Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Một số vấn đề về tỷ giá hối đoái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.5 KB, 25 trang )

BÀI TẬP THẢO LUẬN KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA
NHÓM 5_D3503
CHỦ ĐỀ: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI.
Nhóm 2
LỜI MỞ ĐẦU
Tầm quan trọng và vai trò của tỷ giá hối đoái gắn liền với quá
trình lớn mạnh không ngừng của nền kinh tế thế giới và quan hệ
kinh tế quốc tế. Giống như vai trò của giá cả trong nền kinh tế thị
trường, tỷ giá hối đoái có tác động quan trọng đến những biến đổi
của nền kinhtế mỗi quốc gia. Thực tế cho thấy một chính sách tỷ giá
hối đoái hợp lýcó thể là nhân tố quan trọng tạo điều kiện thúc đẩy
nền kinh tế mộtnước tăng trưởng. Không ít nước đã thành công khi
sử dụng chính sách tỷ giá hối đoái để phát triển, cũng có nhiều nước
đã vấp phải những thất bại về chính sách tỷ giá. Sau đây chúng ta
sẽ cùng nghiên cứu những nhân tố ảnh hưởng đến biến động của tỷ
giá hối đoái, những kỳ vọng về tỷ giá hối đoái cũng như là sự can
thiệp của chính phủ đến nó.
I. KHÁI NIỆM VỀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI
Việc thực hiện các nghĩa vụ thanh toán quốc tế đòi hỏi phải so sánh một đồng
tiền nước này với đồng tiền của nước khác. Khi việc trao đổi mua bán vượt ra
khỏi phạm vi một quốc gia phải thỏa thuận dùng đồng tiền nước nào để tính
và thanh toán hợp đồng. Việc thanh toán này có thể sử dụng một trong hai
đồng tiền của hai nước nhưng cũng có thể sử dụng một đồng tiền thứ ba nào
đó, từ đó xuất hiện đòi hỏi phải xem xét, tính toán một đồng tiền nội tệ được
bao nhiêu đồng ngoại tệ hoặc ngược lại một đồng ngoại tệ được bao nhiêu
nội tệ, tức là phải bằng cách nào đó chuyển đổi một đơn vị tiền tệ của nước
này thành đơn vị tiền tệ của nước khác.

1



Muốn thực hiện được điều đó, cần phải dựa vào một mức qui đổi xác định.
Nói cách khác đó chính là phải dựa vào tỷ giá hối đoái. Vậy tỷ giá hối đoái là
gì?
Có nhiều khái niệm về tỷ giá hối đoái mà chúng ta có thể trích dẫn định
nghĩa của một số tác giả sau đây.
Theo Samuelson – nhà kinh tế học người Mỹ cho rằng: Tỷ giá hối đoái là tỷ
giá để đổi tiền của một nước lấy tiền của một nước khác. (Trầm Thị Xuân
Hương. 2006)
Theo Lê Văn Tề (1999) cho rằng: Tỷ giá hối đoái là tỷ giá so sánh đồng tiền
giữa các nước xét về mặt giá trị.
Ở mục 5 điều 4 của Nghị định 63/1998/NĐ-CP ngày17-8-1998 của Chính
phủ Về quản lý ngoại hối ghi rõ: “Tỷ giá hối đoái là giá của một đơn vị tiền tệ
nước ngoài tính bằng đơn vị tiền tệ Việt Nam”.
Ví dụ: Một người nhập khẩu ở Việt Nam phải bỏ ra 797.5 triệu VND để mua
50,000USD trả tiền hàng nhập khẩu từ Mỹ. Nh ư vậy giá 1 USD là 15,950
VND, đây là tỷ giá hối đoái giữa đồng đô la Mỹ và đồng ngân hàng Việt Nam.
Chúng ta còn thấy tỷ giá hối đoái được hiểu là quan hệ so sánh giữa hai
đồng tiền của hai nước khác nhau.
Trong chế độ bản vị vàng, tiền tệ trong lưu thông là tiền đúc bằng vàng và
giấy bạc ngân hàng được đổi tự do ra vàng căn cứ vào hàm lượng vàng của
nó. Tỷ giá hối đoái lúc này là quan hệ so sánh hai đồng tiền vàng của hai
nước với nhau hoặc là so sánh hàm lượng vàng của hai đồng tiền hai nước
với nhau. Cách so sánh này gọi là ngang giá vàng (Gold parity). Như vậy
trong chế độ bản vị vàng, ngang giá vàng là cơ sở hình thành tỷ giá hối đoái.

2


Ví dụ: Hàm lượng vàng của bảng Anh là 2.488281 gam, của đô la Mỹ là
0.888671 gam, do đó quan hệ so sánh giữa GBP và USD là:

1 GBP = 2.488281/0.888671 = 2.8USD
Trong chế độ lưu thông tiền giấy, giấy bạc ngân hàng không được đổi tự do
ra vàng theo hàm lượng của nó, do đó ngang giá vàng không còn là cơ sở để
hình thành tỷ giá hối đoái. Lúc này việc so sánh hai đồng tiền với nhau được
thực hiện bằng cách so sánh sức mua của hai tiền tệ với nhau, gọi là ngang
giá sức mua của tiền tệ (Purchasing Power Parity)
Ví dụ: Một hàng hóa A ở Mỹ có giá là 100USD, ở Pháp có giá là 82EUR
Ngang giá sức mua là : 1USD = (82/100) = 0.82EUR . Đây chính là tỷ giá hối
đoái giữa đô la Mỹ và đồng EUR.
II. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN BIẾN ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI
1/ Chênh lệch lạm phát của hai nước làm ảnh hưởng tới tỷ giá hối đoái
Theo lý thuyết cân bằng sức mua, tỷ giá hối đoái phản ánh so sánh sức mua
của đồng nội tệ so với đồng ngoại tệ hay mức giá trong nước và mức giá của
nước ngoài. Vì vậy, khi chênh lệch lạm phát giữa hai nước thay đổi, tức là
mức giá cả ở hai nước này thay đổi, tỷ giá hối đoái giữa hai đồng tiền của hai
nước đó sẽ biến động theo.
Nếu mức lạm phát trong nước cao hơn mức lạm phát của nước ngoài, sức
mua của đồng nội tệ giảm so với ngoại tệ thì tỷ giá hối đoái có xu hướng tăng
lên. Ngược lại, nếu mức lạm phát trong nước thấp hơn mức lạm phát ở nước
ngoài, sức mua của đồng nội tệ tăng tương đối so với đồng ngoại tệ và tỷ giá
giảm xuống.
Chênh lệch lạm phát dựa vào thuyết ngang giá sức mua của đồng tiền PPP.
Theo thuyết này, mức giá của một nước tăng lên tương đối so với mức tăng
3


giá của nước khác trong dài hạn sẽ làm cho đồng tiền của nước đó giảm giá
và ngược lại.
Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới (WB), năm 2012, GDP trên đầu người
ở Việt Nam là 1.596 đô la Mỹ, tăng 2,2 lần so với năm 2006. Còn nếu tính theo

