Tải bản đầy đủ (.doc) (103 trang)

Thành phần sâu hại và thiên địch trên cây lạc; đặc điểm sinh học, sinh thái và biện pháp phòng trừ sâu cuốn lá đầu đen (Archips asiaticus Walsinhham) hại lạc vụ xuân 2014 ở hu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (10.24 MB, 103 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
--------------

PHẠM THỊ LOAN

THÀNH PHẦN SÂU HẠI VÀ THIÊN ĐỊCH TRÊN
CÂY LẠC; ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC, SINH THÁI VÀ
BIỆN PHÁP PHÒNG TRỪ SÂU CUỐN LÁ ĐẦU ĐEN
(Archips asiaticus Walsinhham) HẠI LẠC VỤ XUÂN
2014 Ở HUYỆN NGHI LỘC, TỈNH NGHỆ AN

LUẬN VĂN THẠC SĨ NÔNG NGHIỆP


2

NGHỆ AN, 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
--------------

PHẠM THỊ LOAN

THÀNH PHẦN SÂU HẠI VÀ THIÊN ĐỊCH TRÊN
CÂY LẠC; ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC, SINH THÁI VÀ
BIỆN PHÁP PHÒNG TRỪ SÂU CUỐN LÁ ĐẦU ĐEN
(Archips asiaticus Walsinhham) HẠI LẠC VỤ XUÂN
2014 Ở HUYỆN NGHI LỘC, TỈNH NGHỆ AN



LUẬN VĂN THẠC SĨ NÔNG NGHIỆP

Chuyên ngành: Khoa học cây trồng
Mã số:
60 62 01 10

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Trương Xuân Lam

NGHỆ AN, 2014


i

LỜI CAM ĐOAN

Đề tài “ Thành phần sâu hại và thiên địch trên cây lạc; đặc điểm sinh học,
sinh thái và biện pháp phòng trừ sâu cuốn lá đầu đen (Archips asiaticus
Walsinhham) hại lạc vụ xuân 2014 ở huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An” được thực
hiện từ tháng 01 năm 2014 đến tháng 09 năm 2014 là sản phẩm của quá trình lao
động khoa học không mệt mỏi của tôi. Tôi xin cam đoan đây là công trình do tôi
thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS. TS. Trương Xuân Lam. Những kết
quả đạt được đảm bảo tính chính xác và trung thực về khoa học.
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Nghệ An, ngày 20 tháng 09 năm 2014
Học viên

Phạm Thị Loan



ii

LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình thực hiện đề tài, tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ
của các nhà khoa học, thầy cô giáo khoa Nông Lâm Ngư, chính quyền các xã nơi
điều tra, nghiên cứu, gia đình và bạn bè.
Nhân dịp này cho phép tôi bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới PGS.
TS. Trương Xuân Lam đã mang lại cho tôi niềm đam mê khoa học. Đồng thời đã
tận tình hướng dẫn và chỉ bảo tôi trong quá trình thực hiện đề tài này.
Tôi xin chân thành cảm ơn tập thể cán bộ khoa Nông Lâm Ngư, Trung tâm
thực hành thí nghiệm trường Đại Học Vinh đã tạo điều kiện giúp đỡ về thời gian
cũng như cơ sở vật chất, thiết bị thí nghiệm cho tôi hoàn thành tốt đề tài.
Xin cảm ơn chính quyền địa phương các xã của huyện Nghi Lộc đã tạo điều
kiện cho tôi trong quá trình điều tra thu thập vật mẫu.
Xin chân thành cảm ơn gia đình và đồng nghiệp đã động viên, giúp đỡ tôi
hoàn thành khóa luận này.
Nghệ An, ngày 20 tháng 09 năm 2014
Học viên

Phạm Thị Loan


iii

MỤC LỤC
Trang

3.3.1. Diễn biến mật độ sâu cuốn lá đầu đen (Archips asiaticus W.) trên
lạc L14 ở các chân đất trồng khác nhau, vụ Xuân 2014 tại huyện
Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An.....................................................................

3.3.2. Diễn biến mật độ sâu cuốn lá lạc đầu đen (Archips asiaticus W.)
trên lạc L14 vụ Xuân sớm và Xuân chính vụ năm 2014 tại huyện
Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An.....................................................................
3.3.3. Diễn biến mật độ sâu cuốn lá đầu đen (Archips asiaticus W.) trên
các giống lạc khác nhau, vụ Xuân năm 2014 tại huyện Nghi Lộc,
tỉnh Nghệ An......................................................................................
48
Hình 3.3. Diễn biến mật độ sâu cuốn lá đầu đen (Archips asiaticus W.)
trên các giống lạc khác nhau, vụ Xuân năm 2014 tại huyện Nghi
Lộc, tỉnh Nghệ An..............................................................................
Kết quả Bảng 3.7 cho thấy: cả ba giống sâu cuốn lá đầu đen đều xuất
hiện khi cây lạc bắt đầu phân cành với mật độ tương ứng trên
các giống L14 (2,8 con/m2), Sen lai (3,6 con/m2) và L26 (3,4
con/m2). Nhìn chung, trên đồng ruộng có 2 lứa sâu chính phá
hại, một lứa gây hại khi lạc có 5 lá và phân cành, tuy nhiên mật
độ sâu lứa này không cao; lứa thứ 2 gây hại mạnh nhất vào lúc
lạc ra hoa rộ - đâm tia hình thành quả, đây là lứa gây hại chính
và đạt đỉnh cao mật độ tương ứng trên giống L14 (14,2 con/m2),
Sen lai (14,8 con/m2) và L26 (15,4 con/m2). Sau đó chúng
chuyển sang phá hại trên các ruộng lạc trồng muộn. Trên 3
giống lạc có sự khác nhau về mật độ trung bình, giống L26 có
mật độ sâu cuốn lá đầu đen cao nhất (5,48 con/m2), tiếp đến là


iv

giống Sen lai (4,92 con/m2) và giống L14 có mật độ sâu cuốn lá
thấp nhất (4,55 con/m2).....................................................................
3.3.4. Diễn biến mật độ sâu cuốn lá đầu đen (Archips asiaticus ) trên lạc
L14 trồng thuần và trồng xen ngô, vụ Xuân năm 2014 tại huyện

Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An.....................................................................
Kết quả Bảng 3.8 và Hình 3.4 cho thấy: ở giai đoạn đầu từ khi mọc đến
khi lạc phân cành, diễn biến mật độ của sâu cuốn lá đầu đen trên
các công thức trồng thuần, trồng xen đều thấp. Trên ruộng lạc
trồng thuần mật độ sâu cuốn lá đầu đen cao nhất 14,2 con/m2
vào giai đoạn cây lạc bắt đầu hình thành quả. Trong khi đó
ruộng trồng xen ngô mật độ cao nhất đạt 12,0 con/m2 cũng ở
giai đoạn cây lạc bắt đầu hình thành quả. Mật độ sâu cuốn lá đầu
đen trung bình ở ruộng lạc trồng thuần (4,55 con/m2) cũng cao
hơn ở công thức trồng xen ngô (3,09 con/m2)...................................
Như vậy đối với sâu cuốn lá đầu đen nói riêng và các loài sâu hại lạc nói
chung nên trồng xen lạc với cây trồng khác họ để hạn chế sự gia
tăng mật độ của chúng; hơn nữa xen canh còn làm tăng sự đa
dạng thực vật trên đồng ruộng, từ đó làm phong phú thêm sinh
quần đồng ruộng, tạo điều kiện thuận lợi cho kẻ thù tự nhiên
phát triển và tăng tính ổn định của cân bằng sinh học.......................
3.3.5. Mối quan hệ giữa mật độ sâu cuốn lá đầu đen (Archips asiaticus
W.) với một số loài côn trùng ký sinh, bắt mồi phổ biến trên lạc
trồng vụ Xuân năm 2014 tại huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An............
Cây trồng – sâu cuốn lá – côn trùng ký sinh, bắt mồi là những mắt xích
không thể thiếu được trong mạng lưới dinh dưỡng. Sự cân bằng
sinh học trên đồng ruộng được bảo vệ, tồn tại và phát triển là
nhờ sự đóng góp tích cực giữa mối quan hệ cây trồng – sâu cuốn
lá – côn trùng ký sinh, bắt mồi...........................................................


v

Từ lâu sự cân bằng động trong tự nhiên đã được thiết lập đảm bảo cho sự
tồn tại và phát triển của các loài sinh vật, song sự cân bằng này

đã dần bị phá hủy bởi những tác động tiêu cực của con người,
chỉ vì lợi ích kinh tế, như việc lạm dụng thuốc trừ sâu hóa học
đã phá vỡ sự cân bằng tự nhiên vốn có, gây ra các hậu quả to lớn
như việc kháng thuốc của các loại sâu hại, việc xuất hiện và lây
lan dịch hại..., không những thế còn ảnh hưởng nghiêm trọng
đến hệ sinh thái đồng ruộng khi tác động mạnh đến thành phần,
kết cấu đất, nước................................................................................
Sự cân bằng trên sinh quần có thể được khôi phục lại khi mà con người
biết tác động vào đó một cách hợp lý phù hợp với các quy luật
tự nhiên, đảm bảo các mối quan hệ sinh thái trong sinh quần
ruộng lạc.............................................................................................
Để làm được việc đó trước hết chúng tôi tiến hành nghiên cứu Mối quan
hệ giữa mật độ sâu cuốn lá đầu đen (Archips asiaticus W.) với
một số loài côn trùng ký sinh, bắt mồi phổ biến trên lạc. Để từ
đó có các biện pháp tác động có ích cho sinh quần ruộng lạc phù
hợp với các quy luật tự nhiên, tìm ra các tác động thích hợp hạn
chế được sự phá hoại của sâu hại, tăng năng suất cây trồng và
bảo vệ môi trường sinh thái một cách có hiệu quả............................
Chính vì vậy muốn sử dụng các loài thiên địch nói chung và các loài ong
ký sinh nói riêng trong việc hạn chế số lượng sâu hại thì việc
nghiên cứu mối quan hệ giữa mật độ sâu hại – thiên địch là điều
quan trọng và là điều đầu tiên cần chú ý đến, bởi từ đó có thể
biết được diễn biến của sâu hại trên đồng ruộng, đồng thời biết
được các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát sinh phát triển của các
loài thiên địch để tạo điều kiện cho các nghiên cứu sâu hơn về
việc nhân nuôi và lây thả các loài thiên địch trong tự nhiên..............


vi



vii

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT

BVTV

Bảo vệ thực vật

CT

Công thức

Ctv

Cộng tác viên

ICRISAT

Viện nghiên cứu cây có dầu quốc tế Ấn Độ

IPM

Quản lý dịch hại tổng hợp (Integrated Pest Management)


