Khoá luận tốt nghiệp
Mở đầu
1. Lí do chọn đề tài.
ở phương Tây, kịch phí lí được coi là một trong những hiện tượng nổi
bật nhất của nền văn hoá thế kỷ XX. Nó đại diện cho sự cách tân độc đáo cả
về nội dung và nghệ thuật trong văn học đầu thế kỷ này.
Vở Nữ ca sĩ hói đầu của tác giả E.Ionesco là vở kịch phi lí đầu tiên
xuất hiện trên sân khấu vào năm 1950. Đây là một sự kiện sân khấu - văn học
mang tính lịch sử mà giới nghiên cứu, phê bình sân khấu đặc biệt quan tâm.
Từ đó đến nay, các nhà nghiên cứu phê bình đã có nhiều ý kiến trái ngược
nhau khi đánh giá về giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của trào lưu kịch phi
lí. Bên cạnh những ý kiến đánh giá cao, không phải là không có ý kiến phủ
định giá trị của trào lưu kịch này.
Không phải ngẫu nhiên mà nhiều đạo diễn danh tiếng đã kiên trì ủng hộ
kịch phi lí và đưa các tác giả như Audiberti, Gholderode, Adamov, Ionesco,
Beckett lên hàng đầu. Không phải ngẫu nhiên mà vở Nữ ca sĩ hói đầu của
E.Ionesco đã có sức lôi cuốn mạnh mẽ đối với dư luận và công chúng ngay từ
khi ra đời dù nó mang những nét rất khác biệt so với kịch truyền thống. Cũng
không phải ngẫu nhiên mà vở Những chiếc ghế của E.Ionesco lại thường
được xem là kiệt tác. Từ năm 1950 đến nay, kịch phi lí vẫn giữ nguyên sức
hấp dẫn. Vậy căn nguyên nào đã tạo nên sức hấp dẫn cho trào lưu kịch này?
Là kết quả của cuộc khủng hoảng nhiều mặt của thế kỉ XX, văn học phi
lí nói chung và kịch phi lí nói riêng chính là một kiểu nghệ thuật phản ánh sự
biến động của hiện thực một cách dữ dội nhất. Hiện thực đó được gửi gắm
dưới một hình thức nghệ thuật độc đáo, khác lạ so với nghệ thuật biểu hiện
của kịch truyền thống. Việc tìm hiểu nghệ thuật kịch phi lí sẽ luôn là vấn đề
không chỉ hấp dẫn đối với giới nghiên cứu, phê bình văn học, sân khấu mà còn
Lương Thị Hằng
1
K29G Ngữ Văn
Khoá luận tốt nghiệp
hấp dẫn đối với độc giả, công chúng. Vượt qua sự sàng lọc của thời gian, kịch
phi lí đã tồn tại tới tận hôm nay. Đó chính là một nghệ thuật đích thực.
Cùng viết về một đề tài nào đó của cuộc sống, mỗi nhà văn lại có cách
thể hiện của riêng mình. Chính cách thể hiện đã tạo ra phong cách riêng cho
người nghệ sĩ, tạo nên sức hấp dẫn cho tác phẩm. Nói như Khrapchenco trong
Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn học thì Phong cách cần
được định nghĩa như thủ pháp biểu hiện cách khai thác hình tượng đối với
cuộc sống, như thủ pháp thuyết phục và thu hút độc giả. Do đó, tìm hiểu
nghệ thuật biểu hiện của tác phẩm cũng là tìm hiểu phong cách người nghệ sĩ.
Hiểu về nghệ thuật kịch phi lí trong vở Những chiếc ghế cũng là hiểu về
phong cách tác giả Ionesco.
Mặc dù không phải là tác giả, tác phẩm được chọn giới thiệu trong
chương trình phổ thông nhưng những hiểu biết về tác giả Ionesco, về tác phẩm
Những chiếc ghế cũng như về trào lưu kịch phi lí sẽ là kiến thức bổ trợ rất tốt.
Nó giúp chúng ta hiểu sâu hơn về thể loại kịch nói chung, về kịch truyền
thống, kịch tự sự khi có sự đối chiếu. Sau này, để giảng dạy tốt một tác phẩm
kịch hay một kịch gia, việc tìm hiểu về các tác giả, tác phẩm văn học nước
ngoài không được giới thiệu trong chương trình phổ thông đối với sinh viên
khoa Ngữ Văn của một trường sư phạm là rất cần thiết.
Chúng tôi chọn đề tài Nghệ thuật kịch phi lí của E.Ionesco trong
Những chiếc ghếvới mong muốn góp một phần nhỏ của mình vào việc tìm
hiểu vở Những chiếc ghế cũng như tìm hiểu tác giả Ionesco. Đồng thời đó
cũng là kiến thức bổ trợ cho việc giảng dạy sau này của bản thân.
2. Lịch sử nghiên cứu vần đề.
Ngay từ khi xuất hiện, vở Nữ ca sĩ hói đầu của E. Ionesco đã gây xôn
xao dư luận nước Pháp. Nó mở đầu cho hàng loạt các vở kịch của những tên
tuổi như: S.Beckett (vở Trong khi chờ đợi Gođot, Tàn cuộc,)
A.Adamov (vở Xâm lược , Ping Pong,) và một số nhà văn khác như
Lương Thị Hằng
2
K29G Ngữ Văn
Khoá luận tốt nghiệp
J. Genet, F. Arrabal. Trong đó, Ionesco cùng với Beckett và Adamov trở
thành ba nhà soạn kịch thường được nhắc đến bên cạnh nhau như ba chủ soái
của trào lưu kịch phi lí làm đảo lộn sân khấu Pháp mấy thập kỷ liền từ năm
1950 (3 797). Và Nữ ca sĩ hói đầu thực sự là vở diễn đánh dấu mốc quan
trọng cho sự xuất hiện của trào lưu kịch phi lí. Sự ra đời và dàn dựng nối tiếp
nhau của các vở kịch phi lí trong khoảng hơn mười năm (tính từ năm 1950) và
đạt mức cao trào như vậy đã được coi là cơn kịch phát của văn học phi lí
(chữ dùng của Nguyễn Văn Dân) (2-56). Kịch phi lí gây ảnh hưởng chủ yếu
với tư cách là những vở diễn trên sân khấu. Tuy không có vai trò mở đầu cho
trào lưu kịch phi lí nhưng vở Những chiếc ghế có đóng góp quan trọng trong
việc khẳng định sự thành công của trào lưu kịch này, khẳng định tài năng của
Ionesco và nó cũng là tác phẩm tiêu biểu cho nghệ thuật kịch phi lí của ông.
Xung quanh vấn đề về kịch phi lí, về tác giả Ionesco, về tác phẩm
Những chiếc ghế có rất nhiều ý kiến đánh giá khác nhau thậm chí trái ngược
nhau của các nhà nghiên cứu, phê bình sân khấu, văn học cũng như của công
chúng. ở Việt Nam phải đến năm 1960 thì văn học phi lí nói chung và kịch
phi lí nói riêng mới bắt đầu được nghiên cứu.
Tác giả Nguyễn Văn Dân trong khảo luận của mình đã phân tích khá
súc tích bối cảnh lịch sử - xã hội, nguồn gốc của khái niệm phi lí, đặc điểm,
những đóng góp, những cách tân của văn học phi lí nói chung, của kịch phi lí
nói riêng. Tác giả khẳng định kịch phi lí chỉ tồn tại trong khoảng hơn mười
năm, nhưng nó đã tác động rất mạnh mẽ và sâu rộng và dư âm của nó còn kéo
dài mãi về sau này (2 -56). E. Ionesco được coi là một trong ba đại diện chủ
chốt của kịch phi lí, còn tác phẩm Những chiếc ghế được khẳng định là
điển hình cho hiện tượng vật thể hoá, cho tâm trạng trống rỗng và bất lực của
con người (2 - 58) và thực sự là một vở kịch điển hình về huyền thoại hoá
sân khấu (2 - 64).
