Tải bản đầy đủ (.doc) (82 trang)

Sử dụng bọ rùa đỏ (Micraspis discolor Fabr.) và chế phẩm làm từ cây cúc (Bidens pilosa L.), lá cà chua (Lycopersicum esculentum Mill.) phòng trừ sâu hại sâu bọ hoa thập tự tại xã Kim Liên, huyện Nam Đàn năm 2013 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.23 MB, 82 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
--------------

NGUYỄN THỊ HUYỀN

SỬ DỤNG BỌ RÙA ĐỎ (Micraspis discolor Fabr.) VÀ
CHẾ PHẨM LÀM TỪ CÂY CÚC (Bidens pilosa L.),
LÁ CÀ CHUA (Lycopersicum esculentum Mill.) PHÒNG TRỪ
SÂU HẠI RAU HỌ HOA THẬP TỰ TẠI XÃ KIM LIÊN,
HUYỆN NAM ĐÀN NĂM 2013-2014

LUẬN VĂN THẠC SĨ NÔNG NGHIỆP

NGHỆ AN, 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
--------------

NGUYỄN THỊ HUYỀN

SỬ DỤNG BỌ RÙA ĐỎ (Micraspis discolor Fabr.) VÀ
CHẾ PHẨM LÀM TỪ CÂY CÚC (Bidens pilosa L.),
LÁ CÀ CHUA (Lycopersicum esculentum Mill.) PHÒNG TRỪ
SÂU HẠI RAU HỌ HOA THẬP TỰ TẠI XÃ KIM LIÊN,
HUYỆN NAM ĐÀN NĂM 2013-2014
LUẬN VĂN THẠC SĨ NÔNG NGHIỆP
Chuyên ngành: Khoa học cây trồng
Mã số:



60 62 01 10

Người hướng dẫn khoa học: TS Nguyễn Thị Thanh

NGHỆ AN, 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan công trình “Sử dụng bọ rùa đỏ (Micraspis discolor
Fabr.) và chế phẩm thảo mộc làm từ cây cúc (Bidens pilosa L.), lá cà chua
(Lycopersicum esculentum Mill.) phòng trừ sâu hại rau họ hoa thập tự tại xã
Kim Liên, huyện Nam Đàn năm 2013- 2014” là của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Tôi cũng xin cam đoan rằng, các thông tin trích dẫn trong
luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Nghệ An, ngày tháng 10 năm 2014
Tác giả

Nguyễn Thị Huyền


LỜI CẢM ƠN

Đề tài “Sử dụng bọ rùa đỏ (Micraspis discolor Fabr.) và chế phẩm
thảo mộc làm từ cây cúc (Bidens pilosaL.), lá cà chua (Lycopersicum
esculentum Mill.) phòng trừ sâu hại rau họ hoa thập tự tại xã Kim Liên,
huyện Nam Đàn năm 2013- 2014” được thực hiện từ tháng 09 năm 2012 đến
tháng 07 năm 2014. Trong suốt thời gian thực hiện đề tài tôi đã nhận được rất
nhiều sự giúp đỡ của các Thầy Cô giáo Khoa Nông Lâm Ngư, Trường Đại học

Vinh.
Trước tiên tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới Tiến sỹ
Nguyễn Thị Thanh, Cô giáo kính quý đã luôn tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi
trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới các Thầy Cô giáo Khoa Nông Lâm Ngư đặc
biệt là Bộ môn Bảo vệ thực vật và Trung tâm thực hành thí nghiệm đã tạo điều
kiện để tôi thực hiện đề tài này.
Tôi xin cảm ơn người dân ở xã Kim Liên, huyện Nam Đàn đã giúp đỡ tôi
trong quá trình thu thập mẫu vật thực hiện đề tài.
Cuối cùng, tôi vô cùng biết ơn gia đình, người thân, bạn bè đã động viên,
giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Nghệ An, ngày tháng 10 năm 2014
Tác giả

Nguyễn Thị Huyền


MỤC LỤC


CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ CÁI VIẾT TẮT
BVTV

Bảo vệ thực vật

HTT

Hoa thập tự

IPM


Quản lý dịch hại tổng hợp (Integrated Pest Management)

LSD0,05

Giá trị sai khác nhỏ nhất có ý nghĩa ở mức ý nghĩa 0,05

MĐPB

Mức độ phổ biến

PTN

Phòng thí nghiệm

SCL

Sâu cuốn lá

SĐT

Sâu đục than

SN

Sâu non

SXBT

Sâu xanh bướm trắng


TB

Trung bình


DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.1.Thành phần loài sâu hại trên sinh quần ruộng rau họ hoa thập tự ở Nam
Đàn năm 2013– 2014..........................................Error: Reference source not found
Bảng 3.2. Thành phần loài côn trùng bắt mồi trên sinh quần ruộng rau họ hoa
thập tự ở huyện Nam Đàn năm 2013 - 2014......Error: Reference source not found
Bảng 3.3. Hiệu lực phòng trừ rệp hại rau họ HTT của bọ rùa đỏ trong phòng thí
nghiệm.................................................................Error: Reference source not found
Bảng 3.4. Hiệu lực phòng trừ rệp hại rau họ HTT của bọ rùa đỏ ngoài đồng ruộng
với mật độ 4, 6, 8 con/m2....................................Error: Reference source not found
Bảng 3.5. Hiệu lực phòng trừ rệp hại rau họ HTT của bọ rùa đỏ mật độ 8 con/m2
ở giai đoạn cây rau 20-25 và 30-35 ngày sinh trưởng ngoài đồng ruộng......Error:
Reference source not found
Bảng 3.6. Hiệu lực phòng trừ SXBT của chế phẩm dạng dịch chiết nồng độ
0,6%; 0,8%; 1% và 1,2% sau 1,3,5,7 ngày phun.........Error: Reference source not
found
Bảng 3.7. Hiệu lực phòng trừ SXBT của chế phẩm dạng bột khô từ cây cúc (B.
pilosa) nồng độ 0,6%; 0,8%; 1,0% và 1,2%......Error: Reference source not found
Bảng 3.8. Hiệu lực phòng trừ sâu xanh bướm trắng hại rau họ HTT của chế phẩm
từ dịch cây và bột cây cúc 1,2% ở PTN.............Error: Reference source not found
Bảng 3.9. Hiệu lực phòng trừ sâu xanh bướm trắng hại rau họ HTT của chế phẩm
làm từ dịch cây cúc (B. pilosa) nồng độ 1,2% ở trong PTN.........Error: Reference
source not found
Bảng 3.10. Hiệu lực phòng trừ sâu xanh bướm trắng hại rau họ HTT của chế
phẩm làm từ dịch chiết cây cúc (B. pilosa)1,2% ở ngoài đồng ruộng...........Error:

Reference source not found
Bảng 3.11. Hiệu lực phòng trừ SXBT hại rau họ HTT của chế phẩm làm từ dịch
lá cây cà chua ở nồng độ 0,9%, 1,2%, 1,5% trong phòng thí nghiệm..........Error:
Reference source not found