sức mua ngang giá (PPP), quy đổi ra đô la Mỹ giá hiện tại thì GDP đầu người
sẽ là 3.635 đô la vào năm 2012, chỉ tăng 1,5 lần so với năm 2006 . Vì cả hai
chỉ tiêu này đều được đo bằng đô la Mỹ danh nghĩa (giá hiện tại) hoặc đô la
Mỹ theo PPP nên đều có thể dùng để so sánh mức thu nhập đầu người của
Việt Nam với quốc tế.
Nguyên nhân mức tăng GDP đầu người quy ra đô la Mỹ theo sức mua ngang
giá lại nhỏ hơn nhiều so với tính theo giá hiện tại (tương ứng là1,5 lần so với
2,2 lần)nằm ở tỷ giá tiền đồng/đô la Mỹ và chênh lệch lạm phát giữa Việt
Nam và Mỹ. Tỷ giá trong giai đoạn 2006-2012 tăng 1,3 lần . Trong cùng kỳ
này, lạm phát đã tăng gấp đôi ở Việt Nam so với mức tăng 1,1 lần ở Mỹ.
Bên cạnh đó, lạm phát cao ở Việt Nam và chênh lệch lạm phát lớn giữa Việt
Nam và Mỹ làm cho tiền đồng lên giá thực so với đô la Mỹ và làm cho hàng
hóa ở Việt Nam ngày càng trở nên đắt đỏ một cách tương đối so với Mỹ. Cùng
một món hàng trước đây ở Việt Nam có giá là 15.000 đồng, tương đương 1
đô la Mỹ (tỷ giá là 15.000 đồng/đô la) thì nay vẫn món hàng này nhưng do
lạm phát cao ở Việt Nam (so với Mỹ) trong khi tỷ giá thay đổi ít hơn làm
người mua phải trả số tiền là 30.000 đồng, tương đương 1,5 đô la (tỷ giá là
19.500 đồng/đô la). Nói cách khác, tuy mức thu nhập danh nghĩa của người
Việt Nam có tăng gấp đôi nếu tính theo tiền đồng (từ 15.000 lên 30.000),
hoặc tăng gấp rưỡi nếu tính theo đô la Mỹ (từ 1 đô la lên 1,5 đô la), nhưng
sức mua thực của hai mức thu nhập này không thay đổi so với trước đây.
Trong khi đó, GDP đầu người tính bằng đô la Mỹ theo PPP được tính dựa
trên nguyên tắc quy đổi sức mua cho cùng một rổ hàng hóa như trong ví dụ
4


đơn giản trên. Vì thế, tuy GDP đầu người của người Việt Nam tính theo đô la
Mỹ danh nghĩa có tăng khá mạnh, nhưng khi điều chỉnh theo PPP thì lại trở
nên nhỏ đi vì cùng số tiền đô la đó nay chỉ mua được một lượng hàng hóa ít
hơn so.

2/ Mức tăng hay giảm thu nhập quốc dân giữa các quốc gia:
Thu nhập quốc dân là bộ phận còn lại của tổng sản phẩm xã hội sau khi bù
đắp những tư liệu sản xuất đã sử dụng, là những giá trị mới do lao động xã
hội tạo ra trong một năm.Thu nhập quốc dân bao gồm: chi tiêu dùng cá nhân,
tổng đầu tư của dân cư, chi tiêu dùng của chính phủ, thu nhập thuần từ tài
sản ở nước ngoài (sau khi trừ các thuế), và tổng giá trị hàng hóa và dịch vụ
xuất khẩu và trừ đi hai khoản: tổng giá trị hàng hóa và dịch vụ nhập khẩu và
thuế gián thu.
Thu nhập quốc dân tương tự như Tổng sản lượng quốc gia – GNP, chỉ khác
biệt ở chỗ GNP không trừ đi thuế gián thu.
Về mặt giá trị, thu nhập quốc dân gồm toàn bộ giá trị mới do lao động tạo ra
trong một năm, tức là bộ phận v + m trong tổng sản phẩm xã hội.
Về mặt hiện vật, thu nhập quốc dân cũng bao gồm tư liệu tiêu dùng và một
phần tư liệu sản xuất dùng để mở rộng sản xuất. Hai nhân tố làm tăng thu
nhập quốc dân là số lượng lao động và tăng năng suất lao động. Trong đó,
tăng năng suất lao động là nhân tố quyết định nhất.
Có hai phạm trù nói về thu nhập quốc dân: thu nhập quốc dân sản xuất và
thu nhập quốc dân sử dụng. Thu nhập quốc dân sản xuất là số thu nhập được
sản xuất ra trong nước đó. Thu nhập quốc dân sử dụng bằng thu nhập quốc
dân sản xuất cộng với tài sản được chuyển vào trong nước (vay nợ, được trả
nợ, thanh toán do xuất siêu và các tài khoản vãng lai, lợi nhuận của những tài
sản đầu tư ở nước ngoài, vốn tư bản nước ngoài đầu tư vào trong nước...) trừ
đi những tài sản được chuyển ra nước ngoài (trả nợ, cho vay, thanh toán
nhập siêu, đầu tư ra nước ngoài và chuyển lợi nhuận của tư bản nước ngoài
5


đầu tư vào trong nước về nước họ). Trong đó, thu nhập quốc dân sử dụng
chính là cơ sở quyết định quỹ tích lũy và tiêu dùng của xã hội.
Từ số liệu của Tổng cục Thống kê, có thể ước tính tổng thu nhập quốc dân

(GNI) của Việt Nam năm 2004 là 44,5 tỉ USD. Đó là quy theo tỷ giá hối đoái
trên thị trường. Nếu tính theo sức mua tương đương (PPP) thì tổng thu nhập
quốc dân (GNI) năm 2004 của Việt Nam lên tới 230,4 tỉ USD.
Như vậy, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam năm qua theo tỷ giá
thị trường là 542 USD, nhưng theo PPP thì lên tới 2.807 USD, tăng đáng kể so
với năm trước. Năm 2003, thu nhập đầu người của Việt Nam mà Ngân hàng
Thế giới (WB) tính là 480 USD theo tỷ giá thị trường và 2.490 USD theo PPP.
Thu nhập thực tế của người dân nước ta trên bình diện sức mua là không
quá thấp, vì GNI bình quân đầu người của các nước thu nhập thấp chỉ có
2.100 USD (năm 2003). Tuy nhiên GNI đầu người của chúng ta chưa bằng
một nửa mức các nước có thu nhập trung bình của thế giới (6.000 USD năm
2003).
Thời kỳ 2003-2012 thu nhập bình quân đầu người tăng 7,91%/năm, cao
hơn tốc độ tăng tương ứng của GDP bình quân đầu người theo giá so sánh
trong cùng thời gian (5,41%/năm). Điều này phù hợp với định hướng của
nền kinh tế thị trường mà Việt Nam lựa chọn: Đó là định hướng vì con người;
tăng trưởng kinh tế là điều kiện để tăng thu nhập của dân cư và tăng thu
nhập của dân cư sẽ tác động trở lại đối với tăng trưởng kinh tế.
Mặt khác, thu nhập của dân cư tăng, cộng với tỷ lệ vốn đầu tư/GDP khá cao
trong nhiều năm là một trong những yếu tố góp phần làm cho giá tiêu dùng
tăng khá cao (bình quân năm trong thời kỳ từ 2002-2012 lên đến 10,18%).