viii

DANH MỤC CÁC BẢNG SỐ LIỆU
Trang


3.3.1. Diễn biến mật độ sâu cuốn lá đầu đen (Archips asiaticus W.) trên
lạc L14 ở các chân đất trồng khác nhau, vụ Xuân 2014 tại huyện
Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An.....................................................................
3.3.2. Diễn biến mật độ sâu cuốn lá lạc đầu đen (Archips asiaticus W.)
trên lạc L14 vụ Xuân sớm và Xuân chính vụ năm 2014 tại huyện
Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An.....................................................................
3.3.3. Diễn biến mật độ sâu cuốn lá đầu đen (Archips asiaticus W.) trên
các giống lạc khác nhau, vụ Xuân năm 2014 tại huyện Nghi Lộc,
tỉnh Nghệ An......................................................................................
48
Hình 3.3. Diễn biến mật độ sâu cuốn lá đầu đen (Archips asiaticus W.)
trên các giống lạc khác nhau, vụ Xuân năm 2014 tại huyện Nghi
Lộc, tỉnh Nghệ An..............................................................................
Kết quả Bảng 3.7 cho thấy: cả ba giống sâu cuốn lá đầu đen đều xuất
hiện khi cây lạc bắt đầu phân cành với mật độ tương ứng trên
các giống L14 (2,8 con/m2), Sen lai (3,6 con/m2) và L26 (3,4
con/m2). Nhìn chung, trên đồng ruộng có 2 lứa sâu chính phá
hại, một lứa gây hại khi lạc có 5 lá và phân cành, tuy nhiên mật
độ sâu lứa này không cao; lứa thứ 2 gây hại mạnh nhất vào lúc
lạc ra hoa rộ - đâm tia hình thành quả, đây là lứa gây hại chính
và đạt đỉnh cao mật độ tương ứng trên giống L14 (14,2 con/m2),
Sen lai (14,8 con/m2) và L26 (15,4 con/m2). Sau đó chúng
chuyển sang phá hại trên các ruộng lạc trồng muộn. Trên 3
giống lạc có sự khác nhau về mật độ trung bình, giống L26 có
mật độ sâu cuốn lá đầu đen cao nhất (5,48 con/m2), tiếp đến là


ix


giống Sen lai (4,92 con/m2) và giống L14 có mật độ sâu cuốn lá
thấp nhất (4,55 con/m2).....................................................................
3.3.4. Diễn biến mật độ sâu cuốn lá đầu đen (Archips asiaticus ) trên lạc
L14 trồng thuần và trồng xen ngô, vụ Xuân năm 2014 tại huyện
Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An.....................................................................
Kết quả Bảng 3.8 và Hình 3.4 cho thấy: ở giai đoạn đầu từ khi mọc đến
khi lạc phân cành, diễn biến mật độ của sâu cuốn lá đầu đen trên
các công thức trồng thuần, trồng xen đều thấp. Trên ruộng lạc
trồng thuần mật độ sâu cuốn lá đầu đen cao nhất 14,2 con/m2
vào giai đoạn cây lạc bắt đầu hình thành quả. Trong khi đó
ruộng trồng xen ngô mật độ cao nhất đạt 12,0 con/m2 cũng ở
giai đoạn cây lạc bắt đầu hình thành quả. Mật độ sâu cuốn lá đầu
đen trung bình ở ruộng lạc trồng thuần (4,55 con/m2) cũng cao
hơn ở công thức trồng xen ngô (3,09 con/m2)...................................
Như vậy đối với sâu cuốn lá đầu đen nói riêng và các loài sâu hại lạc nói
chung nên trồng xen lạc với cây trồng khác họ để hạn chế sự gia
tăng mật độ của chúng; hơn nữa xen canh còn làm tăng sự đa
dạng thực vật trên đồng ruộng, từ đó làm phong phú thêm sinh
quần đồng ruộng, tạo điều kiện thuận lợi cho kẻ thù tự nhiên
phát triển và tăng tính ổn định của cân bằng sinh học.......................
3.3.5. Mối quan hệ giữa mật độ sâu cuốn lá đầu đen (Archips asiaticus
W.) với một số loài côn trùng ký sinh, bắt mồi phổ biến trên lạc
trồng vụ Xuân năm 2014 tại huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An............
Cây trồng – sâu cuốn lá – côn trùng ký sinh, bắt mồi là những mắt xích
không thể thiếu được trong mạng lưới dinh dưỡng. Sự cân bằng
sinh học trên đồng ruộng được bảo vệ, tồn tại và phát triển là
nhờ sự đóng góp tích cực giữa mối quan hệ cây trồng – sâu cuốn
lá – côn trùng ký sinh, bắt mồi...........................................................



x

Từ lâu sự cân bằng động trong tự nhiên đã được thiết lập đảm bảo cho sự
tồn tại và phát triển của các loài sinh vật, song sự cân bằng này
đã dần bị phá hủy bởi những tác động tiêu cực của con người,
chỉ vì lợi ích kinh tế, như việc lạm dụng thuốc trừ sâu hóa học
đã phá vỡ sự cân bằng tự nhiên vốn có, gây ra các hậu quả to lớn
như việc kháng thuốc của các loại sâu hại, việc xuất hiện và lây
lan dịch hại..., không những thế còn ảnh hưởng nghiêm trọng
đến hệ sinh thái đồng ruộng khi tác động mạnh đến thành phần,
kết cấu đất, nước................................................................................
Sự cân bằng trên sinh quần có thể được khôi phục lại khi mà con người
biết tác động vào đó một cách hợp lý phù hợp với các quy luật
tự nhiên, đảm bảo các mối quan hệ sinh thái trong sinh quần
ruộng lạc.............................................................................................
Để làm được việc đó trước hết chúng tôi tiến hành nghiên cứu Mối quan
hệ giữa mật độ sâu cuốn lá đầu đen (Archips asiaticus W.) với
một số loài côn trùng ký sinh, bắt mồi phổ biến trên lạc. Để từ
đó có các biện pháp tác động có ích cho sinh quần ruộng lạc phù
hợp với các quy luật tự nhiên, tìm ra các tác động thích hợp hạn
chế được sự phá hoại của sâu hại, tăng năng suất cây trồng và
bảo vệ môi trường sinh thái một cách có hiệu quả............................
Chính vì vậy muốn sử dụng các loài thiên địch nói chung và các loài ong
ký sinh nói riêng trong việc hạn chế số lượng sâu hại thì việc
nghiên cứu mối quan hệ giữa mật độ sâu hại – thiên địch là điều
quan trọng và là điều đầu tiên cần chú ý đến, bởi từ đó có thể
biết được diễn biến của sâu hại trên đồng ruộng, đồng thời biết
được các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát sinh phát triển của các
loài thiên địch để tạo điều kiện cho các nghiên cứu sâu hơn về
việc nhân nuôi và lây thả các loài thiên địch trong tự nhiên..............



