Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Cố đô hoa lư trong hành trình tiến tới đại lễ kỷ niệm 1000 năm hoa lư thăng long hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.27 MB, 103 trang )

Cố đô Hoa Lư trong hành trình tiến tới đại lễ kỷ niệm 1000 năm Hoa Lư –Thăng Long– Hà Nội

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
***********

NGUYỄN THỊ VÂN ANH

CỐ ĐÔ HOA LƯ TRONG HÀNH TRÌNH
TIẾN TỚI ĐẠI LỄ KỶ NIỆM 1000 NĂM
HOA LƯ – THĂNG LONG – HÀ NỘI

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Việt Nam học

HÀ NỘI – 2010

NguyÔn ThÞ V©n Anh K32G_ViÖt Nam häc

1


Cố đô Hoa Lư trong hành trình tiến tới đại lễ kỷ niệm 1000 năm Hoa Lư –Thăng Long– Hà Nội

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
***********

NGUYỄN THỊ VÂN ANH

CỐ ĐÔ HOA LƯ TRONG HÀNH TRÌNH


TIẾN TỚI ĐẠI LỄ KỶ NIỆM 1000 NĂM
HOA LƯ – THĂNG LONG – HÀ NỘI

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Việt Nam học

Người hướng dẫn khoa học
PGS.TS ĐỖ HUY QUANG

HÀ NỘI – 2010

NguyÔn ThÞ V©n Anh K32G_ViÖt Nam häc

2


C ụ Hoa L trong hnh trỡnh tin ti i l k nim 1000 nm Hoa L Thng Long H Ni

Kính tặng bố mẹ!
Khóa luận tốt nghiệp này con xin kính tặng bố mẹ thay
cho lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất. Con cám ơn
bố mẹ đã cho con kết quả ngày hôm nay!
Con gái

Nguyễn Thị Vân Anh

Nguyễn Thị Vân Anh K32G_Việt Nam học

3



Cố đô Hoa Lư trong hành trình tiến tới đại lễ kỷ niệm 1000 năm Hoa Lư –Thăng Long– Hà Nội

Lêi c¶m ¬n
Hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành
và sâu sắc nhất tới:
- Thầy giáo hướng dẫn PGS.TS ĐỖ HUY QUANG người đã nhiệt tình
hướng dẫn, chỉ bảo tôi trong suốt quá trình làm khóa luận.
- Ban chủ nhiệm khoa cùng các thầy cô giáo khoa Ngữ văn - trường
Đại học Sư phạm Hà Nội 2.
- Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Ninh Bình.
Đã quan tâm, giúp đỡ, tạo điều kiện cho tôi hoàn thành đề tài nghiên
cứu của mình.

Hà Nội, tháng 5 năm 2010
Tác giả khóa luận

NguyÔn ThÞ V©n Anh

NguyÔn ThÞ V©n Anh K32G_ViÖt Nam häc

4


Cố đô Hoa Lư trong hành trình tiến tới đại lễ kỷ niệm 1000 năm Hoa Lư –Thăng Long– Hà Nội

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan khóa luận tốt nghiệp này là công trình riêng
của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Đỗ Huy Quang,

không sao chép, trùng lặp với bất kì công trình, tài liệu hay tác giả
nào khác. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Hà Nội, tháng 5 năm 2010.
Người cam đoan

Nguyễn Thị Vân Anh

NguyÔn ThÞ V©n Anh K32G_ViÖt Nam häc

5


Cố đô Hoa Lư trong hành trình tiến tới đại lễ kỷ niệm 1000 năm Hoa Lư –Thăng Long– Hà Nội

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài …………………………………......................................1
2. Lịch sử vấn đề…………………………...……………………………...….3
3. Mục đích nghiên cứu……………..……….………………………….…….4
4. Nhiệm vụ nghiên cứu……………………...……………………………….5
5. Đối tượng nghiên cứu…………………………...………………………….5
6. Phạm vi nghiên cứu…………………………...……………………………5
7. Phương pháp nghiên cứu…………………………………………………...6
8. Đóng góp của đề tài………………………………...………………………6
9. Bố cục khóa luận……………………………...……………………………6

Chương 1: HOA LƯ TRỞ THÀNH KINH ĐÔ CỦA NHÀ
NƯỚC ĐẠI CỒ VIỆT
1.1 Bối cảnh lịch sử Việt Nam thế kỷ X ...........................................................7

1.2 Vài nét về vua Đinh Tiên Hoàng và vua Lê Đại Hành…………………..11
1.2.1 Đinh Tiên Hoàng - Đinh Bộ Lĩnh................................................11
1.2.2 Lê Đại Hành – Lê Hoàn...............................................................15
1.3 Hoa Lư trở thành kinh đô của nhà nước Đại Cồ Việt ..............................19
Chương 2: KINH ĐÔ HOA LƯ DƯỚI THỜI ĐINH – TIỀN LÊ
2.1 Kinh đô Hoa Lư dưới thời nhà Đinh.........................................................24
2.1.1 Thành trì.......................................................................................24
2.1.1.1 Tổng thể..........................................................................25

`

2.1.1.2 Kỹ thuật xây thành..........................................................26
2.1.2 Cung điện.....................................................................................30
2.1.3 Chính trị - quân sự........................................................................31
2.1.4 Kinh tế - văn hóa..........................................................................35

NguyÔn ThÞ V©n Anh K32G_ViÖt Nam häc

6


Cố đô Hoa Lư trong hành trình tiến tới đại lễ kỷ niệm 1000 năm Hoa Lư –Thăng Long– Hà Nội

2.2 Kinh đô Hoa Lư dưới thời nhà Tiền Lê.....................................................36
2.2.1 Cung điện.....................................................................................36
2.2.2 Kiến trúc tôn giáo.........................................................................39
2.2.3 Chính trị - quân sự........................................................................41
2.2.4 Kinh tế - văn hóa..........................................................................45

Chương 3: CỐ ĐÔ HOA LƯ

3.1 Các di tích lịch sử, văn hóa tiêu biểu.........................................................49
3.1.1 Đền vua Đinh Tiên Hoàng...........................................................49
3.1.2 Đền vua Lê Đại Hành...................................................................54
3.1.3 Chùa Nhất Trụ..............................................................................59
3.1.4 Chùa Bích Động...........................................................................60
3.1.5 Đền Thái Vi..................................................................................61
3.2 Lễ hội tiêu biểu – hội Trường Yên............................................................62
3.3 Cảnh quan thiên nhiên...............................................................................63
3.3.1 Núi Mã Yên..................................................................................64
3.3.2 Động Am Tiên..............................................................................65
3.3.3 Xuyên Thủy động và Liên Hoa động...........................................66

Chương 4: CỐ ĐÔ HOA LƯ HƯỚNG TỚI ĐẠI LỄ KỶ
NIỆM 1000 NĂM HOA LƯ – THĂNG LONG – HÀ NỘI
4.1 Giá trị văn hóa và tiềm năng phát triển của cố đô Hoa Lư........................68
4.1.1 Giá trị văn hóa..............................................................................68
4.1.2 Tiềm năng phát triển du lịch........................................................70
4.2 Những định hướng và kế hoạch trước mắt và lâu dài…………………...71
4.2.1 Những dự án và kế hoạch trước mắt…………………………....72
4.2.2 Những định hướng và giải pháp phát triển lâu dài…………...…75

