Tải bản đầy đủ (.pdf) (56 trang)

Tìm hiểu sự đối lập tương phản trong thơ chữ hán nguyễn du

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (367.78 KB, 56 trang )

Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Khoa ngữ văn
*********

nguyễn thị hằng

tìm hiểu sự đối lập tương phản
trong thơ chữ hán nguyễn du

Khoá luận tốt nghiệp đại học
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Hà Nội - 2009

5


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Khoa ngữ văn
*********

nguyễn thị hằng

tìm hiểu sự đối lập tương phản
trong thơ chữ hán nguyễn du

Khoá luận tốt nghiệp đại học
Chuyên ngành:

Văn học Việt Nam


Người hướng dẫn khoa học
TS. GVC. nguyễn thị nhàn

Hà Nội - 2009

6


Lời cảm ơn
Khoá luận này được hoàn thành dưới sự chỉ bảo giúp đỡ
tận tình của TS. GVC. Nguyễn Thị Nhàn, người viết xin gửi tới
cô giáo lời cảm ơn chân thành, sâu sắc nhất.
Người viết cũng xin trân trọng cảm ơn các thầy, cô giáo
trong tổ Văn học Việt Nam và các thầy, cô giáo trong khoa
Ngữ văn - Trường ĐHSP Hà Nội 2 đã tạo điều kiện giúp đỡ
người viết trong quá trình thực hiện và hoàn thành khoá luận
này.
Hà Nội, ngày 6 tháng 5 năm 2009
Người thực hiện
Nguyễn Thị Hằng

7


Lời cam đoan

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu của riêng tôi. Các số liệu trong khoá luận này
là trung thực. Khoá luận này chưa từng được công
bố trong bất kỳ công trình nào. Nếu sai, tôi xin hoàn

toàn chịu trách nhiệm.

Hà Nội, ngày 6 tháng 5 năm 2009
Người thực hiện

Nguyễn Thị Hằng

8


Mục lục
Trang
Mở đầu

5

1. Lí do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
3. Mục đích nghiên cứu
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
5. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
6. Phương pháp nghiên cứu
7. Đóng góp của khoá luận
8. Bố cục của khoá luận

5
6
8
9
9

10
10
11

Nội dung

12

Chương 1. Giới thiệu chung về tác giả và tác phẩm

12

Thơ chữ Hán Nguyễn Du

1.1. Thời đại và tác giả Nguyễn Du
1.1.1. Hoàn cảnh lịch sử - xã hội
1.1.2. Tác giả Nguyễn Du
1.2. Tác phẩm Thơ chữ Hán Nguyễn Du
1.2.1. Hoàn cảnh sáng tác
1.2.2. Khái quát về Thơ chữ Hán Nguyễn Du
Chương 2. Sự đối lập tương phản trong

12
12
16
19
19
19
23


Thơ chữ Hán Nguyễn Du

2.1. Quan niệm về sự đối lập, tương phản
2.2. Sự đối lập tương phản trong Thơ chữ Hán Nguyễn Du
2.2.1. Sự đối lập tương phản về không gian, thời gian
2.2.1.1. Đối lập tương phản giữa thế giới âm - dương
2.2.1.2. Đối lập tương phản giữa quá khứ - hiện tại tương lai
2.2.2. Sự đối lập tương phản thế giới con người
2.2.2.1. Đối lập tương phản trong chính bản thân tác giả
2.2.2.2. Đối lập tương phản trong cuộc đời của các tầng
lớp người khác nhau

9

23
24
24
24
33
38
38
43


Kết luận

53

Tài liệu tham khảo


55

Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Nói đến nền Văn học Việt Nam, người ta không thể không nhắc
đến Nguyễn Du. Với "con mắt trông thấu cả sáu cõi", với "tấm lòng nghĩ suốt
cả ngàn đời", với tài năng của một thiên tài, người nghệ sỹ vĩ đại ấy đã sáng
tạo nên những tác phẩm sống mãi cùng thời gian. Sáng tác của Nguyễn Du có
ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển của nền văn học dân tộc nói riêng và nền
văn hoá dân tộc nói chung.
Trong di sản văn học của Nguyễn Du, bên cạnh kiệt tác Truyện Kiều,
Nguyễn Du còn có Thơ chữ Hán và một số sáng tác khác. Thơ chữ Hán
Nguyễn Du là những vần thơ có giá trị lớn, đặc sắc về nội dung và độc đáo về
nghệ thuật. Qua những tác phẩm chữ Hán đó, người đọc nhận ra tâm tư, tình
cảm, chân dung của tác giả.
1.2. Xưa nay, việc nghiên cứu Thơ chữ Hán Nguyễn Du có khá nhiều
song tính tương phản, đối lập trong thơ ông chưa được xem xét như một đề tài
riêng biệt. Tìm hiểu tính đối lập, tương phản trong Thơ chữ Hán Nguyễn Du
không chỉ giúp ta hiểu thêm tâm tư, tình cảm của nhà thơ mà còn bộc lộ
phong cách nghệ thuật độc đáo của tác giả.
1.3. Thơ chữ Hán Nguyễn Du được lựa chọn giảng dạy trong nhà trường
cho học sinh trung học phổ thông. Thực hiện đề tài này giúp tác giả khoá luận

10


tìm hiểu sâu sắc hơn con người, sự nghiệp văn chương của một nghệ sĩ lớn. Đó là
những tri thức ích dụng cho người giáo viên dạy học Ngữ văn trong tương lai.
Từ những lí do trên, người viết chọn đề tài Tìm hiểu sự đối lập, tương
phản trong Thơ chữ Hán Nguyễn Du.

