài lưới,
với tinh thần trí tuệ và bản lĩnh cầm quân, Ông đã tạo nên những chiến

công hiển hách vang dội như ở Nhật Tảo và Kiên Giang làm nhân dân nức
lòng và làm cho kẻ thù phải run sợ.
Tiêu biểu cho tinh thần chống đầu hàng “không nghe chiếu thiên tử”
của nông dân ở Gò Công và tinh thần căm thù giặc “ghét thói mọi như nhà
nông ghét cỏ” của nông dân Cần Giuộc. Nguyễn Trung Trực xuất hiện như
một ngôi sao sáng trong cuộc chiến đấu chống ngoại xâm ở Nam Bộ với
những câu nói bất hủ của Ông “Bao giờ nhổ hết cỏ nước Nam, mới hết
người Nam đánh Tây”, chẳng những làm nung nấu thêm ý chí căm thù giặc
của những người cùng thời mà đốt lên ngọn lửa yêu nước trong lòng người
Việt Nam qua các thế hệ.
Là một sinh viên ngành Sư phạm Lịch Sử hơn nữa bản thân sinh ra ở
Kiên Giang một nơi chứng kiến các cuộc khởi nghĩa và sự ra đi oanh liệt
của Nguyễn Trung Trực. Vì thế việc tìm hiểu về cuộc đời và các chiến
công đánh thắng giặc của Nguyễn Trung Trực nhằm nâng cao niềm tự hào
về ý chí đánh giặc ngoại xâm của Nguyễn Trung Trực và nhân dân Kiên
Giang và làm cơ sở để giáo dục về truyền thống cách mạng và truyền thống
yêu nước cho thế hệ hiện đại và mai sau. Hơn nữa việc nghiên cứu lịch sử
về những tấm gương yêu nước để làm giàu thêm hành trang khi bước vào
đời có thêm những hiểu biết mới làm phong phú vốn kiến thức, bài giảng
của mình trong tương lai. Với nhận thức như vậy tôi quyết định chọn đề tài
“Nguyễn Trung Trực : Những chiến công rực rỡ và sự tôn vinh ông của
nhân dân Nam Bộ” để làm đề tài nghiên cứu.

6


2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề:
“Nguyễn Trung Trực : Những chiến công rực rỡ và sự tôn vinh ông
của nhân dân Nam Bộ” là đề tài lịch sử lớn, việc nghiên cứu đề tài được
nhiều nhà khoa học, nhà sử học, nhà chính trị quan tâm nghiên cứu. Cho

đến nay đã có một số tác phẩm đã đề cập đến những mức độ khía cạnh
khác nhau:
Giang Minh Đoán, Nguyễn Trung Trực – Anh hùng kháng chiến
chống Pháp, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1991.
Sơn Nam, Lê Đình Ky, Nguyễn Trung Trực, NXB Tổng hợp Kiên
Giang, 1987.
Sở văn hóa thể thao và du lịch tỉnh Kiên Giang Nguyễn Trung Trực
người anh hùng bất tử đất Nam Bộ, Kiên Giang tháng 12 năm 2009.
3. Phạm vi nghiên cứu :
Sinh ra và lớn lên vùng đất Kiên Giang miền đất giàu truyền thống
cách mạng, vùng đất chứng kiến nhiều chiến công của ông cha ta. Bởi vậy,
việc nghiên cứu về “Nguyễn Trung Trực : Những chiến công rực rỡ và sự
tôn vinh ông của nhân dân Nam Bộ ” là một nhiệm vụ to lớn mới mẻ và
đầy khó khăn bởi vì cuộc khởi nghĩa của Ông có nhiều sự kiện, nhiều chi
tiết khá phong phú đa dạng nhưng đầy phức tạp mà nhận thức của chúng ta
về Nguyễn Trung Trực ít ỏi, mờ nhạt. Vả lại, trình độ bản thân tôi và thời
gian có hạn cũng như thiếu thốn tài liệu tham khảo, do đó tôi không tham
vọng đi sâu nghiên cứu toàn bộ tỉ mỉ mà chỉ đề cập đến một cách tổng quát
các vấn đề lớn có liên quan đến cuộc đời và sự nghiêp của Nguyễn Trung
Trực, cũng như sự tôn vinh ông trong lòng dân Nam Bộ để nâng cao kiến
thức hiểu biết nhằm phục vụ việc giảng dạy sau này.

7


4. Phương pháp nghiên cứu:
Khi nghiên cứu vấn đề “Nguyễn Trung Trực : Những chiến công rực
rỡ và sự tôn vinh ông của nhân dân Nam Bộ ” tuân theo tính khoa học.
Trong quá trình tiến hành công việc nghiên cứu, tôi đã vận dụng sự hiểu
biết của mình về lịch sử vùng đất Kiên Giang, kết hợp với những tài liệu

có liên quan đến vị anh hùng Nguyễn Trung Trực để hoàn thành bài luận
văn. Đặc biệt tôi có tìm hiểu về lễ hội tưởng nhớ Nguyễn Trung Trực để
hiểu rõ hơn về sự tôn vinh ông trong lòng dân Nam Bộ
Sử dụng phương pháp tổng hợp, phân tích và sắp xếp có logic.
Phương pháp này giúp chúng ta nghiên cứu lịch sử về cuộc đời và sự
nghiệp của Nguyễn Trung Trực.
5. Bố cục luận văn: Cấu trúc toàn bộ luận văn ngoài phần mở đầu
và phần kết luận nội dung của luận văn bao gồm:
Chương 1: Bối cảnh thời đại và cuộc đời NTT
Chương 2. Những chiến công rực rỡ của Nguyễn Trung Trực.
Chương 3: Đánh giá công trạng và sự tri ân Nguyễn Trung Trực.