KẾT LUẬN

NguyÔn ThÞ V©n Anh K32G_ViÖt Nam häc

7


Cố đô Hoa Lư trong hành trình tiến tới đại lễ kỷ niệm 1000 năm Hoa Lư –Thăng Long– Hà Nội


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Trong tiến trình chung của lịch sử nhân loại, mỗi một quốc gia, một dân tộc,
một cộng đồng người đều có một lịch sử hình thành, phát triển, một nền văn minh,
văn hoá riêng, đặc trưng và là niềm tự hào của dân tộc ấy. Niềm tự hào thiêng liêng
và chính đáng của dân tộc ta là nền văn minh sông Hồng rực rỡ cùng với thiên anh
hùng ca bốn nghìn năm lịch sử bất hủ. Trong quá trình ấy, nhân dân ta đã viết nên
những trang sử vô cùng oanh liệt, hun đúc nên những truyền thống vẻ vang, để lại
rất nhiều kinh nghiệm và bài học quý báu. Các di sản văn hóa mà trong đó hình ảnh
các kinh đô – nơi thể hiện vương quyền của một quốc gia độc lập tự chủ, là nơi dẫn
chứng hùng hồn cho hiện thực lịch sử sinh động này.
Kinh đô Hoa Lư là kinh đô đầu tiên đánh dấu sự ra đời của nền độc lập tự
chủ ở Việt Nam. Một mốc son sáng trong lịch sử của dân tộc ta mấy ngàn năm dựng
nước và giữ nước. Là dấu chấm hết cho cả một thời kì dài gần 10 thế kỷ lầm than cơ
cực dưới ách đô hộ của phong kiến phương Bắc.
Từ sau thời kỳ Hùng - Thục, người Việt bị kẻ thù phương Bắc xâm lược và
cai trị hơn 1000 năm. Suốt thời gian đó, đã có rất nhiều cuộc nổi dậy của nhân dân
ta, nhưng đều bị đàn áp và dập tắt. Mãi cho tới thế kỷ X, năm 938 bằng chiến thắng
của Ngô Quyền trên sông Bạch Đằng, nhân dân ta mới giành được chủ quyền của
mình. Nhưng phải tới năm 968, đất nước ta mới hoàn toàn thống nhất dưới sự trị vì
của Đinh Tiên Hoàng – Đinh Bộ Lĩnh người đã có công dẹp loạn 12 sứ quân, lập
nên nhà nước Đại Cồ Việt lịch sử - một nhà nước phong kiến quân chủ trung ương
tập quyền độc lập, tự chủ, thống nhất đầu tiên ở Việt Nam. Và Hoa Lư chính là kinh
đô, là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội....... của cả nước, đồng thời cũng
là hình ảnh thu nhỏ của nhà nước Đại Cồ Việt thời kì này.

NguyÔn ThÞ V©n Anh K32G_ViÖt Nam häc

8



Cố đô Hoa Lư trong hành trình tiến tới đại lễ kỷ niệm 1000 năm Hoa Lư –Thăng Long– Hà Nội

Xét về mặt lịch sử, kinh đô Hoa Lư nằm trong một không gian, thời gian
mang tính bản lề quá độ, quan trọng: Hoa Lư tồn tại vào cuối thế kỷ thứ X và 10
năm đầu của thế kỷ XI – là thế kỷ phân cách giữa hai thời đại: thời đại một nghìn
năm Bắc thuộc và thời đại độc lập tự chủ; giữa một thời đại bị Hán hóa và một thời
đại phục hưng rồi phát triển lên văn hóa Đại Việt. Đã vậy, kinh đô Hoa Lư chấm
dứt vai trò trung tâm đất nước không phải vì thiên tai, địch họa, cũng không phải vì
loạn đảng, lật đổ… mà vì yêu cầu thực tiễn khi đất nước đã đánh tan thù trong giặc
ngoài, cần có một kinh đô mới to lớn hơn, phồn thịnh hơn xứng tầm với một quốc
gia độc lập tự chủ thống nhất, có đủ điều kiện xây dựng, phát triển đất nước trong
các giai đoạn sau. Chúng ta có thể tin rằng kinh đô cũ bị chôn vùi dưới lòng đất hi
vọng có ngày được khai quật. Chính vì thế việc tìm hiểu về kinh đô Hoa Lư dưới
hai vương triều Đinh – Lê đã trở thành niềm say mê của biết bao nhiêu người có
tâm huyết với lịch sử và văn hóa nước nhà.
Nghiên cứu, tìm hiểu kinh đô Hoa Lư bao giờ cũng cần thiết, bây giờ lại
càng cần thiết hơn khi mà chúng ta đang bước gần đến đại lễ kỷ niệm một ngàn năm
Hoa Lư – Thăng Long – Hà Nội. Đây là việc quan trọng và ý nghĩa không chỉ với
Ninh Binh mà còn đối với cả nước. Vấn đề này không chỉ cần thiết đối với các nhà
nghiên cứu lịch sử, các nhà nghiên cứu khoa học mà còn để góp phần giáo dục thế
hệ trẻ có thêm hiểu biết về cội nguồn dân tộc và tự hào hơn về lịch sử nước nhà.
Nhận thức được giá trị khoa học cũng như giá trị thực tiễn của kinh đô Hoa
Lư đối với truyền thống lịch sử - văn hóa dân tộc, lại là một người con sinh ra trên
quê hương Ninh Bình, mảnh đất Cố đô địa linh nhân kiệt, tuổi thơ tôi đã được biết
đến những “câu ca tập trận”, những “hội diễn cờ lau”. Khi lớn lên trở thành một
sinh viên ngành Việt Nam học, được đi sâu tìm hiểu đất nước, văn hóa, con người
Việt Nam một cách hệ thống và khoa học. Thì tìm hiểu về Hoa Lư một kinh đô lịch
sử không chỉ là nhiệm vụ mà còn là sở thích, niềm đam mê của tôi. Chính vì vậy mà
tôi chọn đề tài “Cố đô Hoa Lư trong hành trình tiến tới đại lễ kỷ niệm 1000 năm

Hoa Lư – Thăng Long – Hà Nội”.

NguyÔn ThÞ V©n Anh K32G_ViÖt Nam häc

9


Cố đô Hoa Lư trong hành trình tiến tới đại lễ kỷ niệm 1000 năm Hoa Lư –Thăng Long– Hà Nội

2. Lịch sử vấn đề
Từ khi kinh đô Hoa Lư ra đời cho tới nay, có thể nói dài suốt thời gian ngàn
năm đó, thời nào cũng có các sử gia, các nhà nghiên cứu quan tâm tìm hiểu và ghi
chép, khảo cứu và mô tả về nó. Các tài liệu ấy bao gồm: cả tài liệu trong nước và
ngoài nước, cả tài liệu viết bằng chữ Hán, chữ Nôm, chữ Quốc ngữ. Nguồn tài liệu
này khá phong phú, nhưng hầu như chưa có một tác phẩm, một công trình tầm cỡ
nào chuyên khảo cứu về kinh đô thế kỷ X này.
Thời Trần một tác giả khuyết danh đã viết “Đại Việt sử lược” là cuốn sử xưa
nhất về Hoa Lư.
Thời Lê: Nguyễn Trãi viết “Dư địa chí”; Ngô Sỹ Liên viết “Đại Việt sử ký
toàn thư”.
Sang thời Nguyễn, các bộ sử, đặc biệt là các thể loại chí đua nhau ra đời và
đề cập ít nhiều đến kinh đô Hoa Lư trong đó quan trọng nhất là “Cương mục”,
“Đại Nam nhất thống chí”, “ Ninh Bình phong vật quý”, “Ninh Bình toàn tỉnh
địa chí khảo biên”.
Đó là những ghi chép khảo tả, chú giải về kinh đô Hoa Lư thế kỷ X trong các
bộ sử của nước nhà từ thời Nguyễn trở về trước. Riêng tài liệu nước ngoài, đáng
chú ý là lời tâu của sứ giả Tống Cảo – nhà Tống và bài nghiên cứu của học giả Pháp
G.Đuy – mu – chi – e.
Từ năm 1945 đến nay, một loạt các bài nghiên cứu về hai vương triều Đinh –
Lê và kinh đô Hoa Lư được đăng tải rải rác trên các báo, tạp chí, hoặc in thành sách.