xi

DANH MỤC CÁC HÌNH
Trang

3.3.1. Diễn biến mật độ sâu cuốn lá đầu đen (Archips asiaticus W.) trên
lạc L14 ở các chân đất trồng khác nhau, vụ Xuân 2014 tại huyện
Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An.....................................................................
3.3.2. Diễn biến mật độ sâu cuốn lá lạc đầu đen (Archips asiaticus W.)
trên lạc L14 vụ Xuân sớm và Xuân chính vụ năm 2014 tại huyện
Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An.....................................................................
3.3.3. Diễn biến mật độ sâu cuốn lá đầu đen (Archips asiaticus W.) trên
các giống lạc khác nhau, vụ Xuân năm 2014 tại huyện Nghi Lộc,
tỉnh Nghệ An......................................................................................
48
Hình 3.3. Diễn biến mật độ sâu cuốn lá đầu đen (Archips asiaticus W.)
trên các giống lạc khác nhau, vụ Xuân năm 2014 tại huyện Nghi
Lộc, tỉnh Nghệ An..............................................................................
Kết quả Bảng 3.7 cho thấy: cả ba giống sâu cuốn lá đầu đen đều xuất
hiện khi cây lạc bắt đầu phân cành với mật độ tương ứng trên
các giống L14 (2,8 con/m2), Sen lai (3,6 con/m2) và L26 (3,4
con/m2). Nhìn chung, trên đồng ruộng có 2 lứa sâu chính phá
hại, một lứa gây hại khi lạc có 5 lá và phân cành, tuy nhiên mật
độ sâu lứa này không cao; lứa thứ 2 gây hại mạnh nhất vào lúc
lạc ra hoa rộ - đâm tia hình thành quả, đây là lứa gây hại chính
và đạt đỉnh cao mật độ tương ứng trên giống L14 (14,2 con/m2),
Sen lai (14,8 con/m2) và L26 (15,4 con/m2). Sau đó chúng
chuyển sang phá hại trên các ruộng lạc trồng muộn. Trên 3

giống lạc có sự khác nhau về mật độ trung bình, giống L26 có


xii

mật độ sâu cuốn lá đầu đen cao nhất (5,48 con/m2), tiếp đến là
giống Sen lai (4,92 con/m2) và giống L14 có mật độ sâu cuốn lá
thấp nhất (4,55 con/m2).....................................................................
3.3.4. Diễn biến mật độ sâu cuốn lá đầu đen (Archips asiaticus ) trên lạc
L14 trồng thuần và trồng xen ngô, vụ Xuân năm 2014 tại huyện
Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An.....................................................................
Kết quả Bảng 3.8 và Hình 3.4 cho thấy: ở giai đoạn đầu từ khi mọc đến
khi lạc phân cành, diễn biến mật độ của sâu cuốn lá đầu đen trên
các công thức trồng thuần, trồng xen đều thấp. Trên ruộng lạc
trồng thuần mật độ sâu cuốn lá đầu đen cao nhất 14,2 con/m2
vào giai đoạn cây lạc bắt đầu hình thành quả. Trong khi đó
ruộng trồng xen ngô mật độ cao nhất đạt 12,0 con/m2 cũng ở
giai đoạn cây lạc bắt đầu hình thành quả. Mật độ sâu cuốn lá đầu
đen trung bình ở ruộng lạc trồng thuần (4,55 con/m2) cũng cao
hơn ở công thức trồng xen ngô (3,09 con/m2)...................................
Như vậy đối với sâu cuốn lá đầu đen nói riêng và các loài sâu hại lạc nói
chung nên trồng xen lạc với cây trồng khác họ để hạn chế sự gia
tăng mật độ của chúng; hơn nữa xen canh còn làm tăng sự đa
dạng thực vật trên đồng ruộng, từ đó làm phong phú thêm sinh
quần đồng ruộng, tạo điều kiện thuận lợi cho kẻ thù tự nhiên
phát triển và tăng tính ổn định của cân bằng sinh học.......................
3.3.5. Mối quan hệ giữa mật độ sâu cuốn lá đầu đen (Archips asiaticus
W.) với một số loài côn trùng ký sinh, bắt mồi phổ biến trên lạc
trồng vụ Xuân năm 2014 tại huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An............
Cây trồng – sâu cuốn lá – côn trùng ký sinh, bắt mồi là những mắt xích

không thể thiếu được trong mạng lưới dinh dưỡng. Sự cân bằng
sinh học trên đồng ruộng được bảo vệ, tồn tại và phát triển là


xiii

nhờ sự đóng góp tích cực giữa mối quan hệ cây trồng – sâu cuốn
lá – côn trùng ký sinh, bắt mồi...........................................................
Từ lâu sự cân bằng động trong tự nhiên đã được thiết lập đảm bảo cho sự
tồn tại và phát triển của các loài sinh vật, song sự cân bằng này
đã dần bị phá hủy bởi những tác động tiêu cực của con người,
chỉ vì lợi ích kinh tế, như việc lạm dụng thuốc trừ sâu hóa học
đã phá vỡ sự cân bằng tự nhiên vốn có, gây ra các hậu quả to lớn
như việc kháng thuốc của các loại sâu hại, việc xuất hiện và lây
lan dịch hại..., không những thế còn ảnh hưởng nghiêm trọng
đến hệ sinh thái đồng ruộng khi tác động mạnh đến thành phần,
kết cấu đất, nước................................................................................
Sự cân bằng trên sinh quần có thể được khôi phục lại khi mà con người
biết tác động vào đó một cách hợp lý phù hợp với các quy luật
tự nhiên, đảm bảo các mối quan hệ sinh thái trong sinh quần
ruộng lạc.............................................................................................
Để làm được việc đó trước hết chúng tôi tiến hành nghiên cứu Mối quan
hệ giữa mật độ sâu cuốn lá đầu đen (Archips asiaticus W.) với
một số loài côn trùng ký sinh, bắt mồi phổ biến trên lạc. Để từ
đó có các biện pháp tác động có ích cho sinh quần ruộng lạc phù
hợp với các quy luật tự nhiên, tìm ra các tác động thích hợp hạn
chế được sự phá hoại của sâu hại, tăng năng suất cây trồng và
bảo vệ môi trường sinh thái một cách có hiệu quả............................
Chính vì vậy muốn sử dụng các loài thiên địch nói chung và các loài ong
ký sinh nói riêng trong việc hạn chế số lượng sâu hại thì việc