Lương Thị Hằng
3
K29G Ngữ Văn
Khoá luận tốt nghiệp
Trong cuốn Lịch sử văn học Pháp thế kỉ XX do Đặng Thị Hạnh chủ
biên, tác giả Đặng Anh Đào đã nhận xét: Ionesco đã xuất hiện với những vở
kịch ngắn giống như Sketches (phác thảo) và lối viết trần trụi giản dị. Song cái
giọng nói khác biệt ấy gây một cảm ứng khác thường vừa nực cười vừa bứt rứt
ở khán giả (6 - 221). Chuỗi thành công liên tiếp chỉ trong một thời gian ngắn
đã khiến một nhà nghiên cứu dùng chữ thần kì để chỉ tốc độ chiếm lĩnh sân
khấu của Ionesco. Những chiếc ghế được nhắc đến cùng với các tác phẩm
khác để khẳng định tên tuổi của ông.
Tác giả Vũ Đình Phòng trong bài viết Kịch phi lí in trên tạp chí Văn
học nước ngoài số 3 - 1997 đã phân tích khá rõ bối cảnh ra đời, sự phát triển
của trào lưu kịch phi lí, nghệ thuật kịch phi lí như sự phá huỷ ngôn ngữ, phá
huỷ nhân vật, phá huỷ cốt truyện. Ông khẳng định Ionesco là một trong ba
nhà sáng lập kich phi lí (11 -10). Tác giả không đi sâu vào phân tích nghệ
thuật kịch phi lí trong một tác phẩm cụ thể nào, Những chiếc ghế được lấy
làm ví dụ minh hoạ cho sự phá huỷ nhân vật.
Cũng nghiêng về phía khẳng định đó, trong cuốn Từ điển tác gia văn
học và sân khấu nước ngoài- Nxb Văn hoá - Hà Nội năm 1982, các tác giả
đã nhận xét một cách ngắn ngọn về tính tích cực của vở Những chiếc ghế, đó
là một trong những vở kịch của Ionesco đả kích đời sống tiểu tư sản tầm
thường trì trệ (8 - 221).
Với chủ trương đổi mới nghệ thuật sân khấu, Ionesco cùng các tác giả
khác của trào lưu kịch phi lí đã phá bỏ những yếu tố của sân khấu truyền
thống, chống lại việc đưa lí trí, đưa cái lôgic vào nghệ thuật; nhân vật kịch
không có quá trình tâm lí, nói năng, hành động một cách ngẫu nhiên; ngôn
ngữ nhân vật là những lời khuôn sáo, ngô nghê, vô nghĩa Các tác giả đã
dùng chính thủ pháp phi lí để diễn tả cái phi lí. Vì vậy, đứng trước một hiện
tượng văn học như kịch phi lí, không phải tất cả ý kiến của các nhà phê bình
đều thống nhất với nhau. Những luồng ý kiến trái ngược xuất hiện.
Lương Thị Hằng
4
K29G Ngữ Văn
Khoá luận tốt nghiệp
Giáo sư Đỗ Đức Hiểu trong Từ điển văn học (tập 1) - Nxb Khoa học
xã hội - Hà Nội năm 1983 một mặt khẳng định Ionesco Là một trong những
người sáng lập kịch phi lí, Ionesco một thời đã làm thế giới phương Tây ngạc
nhiên, sửng sốt rồi ham mê, mặt khác ông lại cho rằng kịch phi lí của
Ionesco là cái cười tàn nhẫn, phỉ báng loài người; nó mang ý nghĩa tiêu cực
và huỷ hoại. Hài kịch Ionesco là sân khấu của tuyệt vọng và cần nghiêm khắc
lên án (10 - 388).
Giới nghiên cứu, phê bình văn học, sân khấu thì như vậy, còn công
chúng thì sao? Công chúng xem kịch không phải ai cũng tán thưởng loại kịch
này. Nhiều tiếng huýt sáo tức tối, có khán giả khi ra về còn hậm hực như mất
tiền oan. Không ít buổi biểu diễn vắng người xem. Tờ Le Figaro có lần đăng
bức vẽ biến hoạ của Sennep tả quang cảnh buổi biểu diễn vở Những chiếc ghế
như sau: Trên sân khấu là hai diễn viên lút đi giữa những chiếc ghế ngổn
ngang diễn cho một khán giả duy nhất, ngồi lọt thỏm giữa các hàng ghế trong
rạp (3 -799).
Trong tập tiểu luận- phê bình Phương Tây - Văn học và con người
Nxb Hội Nhà văn, giáo sư - viện sĩ Hoàng Trinh khi bàn về văn học viết về
thân phận con người, bên cạnh việc trình bày về con người trong thế giới
tha hoá, thế giới huyền thoại của F. Kafka, con người như một quân cờ
trong tác phẩm của W. Faulkner, giáo sư còn đề cập đến thân phận con người
bé bỏng, con người phi lí, không nhận ra thân phận của mình trong kịch phi lí
của E. Ionesco. Nhưng trong bài viết của mình, giáo sư đã viện dẫn làm rõ vấn
đề bằng hai tác phẩm mà ông cho là tiêu biểu nhất cho thuyết phi lí của
Ionesco đó là Tê giác (1959), Đói và khát (1966). Những chiếc ghế
không được đặt ra như là một đối tượng để quan tâm.
Các tài liệu, các nhà nghiên cứu dù quan tâm ít hay nhiều đến trào lưu
kịch phi lí, đến tác giả Ionesco hay đến vở Những chiếc ghế, đều rất ít chú ý
đến nghệ thuật kịch phi lí trong vở Những chiếc ghế. Trong số các tác giả chú
Lương Thị Hằng
5
K29G Ngữ Văn
Khoá luận tốt nghiệp
ý đến nghệ thuật kịch phi lí trong Những chiếc ghế, tác giả Phùng Văn Tửu là
người viết rõ nhất. Trong cuốn giáo trình Văn học phương Tây -Nxb Giáo
dục năm 1999, tác giả đã khẳng định vị trí của E. Ionesco - một trong ba chủ
soái của trào lưu kịch phi lí bằng việc phân tích những tìm tòi, đổi mới nghệ
thuật của ông qua một số tác phẩm, trong đó có Những chiếc ghế. ông cũng
dành một phần riêng viết về sự phá huỷ nhân vật, sự phá huỷ không gian, thời
gian, những chỉ dẫn sân khấu trong vở Những chiếc ghế.
Trong khảo luận của mình, tác giả Nguyễn Văn Dân khẳng định Những
chiếc ghế thực sự là vở kịch điển hình về huyền thoại hoá sân khấu với tính
phi xác định của nhân vật, của không gian
Như vậy, vấn đề nghệ thuật kịch phi lí của E. Ionesco trong vở Những
chiếc ghế là một vấn đề hấp dẫn nhưng nó chưa thực sự được chú ý trong
những khảo luận , tiểu luận, những bài phê bình về kịch phi lí hay về Ionesco.
Các nhà nghiên cứu, phê bình văn học, sân khấu dù đánh giá cao tác giả
nhưng đã hoặc không bàn đến hoặc nếu có cũng chỉ là điểm qua nghệ thuật
kịch phi lí trong Những chiếc ghế.
Những ý kiến vừa điểm trên có thể là những ý kiến đánh giá cao, cũng
có thể là những ý kiến phủ định nhưng đó đều là những ý kiến khái quát, là
những gợi ý để chúng tôi đi đến một vấn đề cụ thể: nghệ thuật kịch phi lí của
E. Ionesco trong Những chiếc ghế.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Trong khoá luận này, chúng tôi sẽ tập trung làm rõ một số điểm sau:
Làm rõ nghệ thuật kịch phi lí trong vở Những chiếc ghế của
E. Ionesco.
Đối chiếu với các tác phẩm kịch phi lí khác của ông để thấy được sự kế
thừa, nét độc đáo cũng như sự chi phối của Những chiếc ghế đối với một số
tác phẩm kịch phi lí khác.