2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Từ trước đến nay, có nhiều công trình nghiên cứu về Thơ chữ Hán
Nguyễn Du trên các bình diện khác nhau. Tuy nhiên sự đối lập, tương phản
trong các sáng tác của nhà thơ thì chưa có một đề tài nào riêng biệt.
Đọc trong một số bài viết, công trình nghiên cứu của các tác giả, người
viết khoá luận nhận ra các tác giả này đã có đề cập đến tính đối lập, tương
phản trong Thơ chữ Hán Nguyễn Du như sau:
- Trong cuốn Văn học Việt Nam từ nửa cuối thế kỷ XVIII - hết thế kỷ
XIX, Nguyễn Lộc đã trình bày những vấn đề cơ bản về Thơ chữ Hán: "Nguyễn
Du không phải là nhà thơ chỉ biết đến số phận riêng của cá nhân mình, chỉ
biết ngồi ngắm cái bóng dưới chân mình, Nguyễn Du cũng không phải là nhà
thơ chỉ quan tâm đến triều đại này, triều đại khác, mà Nguyễn Du là nhà thơ
biết đặt lòng mình nơi những con người bất hạnh, nơi những con người đau
khổ" [6, tr.333]. Trong đó, tác giả có đề cập đến sự đối lập tương phản giữa
cuộc sống đói khổ của nhân dân lao động với sự xa hoa, lãng phí của tầng lớp
quý tộc.
- Trong bài viết của Lê Thu Yến: Thời gian nghệ thuật trong thơ chữ
Hán Nguyễn Du. Tác giả nhận xét: "Thơ đời Đường nói nhiều đến quá khứ,
thậm chí có ý muốn khôi phục lại quá khứ, ít nói đến hiện tại và hầu như vắng
bóng tương lai. Thơ Nguyễn Du ít nhiều ảnh hưởng thơ Đường nhưng do sự
chi phối của thời đại nên cách biểu hiện của ông có khác". [13, tr. 84]. Trong
đó, tác giả đã bước đầu nói đến sự tương phản, đối lập về quá khứ, hiện tại,
tương lai trong các sáng tác chữ Hán của Nguyễn Du

11


- Trong một bài viết khác của Lê Thu Yến: Thế giới tâm linh trong sáng
tác Nguyễn Du - một biểu hiện của văn hoá Việt, tác giả đã khẳng định: "Nhìn
chung thế giới tâm linh luôn hiện diện trong sáng tác Nguyễn Du. Điều này

rất đặc biệt. Thế giới ấy luôn ám ảnh ông, chi phối ông làm cho sáng tác của
ông đã mang nhiều nét buồn thương lại càng thêm bi thiết vì những nấm mồ,
những con người của thế giới bên kia cứ luôn lẩn khuất trong tâm tư ông" [15,
tr38]. Đồng thời, Lê Thu Yến trong bài viết trên cũng cho rằng "Mộng - thực.
Người sống - người chết. Trần thế - âm phủ. Hai thế giới ấy có thể tương
thông qua hình thức giấc mộng" [15, tr. 33]. Khảo sát bài viết này, tác giả
khoá luận nhận ra người viết đã có đề cập đến thế giới cõi âm trong ba tập Thơ
chữ Hán Nguyễn Du.
- Vẫn tác giả Lê Thu Yến trong bài: Không gian nghệ thuật trong Thơ
chữ Hán Nguyễn Du, tác giả cho rằng "Nguyễn Du trong Thơ chữ Hán cũng
thường lượn lờ xung quanh không gian của sự chết chóc ấy như muốn so sánh,
đối lập nó với cuộc đời đang có" [14, tr.20]. Trong bài viết này Lê Thu Yến đề
cập đến sự đối lập giữa không gian cõi âm - cõi dương trong các sáng tác chữ
Hán của Nguyễn Du. Tuy nhiên, tác giả bài báo chỉ mới dừng lại khảo sát
không gian âm - dương ở góc độ không gian "có mái che" (nhà cửa ở cõi
dương và mồ mả ở cõi âm).
- Trong cuốn Nguyễn Du về tác gia và tác phẩm do Trịnh Bá Đĩnh và
Vũ Thanh, Nguyễn Hữu Sơn biên soạn có một số bài viết cũng đề cập đến tính
đối lập, tương phản trong Thơ chữ Hán.
+ Nguyễn Huệ Chi trong bài viết "Nguyễn Du và thế giới nhân vật của
ông trong thơ chữ Hán" có viết: "Đọc thơ ông, từ những bài nói về người
nghèo khổ đến những bài nói về giai nhân, anh hùng, rất tự nhiên, một sợi dây
liên tưởng cứ nối liền từng cặp hình tượng nhân vật đối lập lại, và điều đó sẽ
giúp chúng ta khái quát được bản chất xấu xa của những mối quan hệ trong

12


cuộc đời cũ: sự hiển vinh quyền quý của một lớp người này bao giờ cũng là
nguyên nhân sa cơ lỡ vận, đổ vỡ, chết chóc thất bại của một lớp người khác,

cũng tồn tại bên cạnh nhau trong xã hội [3, tr. 78]. Qua bài viết này, Nguyễn Huệ
Chi đã có nêu lên sự đối lập giữa các tầng lớp người khác nhau trong xã hội.
+ Trương Chính trong bài viết "Tâm sự của Nguyễn Du qua Thơ chữ
Hán" đã đặt ra một vấn đề: "Nhưng có một vấn đề khác lại đặt ra là: Tại sao
Nguyễn Du được nhà Nguyễn tin dùng như thế mà có thái độ hình như bất đắc
chí?" [3, tr. 103]. Qua bài viết, tác giả ít nhiều có đề cập đến sự đối lập giữa
việc đi làm quan và tâm trạng xa lạ chốn quan trường của Nguyễn Du.
Từ những công trình nghiên cứu về Thơ chữ Hán Nguyễn Du, chúng tôi
nhận thấy vấn đề sự đối lập tương phản trong Thơ chữ Hán Nguyễn Du đã ít
nhiều được đề cập đến. Tuy nhiên,những ý kiến của giới nghiên cứu chưa đặt
thành vấn đề riêng biệt, chưa khảo sát toàn diện và chưa lí giải sâu sắc sự đối
lập, tương phản trong Thơ chữ Hán. Chính vì lẽ đó, trên cơ sở gợi ý của những
người đi trước, tác giả khoá luận này mong muốn ở mức độ nhất định hệ thống
lại các mặt đối lập tương phản trong các sáng tác Thơ chữ Hán của Nguyễn
Du. Qua đó, người viết góp phần khẳng định giá trị tác phẩm, hiểu hơn tấm
lòng nhân đạo của Nguyễn Du.