8


CHƯƠNG 1:
BỐI CẢNH THỜI ĐẠI VÀ CUỘC ĐỜI NGUYỄN TRUNG TRỰC
1.1. Bối cảnh thời đại của Nguyễn Trung Trực:
Cuộc chiến giữa Nguyễn Ánh và nhà Tây Sơn kết thúc, bên Nguyễn
Ánh thắng lợi nhờ sự giúp đỡ của pháp. Năm 1802 Nguyễn Ánh lên ngôi
vua lập lên triều Nguyễn. Qua các triều vua nhà Nguyễn đất nước có chút
tiến bộ nhưng phần lớn với những chính sách của triều đình đưa đất nước
ngày càng sa sút và kiệt quệ. Vừa ra sức phục hồi và củng cố quan hệ sản
xuất cũ, vừa cố tình bóp nghẹt lực lượng sản xuất mới đã manh nha phát
triển hồi thế kỷ XVIII. Mọi chính sách chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội
triều Nguyễn ban hành điều nhằm mục đích duy nhất là bảo vệ đặc quyền
đặc lợi cho tập đoàn phong kiến nhà Nguyễn.
Bộ máy chính trị triều Nguyễn từ đầu mang nặng tính chất quan liêu,
độc đoán. Đó là một nhà nước quân chủ chuyên chế tuyệt đối, tập trung cao
độ với một chế độ chính trị lạc hậu, phản động. Mọi quyền hành đều tập

trung trong tay nhà vua. Vua được coi là “con trời” “thay trời” trị dân,
quyền hành nhà vua được coi là thần khí liêng thiêng, vô hạn. Nhà vua
trong thực tế là đại địa chủ lớn nhất trong nước, có toàn quyền phung phí
tài sản quốc gia trên xương máu của nhân dân. Còn quan lại trong triều và
ở địa phương hầu hết là bọn hủ bại, chính trị thì bảo thủ, cầu an, kinh tế thì
tham lam và cuồng bạo. Từ vua đến quan đều rất tự cao tự đại với học
thuyết Khổng Tử, Mạnh Tử, xem trật tự phong kiến là bất di bất dịch, mãi
đến lúc súng giặc nổ ầm bên tai mới bàng hoàng tỉnh giấc.
Trong hoàn cảnh đó, đời sống của người nông dân trong các thôn xã
vô cùng cơ cực. Dưới triều Nguyễn, tổ chức thôn xã hoàn toàn trở thành
một công cụ của bọn cường hào địa chủ nông thôn. Nó trói buộc người
9


nông dân trong những quan hệ địa phương hẹp hòi có lợi cho sự bóc lột
của nhà nước phong kiến và cản trở sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa.
Nông nghiệp lâm vào tình trạng tiêu điều xơ xác như vậy thì công nghiệp
lại nằm trong tay phong kiến triều Nguyễn cũng bị bế tắc.
Nhà Nguyễn thực hiện nhiều chính sách công nghiệp phản động.
Phong kiến nhà Nguyễn nắm những ngành kinh doanh lớn, triều đình giữ
độc quyền khai mỏ, các nghề thủ công không có điều kiện phát triển.
Thương nghiệp cũng bị sút kém một cách rõ rệt, chính sách “trọng nông ức
thương” của triều đình đã kiềm hãm thương nghiệp. Nội thương triều đình
nắm độc quyền buôn bán nguyên liệu công nghiệp, đặt ra nhiều luật lệ chặt
chẽ để kiềm chế như độc quyền buôn bán cả đối với một số lâm sản quý
giá cướp đoạt của đồng bào miền núi, đặt thuế nặng vào các mặt hàng quan
trọng đến đời sống nhân dân. Ngoại thương cũng bị triều đình nắm độc
quyền. Thực hiện chính sách bế quan tỏa cảng, triều đình chỉ mở nhỏ giọt
một số cửa biển cho tàu nước ngoài lui tới buôn bán. Chỉ được nhập vào
những hàng hóa triều đình cần.

Tóm lại nền kinh tế tài chính nước ta trong nửa đầu thế kỷ XIX đã
suy đốn trầm trọng về mọi mặt nông, công, thương nghiệp. Do chính sách
phản động của triều đình các yếu tố tư bản chủ nghĩa mới nảy sinh trong
các khu vực kinh tế đang trên đà phát triển của xã hội, phù hợp với yêu cầu
phát triển của xã hội đó đều bị bóp nghẹt. Nền kinh tế hàng hóa vì vậy bị
co hẹp lại, trên cơ sở đó nền tài chính quốc gia ngày càng kiệt quệ, đời
sống nhân dân vô cùng cực khổ.
Đối nội: Nhà Nguyễn ra sức đàn áp, khủng bố các phong trào của
quần chúng, huy động những lực lượng quân sự mạnh vào việc dập tắt các
cuộc khởi nghĩa nông dân trong biển máu. Các cuộc hành quân liên miên

10


một mặt đã làm cho chính lực lượng quân sự to lớn của triều đình cũng suy
yếu dần, mặt khác làm hủy hoại khả năng kháng chiến lớn lao của dân tộc,
càng tạo điều kiện thuận lợi cho tư bản Pháp thôn tính nước ta. Ban hành
bộ luật Gia Long năm 1815 dưới ý niệm trấn áp nhân dân và giữ trật tự
phong kiến tuyệt đối
Đối ngoại: Nhà nguyễn ra sức đẩy mạnh xâm lược đối với các nước
láng giềng như Cao Miên, Lào làm cho quân lực bị tổn thất, tài chính quốc
gia tài lực nhân dân bị khánh kiệt. Còn đối với các nước phương Tây thì lại
thi hành ngày càng một thêm gắt gao chính sách “bế quan tỏa cảng” và
cấm đạo giết đạo. Trước âm mưu xâm lược ngày càng ráo riết của bọn tư
bản nước ngoài nhất là của Pháp - phong kiến nhà Nguyễn tưởng làm như
vậy là tránh được nạn lớn. Cả vua lẫn quan không thấy được muốn bảo vệ
độc lập dân tộc, muốn giữ được đất nước trong những điều kiện quốc gia
và quốc tế bấy giờ, biện pháp thích hợp nhất là mở rộng cửa biển giao
thương để duy tân xứ sở, đẩy mạnh phát triển công, nông, thương trong
nước, trên cơ sở đó nhanh chóng bồi dưỡng sức dân, sức nước để có thể