Lương Thị Hằng
6
K29G Ngữ Văn
Khoá luận tốt nghiệp
Để làm rõ nét độc đáo của nghệ thuật kịch phi lí trong Những chiếc
ghế, chúng tôi cũng so sánh nó với vở Trong khi chờ đợi Gođot của
S.Beckett.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu: trong phạm vi một khoá luận, chúng tôi sẽ tập
trung xoáy sâu vào một số đặc điểm của nghệ thuật kịch phi lí biểu hiện trong
Những chiếc ghế.
Phạm vi nghiên cứu: người viết sử dụng vở Những chiếc ghế là chủ
yếu, bên cạnh đó người viết còn sử dụng vở Nữ ca sĩ hói đầu, Người thuê
nhà mới, Tê giác của E.Ionesco và vở Trong khi chờ đợi Gođot của
S.Beckett.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp tra cứu.
Phương pháp thống kê.
Phương pháp phân tích - tổng hợp.
Phương pháp hệ thống.
Phương pháp so sánh hệ thống.
Lương Thị Hằng
7
K29G Ngữ Văn
Khoá luận tốt nghiệp
Nội dung chính
Chương 1: Những chiếc ghế - sự thể hiện rõ nét
nghệ thuật kịch phi lí của E.Ionesco.
1.1. Khái niệm Kịch phi lí.
1.1.1. Các quan niệm khác nhau:
Kịch phí lí xuất hiện trên sân khấu Pháp vào năm 1950 với vở Nữ ca sĩ
hói đầu. Tuy chỉ tồn tại trong khoảng hơn mười năm nhưng nó đã tác động
mạnh mẽ đến độc giả, công chúng, các nhà nghiên cứu, phê bình văn học, sân
khấu, dư âm của nó còn mãi về sau này. Vậy thế nào là kịch phi lí? Kịch
phi lí gồm những đặc điểm nào?
Trước hết, cần khẳng định rằng trong văn học phi lí nói chung, kịch phi
lí nói riêng, cái phi lí không phải là cái phi lí siêu hình, phi thực tế mà nó có
nguồn gốc trong cuộc sống thực tế của xã hội phương Tây. Đây là nguồn gốc
cũng là đối tượng nhận thức của văn học phi lí.
Khái niệm phi lí không phải đến thế kỷ XX mới xuất hiện mà nó đã
xuất hiện từ thời cổ đại. Trên phương diện lôgic học người ta quan niệm phi
lí là những gì tồn tại trái với các qui tắc lôgic. Trên bình diện lí luận nhận
thức, người ta lại quan niệm tất cả những gì chống lại năng lực nhận thức,
chống lại lí trí, không thể lí giải được bằng tư duy, thì đều được coi là phi lí.
Như vậy cái phi lí là cái phản lí tính (2-15).
Khái niệm triết học về cái phi lí có một bước phát triển đặc biệt quan
trọng là giai đoạn chủ nghĩa hiện sinh. Chủ nghĩa hiện sinh tạo ra giữa lí tính
và thực tại một vực sâu ngăn cách. Và trong cái vực sâu này có sự ngự trị của
cái phi lí. Khái niệm phi lí xuất phát từ triết học chủ nghĩa hiện sinh về tính
phi lí, tính vô nghĩa của cuộc sống (5- 170).
Xem kịch phi lí như là một sinh thể văn học nghệ thuật, các nhà nghiên
cứu thấy rằng Kịch phi lí hấp thụ một số khái niệm cơ bản của triết học hiện
Lương Thị Hằng
8
K29G Ngữ Văn
Khoá luận tốt nghiệp
sinh (cái phi lí, lo âu, tuyệt vọng, hư vô ) và được viết phần lớn với nghệ
thuật huyền thoại (10 -338).
Nhà phê bình người Anh Martin Esslin khi nói về sân khấu phi lí cho
rằng thế giới của cái phi lí là thế giới không thể giải thích được và không có
một ý nghĩa trọng tâm.
E. Ionesso, một đại diện đặc trưng của văn học phi lí khi nói về cái phi
lí đã công nhận rằng cái phi lí là sự tồn tại vô nghĩa của con người, là sự suy
giảm giá trị của mọi lý tưởng của con người, thường nhận thấy trong thế giới
hiện đại.
Những người đề xướng ra loại kịch - phản kịch, sân khấu - phản sân
khấu như Adamov, Beckett, Ionesco đã cụ thể hoá quan niệm của họ về kịch
phi lí bằng những tác phẩm của mình phá vỡ những yếu tố sân khấu thông
thường (như logic hành động, tâm lí, nhân vật gần sự thật, ngôn ngữ chặt
chẽ) (8-221).
Ta cũng thấy quan niệm của giới nghiên cứu về kịch phi lí ngay trong
cách gọi tên loại kịch này. Các nhà phê bình đặt cho nó cái tên là kịch phản
kháng, kịch hề bi thảm, kịch hề hiện đại, kịch hề siêu hình, siêu
kịch, phản kịch. Chính Ionesco đã gọi vở Nữ ca sĩ hói đầu của mình là
vở phản kịch. Sau đó thì thuật ngữ sân khấu phi lí hay kịch phi lí của
nhà phê bình người Anh Martin Esslin nhanh chóng được nhiều người chấp
nhận, trở thành thuật ngữ chính thức. Những tên gọi này dường như nghiêng
về mặt biểu hiện có vẻ bất thường của kịch phi lí.
Như vậy, kịch phi lí có sự tiếp thu, kế thừa những hiện tượng, đề tài của
các lĩnh vực khác và trước nó như triết học, văn xuôi phi lí.Nhưng nó lại có
bước đột phá lớn ở mặt nghệ thuật. Vì vậy những nhà viết kịch phi lí còn dược
gọi là những nhà cách tân sân khấu.
Lương Thị Hằng
9
K29G Ngữ Văn
Khoá luận tốt nghiệp
1.1.2. Các đặc điểm của kịch phi lí:
Dựa vào việc khảo cứu một số lượng lớn các tác phẩm kịch phi lí và so
sánh chúng với những vở kịch truyền thống, các nhà nghiên cứu đã gọi tên
những đặc điểm biểu hiện của loại hình nghệ thuật này theo nhiều cách.
Có ý kiến cho rằng đặc điểm chính của kịch phi lí là trình bày theo lối
hài kịch nghịch dị những hình thức giả dối và vô nghĩa lí (kể cả ngôn ngữ) của
sinh tồn con người; không cốt truyện, không tính cách, ngôn ngữ bị biến thành
hình thức, đối thoại không còn khả năng làm phương tiện giao tiếp (5 - 170).
Được coi là những nhà cách tân sân khấu, các nhà viết kịch phi lí
luôn trăn trở đi tìm các thủ pháp nghệ thuật mới để tiếp cận cái phi lí, khác
những gì đã có. Kịch phi lí chính là một bước đột phá, một cơn kịch phát của
văn học phi lí . Quan điểm văn học, nghệ thuật của Ionesco cũng như của các
nhà viết kịch phi lí khác theo các tác giả Từ điển văn học là một quan
điểm duy tâm và siêu hình; họ đi tìm một cách tuyệt vọng con đường thứ ba
trong nghệ thuật; họ thoát li hẳn thực tiễn xã hội, miêu tả ý thức bên trong của
con người, tức là khai thác triệt để thế giới tiềm thức và vô thức. Các tác giả
còn khẳng định ở kịch Ionesco không có cốt truyện, hành động, xung đột,
tính cách, ngôn ngữ kịch (11 - 338).
Các nhà nghiên cứu đã nhận thấy những nét mới mẻ của kịch phi lí khi
đối chiếu trào lưu kịch này với kịch truyền thống. Đại diện tiêu biểu cho trào
lưu kịch phi lí là ngòi bút Ionesco. Với chủ trương đổi mới nghệ thuật sân
khấu, Ionesco phá bỏ những yếu tố của sân khấu truyền thống, chống lại việc
đưa lí trí, đưa cái lôgic vào nghệ thuật. Nhân vật kịch không có quá trình tâm
lí, nói năng, hành động một cách ngẫu nhiên. Ngôn ngữ nhân vật là những lời
khuôn sáo, ngô nghê, vô nghĩa (15 - 202).
