Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

tuần 37

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (598.07 KB, 8 trang )

Tuần 37
Tiết 139,140

NS: ………………….
ND:……………………………..

I/. Mục tiêu:

- Biết được một số danh lam thắng cảnh, các di tích lòch sử hay chương trình
kế hoạch bảo vệ môi trường nơi đòa phương mình đang sinh sống .
- Biết liên hệ với phần văn bản nhật dụng đã học trong ngữ văn 6 tập hai để
làm phong phú thêm nhận thức của mình về chủ đề đã học .
II/. Kiến thức chuẩn:

*Trọng tâm kiến thức :
Vẻ đẹp, ý nghóa của một số di tích lòch sử, danh lam thắng cảnh ở đòa
phương .
* Trọng tâm kỹ năng :
- Thực hiện các bước chuẩn bò và trình bày nội dung về di tích lòch sử (danh
lam thắng cảnh) ở đòa phương .
- Quan sát, tìm hiểu, ghi chép thông tin cụ thể về đối tượng .
- Trình bày trước tập thể lớp .
III/. Hướng dẫn - thực hiện:

Nội dung này GV chỉ giới thiệu cho HS
Hoạt động 1 : Hướng dẫn Hs nội dung và ý nghóa của bài chương trình đòa phương .
Gv : Sóc trăng quê hương chúng ta có nhiều danh lam thắng cảnh và nhiều di tích lòch sử , các
em hãy tìm các danh lam-thắng cảnh và di tích lòch sử đó ?
Hoạt động 2 : Hướng dẫn Hs trao đổi nhóm .
Gv : Các em thảo luận nhóm theo gợi ý sau :
- Tên di tích hoặc danh lam thắng cảnh là gì ?


- Có từ bao giờ ? nhân tạo hay là thiên nhiên ?
- Vẻ đẹp và sự hấp dẫn của di tích hoặc danh lam thắng cảnh đó ?

-Nếu là di tích lòch sử thì di tích đó có ý nghóa lòch sử gì ?
- Nếu là danh lam thắng cảnh thì giá trò kinh tế như thế nào?
Sau khi học sinh thảo luận nhóm Gv cho đại diện nhóm trình bày  lớp nhận xét  Gv nhận
xét và thuyết trình cho học sinh nghe  Ghi tóm tắt (phần gạch dưới bên lưu bảng)
Không ghi –GV giới thiệu .


1) CHÙA DƠI
Chùa Ma-ha-túp - chùa Mã Tộc, hay chùa Dơi theo cách gọi dân gian, nằm cách thò xã Sóc Trăng
gần 2 km. Ðây là một trong những công trình nghệ thuật kiến trúc tiêu biểu của Phật giáo Nam tông
Khmer Nam Bộ và thuộc vào hàng các ngôi chùa cổ nhất của tỉnh Sóc Trăng.
Chùa Dơi được xây dựng vào khoảng thế kỷ 16 và đã được trùng tu nhiều lần, gần đây nhất là lần
trùng tu từ năm 2007 đến 2009 sau khi xảy ra hỏa hoạn làm cháy gian chính điện với tổng kinh phí
lên tới hơn 4 tỷ đồng. Từ xa nhìn lại, ngôi chùa nổi bật trên nền cây xanh bởi lối kiến trúc và mầu
sắc trang trí khá cầu kỳ. Mái chùa gồm hai tầng lớp ngói mầu, trên mái còn bố trí nhiều tháp nhỏ.
Những đầu mái phía đầu hồi được chạm trổ tinh xảo hình rắn Na-ga uốn lượn hướng về tâm tháp cao
vút trên đỉnh chùa. Hành lang bao quanh chùa được thiết kế một hàng cột với các tượng tiên nữ
Kemnar chắp tay trước ngực và nụ cười lẩn khuất huyền bí như một thứ ngôn ngữ không lời đón chào
du khách thăm viếng.
Gian chính điện chùa có đặt một pho tượng Phật Thích Ca bằng đá nguyên khối cao 1,5 m, ngự trên
một tòa sen cao khoảng hai mét. Chung quanh là những bức tường trang trí các tác phẩm tranh vẽ
sinh động, mang phong cách dân gian, miêu tả cuộc đời Ðức Phật, từ lúc ra đời cho tới khi được khai
minh rồi nhập Niết bàn. Ngoài gian chính điện, trong khuôn viên chùa còn có nhiều bảo tháp chứa di
hài, nơi thờ cúng các nhà sư quá cố cùng nhà ở của các sư và nhà hội Sa La như kiểu nhà rông hay
hội trường... Bên cạnh hệ thống tượng Phật, chùa Dơi cũng là nơi hiện lưu giữ nguyên vẹn các bộ
kinh ghi trên lá cây thốt nốt, những hiện vật quý hiếm mang nhiều giá trò đặc sắc về văn hóa tín
ngưỡng của vùng đất Nam Bộ.