3. Mục đích nghiên cứu
Đề tài của khoá luận này nhằm hướng tới những mục đích sau:
- Góp phần nghiên cứu một cách có hệ thống, sâu sắc và cụ thể hơn vấn
đề "Tìm hiểu sự đối lập, tương phản trong Thơ chữ Hán Nguyễn Du". Qua đó,
góp phần tìm hiểu thêm chân dung đại thi hào dân tộc thể hiện qua sáng tác
văn học. Từ đó có cái nhìn toàn diện hơn đối với con người và thơ văn của
ông, giúp ta nhận ra thái độ chính trị, tư tưởng, tình cảm của nhà thơ đối với
bản thân và đồng loại, nhận ra những bước thăng trầm trong cuộc đời nghệ sỹ

13


cùng với một tấm lòng nhân đạo sâu sắc, tài năng nghệ thuật Nguyễn Du qua

mảng thơ trữ tình.
- Mặt khác, khoá luận còn góp phần khẳng định vai trò to lớn của Thơ
chữ Hán đối với sự nghiệp văn chương của Nguyễn Du nói riêng của văn học
dân tộc nói chung.
- Tìm hiểu đề tài, tác giả khoá luận cũng mong muốn sẽ đóng góp một
phần nhỏ bé cho việc giảng dạy về tác giả, tác phẩm của Nguyễn Du đặc biệt
là những bài thơ chữ Hán trong nhà trường sau này.

4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thực hiện đề tài, người viết khoá luận hướng đến những nhiệm vụ sau:
- Khoá luận tìm hiểu một cách khái quát về lịch sử, xã hội tác động đến
tư tưởng, quan niệm của Nguyễn Du. Nguyên nhân dẫn đến sự bi kịch, mâu
thuẫn trong con người nhà thơ, xác định cách hiểu về sự đối lập tương phản
làm cơ sở cho khoá luận.
- Khoá luận phải chỉ ra được tính đối lập tương phản trong Thơ chữ Hán
Nguyễn Du ở các phạm trù: Đối lập tương phản về không gian, thời gian và
đối lập tương phản trong thế giới con người.
- Từ việc chỉ ra được tính đối lập trong Thơ chữ Hán Nguyễn Du, khoá
luận bước đầu đi vào kiến giải nguyên nhân dẫn đến sự xuất hiện của các hiện
tượng đối lập tương phản đó. Qua đó, nhận ra tâm trạng có phần phức tạp của
Nguyễn Du trước xã hội đường thời.
- Khẳng định vị trí, vai trò to lớn của Nguyễn Du trong văn học nước nhà.

5. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu

14


Đối tượng nghiên cứu của khoá luận là: Thơ chữ Hán Nguyễn Du,

chúng tôi sử dụng cuốn Thơ chữ Hán Nguyễn Du, bản in của Nhà xuất bản
Văn học, Hà Nội, 1978. Tác phẩm gồm 249 bài thơ (và một bài được công bố
trên tạp chí văn học gần đây). Trong khoá luận này, vì diễn đạt ở những văn
cảnh khác nhau nên người viết dùng cả hai cách viết Thơ chữ Hán Nguyễn Du
và Thơ chữ Hán.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Tìm hiểu Thơ chữ Hán Nguyễn Du là một việc làm hữu ích song giới
hạn phạm vi nghiên cứu của khoá luận chỉ tập trung tìm hiểu tính đối lập,
tương phản trong Thơ chữ Hán trên các vấn đề chính: đối lập tương phản về
không gian, thời gian và đối lập tương phản trong thế giới con người. Như vậy,
phạm vi nghiên cứu của khoá luận đã cố gắng Tìm hiểu Thơ chữ Hán Nguyễn
Du trên cả hai phương diện: nội dung và nghệ thuật.

6. Phương pháp nghiên cứu
Khoá luận sử dụng một số phương pháp chính sau đây:
- Phương pháp hệ thống
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp thống kê
- Một số phương pháp và thao tác khác như: phân tích, bình giảng.

7. Đóng góp của khoá luận
Khoá luận có một số đóng góp sau:
- Khoá luận chỉ ra được sự đối lập, tương phản trong Thơ chữ Hán
Nguyễn Du trên các bình diện cụ thể về không gian, thời gian nghệ thuật, về

15


thế giới con người. Từ đó giúp cho bạn đọc có cái nhìn đa diện, sâu sắc hơn về
tác gia văn học này.

- Khoá luận sẽ giúp cho việc giảng dạy về tác gia Nguyễn Du đặc biệt là
các bài thơ chữ Hán của ông trong trường trung học phổ thông sau này tốt hơn.

8. Bố cục của khoá luận
Khoá luận được bố cục như sau:
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo; phần Nội dung
gồm 2 chương:
- Chương 1: Giới thiệu chung về tác giả và tác phẩm Thơ chữ Hán
Nguyễn Du.
- Chương 2: Sự đối lập tương phản trong Thơ chữ Hán Nguyễn Du

16


Nội dung
Chương 1
Giới thiệu chung về tác giả
và tác phẩm Thơ chữ Hán Nguyễn Du

1.1. Thời đại và tác giả Nguyễn Du
1.1.1. Hoàn cảnh lịch sử - xã hội
Nguyễn Du sinh ra trong thời đại chế độ phong kiến Việt Nam khủng
hoảng toàn diện và sâu sắc, thể hiện qua ba đặc trưng cơ bản: sự phá sản của ý
thức hệ phong kiến, sức trỗi dậy mãnh liệt của phong trào nông dân khởi
nghĩa; cuộc sống điêu đứng, khổ cực của nhân dân.
Lịch sử Việt Nam, giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ
XIX là giai đoạn thể hiện sự phá sản của ý thức hệ phong kiến chính thống
(Nho giáo). Trong giai đoạn này, hàng ngũ giai cấp thống trị lục đục, rối ren.
Thời đại biến thiên với nhiều phen "thay đổi sơn hà". Từ thế kỷ XVI, các phe
phái phong kiến như Trịnh - Nguyễn, Lê - Trịnh, Trịnh Tông - Trịnh Cán...