Trên cơ sở phát triển thủ pháp hài kịch biếm hoạ của A.Jarry, kịch phi
lí đã đẩy cái thủ pháp này lên đến mức cực đoan, đi đến chỗ phá huỷ nhân vật
phá huỷ hoàn toàn ngôn ngữ, phá huỷ cốt truyện. Đặt trong sự đối chiếu với
Lương Thị Hằng
10
K29G Ngữ Văn
Khoá luận tốt nghiệp
văn xuôi phi lí, tác giả Nguyễn Văn Dân thấy: cái khác và cái mới của kịch
phi lí so với văn xuôi phi lí là trong khi văn xuôi phi lí dùng ý thức và lí trí để
diễn tả và tấn công cái phi lí thì kịch phi lí dùng chính các thủ pháp phi lí để
diễn đạt cái phi lí. Vì vậy, Nguyễn Văn Dân gọi kịch phi lí là loại văn học
hai lần phi lí hay văn học về sự phi lí mang tính chất phi lí.
Những ý kiến trên đều hướng vào đặc điểm nghệ thuật của kịch phi lí,
từ đó ta có thể khái quát nên những đặc điểm chung nhất của trào lưu kịch
này. Kịch phi lí đã phá bỏ tất cả những gì kịch truyền thống qui định, bởi vậy
nó còn được gọi là kịch - phản kịch. Kịch phi lí có các đặc điểm sau:
Sự phá huỷ nội dung, cốt truyện.
Sự phá huỷ ngôn ngữ.
Sự phá huỷ nhân vật.
Sự phá huỷ không gian, thời gian.
Chỉ dẫn của tác giả.
Các nhà sáng lập kịch phi lí đã đạt được ý đồ cách tân sân khấu của
mình và nhận được sự ủng hộ của khán giả. Kịch phi lí là một hiện tượng văn
học độc đáo, một sản phẩm sáng tạo nảy sinh từ sự phản kháng dữ dội trước
những khủng hoảng. Nó tác động mạnh mẽ đến công chúng, độc giả cũng như
các nhà nghiên cứu, phê bình văn học, sân khấu.
1.2. Những chiếc ghế - sự thể hiện rõ nét nghệ thuật kịch
phi lí của E.Ionesco:
Đặc điểm chính của kịch phi lí là trình bày theo lối hài kịch nghịch dị
những hình thức giả dối và vô nghĩa lí của sinh tồn con người. Theo Ionesco:
Cái hài là trực cảm về cái phi lí, tôi cho rằng nó làm cho người ta tuyệt vọng
hơn là cái bi. Cái hài là bi đát và bi kịch của con người là hài hước. Có thể
nói, các chi tiết hài hước trong kịch phi lí chỉ làm cho tính chất bi đát tăng
thêm và càng thể hiện sâu sắc hơn tâm trạng tuyệt vọng, mất hết lòng tin vào
con người và cuộc sống của nhà văn. Đó là mục đích hài hước của kịch phi lí,
Lương Thị Hằng
11
K29G Ngữ Văn
Khoá luận tốt nghiệp
nó chi phối đến nghệ thuật biểu hiện của trào lưu kịch này, tiêu biểu là tác giả
Ionesco.
Nếu như kịch truyền thống rất coi trọng việc xác lập không gian, thời
gian diễn ra hiện thực, kết cấu lôgic, thông tin lôgic của ngôn ngữ, tâm lí nhân
vật thì kịch phi lí phá bỏ toàn bộ những qui tắc đó. Những chiếc ghế của
Ionesco cũng không phải ngoại lệ. Những chiếc ghế không chỉ đề cập đến cái
phi lí của cuộc sống nhân loại, thân phận con người mà còn phá bỏ triệt để
qui tắc của kịch truyền thống. Ngôn ngữ bị phá huỷ, nhân vật không có tính
cách xác định mà chỉ là những con rối, không có hành động với đúng nghĩa
của nó mà là một chuỗi nối tiếp bất chợt không tiền đề, cũng không hậu
quả. Không gian, thời gian không xác định, luôn bị đảo lộn. Song cái có vẻ
không lôgic ấy lại không vượt ra ngoài cái lôgic của cái phi lí, của kịch phi
lí Ionesco.
Vậy nghệ thuật kịch phi lí được biểu hiện cụ thể trong Những chiếc
ghế như thế nào?
1.2.1. Sự phá huỷ nội dung, cốt truyện:
Công chúng Paris trước năm 1950 đã quá quen thuộc với những vở kịch
truyền thống mà ở đó các sự kiện cụ thể được tổ chức một cách xâu chuỗi và
có hệ thống. Trong những vở kịch truyền thống, cốt truyện rất được chú trọng,
nó bao gồm các phần như: mở đầu, thắt nút, phát triển, đỉnh điểm và kết thúc.
Cốt truyện vừa góp phần bộc lộ có hiệu quả đặc điểm của mỗi tính cách, tổ
chức tốt hệ thống tính cách, lại vừa trình bày một hệ thống sự kiện phản ánh
chân thực xung đột xã hội, có sức mạnh lôi cuốn và hấp dẫn người đọc. Nhưng
từ năm 1950, người xem kịch hoàn toàn ngạc nhiên khi xem vở Nữ ca sĩ hói
đầu, vở Những chiếc ghế cũng như các vở kịch phi lí khác. Người ta rất khó
có thể tóm tắt được nội dung, cốt truyện của các vở đó. Nói như vậy không có
nghĩa là kịch phi lí không còn sức lôi cuốn và hấp dẫn; ngược lại, kịch phi lí
Lương Thị Hằng
12
K29G Ngữ Văn
Khoá luận tốt nghiệp
nói chung và kịch phi lí của Ionesco nói riêng một thời đã làm thế giới
phương Tây ngạc nhiên, sửng sốt rồi ham mê.
Điều mà chúng ta có thể nhận thấy ở Những chiếc ghế là một cuộc đối
thoại giữa đôi vợ chồng già ở một căn phòng trên đảo nhỏ giữa biển khơi với
nhau và với những vị khách vô hình. Đó là những cuộc đối thoại dông dài, đứt
đoạn, tưởng như ăn nhập mà lại không ăn nhập. Ông Già luôn cảm thấy cuộc
sống tẻ nhạt, buồn chán. Bà lão an ủi ông, khẳng định ông là người tài năng.
Bà luôn muốn nghe ông kể câu chuyện Thế rồi ta đã cười vào mỗi buổi
chiều. Ông Già có một bức thông điệp muốn thông báo cho toàn nhân loại và
ông đã thuê một Diễn giả chuyên nghiệp nói, nhân danh ông. Ông mời từ các
nhà cha cố, tổng thống. . . đến nhà cửa, bút mực, nhiễm sắc thể. Khách đến,
nhưng toàn là khách vô hình. Khách đến mỗi lúc một đông, ghế được mang ra
liên tiếp. Diễn giả xuất hiện nhưng lại là một người vừa câm vừa điếc. Cuối
cùng, hai ông bà lão rơi tõm xuống nước; Diễn giả biến mất với dáng đi ma
quái. Trên sân khấu chỉ còn những chiếc ghế trơ trọi. Không có thông điệp
nào được thông báo.
Không chỉ dừng lại ở sự phá huỷ nội dung, cốt truyện, Ionesco tiếp tục
sự phá huỷ ngôn ngữ.