Bảng 3.12. Hiệu lực phòng trừ sâu xanh bướm trắng hại rau họ HTT của chế
phẩm làm từ dịch lá cà chua 1,5 % ở trong phòng thí nghiệm.....Error: Reference
source not found
Bảng 3.13. Hiệu lực phòng trừ SXBT hại rau họ HTT của chế phẩm từ dịch Error:
Reference source not found
Bảng 3.14. Hiệu lực phòng trừ SXBT tuổi 1,2,3,4 hại rau họ HTT của chế phẩm
làm từ dịch lá cà chua 1,5% ngoài đồng ruộng..Error: Reference source not found
Bảng 3.15. Ảnh hưởng của chế phẩm làm từ dịch chiết cây cúc, lá cây cà chua
và thuốc hóa học tới bọ rùa đỏ...........................Error: Reference source not found
DANH MỤC HÌNH


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Rau là loại thực phẩm không thể thiếu được trong đời sống hằng ngày.
Cùng với thức ăn động vật, rau cung cấp những dinh dưỡng cần thiết cho sự tồn
tại và phát triển của con người. Tục ngữ có câu: “Cơm không rau như đau không
thuốc”. Rau cung cấp cho cơ thể những chất dinh dưỡng, đặc biệt là các vitamin,
các axít hữu cơ, chất khoáng,... Theo tính toán của nhiều nhà dinh dưỡng học,
muốn cơ thể hoạt động bình thường cần cung cấp 2300-2500 kcal mỗi ngày,
trong đó phải có 250-300 gam rau tương đương với 7,5-8 kg/tháng hay 90-108
kg/năm. Như vậy tổng nhu cầu rau của nước ta sẽ là 7.650 – 9.180 nghìn tấn,
tổng sản lượng rau các loại năm 2006 đạt 9.650 nghìn tấn.

Không như nhiều năm trước đây, các hộ dân sản xuất rau chỉ để cải thiện
bữa ăn cho gia đình, hay chỉ là tiêu thụ trong các chợ địa phương, hiện nay sau
nhiều năm thực hiện theo chủ trương chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp,
rau xanh được đưa vào sản xuất như một giống cây trồng có giá trị kinh tế cao,
thu được nhiều lợi nhuận, tăng thu nhập, tạo công ăn việc làm cho người dân,
góp phần làm thay đổi bộ mặt nông thôn vùng sản xuất rau.
Việt Nam là một nước nằm trong khu vực nhiệt đới ẩm, điều kiện rất thuận
lợi cho các loại rau quả phát triển. Vì thế rau quả Việt Nam là những loại rau
nhiệt đới, ngon, quý hiếm, đa dạng về chủng loại, được sản xuất và thu hoạch
quanh năm nên đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của người dân trong nước cũng
như trên thị trường thế giới. Diện tích trồng rau quả Việt Nam là 1.685.000 ha
trong đó rau 910.000 ha, quả 775.000 ha, sản lượng cả năm là 17.653.100
tấn.Trong đó, rau 10.969.300 tấn, quả 6.500.000 tấn (số liệu năm 2007 của Cục
trồng trọt Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn). Hàng năm Việt Nam xuất
khẩu khoảng 300 triệu USD rau qủa cho trên 30 thị trường Châu Á, Chấu Âu,
Bắc Mỹ.
Là một tỉnh Bắc Trung Bộ, khí hậu mang nặng tính chất nhiệt đới gió mùa,
diện tích đất đai rộng lớn và đội ngũ lao động nông thôn cần cù, nông dân tỉnh
Nghệ An đang tích cực sản xuất, đưa ra thị trường nhiều loại nông sản, rau màu,


2
đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, hứa hẹn một mùa rau dồi dào trong dịp Tết Nguyên
đán 2011. Mặc dù bị thiệt hại nhiều do đợt mưa lũ hồi tháng 10 nhưng nhờ sự hỗ
trợ từ Quỹ dự trữ quốc gia nên các huyện trong tỉnh có lượng rau giống khá dồi
dào. Hiện nông dân ở Nghệ An đã gieo trồng 10.250 ha rau màu các loại để cung
cấp cho thị trường Tết, tập trung chủ yếu ở các huyện Quỳnh Lưu, Nam Đàn,
Diễn Châu, Yên Thành, Thanh Chương, Quỳ Hợp với nhiều loại rau màu phong
phú như bắp cải, xà lách, diếp, củ cải, đậu, rau gia vị, bầu, bí, ớt, cà chua, dưa
hấu, hành, xu hào, khoai tây, khoai sọ, gừng,... Theo thông tin từ Sở Nông nghiệp

và phát triển nông thôn Nghệ An, mới đây Sở đã tiến hành kiểm tra, cấp chứng
chỉ cho một số vùng sản xuất rau an toàn đủ điều kiện ở TP Vinh, huyện Quỳnh
Lưu và huyện Nghi Lộc. Sở Nông nghiệp cũng đang tập trung chỉ đạo 3 vùng lớn
là Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Nam Đàn để sản xuất rau an toàn cho vụ Đông Xuân.
Nam Đàn là một huyện có diện tích trồng rau lớn của tỉnh, nghề trồng rau
cũng có từ lâu cho thu nhập khá đến thời điểm này. Ngoài việc khắc phục cơ bản
hoàn thành một số diện tích bị ảnh hưởng nặng từ trận lụt năm 2010, toàn huyện
đã khép kín gần 1.000ha rau màu hàng hoá, trong đó có 30% diện tích rau ngắn
ngày bước đầu đã cho thu nhập.
Như chúng ta đã biết, nhóm cây rau thuộc họ hoa thập tự là nhóm thực
phẩm có ý nghĩa quan trọng đối với con người và được trồng phổ biến khắp nơi
trên thế giới. Cùng với nhiều địa phương khác trong cả nước, huyện Nam Đàn,
tỉnh Nghệ An đang từng bước chuyển đổi cơ cấu cây trồng, trong đó chú trọng
đến phát triển cây rau theo hướng rau an toàn, rau sạch. Huyện Nam Đàn là một
trong ba địa phương phát triển vùng rau chuyên canh theo định hướng của tỉnh.
Về mặt dinh dưỡng, rau cung cấp cho cơ thể những chất quan trọng có tác
dụng điều hòa cân bằng kiềm tan trong máu làm tăng khả năng đồng hóa Protein.
Ngoài ra, chúng còn bổ sung lượng vitamin và các chất khoáng cần thiết giúp cơ
thể chống bệnh phù thũng, mỏi mệt khi làm việc, tăng sự dẻo dai cho hệ tuần
hoàn, hệ thần kinh. Hằng ngày, để đảm bảo năng lượng cần thiết thì một người
phải dùng từ 250 – 300 g (khoảng 7,5 - 9 kg rau cho 1 người/tháng).