đối phó kịp thời đối với những âm mưu xâm lược ngày càng được đẩy
mạnh của tư bản nước ngoài. Trái lại càng đóng chặt cửa và càng cấm đạo,
giết đạo, lại càng làm lý do cho chúng nổ súng xâm lược sớm hơn.
Rõ ràng với những chính sách nói trên, Việt Nam suy yếu về mọi mặt
và trở thành miếng mồi ngon cho các nước tư bản phương Tây, đặc biệt đối
với tư bản Pháp từ lâu đã có cơ sở bên trong nước ta nhờ sự hoạt động
ngấm ngầm và liên tục của bọn gián điệp đội lốp con buôn giáo sĩ.
Lịch sử nước ta đang đứng trước bước ngoặt. Một là triều Nguyễn bị
đánh đổ và thay thế một triều đại khác tiến theo hướng mới của tư bản chủ
nghĩa, có khả năng duy tân đất nước và bảo vệ nền độc lập dân tộc. Hai là

11


nước Việt Nam bị mất vào tay Pháp để trở thành xứ thuộc địa.
Thực tế lịch sử đã chứng minh rằng, khi tiếng súng xâm lược của
Pháp nổ lên, giai cấp phong kiến Việt Nam đã phân hóa ra hai phía: chủ
chiến và chủ hòa. Phái chủ hòa gồm phần đông bọn đại phong kiến và quan
lớn với Tự Đức đứng đầu đã nhanh chóng cấu kết với bọn cướp nước để
làm tay sai cho chúng để đàn áp các cuộc khởi nghĩa và bóc lột nhân dân
trong nước. Đó là tội lớn của bọn phong kiến nhà Nguyễn Trước dân tộc và
trước lịch sử.
Trong khi triều đình hoang mang dao động, chống cự một cách yếu
ớt, đầu hành từng bước, và cuối cùng cắt đất dâng cho giặc thì nhân dân cả
nước sôi nổi chống giặc, ý nghĩ của quần chúng đơn giản nhưng đúng đắn
và sáng suốt: giặc đến cướp nước thì phải đánh giặc giữ nước, chúng tới thì
đánh, chúng chưa đến thì phải chủ động tìm chúng mà đánh vì thế nhiều
cuộc kháng chiến diễn ra. Được tin mất bán đảo Sơn Trà, triều đình Huế
vội phái nhiều quân tướng tới tăng cường lực lượng phòng thủ. Nguyễn Tri
Phương được cử làm tổng chỉ huy mặt trận Quảng Nam để lo việc chống

giặc. Nhưng ông không chủ động tấn công tiêu diệt địch, mà chỉ huy động
quân dân đắp lũy chạy dài từ bờ biển vào phía trong để bao vây địch ngoài
mé biển, chặn không cho chúng đi sâu vào nội địa. Còn đối với nhân dân
trong vùng thì ông ra lệnh thực hiện vườn không nhà trống tản cư vào bên
trong để khỏi bị giặc bắt đi lính, nộp lương thực hay cung cấp tin tức, chiến
thuật này không phải không có hiệu quả. Mấy lần liên quân Pháp – Tây tìm
cách đánh sâu vào đều bị quan quân triều đình đánh bật trở lại và thiệt hại
khá nặng. Kết quả là sau 5 tháng chiến tranh, chúng hầu như giẫm chân tại
chỗ. Trong lúc đó khó khăn cho chúng mỗi ngày một tăng thêm: do không
hợp khí hậu nên binh lính địch bị ốm đau và chết khá nhiều trong khi thuốc

12


men lại thiếu; tiếp tế thực phẩm cho quân lính rất khó khăn. Tiến lui đều
khó, cuối cùng tướng giặc Giơnuiy quyết định chỉ để lại Đà Nẵng một lực
lượng quân sự nhỏ bé để cầm chân quân đội triều đình, còn lại thì lợi dụng
mùa gió bấc kéo vào đánh Gia Định (2 – 1859).
Ngay khi liên quân Pháp – Tây vừa bắn phá cửa Cần Giờ, rồi nhằm
phía Gia Định tiến phát thì Trần Thiện Chính ( trước là tri huyện bị triều
đình cách chức ) và Lê Huy ( một võ quan bị thải hồi ) đã cấp tốc chiêu mộ
được trên 5.000 dân binh, vận động đồng bào góp tiền lương, kéo nghĩa
dũng đến ngăn giặc yểm hộ cho các cánh quân triều đình rút lui khỏi bị tiêu
diệt. Đồng thời, nhân dân Gia Định còn tự tay thiêu hủy nhà cửa dời đi nơi
khác. Chính giặc phải thừa nhận “chiều nào ở thành phố cũng có những
đám cháy”. Cùng với sức chiến đấu của đồng bào Gia Định, khắp lục tỉnh,
nhân dân nhiệt liệt ứng nghĩa mộ binh.
Ngay đêm mùng 3 rạng mùng 4 tháng 7 năm 1860, một đội nghĩa
dũng 6.000 người do Dương Bình Tâm chỉ huy đã xung phong đánh Chợ
Rẫy là vị trí quan trọng nhất của địch trên phòng tuyến của chúng từ chùa