1.2.2. Sự phá huỷ ngôn ngữ:
Ionesco có lẽ là người tiếp thu nhiệt tình nhất, triệt để nhất thủ pháp
nghịch dị ở A.Jarry. Nguyên tắc của thủ pháp nghịch dị là phá huỷ lôgic, và
cụ thể ở kịch phi lí của Ionesco là phá huỷ lôgic biểu đạt ngôn ngữ thông
thường. Nhưng thật nghịch dị là sự phá huỷ ngôn ngữ lại vẫn phải được thực
hiện bằng chính bản thân ngôn ngữ. Thế là nó lại biến ngôn ngữ thành nhân
vật chính. Đó cũng chính là một trong những điều phi lí của kịch phi lí.
Ngôn ngữ trong kịch truyền thống có vai trò rất quan trọng: Đối với
một tác phẩm kịch, tất cả mọi vấn đề xoay quanh hình tượng đều nằm trong
ngôn ngữ nhân vật. Đó là hình thái tồn tại duy nhất của ngôn ngữ kịch. . . Tác
Lương Thị Hằng
13
K29G Ngữ Văn
Khoá luận tốt nghiệp
giả không có chỗ đứng với tư cách là nhân vật trung gian có thể mách bảo,
giải thích, thậm chí giật dây độc giả như trong tiểu thuyết. Nếu như trong
kịch truyền thống, ngôn ngữ có vai trò làm nổi bật tính cách nhân vật thì trong
kịch phi lí nói chung và Những chiếc ghế nói riêng ngôn ngữ lại bị phá huỷ
chức năng thông thường. Ngôn ngữ bị phá huỷ cũng có nghĩa là mọi nền
móng của sự giao lưu giữa con người với con người bị phá huỷ. Ionesco đem
ngôn ngữ ra làm trò cười đồng thời lên án nó. Một mặt ông khai thác mọi khả
năng của ngôn từ, đồng thời ông vạch ra sự khủng hoảng của tư duy khiến
ngôn ngữ mất chức năng giao tiếp, chỉ còn là những kí hiệu âm thanh. Tuy
nhiên, sự phá huỷ ngôn ngữ trong Những chiếc ghế có ý nghĩa rất quan trọng:
Có những lời vô nghĩa, những đối thoại lủng củng chẳng ăn nhập gì với nhau
lại tạo thành một ngôn ngữ có ý nghĩa xúc cảm, qua đó tác giả biểu hiện sự
sụp đổ của các giá trị (6 - 90).
Cuộc sống của đôi vợ chồng già trên đảo nhỏ thật tẻ nhạt, vô vị, không
có sự giao tiếp với bên ngoài. Câu chuyện Thế rồi ta đã cười cứ lặp đi lặp
lại, chiều nào cũng vậy. Nó thể hiện tư duy tầm thường, thảm hại, sự hạn chế
của ngôn ngữ trong việc biểu hiện tư duy. Chiều nào ông cũng kể cho bà nghe
câu chuyện đó không hẳn là vì bà thích nghe mà là vì ông không có khả năng
diễn đạt được ý của mình. Trong vở kịch, đã có lúc ông tự nhận rằng: Ôi,
thật khó nói ra những gì mình muốn. . . hay Tiếc thay tôi không biết ăn nói,
tôi không có tài. (2 - 410). Không diễn đạt được ý nghĩ của mình, đó chính là
một biểu hiện của cái bi đát. Ionesco đã khai thác cái khía cạnh vô lí, lố bịch
của cuộc đời và thân phận con người vừa hài vừa bi qua lớp vỏ ngôn ngữ. Hiện
lên qua câu chuyện lặp đi lặp lại đó là thân phận của hai con người nhỏ bé, cô
đơn với cuộc sống buồn tẻ.
Nhà văn đã diễn tả cái bi kịch của cuộc sống bằng hài kịch. Đặc điểm
của kịch phi lí là tính chất bi hài. Theo J.Delay: Kịch phi lí là gì nếu chẳng
Lương Thị Hằng
14
K29G Ngữ Văn
Khoá luận tốt nghiệp
phải là sự phản bác lại nỗi tuyệt vọng siêu hình bằng tiếng cười của thằng hề
(3 - 811). Ionesco đã cụ thể hoá tiếng cười ấy bằng ngôn ngữ nhân vật.
Người ta không thể không thấy ngớ ngẩn và hài hước khi mà một ông
già 95 tuổi khóc đòi mẹ như là một đứa trẻ:
Ông Già (khóc hu hu, mồm há to như một em bé) - Tôi là một đứa mồ
côi, mồ côi. . .
Bà Già (cố an ủi, dỗ dành) - Mình côi cút của tôi ơi ! Mình làm tôi nát
cả ruột, mình côi cút của tôi.
Ông Già (nức nở) - Hi, hi, hi! Mẹ ơi! Mẹ đâu rồi? Mẹ tôi chết rồi.
Bà Già - Tôi là vợ ông, giờ đây tôi cũng là mẹ ông.
Ông Già (dịu đi một chút) - Không đúng, tôi mồ côi, hi hi.
Bà Già (vẫn ru ông) - Mình của tôi, mình mồ côi của tôi, mồ côi, mồ
cút, mồ côi, mồ cút, mồ côi.
Ông Già - Chẳng đúng đâu. . . mẹ tôi chẳng nhìn thấy tôi chẳng nghe
thấy tôi nói, bà chẳng phải là mẹ tôi. . . (2 - 407, 408).
Nhưng đằng sau sự ngớ ngẩn đó, ta thấy một con người cô đơn, không
tự tin vào bản thân mình. Con người đó có bao ước muốn nhưng điều kiện
không cho phép.
Trong vở kịch, có nhiều đoạn thoại mà các nhân vật sử dụng ngôn ngữ
nhưng không hiểu những gì mình nói, nội dung thông tin không ăn nhập nhau,
thậm chí là mâu thuẫn ngay trong lời nói của từng nhân vật. Những lời của Bà
Già khi nói với những người bạn vô hình về thời tiết: Thời tiết xấu quá! Thời
tiết mới đẹp làm sao! (2 - 437). Hay như đoạn Ông Già nói về nhan sắc của
Mĩ lệ phu nhân vô hình:... ồ! Mĩ lệ, Mĩ lệ, tiểu thư Mĩ lệ, trước đây người ta
đã mệnh danh bà như vậy đấy... bây giờ thì bà tiều tuỵ rồi... ồ! Thưa ông,
nhưng bà nhà vẫn còn đẹp lắm, dưới đôi kính, bà vẫn còn đôi mắt đẹp, tóc đã
Lương Thị Hằng
15
K29G Ngữ Văn
Khoá luận tốt nghiệp
bạc nhưng bên dưới tóc bạc vẫn còn tóc đen, tóc xanh, tôi xin chắc như vậy...
(2 - 421).
Đối thoại của nhân vật có khi là nhiều câu, có khi là một câu dài nhưng
có khi lại chỉ là một vài từ. Đó là đoạn ông già và bà già nói với Phu nhân
vô hình:
Ông Già (với phu nhân) - Vâng, phu nhân hoàn toàn có lí...
Bà Già - Có, có, có. . . mà không.
Ông Già- Có, có, có. Hoàn toàn không.
Bà Già- Có ?
Ông Già - Không? (2 - 415).
Cũng có khi Hai người già ngồi xuống, ông ở bên trái, bà ở bên phải
với bốn chiếc ghế trống không ở giữa. Một cảnh câm lặng kéo dài, đôi lúc
điểm những tiếng phải, không, phải, không. Hai người già đang
nghe những người vô hình nói chuyện (Chỉ dẫn của tác giả - 2 - 425). Câu
chuyện tưởng như rất ăn khớp giữa ông Già, Bà Già với những vị khách vô
hình nhưng thực chất đó chỉ là những lời vô nghĩa, nó thể hiện sự bất lực của
con người trong việc sử dụng ngôn ngữ.
Ban đầu câu chuyện của Ông Già và Bà Già còn ăn nhập với nhau. Sau
khi những vị khách vô hình xuất hiện thì câu chuyện giữa hai người có sự ngắt
quãng. Có lúc, câu chuyện trở nên rời rạc, dường như họ không còn hào hứng
khi đối thoại với nhau:
Bà Già - Miễn là!