6


Tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người,
sau khi loại trừ yếu tố giá (%)

Tuy nhiên, xét riêng thời kỳ 2011-2012, thu nhập bình quân cao hơn không
bao nhiêu so với tốc độ tăng GDP bình quân đầu người trong cùng thời gian

tương ứng (4,7%/năm). Cùng với tỷ lệ vốn đầu tư/GDP giảm xuống (từ
39,2% trong thời kỳ 2006-2010 xuống còn 32,1% trong thời kỳ 2011-2012),
việc tăng thấp của thu nhập bình quân đầu người đã làm cho tổng cầu tăng
chậm lại nhanh, nên đã tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế. Đồng thời,
cả hai chỉ tiêu trên đều tăng chậm lại nhanh, đã góp phần làm cho giá tiêu
dùng bình quân năm giảm từ 18,58% năm 2011 xuống còn 9,21% năm 2012,
6,6% năm 2013 và hai tháng đầu năm 2014 tăng thấp nhất so với cùng kỳ
trong 12 năm trước đó. Từ biểu đồ trên ta thấy, thu nhập bình quân từ năm
2003-2006 giảm 11,56% (từ 27,14% xuống còn 15,58%). Năm 2005-2008
tăng 4,77%, năm 2008-2010 tăng 3,02%, tức là mức tăng của thu nhập bình
quân từ năm 2005-2010 là giảm 1,75%. Từ năm 2009-2012 giảm mạnh nhất
trong giai đoạn năm 2003-1012 là 9,8% ( năm 2009 chiếm 23,37% xuống còn
13,57% năm 2012 ).
Cơ cấu thu nhập năm 2012 của hộ gia đình cho thấy tỷ trọng khoản thu về
tiền lương, tiền công tăng; thu từ nông, lâm nghiệp-thuỷ sản giảm. Cụ thể:
46,2% từ tiền công, tiền lương; 19,8% từ nông, lâm nghiệp-thuỷ sản chiếm

7


19,8%; từ dịch vụ chiếm 17,3%; từ công nghiệp-xây dựng chiếm 4,8%; từ các
nguồn khác chiếm 11,9%.
Mức chênh lệch giữa thu nhập và chi tiêu bình quân đạt khoảng 397.000
đồng/tháng. Tính ra, tổng chênh lệch giữa thu nhập và chi tiêu của toàn bộ
dân cư tích luỹ vào khoảng 422,7 nghìn tỷ đồng.

Trong tổng số tích luỹ này,

thì số được đưa vào đầu tư trong năm 2012 vào khoảng 385 nghìn tỷ đồng,
vẫn còn khoảng 38 nghìn tỷ đồng, chiếm khoảng 10% tổng tích luỹ, chưa

được đầu tư trực tiếp mà vẫn tiếp tục được dùng để mua vàng, mua ngoại
tệ…, đưa lượng vàng, ngoại tệ còn tồn đọng trong dân cư hiện đã ở mức khá
lớn (một số chuyên gia ước tính đã lên đến hàng chục tỷ USD).
Kết quả khảo sát về chênh lệch thu nhập cho thấy thu nhập bình quân ở khu
vực thành thị đạt 3 triệu đồng/tháng, cao gấp gần 2 lần con số tương ứng ở
nông thôn (1,6 triệu đồng/tháng).
Thu nhập bình quân ở vùng Đông Nam Bộ (vùng cao nhất đạt 3,2 triệu
đồng/tháng), cao gấp gần 2,5 lần con số tương ứng của vùng trung du và
miền núi phía Bắc (thấp nhất).
Nếu chia hộ dân cư thành 5 nhóm, thu nhập bình quân tháng 1 người của
nhóm hộ giàu nhất (nhóm thu nhập 5) ở mức thu thấp 4,8 triệu đồng, của
nhóm hộ nghèo nhất (nhóm thu nhập 1) với mức 512.000 đồng, thì hệ số
chênh lệch giàu/nghèo lên đến 9,4 lần, cao hơn các năm trước (năm 2010 là
9,2 lần, năm 2008 là 8,9 lần, năm 2006 là 8,4 lần, năm 2004 là 8,3 lần, năm
2002 là 8,1 lần…). Còn kết quả đo lường chênh lệch giàu nghèo bằng hệ số
giữa tỷ trọng thu nhập của 40% dân số có thu nhập thấp nhất trong tổng thu
nhập của toàn bộ dân cư cho thấy xu hướng giảm xuống (năm 2002 là 18%,
năm 2004 là 17,4%, năm 2006 là 17,4%, năm 2008 là 16,4%, năm 2008 là
16,4%, năm 2010 là 15% và năm 2012 là 14,9%).

8


Kết quả khảo sát năm 2012 của Tổng cục Thống kê cho thấy thu nhập bình
quân đầu người sau khi loại trừ yếu tố giá tiêu dùng bình quân đã tăng liên
tục qua các năm, tỷ lệ nghèo giảm tiếp tục giảm, nhưng chúng ta cần có cuộc
khảo sát mức sống dân cư cũng có các thông tin để cảnh báo về chênh lệch
mức thu nhập giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng.
Thu nhập quốc dân (GNI) là chỉ số kinh tế xác định tổng thu nhập của một
quốc gia trong một năm.

Tỷ giá không chỉ có chức năng phân phối lại thu nhập quốc dân giữa các
ngành kinh tế trong một nước mà còn có khả năng phân phối lại thu nhập
quốc dân giữa các nước có quan hệ kinh tế với nhau.
Khi nền kinh tế có mức tăng trưởng ổn định nhu cầu về hàng hóa dịch vụ
nhập khẩu sẽ tăng do đó nhu cầu về ngoại tệ cho thanh toán hàng nhập khẩu
tăng lên.
Một nền kinh tế khi xuất khẩu hàng hóa dịch vụ sẽ thu về ngoại tệ trên thị
trường cung ngoại tệ sẽ tăng ,làm tỷ giá hối đoái giảm. Và ngược lại.

9


Nhận xét : Dựa vào biểu đồ trên ta có thể thấy những quốc gia và vùng
lãnh thổ có chỉ số GNI cao đều sở hữu những đơnvị tiền tệ được đánh giá là
những đồng tiền mạnh trên Thế giới.