Cây Mai đến Trường Thi. Nghĩa quân đã phục kích đâm chết tên đại úy
Bácbê (Barbe) gần Trường Thi, đánh chìm tàu chiến địch Primôghê
(Primauguet) đậu trên sông Đồng Nai đầu năm 1861. Giặc Pháp từ Gia
Định đánh chiếm rộng ra các tỉnh lân cận, phong trào kháng chiến của nhân
dân miền Nam còn phát triển mạnh hơn nhiều, chúng càng đi sâu trong nội
địa càng phải trả giá đắt hơn. Dưới sự lãnh đạo của các văn thân sĩ phu yêu
nước, nhân dân miền Nam – chủ yếu là nông dân đã khảng khái nổi dậy
khắp nơi chống giặc. Điển hình có các cuộc nổi dậy của Trương Định, Đỗ
Trinh Thoại, Nguyễn Thông, Phan Văn Đạt, Hồ Huân Nghiệp, Trà Quý
Bình, Trịnh Quang Nghị, Lưu Tấn Thiện, Lê Cao Võng, Nguyễn Thành Ý

13


ở Gò Công, Gia Định, Chợ Lớn, Tân An từ năm 1860 – 1864; kế đó là Vũ
Duy Dương ở Đồng Tháp Mười năm 1865 – 1866. Ngoài ra, rất nhiều văn
thân khác cũng tự động mộ quân chống Pháp như Đỗ Quang, Âu Dương
Lân, Trần Xuân Hòa, Nguyễn Hữu Huân, Phan Văn Trị phối hợp tác chiến
với nghĩa quân Trương Định.
Cuộc nổi dậy Trương Định là phong trào lớn nhất lúc đó. Trương
Định chiến đấu rất sớm trên mặt trận Gia Định. Ngay sau khi Pháp chiếm
thành Gia Định, ông đã đưa đội nghĩa quân là nông dân đồn điền dưới
quyền lên đóng tại đồn điền Thuận Kiều phối hợp cùng quân đội chính quy
của triều đình xung phong đánh giặc. Trong các lần giao tranh với quân thù
Trương Định đã chiến đấu rất anh dũng nên được binh lính dưới quyền và
nhân dân tin cậy rất đông. Giặc Pháp nhận định về ông hồi đó đã phải nói
rằng nếu quan lại triều đình không tìm cách hạn chế ông mà để ông hoạt
động tự do hơn thì “chúng ta ( chỉ giặc Pháp ) còn bị thiệt hại nhiều hơn
nữa và có thể bị thua rồi”. Trương Định đã nhanh chóng phát triển thế lực,
chiêu mộ thêm binh sĩ dồn lương, đúc súng và đánh thắng nhiều trận. Địa

bàn hoạt động không chỉ ở Gò Công, Tân An, Mỹ Tho mà bao gồm cả
vùng Chợ Lớn, Gia Định, lan rộng ra hai bên nhánh sông Vàm Cỏ từ biển
Đông lên tới biên giới nước Cao Miên, kiêm lĩnh hay liên lạc với hầu hết
những người cầm đầu các toán nghĩa quân như Đỗ Trinh Thoại, Phan Văn
Đạt, Lê Cao Võng, Trần Xuân Hòa, Võ Duy Phương. Phối hợp với phong
trào chung các nơi cuộc khởi nghĩa Trương Định ngày càng mạnh thêm.
Trong năm 1862, phong trào dâng cao khắp nơi, gần như tổng khởi nghĩa.
Từ hòa ước năm 1862 đến việc thực dân Pháp đánh chiếm ba tỉnh miền
Tây Nam Kỳ thì triều đình buộc Trương Định phải bãi binh, mặt khác điều
động đi nhậm chức lãnh binh ở An Giang rồi Phú Yên nhưng được sự ủng
hộ của quần chúng yêu nước Trương Định đã cương quyết ở lại cùng nghĩa
14


quân sát cánh chiến đấu đến cùng. Ngọn cờ Bình Tây đại nguyên soái đã
phất phới tung bay khắp nơi, tăng thêm tin tưởng cho đồng bào.
1.2. Cuộc đời Nguyễn Trung Trực:
1.2.1 Quê hương và gia đình:
Quê hương: Nguyên quán gốc Nguyễn Trung Trực tỉnh Bình Định
nên ông có võ nghệ cao cường. Đó là vốn “di truyền” của cha ông gốc
người Bình Định, nơi “sáng tạo” ra võ nghệ cao cường nhất nước. Vì thế
có hai câu thơ:
“Ai về Bình Định mà coi,
Con gái cưỡi ngựa, múa roi, đánh quyền”.
Nguyễn Trung Trực thừa hưởng di truyền từ ông cha cho nên ông là
người giỏi võ, qua đó ông đã sử dụng tài năng võ thuật của mình trong việc
bắt cướp, dạy võ cho nghĩa quân và hơn hết võ của ông dùng để đánh bọn
Tây xâm lược.
Nguyên quán gốc Nguyễn Trung Trực ở Bình Định nhưng ông được
sinh ở Bình Nhựt huyện Cửu An, phủ Tân An ( nay là xã Bình Đức, huyện

Bến Lức, tỉnh Long An), ông sinh năm 1838, lúc mới sinh ra có tên là
Nguyễn Văn Nhơn rồi đổi thành Nguyễn Văn Lịch, sau khi đốt cháy tàu
Esperance đổi tên thành Nguyễn Trung Trực. Ông là người khỏe mạnh cao
lớn nước hai mắt to và sáng ông có tướng tinh rất lớn. Trong quyển “Bốn
vị anh hùng kháng chiến miền Nam” của ông Thái Bạch, ở phần kể chuyện
“Nguyễn Trung Trực anh hùng dân tộc kháng chiến Rạch Giá” có ghi lời
thuật của ông Cả Nhiêu ở làng Bình Trinh, huyện Thủ Thừa tỉnh Tân An
như sau: “ Hồi ấy tôi còn nhỏ tôi không được biết rõ lắm về ông Nguyễn.
Vả lại ông đóng quân miệt này không lâu. Tuy vậy hồi ông già tôi còn sống