Có thể nói, đến nơi đây, được dạo bước trong khuôn viên mênh mông, rợp bóng mát cây xanh của
vườn chùa, ngắm nhìn hàng vạn con dơi treo mình ngủ trên tán lá, bên những chú lợn tròn trónh, đủng
đỉnh bước đi trong sự tónh lặng của cảnh chùa, du khách mới cảm nhận được một cách đầy đủ ý nghóa
về một môi trường sinh thái trong lành và bình yên, nơi con người cùng thiên nhiên như đang hòa vào
làm một.
Với vẻ đẹp nghệ thuật kiến trúc cổ kính, tiêu biểu của vùng đất Nam Bộ và các giá trò văn hóa, tín
ngưỡng đặc sắc, bao phủ bởi những câu chuyện và các hiện tương thiên nhiên mang nhiều nét huyền
bí, kỳ thú, chùa Dơi đã và đang trở thành một điểm viếng thăm và tham quan của khá đông người
hành hương, du khách ở trong nước và ngoài nước khi đến với Sóc Trăng nói riêng và khu vực đồng
bằng sông Cửu Long nói chung.


2)HỒ NƯỚC NGỌT

Vừa bước qua cổng chính khu du lòch hồ nước ngọt Sóc Trăng ở đường Hùng Vương, các bạn sẽ cảm nhận
ngay vẻ đẹp dòu dàng và đằm thắm của một không gian xanh êm đềm và quyến rũ.
Hấp dẫn nhất là những hàng cây, những cành dương liễu rì rào, tỏa bóng lên mặt hồ mênh mông phẳng
lặng, tạo thành cảnh sắc nên thơ. Nơi đây được coi như một Sóc Trăng thu nhỏ, đặc biệt còn có một khu
ẩm thực với nhiều món ăn bình dân nhưng rất dễ mê hoặc du khách. Từ mặt nước trong veo, giữa hồ nhô
lên vài cụm bèo xanh xanh cùng với vài con cá vàng óng ả bơi lội nhởn nhơ, chẳng khác nào một khu
vườn
cổ
tích.
Trước mặt bạn là những con đường tráng nhựa phẳng phiu, mát rượi. Bên trái, bên phải là công viên,
quán ăn, quán giải khát, siêu thò và hồ nước trong xanh, thả hơn 70.000 con cá chép thật ấn tượng.
Công viên văn hóa hồ nước ngọt vừa là điểm vui chơi giải trí, vừa là nơi tổ chức nhiều sự kiện quan trọng
của tỉnh như hội hoa đăng, hội chợ triển lãm và nhiều hoạt động văn hóa đặc sắc khác. Nơi đây còn được
coi là lá phổi chính của thành phố Sóc Trăng nhờ mặt hồ rộng mêng mông và nhiều cây xanh, cây cảnh
thật


quý

giá.

Miền

Tây

ít



công

viên

nào

rộng

rãi



xanh

đến

thế !


Du khách đến đây phần lớn để đi bách bộ, hóng gió và thưởng thức các món hương đồng cỏ nội. Đặc biệt
nhiều người dân đòa phương coi hồ nước ngọt như một dấu ấn kỷ niệm, nơi đã từng đi vào ký ức tuổi thơ của
họ.
Trên mặt hồ rộng, thoáng mát, du khách thỏa sức bơi thuyền thư giãn .

3) CÙ LAO DUNG
“Có bao giờ em về thăm nơi ấy. Một miền xanh biêng biếc hai mùa. Có bao giờ em nghe tên ấy. Cù Lao Dung đẹp tựa bài thơ”
(Ở phía Cù Lao Dung- Lê Đức Đồng). Cù Lao Dung là vùng đất cồn chạy dài hơn 40km trên sơng Hậu thuộc huyện Cù Lao
Dung tỉnh Sóc Trăng. Càng về cuối, cù lao càng nở ra giữa hai cửa biển là Định An và Trần Đề.