Đi tiên phong giai đoạn này là các nhà sử học, khảo cổ học, bảo tàng học đặc biệt là
bảo tàng Hà Nam Ninh. Có thể kể tới một số tài liệu như:
Bài “Thành Hoa Lư và những di tích mới phát hiện” – Phạm Văn Kỉnh,
Nguyễn Minh Chương.

NguyÔn ThÞ V©n Anh K32G_ViÖt Nam häc

10


Cố đô Hoa Lư trong hành trình tiến tới đại lễ kỷ niệm 1000 năm Hoa Lư –Thăng Long– Hà Nội

Bài “Vài nét về kinh đô Hoa Lư” – Trần Đăng Ngọc.
Cuốn “Kinh đô cũ Hoa Lư” – Nguyễn Thế Giang.
Cuốn “Kinh đô Hoa Lư dưới thời Đinh – Tiền Lê” – Đặng Công Nga.
Bên cạnh đó không thể không kể tới các tài liệu khảo cổ học, các kết quả
khai quật, báo cáo khảo cổ của bảo tàng Hà Nam Ninh, bảo tàng lịch sử Việt Nam.
Tuy nhiên cũng cần thấy rằng nguồn sử liệu thành văn quả là ít ỏi, có lúc còn
mang yếu tố truyền thuyết, dân gian thiếu tính chính xác và những gì có thì nhiều
người đã biết, đã viết. Về tư liệu khảo cổ học – nguồn tư liệu chính thì phát hiện lẻ
tẻ, tảm mạn và quá ít so với tầm cỡ một đô thành. Như giáo sư Viện trưởng Viện
khảo cổ học Viêt Nam đã nêu: “Công cuộc khảo cổ ở Hoa Lư cũng mới chỉ bắt
đầu, còn lâu chúng ta mới có đủ tài liệu khảo cổ để nhận thức được đầy đủ hình
ảnh Hoa Lư thế kỷ X”. Kinh đô Hoa Lư cũng được ghi chép trong một số trang
sách của người nước ngoài nhưng vô cùng ít ỏi, như tác giả G.Đuy – mu – chi – e.
Hơn nữa, nguồn tư liệu này cũng được nhiều người biết đến, nghiên cứu và khai
thác. Mong chờ những phát hiện lớn trong tương lai cũng không nhiều vì bản thân
kinh đô này tồn tại quá ngắn (42 năm) nhưng đã kết thúc vai trò một đô thành đã
quá lâu, hơn 1000 năm. Do đó, trên cơ sở kế thừa thành quả của các sử gia đi trước,
tôi có điều kiện để tổng hợp phân tích các nguồn tài liệu liên quan tới đề tài đã chọn

để làm sáng rõ những vấn đề nêu ra trong khóa luận. Từ đó có được cái nhìn đầy đủ
hơn về kinh đô Hoa Lư và hai vương triều Đinh, Tiền Lê. Nhưng do điều kiện thời
gian và kinh nghiệm nghiên cứu có hạn, bài khóa luận không thể tránh khỏi những
hạn chế và thiếu xót rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô và các bạn.
3. Mục đích nghiên cứu
- Tái hiện và làm sống dậy hình ảnh Kinh đô Hoa Lư trong lịch sử dưới thời
Đinh – Lê với tầm vóc và vai trò của nó để thấy được ý nghĩa lịch sử và giá trị văn

NguyÔn ThÞ V©n Anh K32G_ViÖt Nam häc

11


Cố đô Hoa Lư trong hành trình tiến tới đại lễ kỷ niệm 1000 năm Hoa Lư –Thăng Long– Hà Nội

hóa của Cố đô ngày nay trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Từ đó đề
xuất những kiến nghị và giải pháp nhằm bảo vệ, duy trì và phát huy nền văn hóa
dân tộc nói chung, văn hóa Cố đô nói riêng. Bên cạnh mục đích tuyên truyền, giáo
dục truyền thống dựng nước và giữ nước, đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” của dân
tộc và chào mừng các ngày lễ lớn, hội lớn còn góp phần bảo tồn, phát huy giá trị
lịch sử, văn hóa của dân tộc; quảng bá hình ảnh Ninh Bình tới du khách trong và
ngoài nước.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu lí do Hoa Lư trở thành kinh đô của nước Đại Cồ Việt thế kỷ X.
- Thu thập tài liệu, chứng cứ để phục dựng lại hình ảnh Kinh đô Hoa Lư
trong ở các mặt: Thành trì, cung điện, kiến trúc, chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa.
- Khắc họa hình ảnh Cố đô Hoa Lư hiện tại trong hành trình tiến tới đại lễ kỷ
niệm 1000 năm Hoa Lư – Thăng Long – Hà Nội với các di tích lịch sử văn hóa, các
danh thắng và các hình thức sinh hoạt văn hóa, lễ hội truyền thống.
- Đề xuất những phương hướng, kế hoạch và giải pháp phát triển văn hóa,

kinh tế trước mắt và lâu dài ở Cố đô Hoa Lư.
5. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của bài khóa luận là: “Kinh đô Hoa Lư trong sách sử,
trong khảo cổ và hiện trạng”.
6. Phạm vi nghiên cứu
Khóa luận chỉ tiến hành nghiên cứu hiện trạng, tình hình cố đô Hoa Lư trong
những năm gần đây trong phạm vi cụm di tích văn hóa lịch sử cố đô Hoa Lư đã
được quy hoạch, khoanh vùng. Tuy nhiên để có cái nhìn toàn diện bao quát, khóa
luận có mở rộng tìm hiểu thêm về kinh đô Hoa Lư dưới thời Đinh – Tiền Lê.

NguyÔn ThÞ V©n Anh K32G_ViÖt Nam häc

12


Cố đô Hoa Lư trong hành trình tiến tới đại lễ kỷ niệm 1000 năm Hoa Lư –Thăng Long– Hà Nội

7. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lịch sử.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu, thư viện.
- Phương pháp điền dã, thực nghiệm.
- Phương pháp đối chiếu so sánh, logic.
8. Đóng góp của đề tài.
- Bổ sung thêm nguồn tài liệu nghiên cứu về Cố đô Hoa Lư.
- Góp phần nâng cao nhận thức cộng đồng về lịch sử, văn hóa truyền thống,
giáo dục tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ.
- Đồng thời góp phần giới thiệu và quảng bá hình ảnh của Cố đô Hoa Lư nói
riêng và mảnh đất Ninh Bình nói chung tới du khách trong và ngoài nước.
9. Bố cục khóa luận
Ngoài các danh mục như: Mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, bố cục bài

khóa luận bao gồm 4 phần cơ bản tương ứng với 4 chương như sau:
Chương 1: Hoa Lư trở thành kinh đô của nhà nước Đại Cồ Việt
Chương 2: Kinh đô Hoa Lư dưới thời Đinh – Tiền Lê
Chương 3: Cố đô Hoa Lư
Chương 4: Cố đô Hoa Lư hướng tới đại lễ kỷ niệm 1000 năm Hoa Lư -Thăng
Long – Hà Nội.