15


thỉnh thoảng trong khi nói chuyện với con cháu ông lại nhắc đến ông
Nguyễn, theo ông thì ông Nguyễn sau khi thất trận về đây ở lại ấp tôi ít lâu:
“Ông người cao lớn khỏe mạnh nước da bánh ít, gương mặt vuông hai mắt
to và sáng. Ông giỏi nghề võ lắm. Lúc quân pháp mới sang, tại làng này có
nhiều kẻ bất lương nổi lên làm trộm cướp nhưng khi ông tới bọn chúng đều
tan hết. Ông có oai nên quân sĩ kinh sợ nhiều lắm”. Theo ông Paulin Vial:
“ Trực có một diện mạo thông minh và dễ mến”, ông nhận xét: “ Trực tỏ ra
rất tự trọng và đầy khí phách”.
Gia đình: Cha là Nguyễn Văn Phụng (hoặc Nguyễn Cao Thăng), mẹ
là bà Lê Kim Hồng quê ở xóm Lưới, xã Vĩnh Hội, huyện Phù Cát, tỉnh
Bình Định. Rời Bình Định vào Nam sinh sống tại phủ Tân An, thành Gia
Định. Ông bà sinh ra tám người con, Nguyễn Trung Trực là con trưởng, Bà
thứ Hai, Bà thứ Ba, Nguyễn Công Khanh, Nguyễn Công Luông, Bà Thứ
Sáu, Bà thứ Bảy, Nguyễn Văn Thơ. Sau này cha mẹ và gia đình dời xuống
làng Tân Thuận, Tổng An Xuyên (sau đổi xã Tân Tiến, huyện Đầm Dơi,
tỉnh Minh Hải). Ông bà, cha mẹ của ông là những người lao động không
đỗ đạt từ chương, khoa bảng, không hề giữ chức vụ gì dù nhỏ nhất của chế

độ phong kiến.
Có hai ý kiến khác biệt nhau về vợ của Ông:
Vợ tên là Điều:
Căn cứ theo một số truyền khẩu thì nói vợ Ông tên là Điều. Bà đã
từng tham gia trong đội nghĩa quân và cùng theo sát Ông trong suốt thời
gian chống pháp ở Kiên Giang. Có lần bà Điều vâng lệnh Nguyễn Trung
Trực đi do thám đồn Săn Đá- Kiên Giang bị chúng Phát hiện rồi bắt bà,
Nguyễn Trung Trực đến cứu. Vài lần sau bà bị bắt cùng một lượt với Quản
Cầu, xã Lý. Chúng đem nhốt tất cả vào khám lớn. Mãi đến khi Nguyễn
16


Trung Trực đánh chiếm đồn mới giải thoát cho họ.
Nếu vợ ông là bà Điều thì tên thật của bà là Thi-ba-đo (theo dân tộc
Khơ Me, người nữ thường lấy chữ Thi làm họ). Người ta gọi tắt là Ba Đô
hay bà Đỏ. Về sau bà có vai trò quan trọng trong đội nghĩa quân và cũng là
người thân tình của Nguyễn Trung Trực. Do sợ kỵ húy nên người ta gọi bà
Điều là bà Đỏ (màu điều cũng là màu đỏ nhưng sậm hơn có chút pha màu
đen). Như vậy bà Điều hay bà Đỏ cũng chỉ là một người, (có một số tài liệu
nói rằng bà Điều bà Đỏ là hai chị em ruột chứ không phải một người).
Vợ tên là Định:
Khi ra Phú Quốc lập căn cứ chống pháp cho đến ngày hi sinh, người
ta mới biết ông có một vợ và một đứa con trai. Cả hai đều chết ở Phú
Quốc. Hiện nay vẫn còn di tích.
Theo tài liệu của ông Lê Hoàng Nam (Phú Quốc) đã viết: “Một điều
đáng chú ý là: Qua xác minh thì ở cửa cạn có mộ của vợ con cụ. Hàng năm
nhân dân tổ chức cúng vào ngày 19 tháng 08 âm lịch rất lớn. Họ gọi bà là
“BÀ QUAN LỚN TƯỚNG”. Hiện nay trên mộ bia có ghi rõ họ tên là LÊ
KIM ĐỊNH”. Đây là giả thuyết có cơ sở khoa học đáng tin cậy hơn. Đứa
con giữa Nguyễn Trung Trực và Lê Kim Định sinh ra hơn được một tháng

thì chết vì lý do khát sữa. Trong cuốn “Nguyễn Trung Trực thân thế và sự
nghiệp” của bảo tàng Kiên Giang xuất bản 1989 có ghi lời kể của của ông
cận vệ Ngô Văn Soạn và người giữ con như sau: “ lúc này đứa bé còn
sống, nhân dân lúc đầu còn cho bú. Sau khi Pháp ra lệnh tru di tam tộc nếu
ai cho con ông bú sữa. Nhân dân vẫn bí mật cho bú được hai lần. Lần cuối
cùng đích thân cụ lợi dụng đêm tối bồng con ra tận đầu xóm Phước Lộc
(Cửa Cạn) để xin sữa trong vòng vây của Pháp. Nhân dân bị Pháp khủng
bố bỏ chạy hết vào rừng, không còn ai cho sữa đứa bé khóc lên, Cụ phải
17