3
Về mặt kinh tế, rau là loại cây trồng cho hiệu quả kinh tế cao, giá trị sản
xuất 1 ha rau cao gấp 2-3 lần trồng lúa và là loại hàng hóa có giá trị xuất khẩu
cao. Thời kỳ 1986-1990 nước ta xuất khẩu đạt 5,15 triệu USD. Năm 1997 kim
ngạch xuất khẩu rau quả của Việt Nam đạt 140 triệu USD tăng 170% so với năm
1986 và chiếm 1,6% tổng kim ngạch xuất khẩu trong cả nước. Đến năm 2006,
kim ngạch rau quả đã đạt 500 triệu USD tăng hơn 350% so với năm 1997 và

phấn đấu đạt 650 triệu USD vào năm 2010.
Về mặt xã hội, sản xuất rau góp phần tăng thu nhập cho người lao động,
giải quyết việc làm cho nông dân trong những lúc nông nhàn. Thậm chí ở một số
vùng trồng rau thâm canh, sản xuất rau đã trở thành thu nhập chính và là cơ hội
làm giàu cho người trồng rau.
Rau xanh gồm nhiều họ khác nhau trong đó rau họ Hoa thập tự
(Cruciferae) chiếm tới 50% sản lượng rau và xuất hiện quanh năm trên thị
trường. Tuy nhiên, trong điều kiện khí hậu nóng ẩm, nhóm rau thuộc họ hoa thập
tự với đặc điểm thân, lá mềm yếu và chứa nhiều chất dinh dưỡng luôn bị tác
động bởi nhiều yếu tố bất lợi khác nhau, trong đó tập đoàn sâu hại gây ảnh hưởng
nghiêm trọng đến năng suất cũng như phẩm chất rau.
Để phòng trừ sâu hại họ Hoa thập tự, cho đến nay người nông dân vẫn chủ
yếu dựa vào biện pháp hóa học là chính nhưng việc tuân thủ nguyên tắc 4 đúng
không được quan tâm (thời gian phun, chủng loại thuốc, số lần phun và nồng độ
sử dụng đều cao hơn nhiều so với khuyến cáo, thậm chí người nông dân còn trộn
một số loại thuốc với nhau) chính vì vậy đã xuất hiện nhiều sâu hại với tính
kháng thuốc cao như sâu tơ, sâu xanh,…làm giảm số lượng, chủng loại các loại
sinh vật có ích, gây mất cân bằng sinh thái, đồng thời tạo điều kiện cho các loại
sâu hại trước đây thứ yếu trở thành chủ yếu. Quan trọng hơn là chất lượng rau
đang bị đe dọa bởi dư lượng thuốc bảo vệ thực vật điều này có nghĩa rằng sức
khỏe con người bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Mặt khác, vấn đề đảm bảo vệ sinh
an toàn thực phẩm, đặc biệt đối với rau xanh đang trở thành một bài toán lớn cho
toàn xã hội. Chính vì vậy, các nhà khoa học bảo vệ thực vật đã và đang tập trung
nghiên cứu biện pháp sinh học, coi đây là biện pháp cốt lõi trong hệ thống quản
lý dịch hại tổng hợp.


4
Hiện nay, trong trồng rau, rệp xám (Brevicoryne brasiceae L.) và sâu xanh
bướm trắng (Peris rapae L.) là những loài sâu nguy hại đối với cây rau họ Hoa

thập tự. Chúng phá hại từ tháng 10 năm trước đến tháng 5 năm sau, gây hại
nặng nhất trong tháng 2 trên cây rau cải. Sử dụng chế phẩm thảo mộc và thiên
địch là biện pháp phòng trừ sâu hại an toàn và thân thiện với môi trường hiện
nay.
Các chế phẩm sinh học có nhiều ưu điểm như: không gây ảnh hưởng tới sức
khoẻ con người, vật nuôi, cây trồng và các sinh vật có ích khác. Các chế phẩm
hữu cơ phân huỷ nhanh trong đất nên không làm hại đến kết cấu đất và tính chất
đất mà còn góp phần tăng độ phì đất. Không gây ô nhiễm đến môi trường.
Xuất phát từ những lý do trên và góp phần nâng cao hiệu quả của biện pháp
sinh học trong sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất “rau an toàn” tại huyện
Nam Đàn nói riêng nhằm hướng tới mục tiêu xây dựng, phát triển nền nông nghiệp
hữu cơ bền vững, đồng thời, cung cấp đầy đủ số lượng cũng như chất lượng sản
phẩm rau cho người tiêu dùng, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài “Sử dụng
bọ rùa đỏ (Micraspis discolor Fabr.) và chế phẩm thảo mộc làm từ cây cúc
(Bidens pilosaL.), lá cà chua (Lycopersicum esculentum Mill.) phòng trừ sâu
hại rau họ hoa thập tự tại xã Kim Liên, huyện Nam Đàn năm 2013- 2014”.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Xác định được mật độ thích hợp của bọ rùa đỏ phòng trừ rệp hại rau họ
cải trong ô lưới ngoài đồng ruộng để khẳng định được vai trò tác dụng của chúng
đồng thời xác định được loại chế phẩm thảo mộc, nồng độ chế phẩm, tuổi sâu
phòng trừ để đạt được hiệu quả cao đóng góp thêm những dẫn liệu khoa học cho
biện pháp quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) trên rau họ hoa thập tự.
3. Yêu cầu của đề tài
- Điều tra, thu thập thành phần sâu hại rau họ hoa thập tự và côn trùng bắt
mồi ở xã Kim Liên, Huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An năm 2013 – 2014.
- Xác định được mật độ bọ rùa trưởng thành có khả năng khống chế sự
phát triển rệp hại rau họ cải.
- Nghiên cứu kỹ thuật tạo và sử dụng chế phẩm thảo mộc từ các bộ phận
khác nhau của cây cúc(Bidens pilosa L.), lá cây cà chua phòng trừ sâu xanh
bướm trong phòng thí nghiệm và ô lưới ngoài đồng ruộng.