NguyÔn ThÞ V©n Anh K32G_ViÖt Nam häc

13


Cố đô Hoa Lư trong hành trình tiến tới đại lễ kỷ niệm 1000 năm Hoa Lư –Thăng Long– Hà Nội

Chương 1: HOA LƯ TRỞ THÀNH KINH ĐÔ CỦA
NHÀ NƯỚC ĐẠI CỒ VIỆT
1.1 Bối cảnh lịch sử Việt Nam thế kỷ X
Thế kỷ X là một giai đoạn lịch sử đầy biến động, được coi là bản lề, ngăn
cách hai thời kỳ: thời kỳ 1000 năm Bắc thuộc và thời kỳ độc lập tự chủ, giữa thời
đại bị Hán hóa và thời đại phục hưng rồi phát triển về sau.
Mở đầu là sự kiện Khúc Thừa Dụ lãnh đạo dân chúng nổi dậy giành chính
quyền tự chủ từ tay bọn đô hộ phong kiến phương Bắc (năm 905) giành thắng lợi,
đặt nền móng cho kỷ nguyên độc lập tự chủ. Năm 907 Khúc Thừa Dụ chết, Khúc
Thừa Mỹ thay cha nắm quyền. Năm 931 Khúc Thừa Mĩ bị giặc bắt đưa về Quảng
Châu, quân Nam Hán chiếm thành Đại La rồi tiến quân xuống phía Nam cướp phá.
Dương Đình Nghệ từ Ái Châu tiến ra đánh đuổi quân giặc, xưng là Tiết Độ sứ, tiếp
nối sự nghiệp của họ Khúc.
Năm 937 Dương Đình Nghệ bị nha tướng của mình là Kiều Công Tiễn giết
hại. Được tin đó Ngô Quyền từ Ái Châu cất quân ra đánh tên phản đồ Kiều Công
Tiễn. Cùng đường tên này phải cầu cứu quân Nam Hán, tạo cơ hội cho chúng quay

trở lại xâm lược nước ta.
Năm 938 Ngô Quyền giết chết Kiều Công Tiễn, đánh tan quân Nam Hán bảo
vệ quyền tự chủ vừa mới giành được, xưng vương, định đô ở Loa Thành (Cổ Loa)
và xây dựng nhà nước độc lập, tỏ ý tiếp nối nước Âu Lạc xưa.
Ngô Quyền ở ngôi đến năm 944 thì mất. Anh/em vợ của Ngô Quyền là
Dương Tam Kha cướp ngôi, xưng là Dương Bình Vương. Các nơi không chịu thuần
phục, nhiều thủ lĩnh nổi lên cát cứ một vùng thường đem quân đánh chiếm lẫn nhau.
Năm 950, Ngô Xương Văn, con thứ hai của Ngô Quyền, lật đổ Dương Tam Kha

NguyÔn ThÞ V©n Anh K32G_ViÖt Nam häc

14


Cố đô Hoa Lư trong hành trình tiến tới đại lễ kỷ niệm 1000 năm Hoa Lư –Thăng Long– Hà Nội

giành lại ngôi vua. Sau đó Ngô Xương Văn đón anh trai là Ngô Xương Ngập về
cùng làm vua. Đến năm 954, Ngô Xương Ngập bị bệnh mất.
Năm 965, Ngô Xương Văn đi đánh thôn Đường và Nguyễn ở Thái Bình bị
phục binh bắn chết. Con của Ngô Xương Ngập là Ngô Xương Xí nối nghiệp, quá
suy yếu phải về đóng giữ đất Bình Kiều. Từ năm 966, hình thành 12 sứ quân, sử gọi
là loạn 12 sứ quân:
1. Ngô Xương Xí giữ Bình Kiều (Triệu Sơn - Thanh Hóa).
2. Đỗ Cảnh Thạc tự xưng là Đỗ Cảnh Công, giữ Đỗ Động Giang (Thanh Oai,
Hà Nội)
3. Trần Lãm tự xưng là Trần Minh Công, giữ Bố Hải Khẩu - Kỳ Bố (Thái
Bình)
4. Kiều Công Hãn tự xưng Kiều Tam Chế, giữ Phong Châu - Bạch Hạc (Việt
Trì và Lâm Thao, Phú Thọ)
5. Nguyễn Khoan tự xưng Nguyễn Thái Bình, giữ Tam Đái (Vĩnh Tường, Vĩnh

Phúc)
6. Ngô Nhật Khánh tự xưng là Ngô Lãm Công, giữ Đường Lâm (Sơn Tây, Hà
Nội)
7. Lý Khuê tự xưng là Lý Lãng, giữ Siêu Loại (Thuận Thành, Bắc Ninh)
8. Nguyễn Thủ Tiệp tự xưng là Nguyễn Lệnh Công, giữ Tiên Du (Bắc Ninh)
9. Lã Đường tự xưng là Lã Tá Công, giữ Tế Giang (Văn Giang, Hưng Yên)
10. Nguyễn Siêu tự xưng là Nguyễn Hữu Công, giữ Tây Phù Liệt (Thanh Trì, Hà
Nội)
11. Kiều Thuận tự xưng là Kiều Lệnh Công, giữ Hồi Hồ - Cẩm Khê (Phú Thọ)
12. Phạm Bạch Hổ tự xưng là Phạm Phòng Át, giữ Đằng Châu (Hưng Yên)
Ngoài ra còn một số thế lực khác như Ngô Xử Bình, Dương Huy và đặc biệt
là Đinh Bộ Lĩnh mà sử cũ không chép vào hàng các sứ quân, ngay từ những năm
950 thanh thế đã nổi, khiến cho Nam Tấn Vương lo sợ, đem quân tiến đánh. Nhưng

NguyÔn ThÞ V©n Anh K32G_ViÖt Nam häc

15


Cố đô Hoa Lư trong hành trình tiến tới đại lễ kỷ niệm 1000 năm Hoa Lư –Thăng Long– Hà Nội

nhờ sức chiến đấu quyết liệt và sự ủng hộ của nhân dân, Đinh Bộ Lĩnh đã buộc Nam
Tấn Vương phải rút lui.
Nhà Ngô đổ, tình hình đất nước rối loạn, Đinh Bộ Lĩnh quyết định tiến công
đánh các sứ quân. Để tăng thêm lực lượng, ông đã liên kết với sứ quân Trần Lãm,
sau đó chiêu dụ sứ quân Phạm Tòng Át, rồi tiến ra Giao Châu. Các sứ quân lần lượt
bị đánh bại hoặc xin hàng. Đến cuối năm 967, đất nước trở lại yên bình, thống nhất.
Năm 968 Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi hoàng đế, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt,
đóng đô ở Hoa Lư, niên hiệu Thái Bình. Một quốc gia độc lập, có quốc hiệu, có nhà
nước riêng do hoàng đế đứng đầu được xác lập.