quay về căn cứ. Nghĩa quân bàn cách lấy gạo giã nhuyễn nấu với đường
cho công tử ăn. Lúc này ông đã biết con mình sẽ chết nên vào vùng Vồ
Trại Lâm để tìm cách dấu con. Trong những giây phút cuối cùng nơi rừng
sâu một mình cùng với đứa con mới sanh trên một tháng”.
1.2.2. Cuộc đời làm dân chài và quản cơ:
Do sinh trưởng trên vùng đất nhiều sông ngòi người nào cũng giỏi
bơi lội, nên từ nhỏ Nguyễn Văn Lịch gắn bó với kênh rạch, sông nước Bến
Lức, Vàm Cỏ Đông và từ ấy Nguyễn Trung Trực làm nghề chài lưới, Ông
thành thạo nghề chài lưới. Chuyện ở Long An kể rằng: “Thuở còn là anh
chài Lịch, ông đã nổi tiếng bơi giỏi như rái cá, đi chài lưới bao giờ cũng
bắt nhiều tôm cá hơn người”. Ông thường giúp cha chài lưới ven sông nên
người ta gọi Ông là “Anh hùng dân chài Nguyễn Trung Trực”.
Đến tuổi tráng niên Nguyễn Văn Lịch tham gia vào phong trào mộ
quân đồn điền của triều Nguyễn do kinh lược sứ Nguyễn Tri Phương lãnh
đạo và do có tài võ nghệ mà được thăng chức đội. Khi thực dân Pháp bắt
đầu xâm lược nước ta, đem quân đánh chiếm đồn Chí Hòa. Nguyễn Văn
Lịch hăng hái chiêu mộ được một số nông dân vào lính và tham gia vào
việc phòng thủ, bảo vệ đồn Chí Hòa dưới quyền của lảnh binh Trương
Định. Tháng 12 năm 1861, trước phong trào nổi dậy của nhân dân 3 tỉnh

miền Đông, giặc Pháp rất hoảng sợ và khủng bố dã man các Phong trào
yêu nước. Các vùng rạch Kỳ Môn (Mỹ Tho), Rạch Gầm, Cai Lậy, Cái Bè,
Tân An, Gò Công, Gia Định đều nổi lên, trong khi bọn Pháp phải đối phó
với phong trào ở Hóc Môn, Bà Điểm, Tây Ninh, Trảng Bàng, Thủ Dầu
Một. Nguyễn Trung Trực chiến đấu trong hàng ngũ nghĩa quân phía Tân
An nhằm bảo vệ vùng Gò Công, là vùng nổi tiếng nhiều thóc lúa và là quê
hương của bà Từ Dũ mẹ vua Tự Đức. Với trách nhiệm chặn giặc phía Tân

18


An. Địa bàn chính của Nguyễn Trung Trực cùng nghĩa quân là vùng Bến
Lức dọc theo sông Vàm Cỏ Đông.
Ngày 10 tháng 12 năm 1861 ông lập chiến công vang dội: đốt cháy
tàu Esperrance trên vàm Nhật Tảo làm cho địch thiệt hại nhiều. Qua chiến
thắng này tên tuổi của người anh hùng Nguyễn Trung Trực vang đi khắp
nơi, sau đó ông ra Huế vua Tự Đức phong tặng cho ông làm chức Quản Cơ
nên người ta gọi ông là Quản Nhơn hay Quản Lịch. Trong Quốc Sử Quán
triều Nguyễn có ghi “… Vua phong thưởng cho Lịch làm chức Quản Cơ
Bình Thuận. Nguyễn Văn Quang và Hoàng Khắc Nhượng (Nguyễn Văn
Sang và Huỳnh Khí Nhượng) cùng 20 người nữa làm cai đội đều được cho
ngân tiền. Binh lính tham gia được thưởng chung 1000 quan tiền. Bốn
người bị chết đều được cấp tiền tuất gấp hai…”. Theo chế độ phẩm trật
quan lại thời Tự Đức thì chức Quản Cơ là bật võ được xếp vào hàng chánh
tứ phẩm.
Năm 1867, Nguyễn Trung Trực được thăng lên chức Lãnh binh tỉnh
Gia Định, rồi triều đình Huế phong chức Thành Thủ Quý Hà Tiên để ông
mộ binh chống giặc, nhưng chưa kịp đến nơi thì Hà Tiên đã lọt vào tay
quân Pháp vào ngày 24 tháng 6 năm1867, Nguyễn Trung Trực rút quân về
Sân Chim ( tả ngạn sông cái lớn, huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang).

1.2.3. Vị thủ lĩnh nghĩa quân tài giỏi, cao thượng:
06/1861 Nguyễn Trung Trực cùng Huỳnh Công Tấn chỉ huy phó của
Trương Định đi lên Biên Hòa khi Pháp làm chủ tình thế và đóng đồn nổi ở
sông Nhật Tảo. Nguyễn Trung Trực xuống lệnh cho hai viên phó quản là
Huỳnh Khí Nhượng và Nguyễn Văn Quang chuẩn bị tấn công Pháp, đang
mở nhiều cuộc tàn sát dân lành trong vùng chúng chiếm đóng.
22/06/1861 Nguyễn Trung Trực (lúc đó tên Lịch) được Trương Định
19


giao giữ vùng Tân An và nghiễm nhiên trở thành lãnh tụ chống Pháp,
Nguyễn Trung Trực rất thông minh và tài năng. Theo nhận xét của Vial “
Nguyễn Trung Trực có gương mặt thông minh, dễ gây thiện cảm” nhờ tài
năng và chí thông minh của Nguyễn Trung Trực tập hợp đông đảo nghĩa
quân. Trong số nghĩa quân có Nguyễn Văn Quang và Hoàng Khắc
Nhượng, Lâm Văn Ky là những người tài giỏi có đóng góp to lớn giúp ông
trong việc đánh Pháp. Nguyễn Trung Trực thống lãnh nghĩa quân chống
pháp lập nhiều chiến công, gây cho Pháp nhiều thiệt hại như đốt cháy tàu
Ésperrance trên vàm Nhật Tảo (1861), đánh đồn Rạch Giá (1868). Sau
những ngày chiến đấu gian khổ ở Phú Quốc, Nguyễn Trung Trực quyết
định ra “nộp mình” để giải quyết vấn đề cấp thiết. Trước khi ra “nộp mình”
Ông viết thư cho Huỳnh Công Tấn phải chấp thuận 3 điều kiện:
Một là, bãi bỏ lệnh bao vây phong tỏa toàn đảo.
Hai là, phải thả hết nghĩa quân bị bắt, cho họ được trở về nguyên
quán yên ổn và tự do làm ăn sinh sống.
Ba là, phải thả ngay mẹ Ông ra và đưa đến căn cứ để gặp Ông.
Dĩ nhiên được tin Ông chịu hàng, Pháp chấp thuận ngay nhưng chúng
chỉ thực hiện hai điều trên.
Viên quan Pháp Piquet khi lấy khẩu cung Nguyễn Trung Trực cũng
ghi nhận xét một cách trung thực rằng: “Trực rất tự trọng và đầy khí