Đồng tiền được đánh giá là mạnh dựa vào nền sản xuất kinh tế mạnh. Trên
cơ sở đó rút ra kết luận mức tăng giảm thu nhập quốc dân có ảnh hưởng đến
tỷ giá hối đoái.
Nếu thu nhập quốc dân của một quốc gia hoặc khu vực cao sẽ làm cho đồng
tiền của quốc gia hoặc khu vực đó có giá trị. Đồng nghĩa với việc làm tỷ giá
hối đoái giảm và ngược lại nếu thu nhập quốc dân của quốc gia hoặc khu vực
đó thấp hơn sẽ làm mất giá trị đồng tiền ở đó, tỷ giá hối đoái sẽ tăng lên.
10


*Liên hệ thực tiễn : Tăng thu nhập quốc dân ở Việt Nam:
Hiện nay các mặt hàng chủ lực của Việt Nam đang bị phía Mỹ ép thuế xuất
khẩu tương đối cao từ mức 4,5% đến 14% cho hàng may mặc và 10,5% cho
hàng dày dép.Nhưng khi đạt được thỏa thuận TPP – Hiệp định đối tác kinh tế

chiến lược xuyên Thái Bình Dương, thì thuế sẽ được giảm từ đó các chuyên
gia của Ngân hàng HSBC dự báo nếu đạt được thỏa thuận TPP thì thu nhập
quốc dân của Việt Nam sẽ tăng lên đáng kể, bao gồm tổng sản phẩm quốc nội
(GDP) và thu nhập nhận được từ nước ngoài tăng lên 2% vào năm 2015 và
tăng khoảng 10% đến năm 2020. Nhập khẩu hàng hóa ở Việt Nam ngày càng
nhiều ,do đó cung về USD sẽ tăng lên trên thị trường ngoại hối vì những nhà
nhập khẩu cần bán USD để mua ngoại tệ dùng để thanh toán hàng nhập khẩu
,nhu cầu về USD không đổi có thể tăng tức là làm giá hối đoái giữa USD và
VND sẽ giảm xuống.
3/ Mức chênh lệch lãi suất giữa các nước:
Khi lãi suất của một nước tăng lên một cách tương đối so với các nước
khác , trong điều kiện các nhân tố khác không đổi , thì vốn ngắn hạn từ nước
ngoài sẽ chảy vào nhằm thu phần chênh lệch do tiền lãi tạo ra đó. Điều này
làm cho cung ngoại hối tăng lên , cầu ngoại hối giảm đi dẩn đến sự thay đổi tỷ
giá.
Giả sử Mỷ nâng lãi suất tiền gửi trong khi việt nam sẽ mua tín phiếu ngắn
hạn ở Mỹ nhằm thu tiền lãi cao hơn.Do đó , cầu về USD sẽ tăng lên để đổi lấy
các tín phiếu đó.
Ngược lại, khi mức lãi suất ngắn hạn của một nước giảm xuống so với các
nước khác trong điều kiện binh thường thì sẽ làm tăng dòng tiền chảy ra
khỏi đất nước nhằn thu phần chênh lệch do tiền lãi tạo ra, làm cho cung
ngoại hối giảm xuống,cầu ngoại hối tăng lên, dẫn đến tỷ giá hối đoái sẽ bị
giảm xuống. Đồng tiền của một quốc gia nào đó có lãi suất thấp hơn thì nhất

11


định sẽ là bù kỳ hạn cho hợp đông kỳ hạn đối với đồng tiền của một quốc gia
có lãi suất cao hơn.
Gỉa sử pháp giảm lãi suất tiền gửi của EUR so với VND thì các nhà kinh

doanh ở pháp sẽ mua tín phiếu ngắn hạn ở Việt Nam để nhằm thu tiền lãi
cao hơn tức là phần chênh lệch lãi suất do tiền lãi tạo ra đó. Do đó, cầu về
Việt Nam đồng sẽ tăng lên để đổi lấy các tín phiếu đó. Đồng thời, các nhà
kinh doanh việt nam muốn giữ tiền gửi ở các ngân hàng hoặc các chứng từ
có giá ở nước mình hơn là đầu tư ở pháp với lãi suất thấp. Do đó cung VND
sẽ giảm xuống trên thị trường hối đoái. Sự giảm lãi suất tiền gửi ở pháp so
với việt nam sẽ làm tăng cầu về VNDnhưng đồng thời làm giảm cung VND
dẫn đến tỷ giá VND sẽ tăng lên, làm giảm cầu về EUR dẫn đến giá EUR sẽ
giảm xuống, tức tỷ giá hối đoái giữa EUR và VND sẽ giảm xuống.
Ví dụ: khi Việt Nam giảm lãi suất tiền gửi ngân hàng đối với ngoại tệ thấp
hơn các nước trong khu vực. Chẳng hạn:mức lãi suất tiền gửi đối với ngoại
tệ ở việt nam là 2,5%/năm, tronh khi đó mức lãi suất này ở các nước trong
khu vực là 3%/năm. Khi đó có sự chênh lệch lãi suất giữa việt nam và các
nước trong khu vực là 0.5%.Hệ quả là nguồn vốn ngắn hạn sẽ chảy ra khỏi
đất nước, nguồn đầu tư nước ngoài vào việt nam sẽ giảm mà thay vào đó sẽ
đầu tư vào các nước trong khu vực để thu được phần chênh lệch lãi suất
thay vì đầu tư vào Việt Nam với lãi suất thấp.
Từ đó làm giảm nguồn cung ngoại tệ trong nước và làm tăng nguồn cầu
ngoại tệ, làm cho tỷ gí hối đoái sẽ tăng lên
*Liên hệ thực tiễn ở Việt Nam:
Nhiều ngân hàng thương mại ở Việt Nam đã tăng lãi suất huy động vốn
USD lên cao nhất kể từ năm 2001 đến nay.
Từ tháng 12/2005,lãi suất ngân hàng nhà nước tăng lên 8,25% / năm so
với 7,8% / năm trước đó; lãi suất tái cấp vốn tăng thêm 2,5% / năm,từ mức
4,0 %/ năm.
12


Đây là lần thứ 3 trong năm 2005, các lãi suất chũ đạo của ngân hàng nhà
nước không đều tăng lên , tuy không tác động trực tiếp đến lãi suất huy độg

vốn và cho vay của các ngân hàng thương mại, nhưng tác đồng gián tiếp
đến lãi suất trong nền kinh tế.
SO SÁNH LÃI SUẤT USD THỊ TRƯỜNG QUỐC TẾ VÀ THỊ TRƯỜNG

TRONG

NƯỚC.

Ngân hàng

kỳ hạn

3 tháng

6 tháng

4,210
4,210

4,410
4,405

4,380
4,370

27

3,8
3,6


4,3
3,9

9 tháng

12 tháng

24 tháng

1tháng
1/12/2015
SinBr
LonDon
1/12/2015
VIBBank

4,7467
4.735
4,2
4,3

4,6
4,4

Ngân hàng tiếp tục tăng lãi suất nhằm định hướng thắt chặt tiền tệ, góp
phần kiềm chế lạm phát.Từ đó góp phần hạn chế anh hưởng cung cầu hàng
hóa, làm đồng nội tệ mất giá.
Đồng thời, khi lãi suất tăng cao hơn so với các quốc gia khác làm thúc đẩy
giá trị đồng nội tệ tăng, từ đó tỹ giá hối đoái giảm. Nhưng sự chênh lệch này
làm lợi nhuận thu được của các ngân hàng cho vay giảm,thậm chí là thua lỗ.