Ông Già - Nhưng mà tôi đã... và... Chắc chắn thế
Bà Già (đối thoại nhát gừng, mỏi mệt) - Tóm lại.
Ông Già - Của chúng tôi và của họ.
Bà Già - Để mà.
Ông Già - Tôi đã có nó.
Lương Thị Hằng
16
K29G Ngữ Văn
Khoá luận tốt nghiệp
Bà Già - Ông có nó hay ông có chúng nó?
Ông Già - Chúng nó.
Bà Già - Những cái cuộn uốn tóc... Thôi đi!
Ông Già - Thế đấy!
Bà Già - Tại sao?
Ông Già - Phải.
Bà già - Tôi.
Ông Già - Tóm lại.
Bà Già - Tóm lại.(2 - 428).
Ông Già không chú ý vào trả lời những câu hỏi của Bà Già, bà cũng đối
thoại nhát gừng, mệt mỏi. Họ không còn biết phải nói gì và nói như thế nào.
Mỗi người đang có những dòng suy nghĩ riêng, họ phát ra những âm thanh vô
nghĩa, không nhằm vào đối tượng giao tiếp với mình. Nó tạo nên sự không ăn
nhập cho câu chuyện của hai người: Sự không ăn nhập của các lời đối thoại
nói lên sự đổ vỡ của mối quan hệ giữa con người với nhau (11 - 11).
Trong vở kịch, có những lúc Bà Già không nói được câu nào mà chỉ là
lặp lại những lời của ông Già như tiếng vọng hoặc là tiếng vọng. Đó là
khi ông Già bị đám đông vô hình che khuất, không nhìn thấy Hoàng đế vô
hình, ông cố nói với Hoàng đế vô hình những suy nghĩ của mình, nỗi lòng của
mình. Hay như đoạn hai ông bà thông báo cho Hoàng đế vô hình, cho các vị
khách vô hình là diễn giả đã đến:
Ông Già - ông ấy sẽ đến. Diễn giả
Bà Già - ông ấy sẽ đến.
Ông Già - ông ấy sẽ đến.
Bà Già - ông ấy sẽ đến.
Ông Già - ông ấy sẽ đến.
Lương Thị Hằng
17
K29G Ngữ Văn
Khoá luận tốt nghiệp
Bà Già - ông ấy sẽ đến.
Ông Già - ông ấy sẽ đến, ông ấy sẽ đến.
Bà Già - ông ấy sẽ đến, ông ấy sẽ đến.
Ông Già - Sẽ đến.
Bà Già - ông ấy đã đến.
Ông Già - ông ấy đã đến.
Bà Già - ông ấy đã đến, ông ấy đang ở đây.
Ông già - ông ấy đã đến, ông ấy đang ở đây.
Ông già và Bà Già - Ông ấy đang ở đây. . . (2 - 448).
Những lời thoại lặp lại một cách đơn điệu, nhàm chán góp phần tô đậm
sự nghèo nàn, đơn điệu của cuộc sống con người, sự thảm hại của ngôn ngữ
trong việc thể hiện tư duy. Cuộc đối thoại giữa hai ông bà thực sự là những
cuộc độc thoại nghịch dị và tuyệt vọng.
Bên cạnh những đối thoại giữa ông lão, bà lão với nhau, vở Những
chiếc ghế còn có những đối thoại một chiều giữa ông lão, bà lão với những vị
khách vô hình. Chính những đối thoại một chiều này giúp ta hình dung ra
khách vô hình là ai, đồng thời gợi lên sự bi đát, cô đơn cùng cực của con
người. Sống trên một đảo nhỏ giữa biển khơi, hai ông bà cô đơn đã tưởng
tượng ra những vị khách vô hình để giao tiếp với họ. Họ tưởng tượng ra khách
vô hình sẽ nói như thế nào và họ trả lời cho những cái mà mình tưởng tượng.
Vì vậy mà khi theo dõi những đoạn ông Già, Bà Già nói chuyện với khách vô
hình, người đọc, người xem khó có thể xác định được nội dung câu chuyện.
Khi con người ta cô đơn, người ta khao khát được giao tiếp với mọi người, thật
là bi đát khi khao khát đó không đạt được. Đây chính là trường hợp của ông bà
lão.
Lương Thị Hằng
18
K29G Ngữ Văn
Khoá luận tốt nghiệp
Kết thúc vở kịch, ngôn ngữ đi từ chỗ đúng ngữ pháp đến chỗ chỉ còn là
những tiếng ú ớ, ở dạng các kí tự chữ cái, những kí hiệu âm thanh. Cái nghịch
dị được đẩy lên mức tối đa khi người phát ngôn đại diện cho hai vợ chồng già
được mời đến lại là một người câm. Diễn giả không nói được, chỉ phát ra
những tiếng khò khè, rên rỉ, những tiếng hầm hừ của người câm:
Hừ, hừm, hừm.
Giu, gu, hu, hu
Hơ, hơ, gu, gu, gơ.
Sự giao lưu giữa con người với con người đã không còn, ngay cả với
khách vô hình. Diễn giả đã cố gắng một cách tuyệt vọng để mọi người hiểu
mình nhưng không ai hiểu. Cái mà họ nghe được chỉ là những thanh âm vô
nghĩa. Diễn giả đành bất lực trong khi cố gắng dùng âm thanh để cho mọi
người hiểu mình. Ông ta lại tiếp tục cố gắng bằng cách viết lên bảng chữ:
ANGEPAIN.
Nếu tách ra thì ange có nghĩa là thiên thần, pain có nghĩa là
bánh mì nhưng ghép lại thì chữ angepain không có nghĩa. Diễn giả lại thất
bại một lần nữa trong việc dùng ngôn ngữ để giao tiếp. Tiếp đó là các kí tự:
N NAA NNM NWNWNWV, rồi lại là các âm thanh Mờ, mờ, gơ, gu, gu,
mờ, mờ, mờ mờm... cuối cùng là các chữ A ADIEU ADIEU APA. Lần này
thì Diễn giả thất bại hoàn toàn. Dù cố gắng đến đâu, Diễn giả cũng không thể
làm cho khán giả hiểu mình, không diễn đạt được điều mình mong muốn. Với
hình ảnh Diễn giả ở cuối vở kịch, con người hiện lên càng bi đát. Ngôn ngữ đã
bị phá huỷ trong các âm thanh, các kí tự vô nghĩa. Ngôn ngữ ở đây biểu hiện
tư duy tầm thường, thảm hại, sự tuyệt vọng của con người.
Xét trong toàn tác phẩm, ta thấy cái cô đơn, sự bi đát của con người
không chỉ được diễn tả bằng ngôn ngữ mà còn được diễn tả bằng sự im lặng.
Tác giả Ionesco đã dùng các chỉ dẫn Im lặng, Im lặng một lát, Im lặng
kéo dài, Im lặng hoàn toàn. Đây không phải là những phút im lặng thông
Lương Thị Hằng
19
K29G Ngữ Văn
Khoá luận tốt nghiệp
thường để chuyển tiếp lời thoại của nhân vật này với nhân vật khác mà là cái
im lặng thể hiện sự trống rỗng của cuộc sống con người. Tác giả phản ánh sự
xa lạ, tẻ nhạt, vô nghĩa của các quan hệ.
Ngôn ngữ trong vở kịch bị phá huỷ hoàn toàn khi ngôn ngữ được thay
thế bởi những cử chỉ, động tác. Khi khách đến dồn dập thì ông Già, Bà Già
phải liên tiếp đem ghế ra và xếp chỗ ngồi cho khách: Rồi trong một lúc lâu
không có tiếng người nói. Có tiếng sóng, tiếng thuyền, tiếng chuông kêu liên
hồi. Hoạt động nhộn nhịp đã lên đến mức độ cao nhất. Lúc này, các cửa đều
tự mở ra khép vào không ngừng. Cửa lớn trong cùng thì vẫn đóng. Ông Già,
Bà Già đi đi lại lại, không nói một lời, từ cửa này đến cửa kia, hai người đi
như lướt trên bánh xe (Chỉ dẫn của tác giả - 2 - 433). Nếu như ban đầu, ông
Già có thời gian dẫn khách vào chỗ, giới thiệu khách với Bà Già, giới thiệu
khách với nhau thì giờ đây ông không dẫn khách đến tận chỗ ngồi được, chỉ
lấy tay trỏ chỗ cho họ. Như vậy là ngôn ngữ đã mất chức năng giao tiếp.