5
CHƯƠNG I. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài
1.1.1. Biện pháp sinh học là cốt lõi của IPM VÀ IPM-B
Khái niệm IPM (Phòng trừ tổng hợp dịch hại cây trồng nông nghiệp) được
đưa ra từ những năm 1970 mà tiền thân là các biện pháp IPC (Phòng trừ dịch hại
một cách tổng hợp), PC (Phòng trừ dịch hại). Trên thế giới, biện pháp này đã
được đưa vào áp dụng từ rất lâu và mang lại hiệu quả to lớn về kinh tế cũng như
bảo đảm cho sức khỏe cho con người, vật nuôi và an toàn cho môi trường. Tại
Việt Nam, chỉ đến những năm đầu của thập kỷ 90 của thế kỷ XX mới được đưa
biện pháp IPM vào áp dụng trong điều kiện thực nghiệm. Biện pháp này đã được
chứng minh, sau khi áp dụng năng suất cây trồng không giảm, tiết kiệm chi phí,
tăng lợi nhuận, giảm rủi ro, người nông dân có thể đầu tư trở lại vào phân bón,
máy móc điều khiển nước tưới cho hoàn chỉnh. IPM được áp dụng trên nhiều đối
tượng cây trồng nhưng nhiều nhất vẫn là trên cây lúa và cây rau [24].
Phòng trừ tổng hợp dịch hại cây trồng nông nghiệp (IPM) là một hệ thống
điều khiển dịch hại bằng cách sử dụng tất cả những biện pháp thích hợp trên cơ
sở sinh thái hợp lý để giữ cho quần thể dịch hại phát triển dưới ngưỡng gây hại
kinh tế (EIL) (Hà Quang Hùng và Vũ Quang Côn, 1990) [8].
IPM là phương pháp dựa trên cơ sở sinh thái về mối quan hệ cây trồng và
dịch hại.Xác định ngưỡng chấp nhận kinh tế về quần thể gây hại và hệ thống
quan trắc ổn định để phát hiện dự tính dịch hại, đặc biệt tối ưu sử dụng biện pháp
phòng trừ sinh học [24].
Chiến lược phòng trừ dịch hại thông qua hệ thống trồng trọt (IPM-B) là tăng
cường cường đa dạng sinh học trong đất và trên đất canh tác và biện pháp sinh
học, bao gồm: tạo điều kiện cho đất có hoạt tính tốt về sinh học và dinh dưỡng,
tạo điều kiện thuận lợi cho sinh vật có lợi,...trong đó ưu tiên cho việc sử dụng các
chế phẩm sinh học.

Biện pháp sinh học là việc sử dụng những sinh vật sống hay các sản phẩm
hoạt động sống của chúng nhằm ngăn ngừa hoặc làm giảm bớt tác hại do sinh vật
gây ra” [24].


6
Vai trò của chế phẩm sinh học, trong đó có các chế phẩm thảo mộc, vi sinh
vật trong sản xuất nông nghiệp được thừa nhận có các ưu điểm đó là không gây
ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe con người, vật nuôi, cây trồng. Không gây ô
nhiễm môi trường sinh thái. Có tác dụng cân bằng hệ sinh thái (vi sinh vật, dinh
dưỡng,…) trong môi trường đất nói riêng và môi trường nói chung [5].
Chế phẩm sinh học “hợp lý” có tác dụng trừ sâu là những chất có nguồn gốc
tự nhiên (hoặc được tổng hợp bắt chước những chất có nguồn gốc tự nhiên) có
tác dụng hại hoặc làm chết những đối tượng gây hại như sâu, bệnh, cỏ dại và
những côn trùng có xương sống. Những chất này có phương thức tác động giống
nhau, không độc đối với người và gia súc, không hoặc ít ảnh hưởng tới môi
trường và cộng đồng [6].
Các chế phẩm sinh học trừ sâu được phân vào nhóm các hóa chất sinh học
(hormon, enzim, pheromon và các chất tự nhiên như chất điều tiết sinh trưởng
sâu) hoặc nhóm vi sinh vật (vi khuẩn, nấm, tuyến trùng hoặc động vật nguyên
sinh]. Từ năm 1990 trở đi, Tổ chức Bảo vệ Môi trường Mỹ đã bắt đầu sử dụng
khái niệm thuốc BVTV sinh học (biopesticide), bao gồm:
Thuốc BVTV vi sinh (microbial pesticides): Vi khuẩn, nấm, vi rút, động vật
nguyên sinh (đơn bào).
Các hợp chất hóa sinh (biochemicals): Những tự nhiên dùng để phòng trừ
côn trùng theo cơ chế không độc [6].
Thông qua các tài liệu nghiên cứu phân tích về cây cúc (Bidens pilosa) thì các
nhà khoa học đã tìm thấy các chất có hoạt tính kháng sinh, kháng khuẩn cao trong
các bộ phận thân, hoa, lá, rễ, của cây cúc (Bidens pilosa). Điều đó, đồng nghĩa với
việc các chế phẩm được nghiên cứu tạo ra từ cây cúc có khả năng phát huy tác dụng

trong công tác bảo vệ thực vật phòng trừ sâu hại cây trồng trên đồng ruộng. Bọ rùa
đỏ là một trong những loài rất phổ biến trên hệ sinh thái rau và có khả năng kìm hãm
sự phát triển của rệp hại rất lớn, giúp nông dân giảm thiểu việc sử dụng thuốc hóa
học phòng trừ sâu hại tạo ra nông sản hữu cơ an toàn.
1.1.2. Các loài sâu hại rau họ HTT


7
Sâu hại là một trở ngại lớn trong sản xuất trồng trọt, làm giảm sản lượng
và phẩm chất của nông sản. Theo số liệu của tổ chức nông nghiệp Liên hiệp
quốc, sâu hại đã phá hại 1/5 sản lượng ngũ cốc, 1/6 sản lượng khoai tây, 1/5 sản
lượng đậu đỗ và 1/2 sản lượng táo trên thế giới. Nếu tính cả thiệt hại trog kho
tàng thì hàng trăm sâu hại đã làm thiệt hại tới hàng trăm triệu tấn ngũ cốc. Với số
lương thực và thực phẩm mất mát kể trên có thể nuôi 400-500 triệu người trong
một năm [14].
Ở nước ta cũng như tỉnh Nghệ An nói chung, huyện Nam Đàn nói riêng,
sâu hại gây ra hậu quả rất lớn, theo ước tính của Bộ Nông nghiệp và phát triển
nông thôn thiệt hại hàng năm từ 15 -20% tổng sản lượng.
Sâu hại còn làm giảm phẩm chất của nông sản nói chung và các loại cây
rau nói riêng. Cây rau có thân mềm, yếu và thời gian sinh trưởng ngắn nên sâu
hại càng dễ dàng gây hại trên cây rau. Chúng còn kéo theo sự tích tụ một số chất
độc do sử dụng nhiều thuốc hóa học trừ sâu. Môi trường không khí, đất bị ô
nhiễm, chi phí sản xuất tăng do phải đầu tư nhiều lao động, tiền vốn và vật tư.Sâu
hại gây hại lớn như vậy nên trong sản xuất việc phòng trừ chúng có một ý nghĩa
vô cùng quan trọng.
1.1.3. Các loài thiên địch trên rau họ HTT
Ở nước ta nói chung, Nam Đàn nói riêng trong sản xuất nông nghiệp các
quá trình canh tác từ khi gieo trồng đến khi thu hoạch, việc gia tăng phân hóa
học, thuốc bảo vệ thực vật,… thường xuyên thay đổi đã và đang làm giảm sự đa
dạng sinh học dẫn đến mất cân bằng sinh học. Hệ quả, không những không tăng

năng suất, phẩm chất, nguy cơ sản phẩm không an toàn và ô nhiễm môi trường
trầm trọng hơn, ngoài ra còn làm biến động quần thể sinh vật, nhiều loài thiên
địch giảm số lượng nghiêm trọng, không thể khống chế, không thể khống chế
được dịch hại dẫn đến dịch hại bùng phát với số lượng quá mức, gây thiệt hại
ngày một lớn đối với cây trồng.
Để có được một nền sinh thái bền vững, hiệu quả và chất lượng, quản lý
dịch hại tổng hợp (IPM) trên cây trồng là một trong những phương hướng chiến
lược quan trọng đem lại hiệu quả kinh tế, ít ảnh hưởng đến môi trường và sức