Hai ngày cuối tuần, từ Cần Thơ, khách có thể làm một chuyến dã ngoại về Cù Lao Dung để tham quan vùng đất
“đẹp tựa bài thơ” và được sống trong khơng khí n bình của miền q Nam bộ. Cù Lao Dung rộng khoảng
25.000ha, dân số xấp xỉ 60.000 người.
Đặt chân đến vùng đất này, khách sẽ gặp ngay con đường chạy quanh cù lao vừa là đê bao vừa là đường giao
thơng huyết mạch của vùng. Mấy năm trở lại đây, Cù Lao Dung đã trở thành một địa danh được nhắc tới như một
“đảo du lịch” tiềm năng của tỉnh Sóc Trăng.


Ngay đầu thị trấn có một vòng xoay xinh xắn. Đó chính là Ngã Tư Bến Bạ. Đi q một chút vào phía trong chừng
2km, quẹo vào con đường bên trái thuộc ấp Phước Hòa A của thị trấn, khách sẽ gặp tấm Bia Chiến Thắng Rạch
Già sừng sững giữa màu xanh của đất cù lao. Bia kỷ niệm được cấu trúc thành hai tượng đài song song đỏ rực,
một khắc hình búa liềm, một khắc ngơi sao biểu trưng cho cờ Đảng và cờ Tổ quốc. Phía dưới là hai bia nhỏ mở ra
như một quyển sách, bên trái khắc bài ca “Du kích Long Phú”(1949) của cố nhạc sĩ, ca sĩ Quốc Hương, bên phải
là những dòng chữ khắc về chiến thắng Rạch Già, một chiến thắng đi cùng bài hát đã một thời vang dội trên chiến
trường Tây Nam Bộ và cả nước. “Nơi đây, năm 1947 khi mới ra đời, du kích Long Phú đã phục kích đánh tàu giặc
tiêu diệt hàng chục tên giặc Pháp và tiêu hao nhiều sinh lực địch, bảo vệ nhân dân. Những thắng lợi của đội du
kích Long Phú đã tạo được niềm tin của quần chúng và vang lừng khắp non sơng qua bài ca “Du kích Long Phú”
của cố nhạc sĩ Quốc Hương”. Như nghe vang vọng bên tai bài ca quen thuộc với chất giọng độc đáo của cố ca sĩ
Quốc Hương: “Ai vượt Cửu Long Giang vững trí lướt sóng ngàn, có đồn qn du kích, đón đưa được an tồn...
Chúng ta đồn qn du kích, sống cùng Long Phú mến u. Đồng bào thương u du kích, giữ chặt Long Phú

mến u...”.
Trong tương lai gần, Cù Lao Dung sẽ mở ra các loại hình du lịch sinh thái, du lịch trên sơng rạch với những di tích
lịch sử, những vng tơm, cá kèo, những rẫy khoai mì, mía, bắp của vùng đất cồn hứa hẹn sẽ là điểm du lịch sinh
thái, đặc trưng của vùng q Nam bộ với những nét dun thầm của vùng đất cù lao.



Chuyển ý :

Hoạt động 2 :
Bên cạnh danh lam thắng cảnh và di tích lòch sử trên . Vấn đề môi trường và ô nhiễm môi trường hiện
nay ở nước ta là vấn đề bức xúc của toàn dân ta . Vậy theo em :
- Môi trường xung quanh ở quê hương em có xanh, sạch, đẹp hay không ? (ao hồ, biển cả, sông ngồi
….)
- Em hãy nêu có những yếu tố nào về môi trường dang bò xâm phạm ?
- Đòa phương và trường em có những chủ trương, chính sách gì nhằm bảo vệ và gìn giữ môi trường
xanh, sạch, đẹp ?
4) Môi trường nước ở Sóc Trăng: Thực trạng và giải pháp (GDMT)
Sóc Trăng là vùng đất trẻ, được hình thành qua nhiều năm lấn biển nên đòa hình bao gồm phần đất
bằng, xen kẽ là những vùng trũng và các giồng cát với cao trình phổ biến ở mức 0,5-1,0 m so với mặt
biển, nghiêng từ tây bắc xuống đông nam và có hai tiểu vùng đòa hình chính: vùng ven sông Hậu với
độ cao 1,0-1,2 m, bao gồm vùng đất bằng và những giồng cát hình cánh cung tiếp nối nhau chạy sâu
vào giữa tỉnh; vùng trũng phía nam tỉnh với độ cao 0-0,5 m, thường bò ngập úng dài ngày trong mùa