Năm 978, Đinh Tiên Hoàng bỏ con trưởng, lập con thứ là Hạng Lang làm
thái tử. Đinh Liễn là con trưởng lại có công lớn trong sự nghiệp thống nhất đất
nước, đã không chấp nhận điều này, cho người ngầm giết hại Hạng Lang.
Năm 979, nhân một bữa tiệc rượu trong cung, cả hai cha con Đinh Bộ Lĩnh
và Đinh Liễn đều bị một viên quan hầu tên là Đỗ Thích ám sát. Đỗ Thích bị bắt giết.
Triều thần đưa Vệ vương Đinh Đế Toàn mới 6 tuổi lên ngôi, Thập đạo tướng quân
Lê Hoàn được cử làm phụ chính. Và nghi ngờ Lê Hoàn có ý định cướp ngôi, các
trung thần của nhà Đinh: Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Phạm Hạp đã đưa quân về kinh
định giết ông. Kết quả cả 3 đều bị giết chết [8;157].
Nhà Tống nhân cơ hội đó ráo riết điều quân chuẩn bị sang xâm lược nước ta.
Trước tình thế nguy nan thái hậu Dương Vân Nga và triều thần đã trao áo lông cổn
tôn Thập đạo tướng quân Lê Hoàn lên ngôi, nhà Tiền Lê được thành lập.
Lê Hoàn đã cùng các tướng lĩnh huy động quân sĩ cùng nhân dân khẩn
trương chuẩn bị chống giặc. Theo kế của Ngô Quyền, ông sai đóng cọc nhọn ở cửa
sông Bạch Đằng, ngăn thủy quân của giặc, đặt một số đồn quân biên giới Đông Bắc
ngăn quân bộ. Năm 981 quân Tống ồ ạt tiến vào nước ta nhưng vấp phải sự kháng

NguyÔn ThÞ V©n Anh K32G_ViÖt Nam häc

16


Cố đô Hoa Lư trong hành trình tiến tới đại lễ kỷ niệm 1000 năm Hoa Lư –Thăng Long– Hà Nội

cự quyết liệt, không lâu sau bị đánh tan buộc phải rút quân về nước. Một lần nữa
nhân dân ta bằng sức chiến đấu anh dũng của mình đã khẳng định quyền làm chủ
đất nước, bảo vệ vững chắc thành quả đấu tranh và xây dựng của tổ tiên mình
[14;117].
Cũng trong năm 979 vua Chămpa nghe lời xúi giục của Ngô Nhật Khánh
(phò mã của nhà Đinh) đã cho thủy quân tiến ra, định xâm lấn vùng Nam Đại Cồ

Việt. Nhưng thuyền bị bão đánh đắm, buộc phải chạy về nước. Năm 982, sau khi
đánh bại quân Tống, Lê Hoàn quyết định đem quân đánh Chămpa, tiến thẳng đến
kinh đô phá hủy thành trì rồi rút về [14;117].
Năm 1005 Lê Hoàn chết, Long Việt lên nối ngôi được 3 ngày thì Long Đĩnh
cướp ngôi. Xảy ra cuộc chiến giữa các hoàng tử và Long Đĩnh kéo dài xuốt 8 tháng.
Cuối cùng Lê Long Đĩnh giành phần thắng, lên ngôi vua, nhưng lại xoay sang ăn
chơi trụy lạc, không lâu sau thì chết do trọng bệnh. Một lần nữa triều thần lại phải
chọn người kế vị.
Tháng 11 năm 1009, Lê Ngọa Triều chết, được sự ủng hộ của các nhà sư và
theo lời sấm ký, chi hậu Đào Cam Mộc cầm đầu một số triều thần đưa Tả thần vệ
điện tiền chỉ huy sứ Lý Công Uẩn lên làm vua, mở đầu triều đại nhà Lý. Năm 1010
Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư ra thành Đại La, khép lại một thế kỷ đầy biến động,
kinh đô Hoa Lư trở thành Cố đô.
Có thể nói “Thế kỷ X, mở đầu thời kỳ độc lập dân tộc, nói đúng hơn là thế
kỷ xây dựng quốc gia Việt Nam – một quốc gia dân tộc và thống nhất” [18;13].
Lịch sử dân tộc sáng lên một mốc son mới, rực rỡ huy hoàng, xua tan mây đen, đẩy
lùi bóng tối gần 1000 năm Bắc thuộc, đón chào ánh nắng của buổi bình minh phong
kiến độc lập, tự chủ.

NguyÔn ThÞ V©n Anh K32G_ViÖt Nam häc

17


Cố đô Hoa Lư trong hành trình tiến tới đại lễ kỷ niệm 1000 năm Hoa Lư –Thăng Long– Hà Nội

1.2 Vài nét về vua Đinh Tiên Hoàng và vua Lê Đại Hành
1.2.1 Đinh Tiên Hoàng – Đinh Bộ Lĩnh:
Đinh Tiên Hoàng (丁先皇), húy là Đinh Bộ Lĩnh (丁部領), là vị vua sáng
lập triều đại nhà Đinh, nước Đại Cồ Việt trong lịch sử Việt Nam. Ông là người có

công đánh dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất giang sơn và trở thành hoàng đế đầu tiên
của Việt Nam sau 1000 năm Bắc thuộc. Đại Cồ Việt là nhà nước mở đầu cho thời
đại độc lập, tự chủ, xây dựng chế độ quân chủ tập quyền ở Việt Nam.
Đinh Bộ Lĩnh sinh ngày Rằm tháng Hai, năm Giáp Thân (924) ở thôn Kim
Lư, làng Đại Hữu, châu Đại Hoàng (nay thuộc xã Gia Phương, Gia Viễn, Ninh
Bình). Cha của ông là Đinh Công Trứ, nha tướng của Dương Đình Nghệ, giữ chức
thứ sử Hoan Châu. Đinh Công Trứ mất sớm, Bộ Lĩnh theo mẹ về quê ở, nương nhờ
người chú ruột là Đinh Thúc Dự. Từ bé Đinh Bộ Lĩnh đã tỏ ra là người có khả năng
chỉ huy, ông cùng các bạn chăn trâu lấy bông lau làm cờ bày trận đánh nhau. Và
trong đám bạn đó, có Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Lưu Cơ và Trịnh Tú, những người
sau này cùng Đinh Bộ Lĩnh tạo nên sự nghiệp.
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép:
“Vua mồ côi cha từ bé, mẹ họ Đàm đưa gia thuộc vào ở cạnh đền sơn thần
trong động. Vào tuổi nhi đồng, vua thường cùng bọn trẻ con chăn trâu ngoài đồng.
Bọn trẻ tự biết kiến thức không bằng vua, cùng nhau suy tôn làm trưởng. Phàm khi
chơi đùa, thường bắt bọn chúng chéo tay làm kiệu khiêng và cầm hoa lau đi hai bên
để rước như nghi trượng thiên tử. Ngày rỗi, thường kéo nhau đi đánh trẻ con thôn
khác, đến đâu bọn trẻ đều sợ phục, hàng ngày rủ nhau đến phục dịch kiếm củi thổi
cơm. Bà mẹ thấy vậy mừng lắm, mổ lợn nhà cho chúng ăn. Phụ lão các sách bảo
nhau: "Đứa bé này khí lượng như thế ắt làm nên sự nghiệp, bọn ta nếu không theo
về, ngày sau hối thì đã muộn". Bèn dẫn con em đến theo, rồi lập làm trưởng ở sách
Đào Áo. Người chú của vua giữ sách Bông chống đánh với vua. Bấy giờ, vua còn ít