luôn tranh chấp, chém giết lẫn nhau để giành cương vị bá chủ thiên hạ. Tình
trạng chúa Nguyễn đàng trong, chúa Trịnh đàng ngoài, vua Lê chúa Trịnh,
cung vua phủ chúa tồn tại song song là một thực trạng trái ngược nguyên tắc
và đạo lý tổ chức "Thiên vô nhị nhật, quốc vô nhị quân" (Trên trời không có
hai mặt trời, trong nước không có hai vua) của chế độ phong kiến trung ương
tập quyền. Mãi đến giữa năm 1788, đất nước mới căn bản được thống nhất,
khi Tây Sơn lần lượt lật đổ các tập đoàn phong kiến Nguyễn, Trịnh, Lê thiết
lập triều đại mới. Tuy vậy, triều đại Tây Sơn không tồn tại được lâu. Một thời
gian sau khi Quang Trung mất, Nguyễn ánh đã đánh bại triều đình Tây Sơn,
lên ngôi hoàng đế (1802). Triều Nguyễn được thành lập.

17


Như vậy, trong thời gian ngắn ngủi 1786 - 1802, bốn tập đoàn phong
kiến lần lượt sụp đổ (Nguyễn, Trịnh, Lê, Tây Sơn). Sự "thay thầy đổi chủ" liên
tục tạo cảm hứng chung về một thời đại phong kiến không chỉ thể hiện ở sự
rối ren, lục đục, ở sự thay đổi liên tục của bộ máy nhà nước trung ương mà
còn thể hiện ở sự băng hoại của những giá trị đạo đức truyền thống. Bao nhiêu
tín điều, nguyên tắc đều bị vi phạm mạnh mẽ. Trong cung vua phủ chúa, nơi
ngự trị của những khuôn vàng thước ngọc của xã hội phong kiến: những quan
hệ "quân thần", "phụ tử", "phu phụ", "bằng hữu", "huynh đệ"..., tóm lại là
"tam cương ngũ thường" của nho giáo, đều bị sụp đổ một cách thảm hại.
Những bề tôi giết vua, con phản cha, em hại anh... chỉ vì một chiếc ngai vàng,
một tước công hầu hay một hòm châu báu... Khi Vũ Văn Nhậm ra Bắc vào
năm 1789, Lê Chiêu Thống bỏ chạy qua sông Như Nguyệt phải nhờ trấn thủ
Nguyễn Cảnh Thước chèo đò chở qua bến, Nguyễn Cảnh Thước mở hòm lấy
40 lạng vàng còn lại của nhà vua. Khỏi bến sông bên kia, Nguyễn Cảnh Thước
lại cho người đuổi theo "lột nốt chiếc ngự bào vua đang mặc, vua ứa nước mắt
cởi chiếc ngự bào trao cho chúng..." (Hoàng Lê Nhất thống chí).

Lý tưởng tôn quân, nguyên tắc hàng đầu của giáo lý, đạo lý phong kiến
còn bị xúc phạm đến như vậy nói gì đến hiếu, tiết, nghĩa... Phạm Đình Hổ
(1768 - 1839) đã từng nói: "Đời suy thói tệ", "thế đạo ngày một sút kém",
"danh phận lung tung không ai còn biết đâu mà phân biệt thuận với nghịch
nữa" (Phạm Đình Hổ - Vũ trung tuỳ bút).
Trên thực trạng suy đồi của luân lý đạo đức ấy đã nảy sinh một hiện
tượng khá đặc biệt trong tầng lớp nho sĩ phong kiến: sự khủng hoảng về lý
tưởng, về "chí nam nhi".
Giáo lý phong kiến đã vạch ra con đường đi khá rõ ràng cho tầng lớp
nho sĩ, đó là con đường: "tu, tề, trị, bình" (tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên
hạ) để thực hiện mục đích "thượng trí quân, hạ trạch dân" (trên giúp vua đến
tột cùng, dưới ban ơn cho dân). Trong những giai đoạn đang lên của chế độ

18


phong kiến như Lý, Trần, Lê sơ, con đường ấy đã góp phần tạo nên chủ nghĩa
anh hùng phong kiến, có nhiều giá trị tiến bộ và lôi cuốn được những con
người có ý chí phò vua, giúp nước, lập công danh như Lý Thường Kiệt, Trần
Hưng Đạo, Phạm Ngũ Lão, Trần Quang Khải, Nguyễn Trãi...
Nếu như trước kia, gặp hoàn cảnh không như ý muốn, nho sĩ sẽ quay
về con đường "độc thiện kỳ thân" (Riêng giữ bản thân trong sạch) thì ở thời
đại mới có những trí thức nhập thân vào mảnh đất gần gũi với cuộc sống và
tâm tư quần chúng, tiếp thu luồng tư tưởng nhân văn đẹp đẽ của quần chúng
lao động.
Cùng với sự xuống dốc của giai cấp thống trị, mâu thuẫn xã hội giữa
cường quyền và nhân dân ngày càng phát triển đến mức gay gắt. Biểu hiện của
xung đột không thể hoà giải đó là khởi nghĩa nông dân. Có thể nói chưa bao
giờ khởi nghĩa nông dân lại trở thành một cao trào như giai đoạn này. Vì vậy,
giai đoạn lịch sử này được mệnh danh là "Thế kỷ nông dân khởi nghĩa". Trong

suốt thế kỷ XVIII, phong trào liên tục, rộng khắp, quyết liệt và mạnh mẽ đã
bùng nổ trên khắp dải đất Việt Nam, tiêu biểu như khởi nghĩa Nguyễn Danh
Phương (1741 - 1750), khởi nghĩa Nguyễn Hữu Cầu (1741 - 1751), khởi nghĩa
Hoàng Công Chất (1736 - 1769) ngoài ra còn không biết bao nhiêu cuộc khởi
nghĩa trên cả hai địa bàn: miền xuôi và miền ngược, kinh đô và thôn xóm, do
cả kẻ tu hành lẫn người tôn thất lãnh đạo.
Khí thế, sức mạnh của thế kỷ nông dân khởi nghĩa kết tinh vào cuộc
khởi nghĩa Tây Sơn - cuộc khởi nghĩa bùng nổ năm 1771, đánh dấu vẻ vang
bằng những chiến công của lãnh tụ áo vải Nguyễn Huệ, mở đầu cho một triều
đại mới. Đây là cuộc khởi nghĩa có quy mô toàn quốc, đập tan một lúc ba tập
đoàn phong kiến trong nước (Trịnh, Nguyễn, Lê), đồng thời đánh tan sự xâm
lược của quân Xiêm (1785) và quân Thanh (1788) thống nhất đất nước, lập
nên triều Tây Sơn với nhiều cải cách văn hoá, xã hội và chính trị tiến bộ. Tuy
rút cục, cuộc khởi nghĩa này cũng chỉ đi tới chỗ thành lập một triều đại mới