Theo chủ tịch HĐQT của một ngân hàng lớn tại thành phố HCM thì mức lãi
suất hiện tại chỉ đủ trang trải chi phí, đề phòng rủi ro chứ không có thể kỳ
vọng nhiều về lợi nhuận.
Kết quả kinh doanh quý 3/2014 vừa được ngân hàng công bố, bức tranh
lợi nhuận không mấy sáng sủa : DongA Bank lổ 76 tỷ đồng trong quý 3, kế
tháng 9 đầu năm lãi sau thuế là 149 tỹ đồng….trong 9 tháng , thu nhập lãi
13

4,7


thuần của ngân hàng giảm 41,1% , trích lập dự phòng rủi ro 339 tỷ đồng do
nợ xấu tăng, dự trữ tín dụng âm 0,54 .chỉ có một số ngân hàng có lợi nhuận
tăng trưởng như SeComBank đạt 1,979 tỷ lợi nhuận…
TS.Trần Du Lịch thành viên hội đồng tư vấn tài chính tiền tệ quốc gia cho
rằng các ngân hàng cần cố gắng giảm mức chênh lệch lãi suất huy động vốn
và cho vay phổ biến 3.5% - 4% hiện nay xuống 2.5% - 3%... để tạo diều kiện
gián tiếp cho lãi suất cho vay.
Cho nên tăng lãi suất tác động tốt tỷ giá hối đoái, ảnh hưởng tốt đến nền
kinh tế trong nước nhưng ảnh hưởng xấu đến lợi nhuận của các ngân hàng
thương mại.Vì thế, trong hoàn cảnh kinh tế đặt ra bài toán đó, việc thực
hiện chủ động, linh hoạt đồng bộ các biện pháp điều hành trong thời gian
qua, NHNN cần thực hiện được hai mục tiêu đó là vừa giảm mặt bằng lãi
suất, góp phần hỗ trợ sãn xuất kinh doanh tăng trưởng thị trường tín dụng,
cùng lúc vẩn duy trì được sự ổn định của thị trường ngoại hối và tỷ giá.
III. NHỮNG KỲ VỌNG VỀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI:
Một trong những nhân tố ảnh hưởng đến sự biến động của tỷ giá hối đoái đó
là những kỳ vọng về tỷ giá hối đoái:Kỳ vọng của những người tham gia vào
thị trường ngoại hối về triển vọng lên giá hay xuống giá của một đồng tiền
nào đó có thể là một nhân tố rất quan trọng quyết định tỷ giá. Những kỳ

vọng về giá cả của các đồng tiền có liên quan rất chặt chẽ đến những kỳ vọng
về biến động tỷ lệ lạm phát, lãi suất và thu nhập giữa các quốc gia.
*Thông tin và kỳ vọng:
Thông tin và sự kiện có ý nghĩa quan trọng đối với sự vận động của tỷ giá,
đặc biệt trong ngắn hạn.
Giao dịch hối đoái chủ yếu dựa trên kỳ vọng về tỷ giá.
Kỳ vọng dựa trên tập hợp thông tin liên quan.
Thông tin => Kỳ vọng => Giao dịch hối đoái => Tỷ giá bến động
14


Trong thực tế, cùng 1 thông tin có thể có những kỳ vọng khác nhau, thậm chí
trái ngược.
Quá trình tích hợp thông tin vào giá khó đoán định.
Có nhiều cách lý giải về ý nghĩa của thông tin tạo nên kỳ vọng thị trường
khiến tỷ giá biến động hoàn toàn mang tính ngẫu nhiên.
Vì mỗi người có cách lý giải khác nhau về ý nghĩa thông tin mà họ nhận
được nên kỳ vọng thị trường là sự tổng hợp số lượng các thành viên tham gia
đầu tư trên thị trường ngoại hối và cách họ tiếp nhận thông tin.
Giả sử có rất nhiều người tham gia vào thị trường ngoại hối, đặc biệt là các
nhà đầu cơ lớn cho rằng đồng USD sẽ giảm giá trong thời gian tới, trong điều
kiện các nhân tố khác không thay đổi. Điều này sẽ dẫn đến cung về USD sẽ
tăng lên trên thị trường ngoại vì nhiều người muốn bán chúng để mua ngoại
tệ trước khi USD bị mất giá. Đồng thời, cầu về USD sẽ giảm xuống đến tận sau
khi sự giảm giá USD xảy ra. Kết quả là tỷ giá hối đoái sẽ giảm xuống.
Chẳng hạn như sự kiện ở Mỹ xảy ra vào tháng 9/2001 hay chiến tranh Iraq
tháng 3/2003 vừa qua đã làm khuynh đảo thị trường hối đoái thế giới, giá
USD đã giảm đáng kể
*Kỳ vọng và dòng vốn quốc tế:
Dòng vốn quốc tế di chuyển giữa nước này và nước khác không chỉ phụ thộc

vào lãi suất ( hay khác biệt lãi suất ) mà còn phụ thuộc vào kỳ vọng về tỷ giá
hối đoái trong tương lai.
Giả sử chúng ta xét việc đầu tư vào loại trái phiếu kỳ hạn 1 năm của chính
phủ Hoa Kỳ với lãi suất 3% và trái phiếu của chính phủ Việt Nam với lãi suất
8%.Cả 2 chính phủ được đánh giá là rất đáng tin cậy và không có vấn đề rủi
ro gì khác trong việc thanh toán khi đến hạn. Đây là loại trái phiếu được
thanh toán bằng chính tiền tệ của nước phát hành (a dollar-denominated
bond đối với Hoa Kỳ và a VND-denominated bond đối với Việt Nam). Sau 1
15


năm việc đầu tư vào trái phiếu của nước nào sẽ mang lại sinh lợi cao hơn?
Câu trả lời không chỉ phụ thuộc vào lãi suất của trái phiếu của nước nào mà
còn vào sự thay đổi của tỷ giá của USD và VND.
Giả sử tỷ giá hối đoái giữa VND và USD ở thời điểm đầu tư là 16000
VND=1USD. Hai trường hợp được xét đến đó là sau 1 năm: (1) VND giảm giá
10% so với USD (17600VND = 1USD); và (2) VND lên giá 10% so với USD
(14400 VND = 1 USD). Kết quả so sánh thông qua bảng tính sau đây:
Giá trị của 1USD hay 16000 VND đầu tư sau 1 năm:

Nếu đầu tư vào

VND lên giá

(USD lên giá)

(USD giảm giá)