nghiên cứu mối quan hệ giữa mật độ sâu hại – thiên địch là điều
quan trọng và là điều đầu tiên cần chú ý đến, bởi từ đó có thể
biết được diễn biến của sâu hại trên đồng ruộng, đồng thời biết
được các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát sinh phát triển của các


xiv

loài thiên địch để tạo điều kiện cho các nghiên cứu sâu hơn về
việc nhân nuôi và lây thả các loài thiên địch trong tự nhiên..............


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cây lạc (Arachis hypogaea L.) là cây công nghiệp ngắn ngày có nguồn gốc từ
Nam Mỹ. Lạc là cây đứng thứ 2 trong tổng số các loại cây lấy dầu thực vật, nó chỉ
đứng sau cây đậu tương, là cây có giá trị kinh tế cao đã và đang được nhiều nước
trên thế giới quan tâm [30] .
Cây lạc có giá trị dinh dưỡng cao, là nguồn lipit và protein quan trọng đối với
con người. Thân lá lạc còn là nguồn cung cấp thức ăn cho gia súc; tỷ lệ các chất
đường, đạm trong thân lá khá cao, đặc biệt trong khô dầu lạc có chứa tới 50%
protein có thể cung cấp đầy đủ thức ăn cho gia súc. Dầu lạc cũng được dùng trong
nhiều ngành công nghiệp. Trong số các cây trồng hằng năm thì lạc có khối lượng
xuất khẩu đứng thứ 2 sau cây lúa [33].
Tuy nhiên năng suất và sản lượng lạc ở nước ta nói chung còn chưa ổn định do
ảnh hưởng của các yếu tố ngoại cảnh, sâu bệnh, các biện pháp kỹ thuật, giống ...,
trong đó sâu hại cũng là 1 trong những nguyên nhân rất quan trọng. Cho đến thời
điểm từ năm 2005 đến 2007 năng suất lạc của nước ta mới chỉ dừng lại ở mức trung

bình (1,77 tấn – 1,80 tấn/ha); trong khi đó năng suất lạc của Trung Quốc đạt từ 3,04
– 3,21 tấn ha, của Mỹ từ 3,21 – 3,51 tấn/ha, Ixrael 6,7 tấn/ha [32]. Bởi thế, việc đẩy
năng suất lạc ở nước ta lên ngang tầm với các nước nói trên đang là một thách thức
lớn đối với các nhà khoa học.
Theo thống kê của FAO thì Việt Nam là một trong mười quốc gia đứng hàng
đầu thế giới về sản xuất lạc, sản lượng lạc đạt 533,8 nghìn tấn [52]. Hiện nay khu
vực Bắc Trung Bộ là nơi có diện tích lạc lớn nhất cả nước (107,2 nghìn ha), tiếp đến
là khu vực trung du miền núi phía Bắc (50,8 nghìn ha) và đồng bằng sông Hồng
(34,5 nghìn ha).
Nghệ An được coi là vùng trồng lạc có truyền thống lâu đời, là tỉnh có diện
tích gieo trồng lạc lớn nhất cả nước (24,1 nghìn ha và sản lượng là 48,5 nghìn tấn)
chủ yếu tập trung tại một số huyện ven biển như Nghi Lộc (4300 ha), Diễn Châu
( 3800 ha), và chủ yếu sản xuất trong vụ xuân [3].


2

Nghi Lộc là 1 trong những huyện có diện tích lớn, phẩm chất lạc tốt, năng suất
cao 20 – 22 tạ/ha và đạt tỷ lệ xuất khẩu 60 - 70 %, song năng suất lạc thường không
ổn định qua các năm, một trong những nguyên nhân chủ yếu là do sâu bệnh phá hại.
Ở các vùng trồng Lạc thuộc Huyện Nghi Lộc thì xu hướng chính trong phòng trừ
sâu hại lạc là quản lý tổng hợp dịch hại trên cây lạc, trong đó việc lợi dụng, duy trì
các loài thiên địch của sâu hại lạc, nhằm giảm thiểu thấp nhất việc sử dụng thuốc
hóa học trên cánh đồng lạc đang được ưu tiên, quan tâm và ứng dụng rộng rãi. Tuy
nhiên việc điều tra các loài thiên địch sâu hại lạc ở Nghi Lộc vẫn chưa được tiến
hành một cách có hệ thống. Hơn nữa, để phát triển biện pháp sinh học trong phòng
chống sâu hại lạc ngoài việc xác định thành phần sâu hại lạc thì cần phải quan tâm
tới thành phần thiên địch của chúng, đặc biệt là những nghiên cứu sinh học, sinh
thái các loài sâu hại chính và tập hợp các loài côn trùng ký sinh và bắt mồi của
chúng trên lạc.