19


song có thể khẳng định: khởi nghĩa Tây Sơn có ý nghĩa thật lớn lao, bởi đây là
lần đầu tiên trong lịch sử, sức mạnh tinh thần và lực lượng vật chất của quần
chúng bị áp bức, của dân tộc Việt Nam đã được biểu hiện đẹp đẽ, trọn vẹn trên
cả hai bình diện: đấu tranh giai cấp và đấu tranh chống ngoại xâm. Dẫu cho
các cuộc khởi nghĩa trước Tây Sơn đã bị triều đình dìm trong bể máu, dẫu cho
kết cục nhà Nguyễn đã tiêu diệt triều đại Tây Sơn, thiết lập nên chính quyền
phong kiến từ Nam ra Bắc thì bão táp của phong trào quần chúng vẫn để lại dư
âm vang dội, tạo nên ảnh hưởng sâu xa đến toàn bộ diễn biến của lịch sử
đương thời và trạng thái tư tưởng thời đại. Đó là tiền đề xã hội sâu sắc làm dấy
lên trào lưu tư tưởng dân chủ trong xã hội - cơ sở của chủ nghĩa nhân văn đẹp
đẽ trong văn học, tác động mạnh mẽ đến thế giới quan nghệ sỹ.
Sự khủng hoảng sâu sắc, toàn diện của chế độ phong kiến còn thể hiện

ở khía cạnh thứ ba, đó là cuộc sống điêu đứng khổ cực của nhân dân. Người
dân phải chịu cảnh thuế khoá nặng nề, phiền phức. Thiên tai, lụt lội lại thường
xuyên xảy ra. Thêm vào đó, dịch bệnh, nạn đói hoành hành (năm 1820, dịch
lớn ở miền Bắc làm cho 20 vạn người chết). Hậu quả của nạn trời, ánh đất là
nông dân nghèo đói phải bỏ làng đi phiêu tán khắp nơi, người chết đầy đường.
Cuộc sống khổ cực ấy khiến cho mâu thuẫn giữa cấp thống trị và bị trị
ngày càng trở nên gay gắt, quyết liệt.
Tuy nhiên, thời đại rực rỡ nhất của chế độ phong kiến đã trôi qua. Sang
đầu thế kỷ XVIII, trừ một vài nhân vật ngu trung cuồng tín như Lý Trần Quán,
hầu hết các danh sĩ của thời đại, có tài năng và hoài bão đều mang một tâm
trạng bế tắc. Thực trạng khủng hoảng lý tưởng, trước hết là khủng hoảng niềm
tin vào chính quyền, vào minh chúa còn kéo dài suốt một trăm năm lịch sử kể
từ khi nhà Nguyễn khôi phục được chính quyền.
Không còn minh quân để thực hiện lý tưởng, hoài bão cao đẹp, những
tài năng chân chính, những danh sĩ đương thời hoặc đi vào con đường xa lánh
công danh phú quý hoặc có tâm trạng chán chường đối với những điều mà

20


trước đây họ khao khát vươn tới. Cả hai thái độ đó đều phản ánh sự khủng
hoảng của ý thức hệ phong kiến.
Điểm qua đôi nét về hoàn cảnh lịch sử - xã hội đương thời, ta có thể
nhận thấy đây là giai đoạn có nhiều biến động dữ dội. Chính những điều này
tác động một cách trực tiếp tới đời sống và ảnh hưởng sâu sắc đến thế giới
quan người nghệ sĩ, trong đó có Nguyễn Du.
1.1.2. Tác giả Nguyễn Du
Nguyễn Du là nhân chứng của một thời đại lịch sử đầy bão táp. Sinh
năm 1765 và mất năm 1820, Nguyễn Du đã chứng kiến những biến cố trọng
đại nhất: sự sụp đổ thảm hại của triều vua Lê chúa Trịnh, vận mệnh rạng rỡ

nhưng ngắn ngủi của phong trào Tây Sơn và triều đại Quang Trung, công cuộc
"trung hưng" của nhà Nguyễn... Tất cả những biến động ấy đã ảnh hưởng đến
cuộc đời nhà thơ.
Nguyễn Du, tự Tố Như, hiệu Thanh Hiên, sinh tại phường Bích Câu,
Thăng Long (nay thuộc Hà Nội) là con thứ 7 trong gia đình. Cha Nguyễn Du
là Nguyễn Nghiễm (1708 - 1775) tự Hy Di, hiệu Nghi Hiên, là quan chức, sử
gia, nhà thơ. Trước thế kỉ XVI quê gốc Nguyễn Nghiễm ở làng Canh Hoạch,
huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam (nay thuộc tỉnh Hà Tây); sau này dời vào
làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
Nguyễn Du xuất thân từ dòng họ có danh vọng lớn đương thời. Trước
hết, đây là dòng họ đại quý tộc đã có nhiều người thành đạt lớn trên con
đường khoa bảng và công danh (cha, anh, bác ruột Nguyễn Du đều là người
đỗ tiến sĩ, Nguyễn Nghiễm đã từng làm quan tới chức tể tướng triều đình).
Mặt khác, dòng họ Nguyễn Tiên Điền còn nổi tiếng về một truyền thống văn
học lỗi lạc (cha Nguyễn Du là một vị quan "văn võ toàn tài", anh Nguyễn Du Nguyễn Khản đương thời nổi tiếng là con người hào hoa của đất kinh kỳ, đặc
biệt rất sành âm nhạc, quốc âm). Địa vị, truyền thống đó của gia đình, dòng
họ đã để lại những "dấu ấn vàng son" trong tâm hồn Nguyễn Du, đồng thời là