lũ.
Ngoài ra, Sóc Trăng còn có những khu vực nằm giữa các giồng cát, không hình thành vùng tập trung
với độ cao trung bình 0,5-1,0 m.
Năm 2003, dân số toàn tỉnh là 1.243.982 người. Dân số thành thò chiếm 18,44% dân số, thấp hơn
trung bình cả nước (21%). Dân tộc Kinh chiếm 65,28%, dân tộc Khơmer chiếm 28,85%, dân tộc Hoa

chiếm 5,86%.
Cuộc sống sản xuất phụ thuộc vào thiên nhiên và người dân Sóc Trăng có thói quen sinh hoạt thiếu
vệ sinh và ít chú ý bảo vệ môi trường sinh thái. Khi ra đồng, ngoài nông cụ chưa bao giờ thấy người
dân mang theo nước uống. Lúc khát họ uống nước ở ruộng đồng (cũng may thời đó chưa sử dụng
nhiều hoá chất nên ít ảnh hưởng đến sức khoẻ). ở các phum sóc trên đất giồng cát hoặc trong vùng
đất thấp có kinh rạch ngang qua, bà con thường có thói quen đổ các chất phế thải, xác thú vật chết,
kể cả phóng uế làm ô nhiễm nguồn nước mặt và môi sinh. Rồi chính người dân trong phum sóc lại sử
dụng nguồn nước của kinh rạch này một cách hồn nhiên từ đó phát sinh bệnh tật (nhất là vào đầu
mùa mưa hàng năm). Toàn tỉnh có hơn 50.000 ha đất giồng cát nghèo dưỡng chất và nhiều vùng đất
bò nhiễm phèn và mặn, là nơi có đông đồng bào Khmer cư trú lại sinh sống bằng nghề nông, trình độ
dân trí thấp, không ít hộ thiếu đất canh tác, sản xuất chậm phát triển do thiếu nước tăng vụ trong mùa
khô, thiếu nước sạch sinh hoạt nên dễ sinh bệnh tật, đời sống còn nhiều khó khăn. Bên cạnh vẫn còn
nhiều hộ dân sử dụng nước sông, kênh rạch để phục vụ sinh hoạt hàng ngày từ đó ảnh hưởng đến sức
khỏe và nguy cơ nhiễm các bệnh về đường tiêu hóa là rất lớn. Đặc biệt việc sử dụng cầu cá, cầu
tạm, cầu trên sông gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Đa số hộ dân là những hộ nghèo do đó
việc đầu tư xây dựng các công trình như bể lọc nước, nhà tiêu là rất khó khăn. Sản xuất nông nghiệp
nói chung và chăn nuôi nói riêng còn mang tính thuần nông, việc ứng dụng khoa học kỹ thuật vào
sản xuất còn giới hạn nhất là việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật trong nông nghiệp làm ảnh hưởng
nghiêm trọng đến nguồn nước ngầm. Các công trình cấp nước tập trung công suất vẫn còn thấp,
phạm vi phục vụ còn hạn chế nên người dân ở xa không sử dụng được nguồn nước này.
Trong nuôi thuỷ sản có nhiều hộ không áp dụng quy trình từ khâu sử dụng thức ăn… cho đến làm vệ
sinh ao hồ, tất cả đều thải ra kênh rạch và dòng sông. Bố trí thời vụ nuôi không đồng nhất, chung
một dòng sông có người xả nước ra thì người khác lại lấy nước vào, từ đó môi trường vùng nuôi thuỷ
sản thường xuyên bò ô nhiễm. Việc phát triển các vùng nuôi tôm ven biển lại tăng thêm số lượng
khoan cây nước ngầm, nhu cầu nước ngọt chừng 5 vạn m3/ha/vụ, có nguy cơ dẫn đến nhiễm mặn
nguồn nước ngầm do sự lún sụt đòa tầng cạn kiệt mạch nước ngầm vào mùa khô. Một khi mạch nước
ngầm và đất trở nên mặn hoá thì hiểm hoạ môi trường khó mà phục hồi trong thời gian ngắn.
Giải pháp cơ bản hiện nay cho môi trường Sóc trăng là: phải bảo vệ cho được rừng hiện còn và trồng
thêm rừng tràm trên đất ngập nước ở vùng Tứ giác Long Xuyên-Hà Tiên, Đồng Tháp Mười, rừng
tràm U minh thượng và U Minh hạ hoặc một số vùng đất trũng. Quan hệ hợp tác với các nước bạn

như Campuchia và Lào để bảo vệ tốt và tái sinh lại rừng đầu nguồn ở thượng lưu sông Cửu Long.
Một khi rừng càng nhiều thì nước sẽ giữ lại nhiều và điều hoà được lượng nước cho vùng hạ lưu vào
mùa khô tốt hơn. Bảo vệ tốt cây xanh và trồng thêm cây phân tán lấy gỗ theo những giồng cát và đai
rừng phòng hộ chắn gió ven biển.