Vì vậy, xuất phát từ tình hình thực tế của sản xuất, góp phần tìm hiểu tác hại
của sâu hại lạc, từ đó đề xuất biện pháp phòng chống để nâng cao năng suất và
phẩm chất lạc ở Nghệ An nói chung và Nghi Lộc nói riêng, chúng tôi tiến hành
nghiên cứu đề tài: “Thành phần sâu hại và thiên địch trên cây lạc; đặc điểm
sinh học, sinh thái và biện pháp phòng trừ sâu cuốn lá đầu đen (Archips
asiaticus Walsinhham) hại lạc vụ xuân 2014 ở huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An”.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở xác định được thành phần sâu hại lạc và thiên địch của chúng, một
số đặc điểm sinh học, sinh thái của sâu cuốn lá đầu đen (Archips asiaticus
Walsinhham) từ đó đề xuất biện pháp phòng trừ sâu cuốn lá hại lạc một cách hợp lý
để tăng năng suất cây lạc, giảm thiểu việc sử dụng thuốc hóa học trên cánh đồng ở
huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An.
3. Đối tượng, phạm vi và nội dung nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
- Các loài sâu hại trên lạc và thiên địch của chúng.
- Sâu cuốn lá đầu đen (Archips asiaticus W.) hại lạc.


3

* Phạm vi và nội dung nghiên cứu
- Thu thập và xác định thành phần sâu hại lạc và thiên địch của chúng (côn
trùng ký sinh sâu hại lạc và côn trùng bắt mồi).
- Xác định đặc điểm sinh học của sâu cuốn lá đầu đen (Archips asiaticus W.)
trong điều kiện phòng thí nghiệm
- Xác định diễn biến mật độ của sâu cuốn lá đầu đen (Archips asiaticus W.) và
mối quan hệ của nó với một số loài côn trùng ký sinh, bắt mồi phổ biến trên cây lạc
tại Nghi Lộc, Nghệ An.
- Khảo nghiệm hiệu lực của một số loại thuốc sinh học trừ sâu cuốn lá lạc và
đề xuất biện pháp phòng trừ sâu cuốn lá lạc một cách hợp lý.

4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
* Ý nghĩa khoa học
Kết quả điều tra nghiên cứu góp phần bổ sung thành phần sâu hại lạc và
thiên địch của chúng ở vùng nghiên cứu, bổ sung những dẫn liệu về đặc điểm sinh
học, sinh thái học của sâu cuốn lá (Archips asiaticus W.). Đây là những tài liệu
khoa học để tập huấn, giúp người sản xuất lạc nhận biết về sâu hại lạc và thiên địch
của chúng trên đồng ruộng nhằm bảo vệ và duy trì tập hợp thiên địch sâu hại lạc
trên cánh đồng. Hơn nữa, các dẫn liệu về diễn biến mật độ của sâu cuốn lá (Archips
asiaticus W.) cũng giúp cho các nhà dự tính, dự báo xác định thời điểm tốt nhất để
phòng trừ sâu cuốn lá lạc nhưng vẫn bảo vệ được các loài côn trùng ký sinh, bắt
mồi, đồng thời đề xuất biện pháp phòng chống sâu hại lạc có hiệu quả.
* Ý nghĩa thực tiễn
Trên cơ sở kết quả điều tra bức tranh sinh thái của hệ sinh thái ruộng lạc,
người nông dân bước đầu chủ động đề xuất biện pháp phòng chống sâu cuốn lá
(Archips asiaticus W.) hại lạc một cách hợp lý, giảm thiểu chi phí sử dụng thuốc
hóa học mà vẫn tăng năng suất cây lạc.
Các dẫn liệu được trình bày trong luận văn sẽ là cơ sở để góp phần vào việc
áp dụng có hiệu quả biện pháp quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) sâu hại lạc tại
huyện Nghi Lộc nói riêng và của tỉnh Nghệ An nói chung.


4

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài
* Dịch hại cây trồng là trạng thái tự nhiên của hệ sinh thái nông nghiệp
Các hệ sinh thái tự nhiên đều có khả năng tự điều chỉnh riêng. Đó là khả năng
tự lập lại cân bằng, cân bằng giữa các quần thể trong hệ sinh thái (ăn thịt - vật mồi,
ký sinh - vật chủ), cân bằng các vòng tuần hoàn vật chất và dòng năng lượng giữa

các thành phần của hệ sinh thái. Sự cân bằng này cũng có nghĩa là sự cân bằng giữa
các vật sản xuất, vật tiêu thụ và vật phân hủy. Sự cân bằng này cũng được gọi là sự
cân bằng sinh thái. Nhờ có sự điều chỉnh này mà các hệ sinh thái tự nhiên giữ được
sự ổn định mỗi khi chịu tác động của các nhân tố ngoại cảnh.
Hệ sinh thái là một hệ thống sống có khả năng tự điều chỉnh. Đó là khả năng
tự lập lại sự cân bằng giữa các quần thể sinh vật sống cùng nhau, trong đó là sự điều
chỉnh mối quan hệ khác loài trong quần xã như mối quan hệ giữa vật ăn thịt với
con mồi, giữa ký sinh với vật chủ và đó chính là cơ sở tạo nên sự cân bằng sinh thái.
Tuy nhiên, khả năng tự lập lại cân bằng của hệ sinh thái là cũng có giới hạn và chịu
sự ảnh hưởng của các yếu tố môi trường trong đó có sự tác động của con người.
Con người đôi khi vì muốn thu lợi nhuận kinh tế cao nên bằng nhiều hoạt động đã
làm cản trở khả năng tự điều chỉnh của hệ sinh thái, dẫn tới mất cân bằng sinh thái,
gây suy thoái tài nguyên và ô nhiễm môi trường. Muốn quản lý tốt các hệ sinh thái
thì nguyên lý cơ bản cần tuân thủ đó là giữ cho các hệ sinh thái này không nằm
ngoài khả năng tự điều chỉnh của nó.
Nói về tác hại của một loài sinh vật nào đó, thực ra là xét dưới góc độ lợi ích
của nó đối với con người. Trong tự nhiên không có loài sinh vật gây hại cũng không
có loài sinh vật nào hoàn toàn có lợi. Thực ra, mỗi loài sinh vật đều có một vị trí
nhất định trong tự nhiên, chúng thực hiện những chức năng riêng trong chu trình
chu chuyển hóa vật chất của tự nhiên.