8
khỏe con người. Trong IPM thì biện pháp sinh học được coi là một trong những
biện pháp cốt lõi. Đặc biệt vai trò ký sinh và bắt mồi được coi là những yếu tố
điều hòa số lượng sâu hại thường xuyên rất có hiệu quả và được sử dụng rộng rãi
trong đấu tranh sinh học với sâu hại. Vì vậy để thực hiện thành công biện pháp
sinh học trong IPM thì việc điều tra nghiên cứu đặc điểm sinh học, sinh thái và
sử dụng các loài thiên địch trên cây trồng là thực sự cần thiết góp phần tạo cơ sở
khoa học nhằm hạn chế sâu hại, duy trì tính đa dạng sinh học, cân bằng sinh thái
đáp ứng được nhu cầu thực tiễn của sản xuất.
1.1.4. Cơ chế tác động của thuốc thảo mộc lên sâu hại
Cơ chế tác động của thuốc thảo mộc lên sâu hại: Thuốc trừ sâu xâm nhập
vào cơ thể côn trùng qua vỏ cơ thể, qua miệng và qua đường hô hấp.
* Thuốc xâm nhập qua vỏ cơ thể côn trùng
Thuốc trừ sâu có đặc tính thẩm thấu qua vỏ cơ thể côn trùng gọi là thuốc trừ
sâu tiếp xúc (contact insecticide). Các loại thuốc trừ sâu tiếp xúc có khả năng hoà
tan trong lipit và lipoprotein và độ hoà tan này càng cao hiệu lực thuốc càng mạnh.
Cơ thể côn trùng có những chỗ là đoạn da mềm như các đoạn khớp đầu, ngực, bàn
chân, chân lông, râu, cơ quan cảm giác. Thuốc xâm nhập qua chỗ da mềm này và
qua các tuyến tiết dịch vào lớp hạ bì và màng đáy (hypodermis) rồi từ đó vào tế bào
thần kinh, tế bào máu được truyền đi khắp cơ thể thông qua hệ tuần hoàn.

Các chế phẩm chứa dung môi hữu cơ thẩm thấu qua lớp biểu bì mạnh hơn
các chế phẩm không chứa dung môi hữu cơ. Dung môi hữu cơ trong chế phẩm có
khả năng hoà tan chất béo, thấm ướt nhanh lớp biểu bì trên, hoạt chất trong chế
phẩm lại ở dạng hoà tan nên dễ tiếp xúc qua vật cản hơn. Do vậy thuốc trừ sâu
tiếp xúc ở dạng sữa hoặc dung dịch hiệu lực trừ sâu mạnh hơn ở các dạng khác.
* Thuốc xâm nhập qua đường tiêu hoá
Loại thuốc trừ sâu tác động qua đường tiêu hoá gọi là thuốc vị độc
(stomach insecticide). Qua miệng vào đường ruột cùng với thức ăn, thuốc được
hấp thu chủ yếu ở đoạn ruột giữa qua bao ruột peritrophit rồi khuyếch tán qua lớp
biểu bì ruột rồi vào tế bào thần kinh, máu được truyền đi khắp cơ thể. Một lượng


9
nhỏ thuốc cũng có thể thấm sâu qua thành ruột trước vào thành ruột sau và được
giữ lại ở đó, nhất là ở vùng tế bào tuyến rectum của ruột sau.
Quá trình đồng hoá và bài tiết thức ăn tiến triển càng chậm, chất độc lưu
lại trong ruột lâu, lượng chất độc xâm nhập vào cơ thể càng lớn, tuy nhiên một
phần chất độc bị phân giải do tác động của men tiêu hoá và độ pH của dịch ruột.
* Thuốc xâm nhập qua đường hô hấp
Những loại thuốc ngoài tác động qua đường tiếp xúc, vị độc còn gây hiệu
lực qua đường hô hấp do một phần thuốc biến thành thể khí gọi là thuốc có tác
dụng xông hơi (fumigant action). Chất độc xâm nhập qua lỗ thở cơ thể côn trùng
và từ đó qua hệ thống khí quản và vi khí quản vào tổ chức tế bào thông qua quá
trình thông hơi (chủ yếu ở khí quản) và khuyếch tán (ở vi khí quản). Thuốc xâm
nhập qua đường hô hấp gây độc nhanh và mạnh hơn so với xâm nhập qua đường
ruột và qua vỏ cơ thể côn trùng bởi thuốc tác động ngay tới tế bào thần kinh.
Cường độ hô hấp của côn trùng càng mạnh thuốc càng xâm nhập nhanh.
Hoạt động sống của côn trùng rất tinh vi, phức tạp và được tạo nên bởi sự
trao đổi chất và năng lượng dưới sự điều khiển của hệ thần kinh. Hệ thần kinh
điều hoà mọi hoạt động sống của cơ thể là cầu nối cơ quan cảm giác với các cơ

quan khác trong cơ thể cấu thành nên nên sự hoạt động nhịp nhàng trong hệ
thống sống. Một trong chuỗi hoạt động sống này bị tác động của chất độc, thế
cân bằng trong hệ bị phá vỡ, hoạt động sống bị ngừng trệ và cơ thể côn trùng bị
tử vong (Hà Quang Hùng, 1990) [8].
1.1.5. Đặc điểm của bọ rùa đỏ (Micraspis discolor Fabr.)
Bọ rùa đỏ Micraspis discolor là loài côn trùng biến thái hoàn toàn qua 4
pha phát dục: trứng, ấu trùng, nhộng và trưởng thành.
* Tập tính sống và quần tụ
Bọ rùa đỏ là loài có mặt trên rất nhiều cây trồng khác nhau. Thành phần
thức ăn của chúng cũng rất phong phú. Theo kết quả nghiên cứu điều tra ngoài tự
nhiên của một số tác giả (Hoàng Đức Nhuận, 1982; Phạm Văn Lầm, 2002) thì ở
Việt Nam có 19 loài côn trùng là thức ăn của bọ rùa đỏ (dẫn theo Phạm Quỳnh