Tăng cường công tác khuyến nông và khuyến ngư : áp dụng phương pháp “3 giảm, 3 tăng” trong
canh tác lúa, sử dụng nông dược theo bốn đúng: “đúng thuốc, đúng lúc, đúng liều và đúng cách”. Sử
dụng phân bón hoá học hợp lý có kết hợp phân bón hữu cơ cho cây trồng, vệ sinh chuồng trại chăn
nuôi và tiêm phòng gia súc gia cầm đầy đủ, đào hố chôn đàn gia cầm do dòch bệnh chết và xử lý tốt
chất thải chăn nuôi. Hạn chế việc khoan giếng nước ngầm để nuôi tôm ao nổi trên cát, hình thành
các tổ hợp tác nuôi tôm sú và nuôi cá, xây dựng hệ thống thuỷ lợi đảm bảo môi trường tốt cho vùng
nuôi thuỷ sản, quản lý tốt các cơ sở sản xuất giống tôm cá đảm bảo chất lượng cao, thường xuyên
kiểm tra chất lượng thức ăn và thuốc thuỷ sản lưu hành trên thò trường, các chất rắn và nước thải từ
các ao nuôi tôm cá cần phải được sử lý trước khi tháo ra sông biển.

4) Ngoài ra còn rất nhiều thắng cảnh lòch sử :

Chùa Khleang là một trong những ngôi chùa Khmer cổ nhất ở Sóc Trăng được xây dựng vào giữa
thế kỷ 16. Chùa có bức tượng Phật ngồi trên đài sen cao 6,8 m đặt ngay ở chính điện. Chùa Khleang
đã được công nhận là Di tích lòch sử - văn hóa quốc gia.Chùa nằm trên một khoảnh đất rộng, không
gian thông thoáng, chung quanh có nhiều cây xanh, tỏa bóng mát xuống khắp mặt sân, dưới mỗi gốc
cây có đặt những băng ghế đá dùng để nghỉ chân, tạo cho du khách một cảm giác hết sức thoải mái,
mát mẻ sau khi tham quan mệt nhọc. Ðặc biệt, trong khuôn viên chùa còn có nhiều cây thốt nốt, loại
cây đặc trưng mà người Khmer thích trồng ở khu vực sinh sống của mình. Cổng chùa được trang trí
nhiều hoa văn, họa tiết, mầu sắc rực rỡ mang đậm phong cách Khmer. Tuy nhiên, chùa Khleang
được xây cất rất cao so với mặt đất, với bậc tam cấp và ba vòng rào, tất cả đều bằng xi-măng và rực
rỡ mầu sắc. Vòng rào ngoài lớn rồi nhỏ dần vào trong, khoảng cách giữa các vòng rào rất rộng, nền
chùa chiếm diện tích rất lớn. Trước chùa có xây hai tháp hình bầu dục nằm ở hai bên, dùng để đựng



xương cốt của các vò trụ trì. Toàn bộ mái chùa là cả một công trình kiến trúc vó đại thể hiện quan
niệm, triết lý về Phật, Trời của người Khmer.Hằng ngày, chùa Khleang đón rất nhiều du khách đến
tham quan, đặc biệt là du khách nước ngoài. Chùa đã được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là Di
tích lòch sử, văn hóa quốc
E. CỦNG CỐ – DẶN DÒ :
1. Củng cố :
a) chúng ta có bao nhiêu danh lam thắng cảnh ?
b) chúng ta có bao nhiêu di tích văn hóa-lòch sử ?
2. Dặn dò : Hè ở nhà chúng ta nên ôn lại các kiến thức cơ bản của chương trình
Ngữ văn 6 để chuẩn bò lên lớp 7 học cho tốt .
Chúc các emvui khỏe và thành công trong năm học sau !

Tuần 37

NS: ………………….
ND:……………………………..

Tiết 137,138
NV

(xem đề và hướng dẫn chấm của trường)




Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×