phách”. Viên thống soái Nam Kỳ muốn biết tường tận ông như thế nào nên
vào khám gặp ông. Trước tiên hắn dùng lời lẽ ngọt ngào khuyến dụ nhưng
không được hắn mới xẵng giọng nói: “Ông Trực nè! Dù ông có sống hay
chết thì binh lực của Pháp đã tận diệt hết quân phiến loạn của xứ sở này
rồi…”.

20


Nguyễn Trung Trực mỉm cười, liền đưa tay ra ngoài sân cỏ và ôn tồn
nói với tên chánh soái rằng: “Thưa Pháp soái: chúng tôi tin chắc rằng,
chừng nào ngài trừ hết cỏ trên mặt đất này thì chừng đó ngày mới mong trừ
hết những người ái quốc trên xứ sở này mà ngài giân giữ gọi họ là quân
phiến loạn”. Câu nói “ Bao giờ Tây nhổ hết cỏ nước Nam, mới hết người
Nam đánh Tây” làm sáng ngời khí phách hào hùng của ông.

21


CHƯƠNG 2
NHỮNG CHIẾN CÔNG RỰC RỠ CỦA NGUYỄN TRUNG TRỰC
2.1. Trận Nhật Tảo:
Trận Nhật Tảo do Nguyễn Trung Trực tổ chức tấn công, đã diễn ra
vào ngày 10 tháng 12 năm 1861 tại vàm Nhật Tảo (hay còn gọi Nhựt Tảo),
là nơi giao hội giữa sông Vàm Cỏ Đông và sông Nhật Tảo, nay thuộc xã
An Nhật Tân, huyện Tân Trụ, tỉnh Long An. Chiến thắng này cùng với trận
đồn Kiên Giang, cũng do ông Trực tổ chức tấn công.
2.1.1 Tình hình chiến sự trước trận đánh:
18/02/1859 Quân Pháp xua quân đánh chiếm Gia Định. Hai năm sau
(25/02/1861) Pháp đánh chiếm đồn Chí Hòa, thừa thắng chúng đánh chiếm

Định Tường-Mỹ Tho(14/02/1861). Quân triều đình rút về Vĩnh Long. Lúc
bấy giờ Pháp lợi dụng vũ khí như tàu chiến đại bác hiện đại, lại thêm triều
đình nhu nhược, chúng chiếm luôn ba tỉnh miền Tây Nam bộ, nơi nào
chúng chiếm được thì lập xã tề và xây dựng đồn bót. Dưới sông chúng cho
tàu thủy lớn nhỏ tuần tra ghe thuyền qua lại. Chúng lấy cớ ngăn chặn nghĩa
quân làm loạn để thu gom tiền bạc, lúa thóc của nhân dân.
Đồn Chí Hòa thất thủ, Nguyễn Trung Trực rút quân về Tân An tiếp
tục chiêu mộ nghĩa dũng, sắm sửa khí giới với mục đích chống lại Pháp lâu
dài. Địa bàn hoạt động của nghĩa quân Nguyễn Trung Trực trong gần ba
năm 1860 đến 1862 là vùng Tân An, Định Tường, Biên Hòa.
Theo một số nguồn sử liệu dân gian thì làng Nhật Tảo nằm trên một
vùng đồng ruộng bao la, mới sáng tinh sương đã nhìn thấy ánh mặt trời nên
gọi là Nhật Tảo, nghĩa là “mặt trời mọc sớm”. Giữa thế kỷ thứ XIX Nhật
Tảo là vùng được ông Hồ Văn Chương đến khai phá lập nghiệp theo

22


chương trình khai hoang của nhà Nguyễn. Nhờ quy tụ được đông dân cư
lập thành thôn ấp, ông Hồ Văn Chương được triều đình Nguyễn phong
chức Suất đội trưởng con cháu kế truyền làm chủ chợ qua việc thu thuế chợ
lấy tiền làm ngân sách địa phương. Dòng dõi họ Hồ thống lãnh cả vùng và
đều là hương chức địa phương. Lúc bấy giờ, ông Hồ Quang Minh làm cai
tổng, tuy hợp tác với Pháp ngoài mặt nhưng vẫn căm thù giặc. Cảm khái
tấm lòng ái quốc của Nguyễn Trung Trực, gia đình ông đã mạnh dạn hợp
tác với nghĩa quân, lập kế đồ đánh phá lực lượng quân Pháp.
Tại ngã ba, đầu sông Nhật Tảo và sông Vàm Cỏ Đông Pháp đặt chiếc
tiểu hạm tên là Ésperance (Hy vọng) nằm án ngữ nơi đó để đón ghe thuyền
qua lại tra xét. Tiểu hạm Esperance là một tàu gỗ có chỗ được bọc đồng
chạy bằng hơi nước, có thể ra vào những luồng lạch cạn. Đây là một trong