10
Mai, 2010) [14], ngoài ra khi số lượng côn trùng thức ăn của bọ rùa chưa xuất
hiện thì chúng cư ngụ trên các cây thuộc họ hòa thảo và sử dụng phấn hoa của
các cây này làm thức ăn. Chúng tăng số lượng cá thể lên khi mật độ thức ăn rệp
phát triển mạnh. Khi nguồn thức ăn cạn kiệt hay môi trường sống thay đổi chúng
di chuyển đến những bụi rậm, cỏ lồng vực nơi có thức ăn để trú ngụ. Các pha
phát dục có tập tính sống khác nhau.
Bọ rùa trưởng thành sống từng cá thể riêng lẻ, lúc thời điểm cặp đôi chúng
tập trung thành từng nhóm tìm bạn để cặp đôi, sau khi cặp đôi con cái đẻ trứng
thành từng ổ tập trung, sau khi trứng nở ấu trùng tuổi 1, 2 sống tập trung và di
chuyển xung quanh ổ trứng, sang tuổi 3, 4 phân tán hoạt động rộng hơn và sống
tự do trên sinh quần đồng ruộng, đến khi tuổi 4 đạt kích thước tối đa chúng
ngừng ăn chuyển sang giai đoạn tiền nhộng và hóa nhộng sang trưởng thành
ngay trên nơi chúng cư ngụ.
* Tập tính ăn mồi của bọ rùa đỏ Micraspis discolor
Theo dõi hàng trăm cá thể Micraspis discolor trưởng thành cũng như ở

các tuổi của bọ rùa, kết quả cho thấy: khả năng săn mồi và sức ăn mồi càng
nhanh nhạy và mạnh tăng dần theo độ tuổi của ấu trùng. Bọ rùa non ở tuổi 1 sống
tập trung ít hoạt động nên khả năng ăn mồi rất thấp chủ yếu là vỏ trứng đã nở và
rệp con nhưng không đáng kể, sang tuổi 2 bắt đầu bắt đầu di chuyển đi săn mồi
ban đầu là những con mồi nhỏ trung bình 1-3 con mồi/ngày. Số lượng con mồi bị
ăn thịt/ ngày tăng dần đến tuổi 4 trung bình tiêu diệt 5-7 con mồi/ngày và sang
tuổi trưởng thành khả năng hoạt động rộng nhờ đôi cánh, sức ăn cũng mạnh nhất,
trung bình một cá thể trưởng thành tiêu diệt 10-12 con mồi/ngày.
Khi số lượng vật mồi giảm dần một số cá thể Micraspis discolor có xu
hướng cạnh tranh con mồi. Trong quá trình săn mồi và ăn mồi những tác động
xung quanh cũng có thể ảnh hưởng đến Micraspis discolor, chúng thả con mồi ra
và tản đi nơi khác. Sau khi ăn mồi chúng bỏ xác con mồi lại (phần đầu của rệp)
và di chuyển đi chỗ khác, nếu chưa no thì tiếp tục lựa chọn con mồi khác.


11
Quá trình ăn mồi diễn ra như sau: Bọ rùa đỏ Micraspis discolor xác định
được con mồi ưa thích, chúng bay sà đúng vị trí con mồi và dùng hai chân trước
giữ chặt con mồi rồi bắt đầu ăn thịt bằng cách cắn vào con mồi theo các vị trí
khác nhau trên cơ thể con mồi có thể cắn từ phần bụng, phần ngực hoặc phần
đầu. Đặc điểm giống nhau khi săn mồi giữa các tuổi là chúng chọn con mồi và
tấn công ngay chứ không vờn con mồi.
Vị trí trên cơ thể rệp bị bọ rùa cắn nhiều nhất là phần bụng, rồi đến phần
đầu, và phần ngực. Khi bị bọ rùa cắn, rệp bị giữ chặt bởi 2 chân trước của bọ rùa
nên không thể thoát ra được. Micraspis discolor thường chỉ ăn phần bụng bỏ dở
phần đầu rồi đi tìm con mồi khác nhưng cũng có khi ăn hết con này nếu chưa no
mới tìm con mồi khác.
1.1.6. Đặc điểm của cây cúc (Bidens pilosa L.)
Bidens pilosa vừa là một loài cỏ dại trong một số môi trường sống nhiệt
đới, vừa là một loại thảo dược. Cây này có nguồn gốc từ vùng nhiệt đới và Trung

Mỹ. Khả năng thích ứng tốt, sức sinh sản cao và phát triển rất nhanh, mạnh trong
tự nhiên. Bidens pilosa là một loại thảo dược hàng năm, cây cao từ 0,3 – 0,4m.
Lá hình trứng, có 5-9 thùy lá dài 3-20 cm và rộng 2,5-12 cm. Phân đoạn lá hình
trứng đến hình mũi mác, có răng như răng cưa. Thân cây màu đỏ tía, 4 góc cạnh,
đơn giản hoặc phân nhánh. Hoa hình chùy, tràng hoa dài 7-15 mm có màu vàng,
màu trắng hoặc hơi hồng, đĩa hoa với 3,5 - 5 mm dài (Pier, 2007) (dẫn theo
Dương Hoa Xô, 2007) [24].
Bidens pilosa được sử dụng như là một cây thuốc ở khu vực Châu Phi,
Châu Á và Châu Mỹ. Rễ, lá và hạt của loài cây này có khả năng kháng khuẩn,
chống viêm, chống sốt rét, lợi tiểu và chữa hạ huyết áp. Tại Châu Phi,
Bidenspilosa được sử dụng để điều trị đau đầu, nhiễm trùng tai, tiêu chảy, một số
bệnh liên quan đến thận, sốt rét, vàng da, kiết lỵ, bỏng, viêm khớp, viêm loét. Nó
cũng được sử dụng như một thuốc gây mê, đông máu và điều trị dễ dàng sinh con
(Mvere, 2004) (dẫn theo Dương Hoa Xô, 2007) [24].


12
Nghiên cứu thành phần hoá học của dịch chiết từ cây Bidens pilosa người
ta đã xác định được cấu trúc các chất như sau:

Isoflavan

Flavanonol

2-phenyl-1,4
benzopyrone

Neoflavonoids

Sitosterol


Okanin
Hình 1.1. Cấu tạo hoá học của các hoạt chất trong cây cúc (Bidens pilosa)

1.1.7. Đặc điểm của cây cà chua (Lycopersicum esculentum)
Cây cà chua là loài cây thảo sống theo mùa, thân cây tròn, phân nhiều
cành. Rễ chùm, ăn sâu và phân nhánh mạnh, khả năng phát triển rễ phụ rất lớn.
Trong điều kiện tối ưu những giống tăng trưởng mạnh có rễ ăn sâu 1 - 1,5m và
rộng 1,5 - 2,5m vì vậy cà chua chịu hạn tốt. Bộ rễ ăn sâu, cạn, mạnh hay yếu đều
có liên quan đến mức độ phân cành và phát triển của bộ phận trên mặt đất, do đó
khi trồng cà chua tỉa cành, bấm ngọn, bộ rễ thường ăn nông và hẹp hơn so với
điều kiện trồng tự nhiên. Thân tròn, thẳng đứng, mọng nước, phủ nhiều lông, khi
cây lớn gốc thân dần dần hóa gỗ. Thân mang lá và phát hoa. Ở nách lá là chồi
nách. Chồi nách ở các vị trí khác nhau có tốc độ sinh trưởng và phát dục khác
nhau, thường chồi nách ở ngay dưới chùm hoa thứ nhất có khả năng tăng trưởng
mạnh và phát dục sớm so với các chồi nách gần gốc. Lá thuộc lá kép lông chim
lẻ, mỗi lá có 3 - 4 đôi lá chét, ngọn lá có 1 lá riêng gọi là lá đỉnh. Rìa lá chét đều
có răng cưa nông hay sâu tùy giống. Phiến lá thường phủ lông tơ. Đặc tính lá của
giống thường thể hiện đầy đủ sau khi cây có chùm hoa đầu tiên. Cây cà chua là