Có thể nói, sự phá huỷ ngôn ngữ trong vở Những chiếc ghế không chỉ
biểu hiện sự khủng hoảng của tư duy mà còn nói lên một cách sắc nét trạng
thái cô đơn, tha hoá của con người.
Những chiếc ghế không chỉ biểu hiện rõ nét nghệ thuật kịch phi lí của
Ionesco qua sự phá huỷ ngôn ngữ mà còn qua sự phá huỷ nhân vật.
1.2.3. Sự phá huỷ nhân vật:
Ngôn ngữ có vai trò rất quan trọng trong tác phẩm văn học, là phương
tiện quan trọng nhất để bộc lộ tính cách nhân vật (7- 411). Nếu như nhân vật
trong kịch truyền thống hiện lên với đầy đủ đặc điểm về tính cách, cá tính,
nghề nghiệp, địa vị qua ngôn ngữ thì nhân vật trong tác phẩm kịch phi lí lại
không hiện lên với đầy đủ những đặc điểm đó. Trong vở Những chiếc ghế,
Ionesco đã xây dựng nên những nhân vật - phản nhân vật mang tính chất đặc
trưng cho loại hình kịch phí lí.
Lương Thị Hằng
20
K29G Ngữ Văn
Khoá luận tốt nghiệp
Thông thường, một nhân vật văn học cần có những dấu hiệu để ta nhận
ra như tên, tiểu sử, nghề nghiệp, tính cách, hành động nhưng nhân vật trong
Những chiếc ghế thì không. Nó không phải là nhân vật theo quan niệm xưa
nay. Đó là những nhân vật xuất thân từ một khung cảnh quen thuộc nhưng lại
không có lai lịch, nguồn gốc, họ tồn tại bên ngoài lịch sử. Nhân vật sống theo
từng hoàn cảnh nhất định, như bị câm, bị điếc hoặc ngược lại, họ bật lên một
thanh âm hay vung lên một cử chỉ, động tác nào đó như Diễn giả, vợ chồng
ông lão. Những nhân vật ấy là hiện thân của nỗi niềm tuyệt vọng, của cái vô
nghĩa và sự bất lực.
Trước hết, nhân vật xuất hiện trên sân khấu hay các nhân vật vô hình
đều không có tên riêng như: Ông Già, Bà Già, Phu nhân vô hình, Đại tá vô
hình, Diễn giả tuy có đôi lần ông lão gọi vợ bằng cái tên Sémiramis. Ta chỉ
biết ông già 95 tuổi, còn Bà Già 94 tuổi, ngoài ra không có thông tin gì về địa
vị, nghề nghiệp của họ. Đằng sau những cái không đó, ta nhận ra một cái
có đó là sự khủng hoảng tinh thần của con người, một kiểu nhân vật - phản
nhân vật. Đối với Ionesco, ông muốn xóa bỏ nốt cái tên ấy đi để các nhân vật
chỉ còn là những mặt nạ thật sự, bị hoà tan vào đám đông (3 - 804).
Nhân vật trong Những chiếc ghế còn là những con người ngớ ngẩn,
kệch cỡm, ngôn từ và cử chỉ không thiếu sắc thái hài hước. Những câu nói của
Ông Già về Paris - thành phố ánh sáng thể hiện một lí trí không đáng tin cậy,
một tư duy tầm thường, thảm hại.
Bà Già - Paris ư? Chưa bao giờ có một nơi thế, ông ạ.
Ông Già - Có thành phố này chứ, vì nó đã sụp đổ Đó là thành phố
ánh sáng, vì nó đã lụi đi, lụi đi từ bốn trăm nghìn năm
nay Giờ đây, chẳng còn gì nữa, trừ một bài hát.
Bà Già - Một bài hát thực sự ư? Kì quặc nhỉ? Bài hát nào?
Ông Già - Một bài hát ru, một bài ngụ ngôn - Paris sẽ là Paris mãi
mãi. (2 - 405, 406).
Lương Thị Hằng
21
K29G Ngữ Văn
Khoá luận tốt nghiệp
Trong khi đó, thành phố Paris vẫn tồn tại. Đây chính là một cách thể
hiện kiểu nhân vật tồn tại bên ngoài lịch sử, không có gắn bó xã hội hoặc
chính trị.
Thậm chí, Bà Già đã có lúc phanh áo, vén váy, uốn éo làm duyên với
khách: Bà Già (với Người thợ khắc ảnh; õng ẹo, kệch cỡm, trong hồi diễn
này bà mỗi lúc hai càng õng ẹo, kệch cỡm hơn, bà giơ đôi tất đỏ to xù, bà vén
cả mớ váy của bà lên, để lộ ra chiếc váy lót rách rưới, tô hô cả bộ ngực già
nua; rồi hai tay để bên hông, bà ngửa đầu ra sau, thét lên những tiếng khoái
lạc, ưỡn bụng, dạng chân, bà cười, cái cười của một mụ gái điếm về già;).
Theo đánh giá của tác giả điều đó bộc lộ một nhân cách che giấu của Bà
Già, một nhân cách nhanh chóng và bất ngờ bị kiềm chế (2 - 423).
Con người trong sáng tác của E.Ionesco cũng như của các nhà viết kịch
phi lí khác đều thật tầm thường, thảm hại và bi đát, cái bi đát được hiện lên từ
những chi tiết mang tính hài hước. Trong Những chiếc ghế, trừ Ông Già, Bà
Già, nhân vật không phải là vô hình thì cũng là một người câm, điếc, như một
cái máy kí và phân phát chữ kí, trong miệng phát ra những âm thanh ú ớ, vô
nghĩa. Sống cô đơn trên một hòn đảo nhỏ, Ông Già đã có một cách giết thời
gian đó là soạn thảo một bản thông điệp với hai giờ một ngày. Ông đã tổ chức
một buổi tiếp khách để thông báo cho toàn nhân loại về bản thông điệp đó,
ông thuê một Diễn giả nói thay mình. Những vị khách vô hình cũng như độc
giả, khán giả xem kịch hồi hộp chờ đợi vị Diễn giả xuất hiện, chờ đợi bản
thông điệp. Nhưng kết quả thì sao? Xuất hiện trước mắt chúng ta là một con
người bằng xương bằng thịt với hình dáng, cách ăn mặc, tư thế, cử chỉ, động
tác đáng cười: Đó là kiểu nhà hoạ sĩ hoặc nhà thơ của thế kỉ trước, mũ phớt
đen rộng vành, ca vát Lavalie buộc cổ, áo sơ mi rộng, có râu cằm và ria mép,
dáng điệu kép hát tự phụ ông đứng ngây trong tư thế trang nghiêm. . . Như
cái máy, lặng lẽ, Diễn giả kí và phân phát rất nhiều chữ kí (2 449) (Chỉ
dẫn của tác giả).