5

Ở vòng tuần hoàn vật chất các loài sinh vật tồn tại hài hòa với nhau khi hệ sinh
thái hoạt động bình thường. Do đó, đảm bảo cho hệ sinh thái tồn tại và phát triển.
Trên cơ thể cây trồng và xung quang các loài cây trồng có rất nhiều loài sinh vật
khác nhau cùng tồn tại. Trong số đó, có loài cần thiết cho hoạt động sống của cây
trồng, thiếu chúng cây không thể sống được một cách bình thường. Bên cạnh đó, có
loài sinh vật lấy cây trồng làm thức ăn (đây là các loài sinh vật gây hại - dịch hại

cây trồng). Thế nhưng không phải tất cả các sinh vật lấy cây trồng làm thức ăn đều
là dịch hại đối với con người: Côn trùng ăn cỏ dại trở thành có ích. Côn trùng bắt
mồi, ký sinh là yếu tố điều hòa quần thể dịch hại, tạo điều kiện cho dịch hại giữ
được số lượng thích hợp trong hệ sinh thái.
Như vậy “Sinh vật có lợi hay có hại không phải là thuộc tính của một sinh vật
nào đó mà là đặc tính của loài đó trong mối quan hệ nhất định của mỗi hệ sinh
thái”. Các loài sinh vật vừa là điều kiện tồn tại của nhau vừa là yếu tố hạn chế nhau
trong mỗi chuỗi dinh dưỡng của chu trình tuần hoàn vật chất (Hà Quang Hùng,
1998) [8].
* Cấu trúc và tính ổn định của quần xã sinh vật
Tính ổn định và năng suất quần thể của một loài được xác định bởi rất nhiều
yếu tố, một phần các yếu tố đó là cấu trúc của quần xã sinh vật (Watt, 1976). Cấu
trúc của quần xã sinh vật bao gồm 3 nhóm yếu tố:
a. Mạng lưới dinh dưỡng trong quần xã (thể hiện quan hệ dinh dưỡng trong
quần xã sinh vật).
b. Sự phân bố không gian của sinh vật.
c. Sự đa dạng của quần xã.
Cũng như các hệ sinh thái khác trong hệ sinh thái đồng ruộng luôn luôn tồn tại
mối quan hệ về mặt dinh dưỡng và đó là mối quan hệ tất yếu trong quần xã sinh vật
cũng như hệ sinh thái, mỗi loài sinh vật thường là thức ăn là điều kiện tồn tại cho
mỗi loài sinh vật khác. Quan hệ phổ biến giữa các loài sinh vật là quan hệ phụ thuộc
lẫn nhau vô cùng phức tạp, nhưng có quy luật, đặc biệt là quan hệ dinh dưỡng (Thể
hiện qua chuỗi và lưới thức ăn).


6

* Quan hệ dinh dưỡng
Một tập hợp các sinh vật cùng sống trong một vùng hoặc sinh cảnh xác định
được hình thành trong quá trình lịch sử lâu dài, liên hệ với nhau do những đặc trưng

chung về sinh thái học mà các thành phần cấu thành quần xã (quần thể, các cá thể)
không co. Sự tập hợp này không phải là một con số cộng đơn thuần mà giữa các
loài đó có mối quan hệ rất chặt chẽ, trước hết là mối quan hệ về dinh dưỡng và nơi
ở. Quan hệ này có thể là tương hổ hoặc đối địch, cạnh tranh ...
Trong quần xã, các loài có quan hệ mật thiết với nhau, mối quan hệ đó thể hiện
rõ nhất ở quan hệ dinh dưỡng với mọi thành viên của quần xã đều tham gia vào một
trong ba pha của vòng tuần hoàn vật chất: pha sản xuất, pha tiêu thụ, và phân hủy.
Kết gắn sinh vật với nhau là dây chuyền dinh dưỡng, mỗi loài là một mắt xích của
dây chuyền dinh dưỡng ấy, mối quan hệ giữa các mắt xích thức ăn rất phức tạp, nó
ảnh hưởng đến tương quan số lượng của nhau. Chỉ một mắt xích thay đổi thì toàn
bộ chuỗi, thậm chí toàn bộ mạng lưới thức ăn bị thay đổi theo. Các chuỗi thức ăn
đều là tạm thời và không bền vững như mọi mối quan hệ sinh học khác.
* Biến động số lượng côn trùng
Trên cơ sở xem xét hàng loạt dẫn liệu về sự biến đổi số lượng và các dạng cơ
chế điều hòa số lượng, Viktorov (1967) đã tổng hợp khái quát thành sơ đồ chung
của biến động số lượng côn trùng. Một trong những đặc trưng của quần thể là mật
độ cá thể trong quần thể được xác định bởi sự tương quan giữa các quá trình bổ
sung thêm và giảm bớt số lượng cá thể. Tất cả là các yếu tố gây biến động đều tác
động đến quá trình này khi chúng làm thay đổi sức sinh sản, tỷ lệ tử vong của quần
thể và sự di cư của các cá thể. Các yếu tố vô sinh mà trước hết là điều kiện thời tiết,
khí hậu tác động đến côn trùng một cách trưc tiếp hoặc gián tiếp thông qua thức ăn,
thiên địch. Sự điều hòa thông qua các mối quan hệ tác động qua lại đó đã phản ánh
ảnh hưởng của mật độ lên sức sinh sản, tỷ lệ tử vong và di cư, trong đó tồn tại mối
quan hệ trong loài và bằng sự thay đổi tích cực của thiên địch và đặc điểm của thức
ăn. Sự tồn tại của các mối quan hệ này đảm bảo những thay đổi đền bù cho sự bổ
sung và giảm bớt số lượng cá thể của quần thể. Chính sự tác động thuận nghịch đó