NguyÔn ThÞ V©n Anh K32G_ViÖt Nam häc

18


Cố đô Hoa Lư trong hành trình tiến tới đại lễ kỷ niệm 1000 năm Hoa Lư –Thăng Long– Hà Nội


tuổi, thế quân chưa mạnh, phải thua chạy. Khi qua cầu ở Đàm Gia Nương Loan,
cầu gãy, vua rơi xuống bùn, người chú toan đâm, bỗng thấy hai con rồng vàng hộ
vệ vua, nên sợ mà lui. Vua thu nhặt quân còn sót, quay lại đánh, người chú phải
hàng. Từ đấy ai cũng sợ phục, phàm đi đánh đến đâu đều dễ như chẻ tre, gọi là Vạn
Thắng Vương.”
Năm 944 Ngô Quyền mất, đất nước dần rơi vào loạn lạc, nhất là từ năm 965
khi hậu duệ của nhà Ngô không còn, thì nổi lên loạn 12 sứ quân cát cứ.
Đinh Bộ Lĩnh cũng tập hợp dân chúng ở vùng Hoa Lư. Sau đó, ông cùng con
trai là Đinh Liễn sang đầu quân trong đạo binh của sứ quân Trần Minh Công tức
Trần Lãm ở Bố Hải Khẩu (Thái Bình). Đinh Bộ Lĩnh cưới Trần Nương và trở thành
con rể của Trần Minh Công. Sau khi Trần Minh Công mất, Đinh Bộ Lĩnh thay
quyền, đưa quân về Hoa Lư, chiêu mộ binh lính, chống nhà Ngô và các sứ quân
khác. Chỉ trong vài năm, Đinh Bộ Lĩnh lần lượt đánh thắng 11 sứ quân khác, được
xưng tụng là Vạn Thắng Vương. Thắng lợi của Đinh Bộ Lĩnh là thắng lợi của xu
hướng thống nhất quốc gia, của tinh thần dân tộc và ý chí độc lập trong nhân dân.
Năm Mậu Thìn 968, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế, tự xưng là Đại Thắng
Minh Hoàng đế, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư [8;154]. “Đinh
Tiên Hoàng cho xây cung điện, chế triều nghi, định phẩm hàm quan văn, quan võ.
Vua phong cho Nguyễn Bặc là Định Quốc công, Đinh Điền là Ngoại giáp, Lê Hoàn
làm Thập đạo tướng quân, Lưu Cơ làm Đô hộ phủ sĩ sư, Tăng thống Ngô Chân Lưu
được ban hiệu là Khuông Việt đại sư, Trương Ma Ni làm Tăng lục, Đạo sĩ Đặng
Huyền Quang được làm Sùng chân uy nghi và phong cho con là Đinh Liễn là Nam
Việt vương. Vua lập 5 hoàng hậu là Đan Gia, Trinh Minh, Kiều Quốc, Cồ Quốc và
Ca Ông” [8;155].
Từ năm Canh Ngọ 970, bắt đầu đặt hiệu năm là Thái Bình. Đinh Tiên Hoàng
truyền cho đúc tiền đồng, là tiền tệ xưa nhất ở Việt Nam, gọi là tiền đồng Thái Bình
Hưng Bảo. Nhà Đinh cũng là triều đại đầu tiên đặt nền móng cho nền tài chính -

NguyÔn ThÞ V©n Anh K32G_ViÖt Nam häc


19


Cố đô Hoa Lư trong hành trình tiến tới đại lễ kỷ niệm 1000 năm Hoa Lư –Thăng Long– Hà Nội

tiền tệ của Nhà nước phong kiến Việt Nam. Đồng tiền Thái Bình được đúc bằng
đồng, hình tròn, lỗ vuông, có thể xâu thành chuỗi. Mặt phải có đúc bốn chữ "Thái
Bình Hưng Bảo", mặt sau có chữ "Đinh". Hầu hết gần 70 triều vua sau đó, triều nào
cũng cho đúc tiền của mình bằng đồng.
Về chính trị trong nước có phần quá thiên về sử dụng hình phạt nghiêm khắc.
Vua muốn dùng uy chế ngự thiên hạ, bèn đặt vạc lớn ở sân triều, nuôi hổ dữ trong
cũi, hạ lệnh rằng: "Kẻ nào trái phép phải chịu tội bỏ vạc dầu, cho hổ ăn". Mọi
người đều sợ phục không ai dám phạm.
Về ngoại giao, để tránh cuộc đụng độ, năm Nhâm Thân 972, Đinh Tiên
Hoàng sai con là Đinh Liễn sang cống nhà Tống - Trung Quốc. Vua nhà Tống sai
sứ sang phong cho Tiên Hoàng làm Giao Chỉ quận vương và phong cho Nam Việt
vương Đinh Liễn làm Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ An Nam đô hộ. Từ đó Đại Cồ Việt
giữ lệ sang triều cống phương Bắc [7;109]. Từ năm Thái Bình thứ 7 thuyền buôn
của các nước ngoài đến dâng sản vật của nước họ kết mối giao thương.
Về quân sự, Đinh Tiên Hoàng phân ra đạo, quân, lữ, tốt, ngũ. “Định ngạch
quân 10 đạo, mỗi đạo có 10 quân, 1 quân 10 lữ, 1 lữ 10 tốt, 1 tốt 10 ngũ, 1 ngũ 10
người” [3;56]. Như vậy quân đội nhà Đinh khi đó có 10 đạo, là khoảng 1 triệu
người trong khi dân số đất nước khoảng 3 triệu. Vua thực hiện “ngụ binh ư nông”,
đó là hình thức vũ trang toàn dân, dựa vào nghề nông mà phát triển quân đội.
Nhà sử học Lê Văn Hưu nhận xét:
"Tiên Hoàng nhờ có tài năng sáng suốt hơn người, dũng cảm mưu lược nhất
đời, đương lúc nước Việt ta không có chủ, các hùng trưởng cát cứ, một phen cất
quân mà mười hai sứ phục hết. Vua mở nước dựng đô, đổi xưng Hoàng Đế, đặt
trăm quan, lập sáu quân, chế độ gần đầy đủ, có lẽ ý Trời vì nước Việt ta mà sinh
bậc thánh triết..." [8;155].