13
cây chịu ấm, một trong những điều kiện cơ bản để có được sản lượng cao và sớm
ở cà chua là tạo chế độ nhiệt độ tối ưu cho cây 21-24 oC, nếu nhiệt độ đêm thấp
hơn ngày 4-5oC thì cây cho nhiều hoa. Các thời kỳ sinh trưởng và phát triển khác
nhau của cây đòi hỏi nhiệt độ không khí và đất nhất định. Ngoài ra, nó còn là cây
ưa sáng, không nên gieo cây con ở nơi bóng râm, cường độ tối thiểu để cây tăng
trưởng là 2.000 - 3.000 lux, không chịu ảnh hưởng quang kỳ. Ở cường độ ánh
sáng thấp hơn hô hấp gia tăng trong khi quang hợp bị hạn chế, sự tiêu phí chất
dinh dưỡng bởi hô hấp cao hơn lượng vật chất tạo ra được bởi quang hợp, do đó

cây sinh trưởng kém. Trong lá cà chua đã xác định được có thành phần hóa học
tomatin - một hoạt chất kháng sinh, kháng khuẩn cao được thể hiện qua công
thức cấu tạo:

Hình 1.2. Cấu tạo hoá học Tomatin trong lá cây cà chua L. esculentum
1.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài
Trồng rau ở Việt Nam là nguồn thu nhập quan trọng của nông dân, ước
tính chiếm khoảng 9% trong tổng số thu nhập từ nông nghiệp bao gồm cả trồng
lúa. Có thể nâng cao tiềm năng thu nhập cho người trồng rau thông qua việc phát
huy tối đa khả năng tăng năng suất và chất lượng của sản phẩm rau do họ làm ra.
Tuy nhiên, còn nhiều mặt tồn tại trong ngành sản xuất rau ở Việt Nam dẫn đến
hạn chế việc mở rộng và phát triển ngành trồng rau cũng như tăng thu nhập cho
nông dân. Đặc biệt là dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, nitơrat và các dư chất độc
hại khác trong sản phẩm còn cao. Nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng có tới 22% rau
được tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay có thể chưa an toàn do dư lượng của thuốc


14
bảo vệ thực vật, nhiễm kim loại nặng và Nitrosamin còn ở mức cao (theo báo
Sức khỏe và đời sống, số 204, tháng 12/2002). Ở Hà Nội có đến 9% các mẫu rau
kiểm tra vượt quá dư lượng thuốc bảo vệ thực vật cho phép và 7% có dư lượng
của danh mục thuốc bảo vệ thực vật bị cấm sử dụng (Moustier, Bridger et al.
2002; Anh, Ali et al. 2004). Tại Nghệ An có trên 30% mẫu rau kiểm tra có dư
lượng thuốc trừ sâu, trong đó, vượt ngưỡng cho phép trên 15% (P.V.Chương,
2008) [3]. Ngoài dư lượng thuốc bảo vệ thực vật thì hàm lượng nitơrat trong sản
phẩm rau quả nhìn chung cao hơn giới hạn cho phép, điều này là do nông dân sử
dụng quá nhiều lượng phân đạm [2].
Cho dù sử dụng quá nhiều thuốc bảo vệ thực vật, nhưng phần lớn năng
suất cây trồng đã bị giảm do sâu bệnh, cụ thể với rau ăn lá giảm 25%, rau họ bầu
bí giảm 23%, rau cải là 32%. Ngoài vấn đề dư lượng thuốc bảo vệ thực vật thì

ẩm độ tương đối của không khí ở nhiều vùng trồng rau luôn cao (trên 75%) đã
dẫn đến việc sử dụng thuốc trừ bệnh trên lá và thuốc diệt nấm tăng cao [2].
Theo kết quả nghiên cứu, những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sức ép về
vệ sinh an toàn thực phẩm là do sử dụng bừa bãi các loại hóa chất trong sản
phẩm rau quả tươi sống, côn trùng thiên địch bị tiêu diệt, hiện tượng nhờn thuốc
của một số loại sâu hại đã gây thành dịch hại ở nhiều vùng trồng rau, giống
không có khả năng kháng bệnh [3].
Bên cạnh những thực trạng đó, xã hội ngày càng phát triển, đời sống con
người ngày càng tăng, nhu cầu về lương thực, thực phẩm an toàn là vấn đề quan
tâm cấp thiết và nỗi lo của toàn xã hội hiện nay. Trong tất cả các khâu để sản xuất
lương thực thực phẩm an toàn thì phòng trừ sâu, bệnh hại bằng biện pháp sinh
học là khâu quan trọng cho năng suất và chất lượng lương thực, thực phẩm an
toàn. Phòng trừ sâu hại bằng biện pháp quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) trong đó
việc sử dụng thiên địch nhằm hạn chế tối đa việc sử dụng thuốc hóa học rất có ý
nghĩa và cần được quan tâm.


15
1.3. Tổng quan nghiên cứu thành phần côn trùng bắt mồi trên sinh quần
ruộng rau họ hoa thập tự (HTT)
1.3.1.Thành phần côn trùng bắt mồi trên sinh quần ruộng rau họ HTT trên thế
giới
Nhiều nhà khoa học trên thế giới đã quan tâm nghiên cứu về thiên địch của
sâu hại rau họ HTT và nhận xét rằng đây là nhóm khá phong phú bao gồm các
loài côn trùng bắt mồi, ký sinh, nấm, vi khuẩn, virut. Việc xác định thành phần
thiên địch, đánh giá vai trò của chúng tạo cơ sở cho biện pháp sử dụng thiên địch
trong quản lý dịch hại tổng hợp sâu hại rau. Ở mỗi quốc gia, mỗi vùng sinh thái,
thành phần các loài sâu hại khác nhau dẫn đến thành phần thiên địch cũng khác
nhau. Đến nay đã có rất nhiều loài thiên địch của sâu hại rau họ HTT được phát
hiện với số loài, thành phần loài khác nhau ở mỗi quốc gia.