Lương Thị Hằng
22
K29G Ngữ Văn
Khoá luận tốt nghiệp
Không dừng lại ở đó, Diễn giả còn làm cho người đọc, người xem càng
thất vọng khi phát hiện ra ông là một người vừa câm vừa điếc. Không có một
bản thông điệp nào được thông báo, cái mà các vị khách vô hình cũng như
khán giả nhận được chỉ là những tiếng khò khè, rên rỉ, những tiếng hầm hừ
của người câm hay những kí tự, những thanh âm vô nghĩa. Rồi với dáng đi
ma quái, ông rời khỏi sân khấu với những tiếng cười tiếng rì rầm của đám
đông vô hình. Xây dựng nhân vật là những con người méo mó, ngớ ngẩn, hài
hước là một cách phá huỷ nhân vật của ngòi bút Ionesco. Đó là những con
người sản phẩm của một cuộc khủng khoảng xã hội. Nếu như các nhân vật
vô hình phải có vẻ hết sức thực thì Diễn giả lại có vẻ không thực, ông ta
như một cái máy. Hình tượng Diễn giả vừa câm vừa điếc như gián tiếp
muốn nói đến cái vô nghĩa và sự bất lực của những nỗi niềm tuyệt vọng.
Nhân vật trong Những chiếc ghế xuất hiện như những con rối, như những cái
máy họ chỉ có mặt trên sân khấu để tỏ ra rằng họ không tồn tại, hoặc nói
cách khác, họ chỉ tồn tại trên sân khấu một cách tạm thời, ảo ảnh (11 - 12).
Xưa nay nhân vật kịch phải có hành động và tính cách nhưng nhân vật
kịch phi lí không có cả hai thứ đó. Kịch diễn trên sân khấu thông thường là
phải thông qua hành động. Hành động hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cả ngôn
ngữ, cử chỉ, thái độ, quan hệ của diễn viên (7 -402). Đó là vấn đề thuộc nghệ
thuật biểu diễn dưới sự chỉ đạo của đạo diễn, nhưng phải dựa vào cơ sở kịch
bản. Toàn bộ buổi biểu diễn sẽ có một hệ thống tập hợp tất cả những hành
động của nhân vật thành hành động quán xuyến thể hiện tư tưởng chủ đề
chung của toàn vở. Trong vở Những chiếc ghế, Ông Già, Bà Già và Diễn giả
đều có những hành động nhưng thực chất đó chỉ là những cử động, động tác.
Hầu như suốt vở kịch, Ông Già, Bà Già chỉ lặp đi lặp lại động tác mở cửa,
khuân ghế ra, sắp xếp chỗ ngồi cho những vị khách vô hình như những con
rối. Hay như Diễn giả chỉ có động tác kí và phân phát chữ kí, viết những kí tự
lên bảng, làm những dấu hiệu của con người vừa câm vừa điếc. Đó không phải
Lương Thị Hằng
23
K29G Ngữ Văn
Khoá luận tốt nghiệp
là hành động kịch theo đúng nghĩa của nó. Nhà phê bình Michel Corvin nhận
xét: Đây là một thứ kịch không hành động, lặp đi lặp lại và chạy theo vòng
tròn. Nó phá vỡ hệ thống chờ đợi của người xem bằng cách không cho kịch
có ý nghĩa. Bị chia vụn, đứt đoạn, không ăn nhập với nhau, giậm chân tại
chỗ... và đó chính là đặc tính của kịch phi lí.
Tâm lí là cơ sở lôgic của mọi hành động và tạo nên sự nhất quán của
tính cách nhân vật. Khi cái lôgic bị loại khỏi sân khấu, thay thế bằng cái phi lí
và nguyên tắc sự đồng nhất của các mặt đối lập thì tâm lí nhân vật cũng bị phủ
nhận dẫn đến sự xuất hiện kiểu nhân vật khác hẳn. Kết quả là nhân vật mất
tính xác định. Là một trong những vở kịch tiêu biểu của Ionesco nói riêng,
của trào lưu kịch phi lí nói chung, nhân vật trong vở Những chiếc ghế cũng
mất tính xác định. Dù ta ít nhiều còn thấy bóng dáng tâm lí ở Ông Già và
Bà Già như buồn, hồi hộp, xúc động. . . nhưng ta lại không thấy nét tính cách
ở họ theo nghĩa sự khái quát về bản chất xã hội, lịch sử, tâm lí của con người
dưới hình thức những con người cá thể. Không thấy nét tính cách như: yêu
thương, khát vọng, dịu dàng, trung thực, thẳng thắn. . . Tác giả Ionesco viết
trong Ghi chú và phụ chú: Không có các tính cách, mà là những nhân vật
chẳng xác định (chúng trở thành mặt đối lập với chính bản thân chúng bất cứ
lúc nào, chúng thế chỗ cho những người khác và ngược lại): đơn thuần chỉ là
một chuỗi không có mạch lạc, một dãy kết hợp ngẫu nhiên, không có mối
quan hệ nhân quả. Như vậy, các nhân vật trong Những chiếc ghế đều có
những hành động nhưng không phải hành động mang tính cách mà chỉ là
những động tác, cử động, nó tô đậm sự vô nghĩa của con người, của cuộc đời.
Nhân vật không ý thức được hành động khuân ghế, tiếp khách của mình là vô
nghĩa, phi lí.
Sự phá huỷ nhân vật một cách triệt để trong vở Những chiếc ghế thể
hiện ở chỗ: nhân vật bị đồ vật hoá. Vở Những chiếc ghế là điển hình cho sự
diễn đạt hiện tượng vật thể hoá, cho tâm trạng trống rỗng và bất lực của con
Lương Thị Hằng
24
K29G Ngữ Văn
Khoá luận tốt nghiệp
người (2 - 58). Ngay ở nhan đề vở kịch Những chiếc ghế, ta đã có thể đoán
định được đồ vật sẽ chiếm lĩnh địa vị áp đảo. Khách vô hình tới càng ngày
càng đông, đồng nghĩa với nó là ghế được đem ra sân khấu càng ngày càng
nhiều, chiếm hết sân khấu, hai ông bà bị đẩy, mỗi người dạt vào một bên cửa
sổ, họ không nhìn thấy nhau. Cuối cùng cả hai đều rơi tõm xuống nước (hai
người tự vẫn). Hai ông bà lão vừa là biểu hiện cụ thể, vừa là hình ảnh góp
phần tăng thêm ấn tượng hư không tuyệt vọng do những chiếc ghế tạo ra:
Xác hai ta sẽ nằm cách xa nhau, chúng ta sẽ rữa nát trong sự cô đơn(2 453), họ trở thành một đôi cô đơn. Sự xuất hiện liên tiếp của những chiếc ghế
trống không có ý nghĩa rất lớn. Nó góp phần làm rõ sự vắng mặt của con
người, sự vắng mặt của Hoàng đế, sự vắng mặt của Thượng đế, sự vắng mặt
của vật chất, tính không thực của thế giới, cái trống rỗng siêu hình, đề tài của
vở kịch là cái hư không ( Ionesco - Ghi chú và phụ chú). Sự hiện diện của
những chiếc ghế trống không càng khác thường bao nhiêu càng làm nổi bật sự
vắng mặt tượng trưng cho cái bản thể luận bấy nhiêu. Đó chính là một kiểu
tiêu diệt nhân vật bằng đồ vật hoá.
Với kiểu tiêu diệt nhân vật bằng đồ vật hoá, Ionesco đã phát triển
phong phú hơn và mang tính chất độc đáo hơn thủ pháp huyền thoại hoá.
Những chiếc ghế thực sự là vở kịch điển hình về huyền thoại hoá sân khấu.
Ionnesco kể với C. Bonnefoy rằng các cặp nhân vật trong kịch của ông là bản
thân thế giới, đó là đàn ông và đàn bà, Adam và Eva, là hai nửa nhân loại bị
phân chia tìm cách họp lại với nhau, hợp nhất với nhau. Trong vở Những
chiếc ghế, thế giới đã trở thành đồ vật hoá và trở về với thuỷ tổ huyền thoại
của loài người: Ông Già và Bà Già bị biển cả bao vây, họ trở thành một đôi cô
đơn khi khách tới đông quá, hai vợ chồng bị dạt ra mỗi người một góc, người
ta chỉ còn nhìn thấy những cánh tay chới với trên đầu các vị khách vô hình, để
rồi cuối cùng cả hai cùng rơi xuống biển.
Lương Thị Hằng
25
K29G Ngữ Văn