17600 VND = 1 USD


14400 VND = 1USD

1,03 USD

1,03 USD

Giá trị tính theo
USD

trái phiếu Hoa
Kỳ

VND giảm giá 10%

1,03×17.600 = 18.128 1,03×14.400 = 14.832

Giá trị tính theo

VND

VND

VND
Nếu đầu tư vào Giá trị tính theo
trái phiếu Việt
Nam

VND
Giá trị tính theo


17.280 VND

17.280 VND

17.280/17.600 = 0,982 17.280/14.400 = 1,2
USD

USD

USD

Như vậy, nếu VND tăng giá so với USD thì trái phiếu Việt Nam sẽ có sinh lợi
cao hơn, trong khi VND giảm giá so với USD thì trái phiếu Hoa Kỳ là lựa chọn
tốt hơn theo tính toán đơn giản này. Tất nhiên, quyết định đầu tư vào trái
phiếu nước nào hay trái phiếu được gắn với đồng tiền nào phụ thuộc vào nhiều
yếu tố khác trong thực tế. Ví dụ bên trên cho chúng ta thấy rằng sự thay đổi
16


của tỷ giá hối đoái có tác động rất lớn đến sinh lợi và quyết định đầu tư và
chính vì thế dự báo về tỷ giá có vai trò quan trọng.
IV. SỰ CAN THIỆP CỦA CHÍNH PHỦ:
Trong chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý, vai trò can thiệp của Nhà nước
giữ vị trí quan trọng. Nhà nước can thiệp bằng công cụ của thị trường thông
qua Ngân hàng Nhà nước Trung ương chứ không phải bằng các công cụ hành
chính, tức là Ngân hàng Trung ương tham gia vào thị trường với tư cách là
người tham gia trên thị trường (người mua hoặc người bán) trong từng thời
điểm để tác động lên cung hoặc cầu ngoại hối, từ đó tác động lên tỷ giá hối
đoái phù hợp với chính sách tiền tệ của Nhà nước.
1/ Can thiệp trực tiếp:

Việc thực hiện một chế độ tỷ giá linh hoạt vừa phải có sự kiểm soát với ột mức
tỷ giá gọi là tỷ giá chính thcs được công bố bởi ngân hàng nhà nước, cùng với
một biên độ quy định cho các ức tỷ giá giao dịch trên thị trường so với tỷ giá
chính thức đòi hỏi chính ophur nói chung và ngân hàng nhà nước nói rieeg cần
phải có sự can thiệpđiều phối thị trường để duy trì biên độ quy định
*phương pháp 1:sử dụng dự trữ chính thức gây áp lực lên giá trị đồng tiền.
+khái niệm:Số dư tài khoản tiền gửi thanh toán của tổ chức tín dụng tại Ngân
hàng Nhà nước hàng ngày trong kỳ duy trì dự trữ bắt buộc có thể thấp hơn
hoặc cao hơn tiền dự trữ bắt buộc của kỳ đó.
+Mục đích: Hạn chế rủi ro thanh khoản cho các tổ chức tín dụng. Thực hiện
chính sách tiền tệ của NHTW.
+ Cơ chế vận hành: Điều chỉnh (tăng hoặc giảm) tỷ lệ dự trữ bắt buộc Điều
chỉnh (tăng hoặc giảm) lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc tại NHTW
+ Cơ chế tác động: Khi NHTW thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc =Số dư bình quân
17


tài khoản tiền gửi thanh toán của tổ chức tín dụng tại Ngân hàng Nhà nước
không thấp hơn tiền dự trữ bắt buộc trong kỳ. Dự trữ bắt buộc là số tiền mà
các NHTM phải duy trì trên tài khoản tiền gửi tại NHTW, được xác định bằng tỷ
lệ dự trữ bắt buộc là tỷ lệ % tính trên tổng số dư t iền gửi các loại mà các
NHTM phải dự trữ dưới dạng tiền mặt hoặc tiền gửi tại NHTW. Tỷ lệ dự trữ
bắt buộc được quy định khác nhau cho các thời hạn tiền gửi, quy mô và tính
chất hoạt động của NHTWđây là một trong những công cụ của NHTW nhằm
thực hiện chính sách tiền tệ bằng cách làm thay đổi số nhân tiền tệ.
+Nguyên tắc dự trữ bắt buộc: Các TCTD phải duy trì đầy đủ dự trữ bắt buộc tại
Ngân hàng Nhà nước trong kỳ duy trì dự trữ bắt buộc theo nguyên tắc sau:
thay đổi lượng dự trữ bắt buộc => tác động đến cung tiền và lãi suất: Tỷ lệ dự
trữ bắt buộc tăng sẽ làm giảm quy mô cho vay của NHTM, giảm quy mô tiền
gửi và cung tiền giảm. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng làm giảm hệ số nhân tiền,

giảm khả năng mở rộng tiền gửi của NH. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng làm tăng
cầu dự trữ của NHTM trên Interbank, với cung dự trữ không đổi sẽ làm tăng
lãi suất liên ngân hàng, tăng lãi suất trên thị trường và giảm khối lượng cung
tiền. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng làm tăng chi phí đầu vào của NHTM => Khi
thay đổi một tỷ lệ nhỏ trong dự trữ bắt buộc có thể gây nên sự thay đổi đáng kể
của số nhân tiền và kết quả, với sự khuyếch đại của cơ số tiền – do cơ số tiền là
rất lớn về giá trị tuyệt đối – sẽ gây nên sự thay đổi rất lớn trong cung tiền
• Do việc tính toán và trích lập dự trữ bắt buộc là khá phức tạp khi thực thi,
không thể thực hiện thường xuyên hàng ngày, do vậy, nếu liên tục thay đổi dự
trữ bắt buộc sẽ rất có thể gây nên tình trạng bất ổn định cho các ngân hàng và
làm khó khăn cho công tác quản trị thanh khoản của ngân hàng làm tăng chi
phí đầu vào cho ngân hàng do đó không thể tăng dự trữ bắt buộc lên quá cao vì
nó sẽ làm gia tăng gánh nặng chi phí cho ngân hàng và đẩy lãi suất cho vay lên
cao hơn nhiều.

• Dự trữ bắt buộc giống

như một hình thức thuế thu nhập vô hình đối với các ngân hàng vì các ngân
18


hàng phải giữ lại một phần tiền gửi không được sử dụng vào mục đích sinh lời
theo yêu cầu trong khi đó vẫn phải trả lãi tiền gửi cho khách hàng gửi tiền.
• Công cụ này tỏ ra thiếu tính linh hoạt, vì một sự thay đổi nhỏ trong tỷ lệ dự
trữ bắt buộc sẽ gây ra sự bất ổn đến hoạt động của các ngân hàng, đặc biệt là
những ngân hàng có dự trữ thứ cấp thấp.
Ưu điểm lớn nhất: Là công cụ mang tính chất đầy quyền lực vì nó mang nặng
tính chất hành chính và nó tác động như nhau đối với ngân hàng. Vì nó phản
ánh được tính chất 4 quyền lực của ngân hàng nhà nước, đảm bảo cho ngân
hàng nhà nước thực thi được các chính sách tiền tệ một cách công bằng, nhanh