Ở Nhật Bản đã phát hiện có ít nhất 14 loài côn trùng bắt mồi sâu hại rau (7
loài nhện và 7 loài côn trùng), 8 loài ong ký sinh và 1 loài vi sinh vật gây bệnh
(Yamada and Yamaguchi, 1985) [48].
Vào những năm 1978 – 1980 ở Trung Quốc đã điều tra và xác định được
thành phần thiên địch của sâu hại rau có 17 loài nhện, côn trùng bắt mồi và ký
sinh. Trong hai năm 1983 - 1984, ở Wuchang, Hubei (Trung Quốc) đã thu thập
được 50 loài thiên địch trên rau cải trong số đó có 35 loài côn trùng bắt mồi ăn
thịt và 15 loài ký sinh (Zong et al., 1986) [49]. Nghiên cứu thành phần thiên địch
của sâu xanh bướm trắng (Pieris rapae) ở Trung Quốc đã xác định được 53 loài
bao gồm 34 loài côn trùng bắt mồi và 19 loài ong ký sinh, trong số đó có 4 loài
có vai trò quan trọng trong điều hòa số lượng quần thể sâu xanh bướm trắng.
Thiên địch của sâu tơ có 23 loài, thiên địch của rệp hại rau cải có 7 loài (Wang
and Liu, 1995) [47].
Thành phần thiên địch của sâu hại rau họ HTT ở Carolina (Hoa Kỳ) cũng
đã được quan tâm nghiên cứu, kết quả đã xác định được 24 loài thiên địch trong
đó có 23 loài bắt mồi và chỉ có 1 loài ký sinh [31]. Ở Jamaica đến năm 1990 đã
ghi nhận 20 loài thiên địch của sâu hại rau thập tự, trong đó có 8 loài côn trùng


16
bắt mồi, 5 loài ong ký sinh bậc 1, 4 loài ký sinh bậc 2 và 3 loài vi sinh vật gây
bệnh cho sâu hại (Alam, 1992) [27].
Ở Bangladesh đã thu thập được 6 loài côn trùng bắt mồi và 5 loài côn trùng
ký sinh trên sâu hại rau họ HTT, trong số đó có 1 loài ký sinh bậc 2 (Ali, Karim,
1995) [29].
Trong thời gian 1993 – 1995, nghiên cứu ở Ấn Độ đã khẳng định các loài
ruồi ăn rệp (Episyrphus balteatus, Metasyrphus confrater, Ischiodon scutellaris),
các loài bọ rùa (Coccinella transversalis, C. septempunctata, Menochilus
sexmaculatus) và ong ký sinh có mối quan hệ chặt chẽ với vật mồi là rệp cải (B.
brassicae) (Devi et al., 1999) [30].

Các kết quả nghiên cứu cho thấy thành phần côn trùng bắt mồi của sâu hại
rau họ HTT rất phong phú, tuy nhiên việc nghiên cứu và đánh giá vai trò của các
loài côn trùng bắt mồi còn ít và tản mạn.
1.3.2. Thành phần côn trùng bắt mồi trên sinh quần ruộng rau họ HTT ở
Việt Nam
Ở Việt Nam cho đến nay đã một số dẫn liệu công bố về thành phần thiên
địch sâu hại rau họ HTT. Hà Quang Hùng và Vũ Quang Côn (1990) [8] đã ghi
nhận 14 loài côn trùng bắt mồi thuộc bộ cánh cứng và bộ hai cánh, 3 loài ong ký
sinh là thiên địch của sâu hại rau vùng Hà Nội.
Nguyễn Viết Tùng (1992) [23] đã ghi nhận thành phần bọ rùa ăn rệp trên
cây rau và một số loại cây trồng khác ở đồng bằng sông Hồng có 13 loài trong số
đó 5 loài phổ biến là bọ rùa đỏ, bọ rùa 10 chấm đen, bọ rùa 6 vệt đen, bọ rùa mỏ
neo và bọ rùa 2 mảng đỏ.
Nguyễn Công Thuật (1996) [21] đã thống kê thiên địch thường thấy trên
sâu hại rau bắp cải có 31 loài, trong đó có 21 loài côn trùng và nhện lớn bắt mồi,
6 loài côn trùng ký sinh và 4 loài vi sinh vật gây bệnh. Kết quả điều tra ở vùng
rau ngoại thành Hà Nội đã thu thập được 56 loài thiên địch trên rau họ HTT,
trong đó đã xác định được tên khoa học cho 48 loài gồm 24 loài bắt mồi, 11 loài
ký sinh sâu hại, 8 loài ký sinh bậc 2 và 5 loài ký sinh trên các côn trùng bắt mồi
(Phạm Văn Lầm, 1999) [10].


17
Theo Lê Văn Trịnh (1999) [22] trên cây rau họ HTT ở vùng đồng bằng
Sông Hồng có 20 loài thiên địch của sâu hại gồm 13 loài côn trùng và nhện bắt
mồi, 3 loài ong ký sinh và 4 tác nhân gây bệnh.
Thiên địch của rệp muội được biết đến rất đa dạng, một số loài phổ biến như
Coccinella transversalis Fabr., Cryptogonus orbiculus Gyllen, Harmona
octomaculata Fabr., Micraspis discolor Fabr., Propylea japonica Thumb., Scymnus
hoffanni Weiseva, Diplazon sp., Ischiodon scutellaris Fabr. trong đó Coccinella

transversalis và Ischiodon scutellaris đóng vai trò quan trọng trong hạn chế rệp
Aphiscraccivora Koch (Phạm Văn Lầm, 2008 [12]).
Trong thời gian từ 1995 - 2002 đã xác định đươc 45 loài kẻ thù tự nhiên
của sâu hại rau thập tự ở khu vực ngoại thành Hà Nội và phụ cận gồm 21 họ
thuộc 5 bộ côn trùng và 1 bộ nhện (Lê Thị Kim Oanh, 2002) [16].
Hồ Thị Thu Giang (2002) [6] đã xác định được 77 loài thiên địch trên sinh
quần rau thập tự, trong đó có 60 loài bắt mồi (48 loài côn trùng, 12 loài nhện lớn)
và 17 loài ký sinh. Côn trùng bắt mồi khá đa dạng thuộc nhiều bộ khác nhau, bộ
Cánh cứng có 36 loài, thuộc 4 họ, họ bọ chân chạy có 19 loài, họ bọ rùa 11 loài,
họ bọ cánh cộc 4 loài. Bộ Hai cánh có 3 loài thuộc họ Syrphidae, bộ Cánh khác
có 4 loài thuộc 2 họ, tần suất bắt gặp nhóm này trên đồng ruộng rất thấp. Bộ
Cánh da có 2 loài, bộ Bọ ngựa, bộ Chuồn chuồn mỗi bộ chỉ có 1 loài với tần
suất bắt gặp thấp.
Ở Nghệ An cho đến nay mới chỉ có một công trình nghiên cứu về đa dạng
loài côn trùng và nhện bắt mồi trên lúa. Kết quả đã xác định được thành phần
cánh cứng bắt mồi có 38 loài, bọ xít bắt mồi có 15 loài, nhện bắt mồi có 11 loài
(Trần Ngọc Lân, 2000) [13].
Các kết quả nghiên cứu cho thấy thành phần côn trùng bắt mồi của sâu hại
rau họ HTT rất phong phú, tuy nhiên việc nghiên cứu và đánh giá vai trò của các
loài côn trùng bắt mồi còn ít và tản mạn. Ở Việt Nam, các nghiên cứu hầu như tập
trung về thành phần loài, mô tả một số đặc điểm sinh học, sinh thái của chúng ở
khu vực phía Bắc và phía Nam. Ở các tỉnh thuộc Miền Trung, mà đặc biệt là Nghệ


×