NguyÔn ThÞ V©n Anh K32G_ViÖt Nam häc

20


Cố đô Hoa Lư trong hành trình tiến tới đại lễ kỷ niệm 1000 năm Hoa Lư –Thăng Long– Hà Nội

Nhà sử học Ngô Sĩ Liên nhận xét:
"Vận trời đất, bí rồi ắt thái, Bắc Nam đều cùng một lẽ ấy. Thời Ngũ đại bên
Bắc triều Trung Quốc suy loạn rồi Tống Thái Tổ nổi lên. Ở Nam triều nước ta, 12
sứ quân phân chia quấy nhiễu, rồi Đinh Tiên Hoàng nổi lên. Không phải là ngẫu
nhiên mà do vận trời vậy."
“Lịch triều hiến chương loại chí “ (Phan Huy Chú) nhận xét:
"Xét nước ta từ thời Hùng Vương mới bắt đầu thông hiếu với Trung Quốc
nhưng danh hiệu còn nhỏ không được dự vào hàng chư hầu triều hội... đến khi Đinh
Tiên Hoàng bình định các sứ quân, khôi phục mở mang bờ cõi, bấy giờ điển lễ,
sách phong của Trung Quốc mới cho đứng riêng là một nước"
Đại Việt sử ký toàn thư nhận xét:
"Vua tài năng sáng suốt hơn người, dũng cảm mưu lược nhất đời, quét sạch
các hùng trưởng... song không biết dự phòng, không giữ được trọn đời, tiếc thay! "
Đinh Tiên Hoàng có con trưởng là Đinh Liễn lại là người có công lớn trong
sự nghiệp dẹp loạn 12 sứ quân thống nhất nước nhà, nhưng ông lại lập con út Hạng
Lang làm Thái tử. Vì vậy đầu năm 979 Đinh Liễn tức giận sai người giết Hạng
Lang. Theo chính sử, năm Kỷ Mão 979, một viên quan là Đỗ Thích, mơ thấy sao rơi
vào miệng, tưởng là điềm báo được làm vua nên đã giết chết cả Đinh Tiên Hoàng và
Đinh Liễn. Đinh Tiên Hoàng làm vua được 12 năm, thọ 56 tuổi. Ông được táng ở
Sơn Lăng – núi Mã Yên - Trường Yên.
Các đền thờ Đinh Bộ Lĩnh có thể thấy ở nhiều vùng miền khác nhau như:
- Ninh Bình có 12 nơi thờ, trong đó có đền vua Đinh Tiên Hoàng ở khu di

tích Hoa Lư, đền thờ Đinh Bộ Lĩnh ở xã Gia Phương, đền Thung Lau ở động Hoa
Lư, Gia Viễn; đền Mỹ Hạ xã Gia Thủy - Nho Quan...

NguyÔn ThÞ V©n Anh K32G_ViÖt Nam häc

21


Cố đô Hoa Lư trong hành trình tiến tới đại lễ kỷ niệm 1000 năm Hoa Lư –Thăng Long– Hà Nội

- Nam Định có đền vua Đinh ở xã Yên Thắng, đình Thượng Đồng ở xã Yên
Tiến, Ý Yên; ở làng việt cổ Bách Cốc, Vụ Bản; đền vua Đinh ở Giao Thủy…
- Hà Nam có đền Lăng ở Thanh Liêm; đền Đặng Xá ở Văn Xá - Kim Bảng;
đền Ung Liêm ở Phủ Lý...
- Xa hơn là Đà Nẵng có đền thờ vua Đinh ở xã Hoà Khương, Hoà Vang;
Lạng Sơn có đền thờ Vua Đinh Tiên Hoàng ở thôn Quảng Trung xã Quảng Lạc,
thành phố Lạng Sơn; Thanh Hóa có đền Vua Đinh ở làng Quan Thành - Triệu
Sơn…….
1.2.2 Lê Đại Hành – Lê Hoàn
Lê Đại Hành (chữ Hán: 黎大行; tên húy là Lê Hoàn (黎桓), 941 – 1005) là
vị vua đầu tiên của nhà Tiền Lê, trị vì từ 980 đến 1005. Trong lịch sử Việt Nam, Lê
Hoàn không chỉ là một vị hoàng đế có những đóng góp lớn trong chống quân Tống
phương Bắc, quân Chiêm phương Nam, giữ gìn và củng cố nền độc lập dân tộc mà
còn có nhiều công lao trong sự nghiệp ngoại giao, xây dựng và kiến tạo đất nước
Đại Cồ Việt. Lê Hoàn cũng là người tạo tiền đề, điều kiện để thời gian sau đó Lý
Công Uẩn có đủ khả năng dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long năm 1010, mở ra một
kỷ nguyên phát triển lâu dài của văn hóa Thăng Long - Hà Nội, thủ đô hiện tại của
Việt Nam. Xung quanh vị Hoàng đế này còn nhiều điều chưa được sáng tỏ như vấn
đề thân thế, sự nghiệp, và thụy hiệu.
Về quê hương Lê Hoàn, vấn đề mà Ngô Thì Sĩ đặt ra từ thế kỷ 18, được thảo

luận nhiều lần dưới thời nhà Nguyễn cho đến nay các nhà sử học vẫn chưa đưa ra
được kết luận nơi đâu trong ba nơi: Ninh Bình, Thanh Hoá hay Hà Nam là quê
hương của ông. Năm 1981, tại hội thảo khoa học “Lê Hoàn và 1000 năm chiến
thắng giặc Tống xâm lược”, nhiều vấn đề chung về thế kỷ X, về quê hương, thân
thế, sự nghiệp của ông bước đầu được giải quyết. Thần tích Lê Hoàn tại lăng vua
Lê, làng Ứng Liêm (Hà Nam) giải thích có vẻ “hợp tình, hợp lý” tất cả những vấn

NguyÔn ThÞ V©n Anh K32G_ViÖt Nam häc

22


Cố đô Hoa Lư trong hành trình tiến tới đại lễ kỷ niệm 1000 năm Hoa Lư –Thăng Long– Hà Nội

đề khúc mắc về quê quán, xuất thân của Lê Hoàn. Thần tích cho biết ông sinh ra ở
xã Trường Yên, Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình. Ông nội là Lê Lộc và bà nội là Cao Thị
Phương; cha là Lê Hiền, mẹ là Đặng Thị Khiết. Nhà nghèo nên đã về xã Ninh Thái,
Thanh Liêm, Hà Nam làm nghề chài lưới, đơm đó bắt cá. Ngày mùng 10 tháng
Giêng năm Nhâm Tuất (941) sinh ra ông. Năm lên 7 tuổi, ông mồ côi cả cha lẫn mẹ,
phải làm con nuôi quan án châu Ái (Thanh Hoá). Các nhà sử học cho rằng vấn đề
quê hương Lê Hoàn còn phải tiếp tục nghiên cứu. Điều dễ nhận thấy là cả Ninh
Bình, Thanh Hóa và Hà Nam đều gắn bó mật thiết với cuộc đời và sự nghiệp của vị
vua này.
Cha mẹ qua đời sớm, Lê Hoàn được một vị quan là Lê Đột nhận về nuôi.
Lớn lên ông đi theo Nam Việt Vương Đinh Liễn và đã lập được nhiều chiến công,
Đinh Bộ Lĩnh giao cho ông chỉ huy 2.000 binh sĩ. Đến năm 968, Đinh Bộ Lĩnh đánh
dẹp xong loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước, lập nên nhà Đinh. Lê Hoàn có công
lao trong cuộc đánh dẹp và được giao chức vụ Thập đạo tướng quân (tướng chỉ huy
mười đạo quân), Điện tiền đô chỉ huy sứ - tức chức vụ tổng chỉ huy quân đội cả
nước Đại Cồ Việt, trực tiếp chỉ huy đội quân cấm vệ của triều đình Hoa Lư. Lúc đó