21


một cơ sở quan trọng góp phần hình thành vốn hiểu biết của Nguyễn Du về triết
học, sử học, văn học (bao gồm cả văn học Việt Nam và văn học Trung Quốc).
Nhờ địa vị của dòng họ, đặc biệt là của cha và anh, Nguyễn Du tuy là
con vợ thứ cũng đã có một thiếu thời ấm êm, sung sướng. Nhưng rồi bão táp
của thời đại, sự kiện kiêu binh đã khiến Tả thị lang bộ hình kiêm Hiệp trấn xứ
Tây Sơn Nguyễn Khản lao đao. Dù còn rất trẻ, có tài và thông minh không
hiểu vì sao Nguyễn Du chỉ thi tam trường rồi bỏ dở. Sau đó, ông được "tập
ấm" chức chánh thủ hiệu đội quân nhỏ ở Thái Nguyên của người bố nuôi họ
Hà trước đây làm việc dưới trướng của Nguyễn Nghiễm.

Gia cảnh tang thương lại thêm xã hội dâu bể, sự kiện chính trị tác động
sâu sắc tới bao số phận kẻ sĩ Bắc Hà là việc nhà Lê suy vong. Đến 1789 thì Lê
triều chỉ còn là quá khứ của lịch sử. Chạy theo Lê Chiêu Thống sang Phương
Bắc không kịp, Nguyễn Du từ Thái Nguyên trốn về quê vợ ở Quỳnh Côi, trấn
Sơn Nam (nay thuộc tỉnh Thái Bình) sống nhờ nhà anh vợ là Đoàn Nguyễn
Tuấn lúc này đã làm Thị lang bộ Lại với triều Tây Sơn. Không thể thực hiện
mưu đồ "cần vương", năm 1796, Nguyễn Du về quê ở ẩn, sống cuộc đời
"Phường săn núi Hồng", "Dân chài biển Nam". Mùa đông năm ấy, Nguyễn Du
mưu trốn vào Gia Định theo Nguyễn ánh để khôi phục nhà Lê nhưng việc bị
bại lộ, bị bắt giam 3 tháng tại Nghệ An, nhờ người anh cùng mẹ là Nguyễn Nễ
(tức Nguyễn Đề) đã ra làm quan với Tây Sơn nên Nguyễn Du được tha.
Năm 1802, Gia Long diệt Tây Sơn. Nguyễn Du ra làm quan với Gia
Long, trải qua những chức tri huyện Phù Dung, Phủ Khoái Châu, trấn Sơn
Nam (nay thuộc tỉnh Hưng Yên), tri phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam Thượng
(nay thuộc tỉnh Hà Tây), cai bạ Quảng Bình. Năm 1813, Nguyễn Du được
thăng Cần Chánh điện học sĩ và được làm chức chánh sứ sang Trung Quốc.
Năm 1815, Nguyễn Du được thăng Tham tri bộ Lễ. Năm 1820, Minh Mệnh
lên ngôi, định cử Nguyễn Du đi chánh sứ Trung Quốc lần nữa nhưng ngày 10

22


tháng 8 năm Canh Thìn (tức ngày 16/9/1820) Nguyễn Du mất đột ngột vì nạn
dịch lớn.
Cuộc đời Nguyễn Du cũng "xê dịch", chìm nổi theo những cơn phong
ba của thời đại, những rủi ro của gia đình. Tất cả những yếu tố đó đã góp phần
tạo nên một hồn thơ độc đáo.
Xuất thân trong một gia đình đại quý tộc, Nguyễn Du được giáo dục
theo "khuôn vàng thước ngọc" của lễ giáo phong kiến.
Tuy vậy, bão táp thời đại đã nổi lên. Quãng đời 10 năm gió bụi (1786 1796) đã đưa chàng thiếu niên quý tộc Nguyễn Du trở về với nhân dân. Những

trải nghiệm đắng cay trong cuộc đời đã tạo nên một Nguyễn Du với trái tim
mang "sức cảm thông lạ lùng" (Hoài Thanh) đối với con người. Tuy vậy,
những đảo lộn dữ dội của thời đại, sự thất bại của những lực lượng tiến bộ
trong xã hội và sự hạn chế trong thế giới quan của bản thân người nghệ sĩ đã
tạo nên trong tư tưởng Nguyễn Du nhiều mâu thuẫn, vừa có yếu tố tiến bộ tích
cực vừa có yếu tố xưa cũ lạc hậu. Tất cả những yếu tố đó ghi đậm dấu ấn
trong sáng tác của Nguyễn Du tạo nên những mảng đối lập, tương phản trong
Thơ chữ Hán và cả Truyện Kiều.
Hoàn cảnh lịch sử, xã hội và cuộc đời trước hết tạo nên trong Nguyễn
Du một trái tim chan chứa yêu thương đối với con người. Thời đại và cuộc
sống bản thân còn tạo nên cho nguyễn Du một vốn hiểu biết phong phú, để rồi
trang thơ Nguyễn Du là những bức tranh nhiều cảnh vật, nhiều con người,
nhiều cuộc sống. Những bức tranh thiên nhiên, con người hiện lên rõ nét trong
tất cả sáng tác của Nguyễn Du, trong đó có Thơ chữ Hán. Điều đặc biệt là đi
vào tìm hiểu thế giới cảnh vật, con người trong các tác phẩm chữ Hán của
Nguyễn Du, chúng tôi phát hiện ra những mảng đối lập tương phản về không
gian, thời gian về cuộc sống của con người...
Tóm lại, những tác động của thời đại và cuộc đời đã để lại dấu ấn sâu
sắc trong sự nghiệp văn học của Nguyễn Du. Thời đại ấy, cuộc đời ấy có ý