những tàu thuộc hàng bậc nhất của hải quân Pháp lúc bấy giờ. Quyền quản
cơ Nguyễn Văn Lịch liền ra lệnh cho Phó quản binh Huỳnh Khắc Nhượng
cùng Võ Văn Quang chuẩn bị kế hoạch tấn công chiếc tiểu hạm này.
- Lực lượng đôi bên:
Bên quân Pháp :
Chỉ huy tàu là trung úy hải quân tên là Parfait, còn tên phó là một
thiếu úy nhưng không rõ tên. Dưới tàu có trang bị một khẩu đại bác với 25
lính Pháp và lê dương đầy đủ súng ống đạn dược. Trên bờ sông có đóng
một cái đồn với 20 lính mã tà canh gác bảo vệ. Chiến thuyền Ésperance
được coi là một “căn cứ nổi” rất lợi hại trên nhiều mặt: đóng vai trò một
thành lũy bố phòng; một pháo đài để tấn công và yểm trợ một phương tiện
di động để điều động và vận chuyển binh lính, quân nhu, lại được sử dụng
như một đơn vị “dưỡng quân”. Chiến thuyền này đã giữ vai trò “chiếm
đóng” và “bình định” cả một vùng địa phương rộng lớn.
23


Bên quân Việt:
Khoảng 150 nghĩa quân tham gia trận này dưới quyền chỉ huy của
Nguyễn Văn Lịch cùng các thành viên khác là: Võ Văn Quang, Huỳnh
Khắc Nhượng, Nguyễn Học, Nguyễn Văn Điền (hay Điều) và hương thôn
Hồ Quang Chiêu. Vì tầm quan trọng về mặt chiến thuật, chiến lược của
tiểu hạm Ésperance cho nên quản binh Lịch bằng mọi cách tiêu diệt con tàu
này.
2.1.2. Diễn biến trận đánh và kết quả:
Trận đánh hỏa công đốt tàu chiến Pháp Espérance trên sông Nhật Tảo
khiến đất trời cũng muốn nổ tung: “Hỏa hồng Nhật Tảo oanh thiên địa”.
Trận Nhật Tảo có hai ý kiến khác nhau: thứ nhất là Nguyễn Trung Trực
cho giả làm thuyền buôn lúa để đánh chìm tàu; thứ hai Nguyễn Trung Trực
cho giả thuyền đám cưới qua sông, thừa lúc áp sát rồi đánh úp.

Giả thiết thứ nhất về đám ghe buôn:
Qua nhiều ngày tìm hiểu tình hình địch khá chính xác, ông liền chuẩn
bị kế hoạch thực hiện, ông chia nghĩa quân làm hai toán: toán thứ nhất ông
cho 30 người nằm phục kích bao vây đồn mã tà. Nếu nghe hiệu lệnh thì tấn
công ngay không để chúng ra tiếp viện; toán thứ hai gồm 59 người bố trí
cho 5 ghe và nằm chờ sẵn trong khoang ghe có đầy đủ cúi rơm, khi nghe
hiệu lệnh thì phi nhanh qua tàu, phóng hỏa và tìm diệt địch.
Ngoài ra ông còn vận động một số dân chúng quanh vùng tham gia
cuộc chiến, ông trang bị cho họ một số chiêng, mõ, tù và để làm thành
tiếng động chọc tức quân Pháp, buộc chúng phải chia lực lượng dưới tàu ra
để nghĩa quân hoạt động dễ bề thắng lợi.
Đúng ngọ ngày 10 tháng12 năm 1861, Quản binh Lịch cho toán dân

24


chúng đánh chiêng, mõ, thổi tù và làm vang động một góc trời, tên trung
úy dưới tàu nghe tiếng động, tức tối liền xua nửa toán lính dưới tàu xuống
ca-nô tiến thẳng vào bờ vừa đi vừa bắn loạn xạ để thị uy. Tuy vậy đoàn
người vẫn gây tiếng động, làm Parfait càng thêm tức giận xua lính truy
đuổi theo mãi, càng lúc càng xa tàu.
Lúc này ngoài sông Vàm Cỏ xuất hiện 5 chiếc ghe buôn bập bềnh
chèo trên mặt nước. Lính canh trên tàu thấy liền gọi lại để trình giấy. Năm
chiếc ghe cặp sát hông tàu, chiếc ghe đầu trình giấy tên thiếu úy với tay
xuống lấy bất thình lình bị Quản Lịch đâm chết sau đó ông phát lệnh tấn
công, tất cả nghĩa quân nằm dưới ghe đều bật dậy phóng nhanh qua tàu tìm
địch diệt, đồng thời mang cúi rơm phóng hỏa đốt tàu. Bọn lính thấy tàu
phát hỏa thì hoảng kinh hồn vía, một số thì bị nghĩa quân giết tại chỗ, một
số nhảy xuống sông lội vào bờ chay thoát thân nhưng cũng bị dân chúng
đoán bắt giết chết. Còn tên Parfait thấy tàu bị đốt cũng tìm đường trốn

thoát thân.
Trong quyển Đại Nam Thực Lục, đệ tứ kỷ năm Tự Đức thứ 15 (1862)
chép: “Khi ấy quân Tây dương đưa tàu bọc đồng đậu ở thôn Nhật Tảo.
Quyền sung quản binh đạo là Nguyễn Văn Lịch sai sung phó quản binh
đạo là Huỳnh Khắc Nhượng, Võ Văn Quang đều đem binh quyền dọc theo
ven sông, tới chỗ tàu Tây dương đậu, chia quân phòng bị và đặt quân phục
kích, đem 59 quân chiến tân chia làm hai đạo, giả làm thuyền buôn, thẳng
tới tàu Tây dương, nhảy lên trước, đâm chết 4 tên Tây dương. Những
người cùng đi đều nhảy lên tàu một lượt giết bừa đi. Quân Tây dương nhảy
xuống sông hoặc chết, hoặc thoát thân, còn thì chui xuống khoang thuyền
bắn chống trả. Quang (Võ Văn Quang) hô 30 tên phục binh nổi dậy tiếp
chiến . Bọn quản toán là Nguyễn Học, lương thần là Hồ Quang lấy búa sắt

25


×