ông mới 27 tuổi.
Tháng 10 năm 979, cha con Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn bị sát hại, Vệ
vương Đinh Toàn mới 6 tuổi lên ngôi vua. Lê Hoàn trở thành Nhiếp chính, tự do ra
vào cung cấm. Các đại thần thân cận của Đinh Tiên Hoàng là Đinh Điền, Nguyễn
Bặc, Trịnh Tú, Lưu Cơ cùng tướng Phạm Hạp nổi dậy chống lại Lê Hoàn nhưng bị
Lê Hoàn nhanh chóng đánh dẹp, ba người đều bị giết. Phò mã Ngô Nhật Khánh bỏ
trốn vào Nam, cùng vua Chiêm Thành với hơn nghìn chiến thuyền định đến đánh
kinh đô Hoa Lư nhưng bị bão dìm chết.
Thấy triều đình Hoa Lư rối ren, nhà Tống bên Trung Quốc có ý định cho
quân tiến vào đánh chiếm Đại Cồ Việt. Vua Tống nhiều lần viết thư sang dụ và đe
dọa triều Đinh bắt phải quy phụ đầu hàng: "...Nếu quy phục thì ta tha cho, bằng trái

NguyÔn ThÞ V©n Anh K32G_ViÖt Nam häc

23


Cố đô Hoa Lư trong hành trình tiến tới đại lễ kỷ niệm 1000 năm Hoa Lư –Thăng Long– Hà Nội

lệnh thì ta quyết đánh..." Trước tình hình đó, Thái hậu Dương Vân Nga cùng tướng
Phạm Cự Lạng và các triều thần tôn Lê Hoàn lên làm vua. Lê Hoàn lên ngôi lấy tôn
hiệu là Minh Càn Ứng Vận Thần Vũ Thăng Bình Chí Nhân Quảng Hiếu Hoàng đế,
niên hiệu là Thiên Phúc, quốc hiệu vẫn là Đại Cồ Việt, đóng đô tại Hoa Lư. Lê Đại
Hành cử Phạm Cự Lạng (Lượng), em của Phạm Hạp làm đại tướng quân.
Đầu năm 981, vua nhà Tống phát quân sang đánh Đại Cồ Việt, cử các tướng
Hầu Nhân Bảo, Trần Khâm Tộ, Tôn Toàn Hưng, Triệu Phụng Huân, Quách Quân
Biện, Lưu Trừng, Giả Thực, Vương Soạn cầm quân chia hai đường thủy bộ, theo
ngả Lạng Sơn và vào sông Bạch Đằng tiến vào nước ta. Vua tự làm tướng đi chống
Tống, sai người cắm cọc ngăn sông, chặn đánh thủy quân Tống, những chiến thuyền
Tống cũng bị thủng bởi những chiếc cọc sông dày dặc cho dù rất mạnh về thế trận,

không thể tiến sâu vào nội địa được phải dừng quân hơn 70 ngày, chần chừ không
dám tiến. Quân bộ thì hiếu chiến hơn, tiến theo sông Thương đến Chi Lăng, Lê
Hoàn giả vờ xin hàng rồi phục binh đổ ra đánh dữ dội. Số quân địch hơn phân nửa
bị tiêu diệt. Số còn lại cũng vội vàng rút chạy về nước.
Khi người Việt chìm dưới ách nô dịch của phong kiến phía Bắc thì ở phía
Nam, Chiêm Thành đã sớm xây dựng được quốc gia độc lập tự chủ từ năm 192.
Sinh sống ở các thung lũng Nam Trung Bộ hẹp và nhỏ, vương quốc Chiêm Thành
có thế mạnh về hàng hải và các ngành nghề thủ công, nhưng lại thiếu những miền
châu thổ rộng lớn. Bởi vậy, từ khi lập nước, Chiêm Thành liên tục tiến hành các
hoạt động quân sự với Đại Cồ Việt. Năm 803, vua Chiêm cho quân xâm phạm An
Nam, vây hãm phía nam quận Cửu Chân. Năm 979, quân Chiêm được Ngô Nhật
Khánh dẫn đường, tổ chức lực lượng thuỷ quân hùng hậu tiến đánh Hoa Lư theo
đường biển, nhưng bị tan vỡ vì gặp bão ở cửa Thần Phù.
Năm 982, Lê Hoàn cử Ngô Tử Canh và Từ Mục đi sứ Chiêm Thành bị vua
Chiêm bắt giữ. Lê Hoàn tức giận, “sai đóng chiến thuyền, sửa binh khí, tự làm
tướng đi đánh, chém Bế Mi Thuế tại trận. Chiêm Thành thua to. Bắt sống được

NguyÔn ThÞ V©n Anh K32G_ViÖt Nam häc

24


Cố đô Hoa Lư trong hành trình tiến tới đại lễ kỷ niệm 1000 năm Hoa Lư –Thăng Long– Hà Nội

quân sĩ nhiều vô kể, cùng là kỹ nữ trong cung trăm người và một nhà sư người
Thiên Trúc, lấy các đồ quý đem về, thu được vàng bạc của báu kể hàng vạn; san
phẳng thành trì, phá hủy tông miếu, vừa một năm thì trở về kinh sư” [8;169].
Lê Đại Hành khi làm vua cho xây dựng nhiều công trình, đẩy mạnh sản xuất
nông nghiệp và thủ công nghiệp để chấn hưng đất nước. Ông là vị vua mở đầu cho
lễ tịch điền nhằm khuyến khích sản xuất nông nghiệp dưới chế độ phong kiến Việt

Nam. Mở đầu cho một lễ nghi trọng đại mà các vương triều sau tiếp tục noi theo để
khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp.
Lê Đại Hành cũng là vị vua đầu tiên tổ chức đào sông. Công trình đào sông
Nhà Lê (hiện vẫn còn ở Thanh Hóa và là một di tích lịch sử) do Lê Hoàn khởi dựng
là con đường giao thông thuỷ nội địa đầu tiên của Việt Nam. Sự nghiệp mở đầu vĩ
đại đó đã trở thành phương châm hành động của các thời Lý, Trần, Lê, Nguyễn sau
này. Từ con sông đào do Lê Hoàn khai phá trên đất Thanh Hoá, đến thời Lý, Trần
sông đào đã xuất hiện ở đồng bằng Bắc Bộ đến Thanh - Nghệ - Tĩnh. Đến thời Lê
đã rộng khắp dải miền Trung Bộ và đến thời Nguyễn thì sông đào có mặt ở khắp
mọi miền Việt Nam.
Lê Hoàn là người mở đầu và xác lập những nguyên tắc cơ bản của nền ngoại
giao Đại Việt. Nhà Tống là triều đại phong kiến hùng mạnh nhất châu Á đương thời
mang nặng tư tưởng bành trướng đã phải từng bước thừa nhận sức mạnh, thế lực
của quốc gia độc lập Đại Cồ Việt, đã phong cho Lê Hoàn các tước vị cao như Giao
Chỉ quận vương, Nam Bình vương, sứ thần Tống còn làm thơ tôn Lê Hoàn tài ba
không khác gì vua Tống. Phan Huy Chú đánh giá: “Nhà Tiền Lê tiếp đãi sứ nhà
Tống, tình ý và văn thư rất là chu đáo. Khúc hát hay cũng đủ khoe có nhân tài mà
quốc thể được thêm tôn trọng làm cho người Bắc phải khuất phục”.
Năm 1005, Lê Đại Hành qua đời. Ông ở ngôi tất cả 26 năm, thọ 65 tuổi.
Trong 26 năm làm vua, ông đặt 3 niên hiệu:

NguyÔn ThÞ V©n Anh K32G_ViÖt Nam häc

25


×