23


nghĩa không nhỏ trong việc hình thành một thiên tài nghệ thuật, là cơ sở cho
những tác phẩm văn học mà giá trị của nó không phải là một thời mà còn mãi mãi.
1.2. Tác phẩm Thơ chữ Hán Nguyễn Du
1.2.1. Hoàn cảnh sáng tác
Truyện Kiều là một kiệt tác của Văn học Việt Nam, điều đó hẳn không
ai phủ nhận. Nhưng bên cạnh Truyện Kiều, Nguyễn Du còn làm nhiều thơ chữ
Hán. Về tác phẩm chữ Hán, Nguyễn Du có ba tập thơ: "Thanh Hiên thi tập",

"Nam trung tạp ngâm", "Bắc hành tạp lục" được tập hợp thành Thơ chữ Hán
Nguyễn Du.
Số lượng tác phẩm và hoàn cảnh ra đời cụ thể của mỗi tập thơ như sau:
- Thanh Hiên thi tập: gồm 78 bài, được sáng tác qua các thời kỳ: thời
kỳ Nguyễn Du chạy loạn về Thái Bình tức quãng đời 10 năm gió bụi (1786 1796); thời kỳ ở ẩn dưới chân núi Hồng (1796 - 1802) và thời kỳ làm quan ở
Bắc Hà (1802 - 1804). Số lượng sáng tác tương ứng với các thời kỳ ở trên là 27
bài, 33 bài và 18 bài.
- Nam trung tạp ngâm: được sáng tác khi Nguyễn Du làm quan ở
Phương Nam (1805 - 1812) gồm 40 bài.
- Bắc hành tạp lục: tập hợp những bài thơ làm khi đi sứ Trung Quốc
(1813 - 1814) gồm 132 bài (trong Thơ chữ Hán Nguyễn Du, xuất bản 1965,
Bắc hành tạp lục gồm 131 bài), (và một bài được bổ sung - 132 bài).
1.2.2. Khái quát về Thơ chữ Hán Nguyễn Du
Thơ chữ Hán Nguyễn Du được coi là tập nhật ký bằng thơ, ghi lại
những đoạn đời khác nhau trong cuộc đời Nguyễn Du, từ lúc nhà thơ 21 tuổi
đến lúc nhà thơ 49 tuổi. Qua đây, chúng ta nhận ra chân dung người nghệ sĩ
một cách rõ nét từ hình hài, dáng vẻ, đời sống vật chất và đời sống tinh thần.
Hình hài, dáng vẻ người nghệ sĩ Nguyễn Du hiện lên trong Thơ chữ
Hán của ông gầy gò, ốm yếu. Đặc biệt, một hình ảnh trở đi trở lại trong thơ

24


Nguyễn Du, đó là hình ảnh mái tóc bạc. Nguyễn Du qua nhiều cách dùng từ
khác nhau rất hay nói đến hình ảnh tóc bạc. Lúc là "bạch phát", lúc là "bạch
đầu", lúc là "bạch mấn"..., nhà thơ cũng nêu lên nhiều nguyên nhân dẫn đến
mái đầu bạc sớm. Đó là do "thời gian trôi nhanh" và có "nhiều nỗi hận", do
"loay hoay chuyện cơm áo", vì "hư danh giày vò", vì "lênh đênh phiêu dạt"...
Mái tóc ấy cũng được miêu tả với nhiều dáng vẻ khác nhau, khi là "tóc bạc bơ
phờ nơi đất khách", khi "mái tóc loà xoà trên gối", khi "rủ xuống vạt áo", khi

"bơ phờ trước gió chiều"...
Đời sống vật chất của bản thân, của gia đình cũng được Nguyễn Du
nhắc đến nhiều lần trong Thơ chữ Hán. Đó là cuộc sống thật nghèo, thật khổ
sở (phần này sẽ được làm rõ ở chương sau).
Đời sống vật chất của Nguyễn Du đầy gian khổ, đời sống tinh thần của
người lại càng chồng chất bi kịch. Hiện hình trong trang thơ là con người bế
tắc, khi "hùng tâm" và "kế mưu sinh" cả hai đều mờ mịt. Người tráng sĩ tóc
bạc chỉ biết hướng lên trời than thở (Tạp thi). Đọc thơ Nguyễn Du ta thấy thi
nhân thật cô đơn, cuộc đời gặp nhiều bất hạnh mặc dù tài hoa.
Qua Thơ chữ Hán, Nguyễn Du còn bộc lộ thái độ của mình đối với các
triều đại phong kiến. Tìm hiểu vấn đề này chính là tìm hiểu con người, thái độ
chính trị của nhà thơ.
Suốt đời mình, Nguyễn Du nặng lòng với nhà Lê. Kẻ sĩ trung đại quan
niệm: nước là của vua, vua là của nước. Chính vì vậy khi triều Lê sụp đổ
Nguyễn Du cũng giống như bao kẻ sĩ Bắc hà khác rơi vào tâm trạng mất nước.
Họ hoặc có ý định phục quốc hoặc tỏ ra tiếc nuối triều đại này.
Triều Lê là triều đại có nhiều ân huệ và kỉ niệm đối với dòng họ và gia
đình Nguyễn Du. Chính vì vậy, nhà thơ không dễ gì quên được. Trong Thơ
chữ Hán, ông bày tỏ thái độ của mình đối với nhà Lê qua một số tác phẩm viết
trong thời kỳ làm quan với nhà Nguyễn ở Bắc hà, còn đa số trong Bắc hành
tạp lục tiêu biểu như: "Đạo ý", "My trung mạn hứng", "Thăng Long", "Ngộ

25


gia đệ cựu ca cơ"... Qua những bài thơ vừa kể trên, ta thấy tình cảm của ông
dành cho triều đại cũ có cái gì chua xót, ngậm ngùi, khi cái mới cứ chồng lên
cái cũ. Nguyễn Du chua xót nhận ra: tất cả những gì đã qua thuộc về lịch sử,
lịch sử ấy không thay đổi được. Tuy vậy, trong tình cảm Nguyễn Du dành cho
triều Lê ta thấy trước sau vẫn thiêng liêng, sâu thẳm. Đó là nơi tâm thức