và mạnh. Đặc biệt, nó có thể giúp tình trạng đôla hóa trong nền kinh tế giảm
thiểu, bởi người dân không còn cảm thấy quá hấp dẫn khi giữ ngoại tệ.
NHTW có thể sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc để tạo ra mối quan hệ phụ thuộc
về vốn giữa NHTW với các ngân hàng thương mại, từ đó tăng khả năng quản
lý, kiểm soát đối với hoạt động của ngân hàng thương mại. . NHTW có thể tác
động nhanh và mạnh đến lượng tiền cung ứng thông qua việc thay đổi tỷ lệ dự
trữ bắt buộc .Tôn trọng sự cạnh tranh giữa các ngân hàng vì nó được áp dụng
không phận biệt đối với các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng.
*Phương pháp 2: Tác động trực tiếp cung cầu: Cầu: Là khối lượng hàng hóa và
dịch vụ mà người tiêu dùng mua trong một thời kỳ tương ứng với giá cả, thu
nhập và các biến số kinh tế xác định. Người tiêu dùng ở đây bao gồm dân cư,
các doanh nghiệp nhà nước và cả người nước ngoài. Tiêu dùng bao gồm cả
tiêu dùng sản xuất và tiêu dùng cá nhân. Lượng cầu phụ thuộc vào các nhân tố
chủ yếu như: thu nhập, sức mua của tiền tệ, giá cả hàng hóa, lãi suất, thị hiếu
của người tiêu dùng... Trong các nhân tố đó, giá cả hàng hóa là nhân tố tác
động trực tiếp và tỷ lệ nghịch với lượng cầu. Cung: Là khối lượng hàng hóa
dịch vụ mà các chủ thể kinh tế đem bán ra trên thị trường trong một thời kỳ
nhất định, tương ứng với mức giá cả, khả năng sản xuất, chi phí xác định.
Những sản phẩm sản xuất để tự tiêu dùng hoặc không có khả năng đưa tới thị
19


trường hoặc không đảm bảo chất lượng, không được xã hội thừa nhận, thì
không được xem là cung. Lượng cung phụ thuộc vào khả năng sản xuất, vào số
lượng và chất lượng các nguồn lực, các yếu tố sản xuất. Giá cả của hàng hóa và
dịch vụ trên thị trường là yếu tố trực tiếp ảnh hưởng tới lượng cung về hàng
hóa và dịch vụ đó. Cung tỷ lệ thuận với giá cả.
Quan hệ cung - cầu: Mối quan hệ cung – cầu thường xuyên tác động lẫn nhau
trên thị trường và độc lập với ý chí con người. Cung và cầu quan hệ mật thiết
với nhau. Cầu xác định cung và ngược lại cung xác định cầu. Cầu xác định khối

lượng, cơ cấu của cung về hàng hóa: chỉ những hàng hóa nào tiêu thụ được
trên thị trường mới được tái sản xuất. Cung tác động đến cầu, kích thích cầu:
những hàng hóa nào được sản xuất phù hợp nhu cầu, sở thích, thị hiếu,... của
người tiêu dùng sẽ được ưa thích hơn, bán chạy hơn, làm cho nhu cầu về chúng
tăng lên..

Ví dụ: Tình hình cung - cầu - giá cả một số mặt hàng

thực phẩm trong thời gian dịch cúm diễn ra: Có thể nói dịch cúm gà trong thời
gian gần đây ở nước ta đã thực sự tác động mạnh mẽ lên quan hệ cung – cầu
và giá cả một số mặt hàng thực phẩm trên thị trường trong nước. Thị trường
trước thời gian dịch bùng phát: Xét một cách tổng thể thì trước thời gian dịch
bùng phát, thị trường các loại thực phẩm tương đối ổn định bởi như chúng ta
đã biết, ở nước ta trong cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước, giá cả
là một công cụ quan trọng để quản lý, kích thích, điều tiết các hoạt động kinh tế
theo định hướng mục tiêu. Sở dĩ như vậy vì giá cả có các chức năng quan trọng
là: dùng để tính toán đo lường chi phí lao động xã hội, duy trì những cân đối
của nền kinh tế, kích thích sản xuất và các hoạt động kinh tế... Tất nhiên, nhà
nước quản lý giá không phải bằng cách định giá trực tiếp (trừ mặt hàng nhà
nước độc quyền), mà quản lý giá gián tiếp qua các công cụ và pháp luật để tác
động vào tổng cung và tổng cầu, làm thay đổi giá cả theo định hướng tương
đối ổn định. Việc quản lý giá cả của nhà nước được thực hiện bằng cách: “Tăng
cường lực lượng dự trữ quốc gia, đổi mới cơ chế dự trữ lưu thông, cơ chế hình
20


thành và hoạt động của quỹ bình ổn giá, phương thức can thiệp để bình ổn giá
một số mặt hàng hết sức thiết yếu” (Đảng CSVN: Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ
VIII). Thị trường tại thời điểm dịch bắt đầu bùng phát: Bệnh cúm ở gà xuất
hiện lần đầu tiên ở nước ta là vào khoảng cuối tháng 9, đầu tháng 10 năm

2003 nhưng dịch cúm ở gà thực sự bắt đầu bùng phát là tại thời điểm trước
Tết Nguyên Đán năm 2004. Vì dịch cúm gà xảy ra hoàn toàn bất ngờ và không
lường được trước nên tại thời điểm dịch bắt đầu bùng phát, cung về các mặt
hàng thực phẩm khác vẫn không hề thay đổi. Tuy nhiên, do e ngại về dịch cúm
gà của người tiêu dùng nên cung về thực phẩm gà, mà chủ yếu là sản phẩm thịt
đã có sự thay đổi khá rõ rệt ngày 8/2/2004, hầu hết giá các loại thực phẩm thịt
và cá đều tăng ở mức 10-25. Nói chung, tất cả các loại rau củ đều tăng từ 5007.000 đồng. Mặc dù việc tăng giá của thực phẩm rau củ là do “dân buôn tự đẩy
giá” nhưng dù sao nguyên nhân chính vẫn là do dịch cúm gà gây ra. c. kết luận .
Qua phân tích đánh giá về các mặt hàng thực phẩm ở trên trong thời gian dịch
cúm xảy ra, một lần nữa thấy rõ quan hệ cung - cầu đã tác động một cách
mạnh mẽ đến giá cả. Để tồn tại và tái sản xuất sức lao động con người cần phải
có nhu cầu về thực phẩm, về ăn uống nên cho dù thực phẩm có tăng giá thì con
người vẫn phải tiêu dùng để đảm bảo sức khoẻ cho bản thân. Tóm lại, nếu xét
về thu nhập là ổn định thì sức mua một mặt hàng nào đó một là sẽ giảm đi thì
các nhu cầu khác của con người vẫn được đáp ứng, hai là nếu sức mua của nó
không giảm thì các nhu cầu về các mặt hàng khác sẽ bị cắt giảm hoặc thậm chí
không được đáp ứng, dẫn đến việc các mặt hàng đó sẽ ế ẩm và tồn đọng và kéo
theo đó sản xuất sẽ bị thu hẹp và ảnh hưởng đến đời sống công nhân. ở đây,
tiêu dùng về thực phẩm thực ra không đáng kể nhưng nếu xét đến những nhu
cầu khác, sự lên giá của giá cả của chúng nếu cứ kéo dài thì nhất định sẽ ảnh
hưởng rất nhiều đến nền Kinh tế và đời sống xã hội của nước đó.
2/ Can thiệp gián tiếp:

21


*Hàng rào thương mại:
+Gián tiếp thông qua các chính sách của Chính Phủ Ngân Hàng Trung Ương có
thể can thiệp trực tiếp đến giá của một đồng nội tệ bằng cách tác động đến yếu
tố ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái như lạm phát, lãi suất, kỳ vọng vào tủ giá

tương lai, thu nhập. Bằng công cụ lãi suất, chính phủ có thể hạ thấp lãi suất nội
tệ để làm nản lòng các nhà đầu tư vào chứng khoán trong nước và tạo áp lực
giảm giá đồng nội tệ.
Ví dụ: Khi hàng Việt Nam bị dư thừa và người dân lại có xu hướng mua hàng
nhập ngoại , Chính Phủ tăng mức thuế quan hoặc áp dụng hạn ngạch đối với
hàng nhập khẩu, làm cho giá hàng nhập khẩu tính bằng VND tăng lên, cầu
hàng hóa nhập khẩu giảm, cầu ngoại tệ giảm, tỷ giá hối đoái giảm. Do đó sẽ
làm giảm nhập khẩu hàng nước ngoài và người dân sẽ tăng nhu cầu mua hàng
nội địa.Ngân hàng trung ương có thể cố gắng hạ lãi thấp nội tệ để làm nản
nòng các nhà đầu tư nước ngoài trong việc đầu tư vào chứng khoán trong
nước, do đó tạo áp lực giảm giá đồng nội tệ.
+Gián tiếp thông qua hàng rào Chính Phủ thông qua biện pháp can thiệp này,
chính phủ cũng có thể tác động đến tỷ giá hối đoái bằng cách áp đặt các hàng
rào tài chính và mậu dịch quốc tế, Chính Phủ có thể tăng thuế nhập khẩu nhằm
làm giảm hoạt động nhập khẩu và nhu cầu đồng tiền ngoại tệ sẽ giảm theo.
Ví dụ: Khi chính phủ Mỹ muốn tăng giá đồng đô la, họ có thể đánh thuế trên
hàng nhập nhằm làm giảm nhập khẩu. Hành động này sẽ giảm nhu cầu của
Mỹ đối với các ngoại tệ và tạo một áp lực tăng giá đồng đô la.
*Đầu tư quốc tế:
+Hoạt động đầu tư quốc tế cũng liên quan đến việc chuyển đổi giá trị giữa các
đồng tiền nên nó cũng chịu ảnh hưởng của sự biến động của tỷ giá hối đoái.
22


+Khi tỷ giá hối đoái tăng lên ( đồng nội tệ giảm giá trị so với đồng ngoại tệ), nó
có thể tác động thu hút vốn đầu tư nước ngoài và hạn chế sự đầu tư ra nước
ngoài của các nhà đầu tư trong nước. Vì các nhà đầu tư nước ngoài với cùng
một lượng ngoại tệ sẽ đổi được nhiều nội tệ hơn để phục vụ cho hoạt động đầu
tư.
Ví dụ: Khi Việt Nam muốn thu hút vốn đầu tư nước ngoài để phát triển các khu

kinh tế, Chính phủ sẽ dùng các biện pháp làm giảm giá trị đồng nội tệ để các
nhà đầu tư nước ngoài dễ dàng đầu tư vào Việt Nam .
+Ngược lại khi tỷ giá hối đoái giảm xuống sẽ hạn chế thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài và thúc đẩy các nhà đầu tư trong nước đầu tư ra nước ngoài.
KẾT LUẬN
Quá trình quốc tế hoá và toàn cầu hoá kinh tế diễn ra sôi động với quy mô,
phạm vi và tốc độ...ngày càng lớn. Tính liên kết và phụ thuộc lẫn nhau giữa các
nền kinh tế trên toàn cầu ngày càng chặt chẽ. Do đó cân bằng ngoại tệ của nền
kinh tế, trạng thái cán cân thanh toán, mức tỷ giá là một trong những mục tiêu
ưu tiên của các chính sách kinh tế vĩ mô của một quốc gia. Tỷ giá hối đoái là
một trong những yếu tố quan trọng , đóng vai trò quyết định trong chính sách
kinh tế đối ngoại của mỗi quốc gia. Nó là công cụ để các nhà kinh tế và các
doanh nhân phân tích và xác định cho mình đối sách thích hợp trong buôn bán
quốc tế.
Việt Nam là nước có nền kinh tế mới chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung
chuyển sang kinh tế hàng hoá phát triển theo cơ chế thị trường không lâu nên
cần mở rộng kinh tế đối ngoại tăng thu hút đầu tư từ nước ngoài, tăng nguồn
thu ngoại tệ. Từ đó tạo nên khả năng dự trữ ngoại tệ cũng như mở rộng mua
bán ngoại tệ, hình thành giá cả của các đồng tiền.

23


Tuỳ điều kiện xuất phát và đặc điểm phát triển kinh tế của mỗi nước mà xác
định cho mình một chính sách tiền tệ khác nhau nhằm ổn định và nâng cao sức
mua của đồng tiền. Mỗi nước muốn ổn định đồng tiền thì không thể cùng một
lúc lưu hành nhiều đồng tiền của nước ngoài . Muốn vậy , phải hình thành một
thị trường có tổ chức , được kiểm soát và sử dụng như một công cụ của chính
sách tiền tệ. Đó là thị trường ngoại hối với công cụ tỷ giá hối đoái hình thành
nên giá cả của các đồng tiền so với nhau. Thông qua hoạt động của thị trường

hối đoái, Ngân hàng Trung ương thực hiện chính sách tiền tệ để đạt được mục
tiêu cuối cùng đó là ổn định giá trị đồng tiền, tăng trưởng kinh tế và tạo công
ăn việc làm.
- ĐÁNH GIÁ VỀ NHÓM THẢO LUẬN:
*Công việc của từng thành viên trong nhóm:
Phần công việc
Mức chênh lệch lạm phát giữa các
nước
Mức độ tăng hay giảm thu nhâp quốc
dân giữa các nước
Mức chênh lệch lãi suất giữa các
nước
Những kỳ vọng về tỷ giá hối đoái
Sự can thiệp của chính phủ

Thành viên thực hiện
Cao Thị Phương
Nghiêm Ngọc Yến và Nguyễn Thị
Thúy(1994)
Cao Thị Hoa và Lê Thị Thảo
Trần Thị Thu Hương
Nguyễn Thị Thúy (1995) và Hoàng
Hiệp

*Nhận xét chung của nhóm trưởng:
Do đa số các bạn trong nhóm đi học quốc phòng ở cơ sở 2 nên việc liên lạc
cũng như gặp mặt giữa các thành viên trong nhóm là rất ít. Việc hoàn thành
bài của mọi người cũng gặp các khó khăn như khó tìm kiếm tài liệu cũng như
không có máy tính, một số bạn còn bị ốm đau, bệnh tật trong quá trình đi học.
Tuy vậy, mọi người đã rất cố gắng hoàn thành phần công việc được giao

củamình.
Vì thời gian là không nhiều nên bài làm của nhóm còn sai sót. Mong cô góp
ý để bài của chúng em được hoàn thiện hơn, bổ sung kiến thức để chúng em
có thể ôn thi tốt hơn.

24


Trên đây là một số đánh giá, nhận xét của cá nhân em. Em thay mặt nhóm
cảm ơn cô đã giành thời gian đọc bài của nhóm .
Nhóm trưởng
Cao Thị Phương

25


×