7


đã san bằng những sai lệch ngẫu nhiên trong mật độ quần thể (Hà Quang Hùng,
1998) [8].
Số lượng của côn trùng đặc biệt là các loài sâu hại thường có sự dao động từ
thế hệ này sang thế hệ khác. Số lượng lần sau gia tăng có khi đến hàng trăm lần và
kéo dài một thời gian rồi lại đột ngột giảm xuống đến mức thấp nhất, duy trì ở mức
độ đó trong một thời gian. Sự sinh sản hàng loạt của các loài sâu hại phần lớn
không tiếp diễn theo tiến trình tự nhiên. Qúa trình biến đổi xảy ra do tác động của
các yếu tố môi trường, chủ yếu là các yếu tố thời tiết, khí hậu và mối quan hệ vật ăn
thịt - vật mồi.
Ở côn trùng ăn thịt, sự điều chỉnh số lượng quần thể quan trọng là sự cạnh
tranh trong loài. Hiện tượng ăn thịt lẫn nhau thường xuất hiện trong quần thể chủ
yếu do thiếu thức ăn. Sự tác động đó dẫn đến sự ổn định không bền vững của số
lượng quần thể. Vai trò quan trọng của vật ăn thịt được coi là yếu tố điều hòa số
lượng côn trùng và được thể hiện ở hai phản ứng đặc trưng là phản ứng số lượng và
phản ứng chức năng.
Hiện nay có hàng loạt dẫn liệu thực tế xác nhận khả năng điều hòa của các cơ
chế điều hòa ở các mức độ khác nhau của quần thể. Cơ chế đó được thưc hiện liên
tục kế tiếp nhau tham gia tác động khi mật độ quần thể được điều hòa vượt ra khỏi
giới hạn hoạt động của yếu tố điều hòa trước đó.
Phòng trừ tổng hợp sâu bệnh hại cây trồng (IPM) dựa trên mối quan hệ tương
hỗ giữa cây trồng – sâu hại – thiên địch trong hệ sinh thái nông nghiệp, các nguyên
tắc sinh thái và đa dạng sinh học của hệ sinh thái nông nghiệp.
1.2. Tình hình nghiên cứu sâu hại và thiên địch của chúng trên sinh quần
ruộng lạc ở thế giới và Việt Nam
1.2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
1.2.1.1. Tình hình nghiên cứu sâu hại lạc
Trong suốt quá trình sinh trưởng và phát triển, cây lạc bị rất nhiều loại sâu phá
hại. Đây là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm giảm năng suất, phẩm chất
và tăng chi phí đầu tư cho sản xuất lạc.



8

Kết quả nghiên cứu của Wynnigor (1962) [52] cho thấy ở vùng nhiệt đới, cây
lạc bị 37 loài sâu phá hại từ hạt giống đến tất cả các bộ phận của cây, thiệt hại do
sâu gây ra làm giảm 17,1 % sản lượng lạc, bệnh hại làm giảm 15 %, cỏ dại làm
giảm 11,5 %. Như vậy thiệt hại do sâu hại gây ra là lớn hơn cả.
Tuy nhiên hiện nay thiệt hại do các đối tượng gây ra còn phụ thuộc vào nhiều
yếu tố như: vùng địa lý, điều kiện sinh thái, mùa vụ ...Nhiều loại trước đây gây hại
thứ yếu nay lại trở thành đối tượng gây hại nghiêm trọng; ở Ấn Độ trước đây giòi
đục lá chỉ có ở vùng phía Nam nay đã lan đến miền Trung, thiệt hại hàng năm do
chúng gây ra ước tính khoảng 160 triệu USD (Ranga Rao, Shanower, 1988) [44].
Tại Thái Lan đã có hơn 30 loài sâu hại trên các ruộng trồng đậu đỗ, trong đó
có 10 loài gây hại nghiêm trọng làm giảm năng suất (Aphirat Arunin,1978) [34]. Ở
vùng Bắc Mỹ, thành phần sâu hại đậu đỗ gồm 33 loài, vùng trung và Nam Mỹ có 30
loài và các nước phương Đông có 26 loài. Theo Gazzoni (1994) [36] thì trên tất cả
các loại đậu đỗ vùng nhiệt đới có 81 loài sâu hại, trong đó 34 loài sâu hại mầm và
thân, 25 loài hại lá, 22 loài hại quả và hạt. Tùy theo vùng địa lý khac nhau mà các
loài sâu hại chính cũng khác nhau.
Theo Turnipseed and Kogan (1976) [49] thì sâu hại đã tấn công vào tất cả các
bộ phận trên cây đậu đỗ như rễ, nốt sần, mầm, thân, lá, hoa, quả và hạt. Nhóm hại
trong đất thường gây ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất lạc như: mối, rệp sáp, kiến,
sùng trắng... Nhóm sâu gây hại trên mặt đất cũng rất nghiêm trọng, bao gồm một số
loài thuộc bộ cảnh vảy như sâu xám cắn cây con, sâu xanh, sâu khoang, sâu cuốn lá,
rầy, rệp, bọ trĩ. Ngoài ra còn có nhện đỏ, sâu róm chỉ đỏ (Mohamed, 1981) [41].
Ghosh and Dray (1981) [37] khi nghiên cứu về sâu hại lạc đã kết luận rằng rệp
muội đen (Aphis craccivora Koch) là loài gây hại chủ yếu trên cây họ Đậu ở quanh
vùng Calcutta, làm giảm năng suất và chất lượng quả một cách nghiêm trọng.
Theo Smith and Barfield (1982) [48], có 360 loài sử dụng cây lạc làm thức ăn,
khoảng 6 % số loài gây hại quan trọng. Các loài này được phân thành các nhóm:

nhóm hại trong đất và nhóm hại trên mặt đất. Trong đó nhóm sâu chích hút khoảng
100 loài nhưng ảnh hưởng đến năng suất chủ yếu là các loài rệp muội đen (Aphis


×