Nguyễn Du vẫn đi về.
Đối với triều đại Tây Sơn, thái độ của Nguyễn Du có sự thay đổi theo
thời gian. Thời còn trẻ, nhà thơ có căm thù Tây Sơn, chạy theo Lê Chiêu
Thống về Thái Bình mưu chống lại Tây Sơn, định vào Gia Định theo Nguyễn
ánh... Sau đó thái độ của Nguyễn Du đối với triều đại này có phần biến
chuyển, khách quan hơn (Long thành cầm giả ca). Người không còn thái độ
căm thù chống trả mà chỉ là sự ngậm ngùi. "Trong thời gian dài, thái độ của
Nguyễn Du đối với Tây Sơn là thái độ của kẻ bất hợp tác nhiều hơn là thái độ
của kẻ thù địch" (Lê Đình Kỵ).
Qua Thơ chữ Hán, Nguyễn Du cũng gửi gắm tâm sự của mình đối với
triều Nguyễn. Thái độ của ông với Nguyễn triều được phản ánh tập trung qua
Nam trung tạp ngâm, ngoài ra còn được bộc lộ qua một số tác phẩm viết tại
Thăng Long khi đi sứ Trung Quốc như: Tân thu ngẫu hứng, Thu nhật ký hứng,
Tống nhân... Mặc dù con đường làm quan với triều nguyễn vô cùng hanh
thông song qua Thơ chữ Hán, ta chưa bao giờ thấy ông tỏ vẻ mãn nguyện,
đằm thắm với triều đại này.
Không chỉ ghi lại cuộc sống của bản thân mình hay bộc lộ thái độ đối
với các triều đại, Nguyễn Du qua Thơ chữ Hán còn bộc lộ tình cảm vừa thiết
tha vừa bi quan trước cuộc đời. Ông hay nhắc tới khái niệm "cuộc đời" dưới
nhiều sắc thái. Lúc thì cuộc đời ảm đạm, đáng thương, đáng buồn (Đối tửu,
Mạn hứng, Độc tiểu thanh ký...) lúc thì cuộc đời đầy những chuyện đổi thay
(Hành lạc từ, Tái thứ nguyên vận...). Lúc thì cuộc đời vô nghĩa (La Phù giang
thuỷ các độc toạ, Hoàng Hạc lâu...). Như các nhà nghiên cứu đã nhận định:

26


chính vấn đề cuộc đời mới là trung tâm những suy nghĩ, day dứt của nhà thơ,
rằng Nguyễn Du không phải là người chỉ biết đến số phận riêng của cá nhân
mình chỉ biết ngồi ngắm cái bóng dưới chân mình, cũng không phải là nhà thơ

chỉ quan tâm đến triều đại này, triều đại khác mà còn là nhà thơ biết đặt lòng
mình nơi những con người bất hạnh, nơi những con người đau khổ.
Tóm lại, Thơ chữ Hán Nguyễn Du có nội dung phong phú. Nó bao gồm
nhiều cảnh vật, nhiều con người, nhiều cuộc sống khác nhau. Tìm hiểu các tác
phẩm Thơ chữ Hán Nguyễn Du, chúng tôi nhận ra một số vấn đề đối lập tương
phản. Đó là giới hạn của khoá luận, người viết xin được đi vào tìm hiểu các
mặt đối lập tương phản đó ở chương sau.

27


Chương 2
Sự đối lập tương phản
trong Thơ chữ Hán Nguyễn Du
2.1. Quan niệm về sự đối lập tương phản
Về mặt triết học, tất cả các sự vật hiện tượng trên thế giới đều chứa
đựng những mặt đối lập, tương phản nhau. Trong bản chất con người có sự đối
lập giữa tốt - xấu, lương thiện - bất lương... Trong thế giới của màu sắc có sự
đối lập tương phản giữa trắng - đen... Trong sinh vật có sự đối lập tương phản
giữa đồng hoá - dị hoá. Trong kinh tế thị trường có cung và cầu, hàng và tiền...
Về số lượng có sự đối lập nhiều - ít, về giá cả có sự đối lập đắt - rẻ...
Có thể khẳng định, sự tồn tại của các mặt đối lập là khách quan và phổ
biến trong tất cả các sự vật. Lĩnh vực sáng tác văn chương cũng không nằm
ngoài quy luật đó. Khi viết về những cảnh những người những cuộc sống khác
nhau dù muốn dù không, người nghệ sĩ cũng tạo ra các mặt đối lập nào đó.
Theo Hoàng Phê: "Đối lập là đứng ở phía trái ngược, có quan hệ chống
đối nhau" [9, tr. 428]. Cũng theo tác giả trên thì "Tương phản là có tính chất
đối ngược, đối chọi rõ rệt" [9, tr. 1336].
Như vậy, đi vào tìm hiểu các mặt đối lập tương phản là đi vào phát hiện
các vấn đề trái ngược nhau từ đó khái quát nên bản chất của sự vật hiện tượng.

Giữa các mặt đối lập luôn đấu tranh với nhau, tuy nhiên giữa chúng cũng có
sự thống nhất. Cũng có thể đối lập tương phản nhưng không loại trừ, tiêu diệt
nhau. Nó thể hiện ở tiêu chí đánh giá mặt đối lập. Khi xem xét các mặt đối
lập, cần phải biết tìm ra tiêu chí đánh giá chung. Cụ thể như nói về con người
khi nói đến tốt - xấu chúng ta phải xét trong phạm trù bản chất, khi nói cao thấp phải đặt trong phạm trù chiều cao...
Thơ chữ Hán Nguyễn Du là một mảng sáng tác quan trọng trong văn
nghiệp của đại thi hào dân tộc. Trong mảng sáng tác này người đọc dễ dàng
nhận ra các vấn đề đối lập nhau. Có thể khẳng định rằng đối lập tương phản

28


vừa là thủ pháp nghệ thuật vừa là phương diện nội dung trong Thơ chữ Hán
Nguyễn Du. Nó tạo nên một đặc điểm quan trọng của tác phẩm.
Có thể thấy, tìm hiểu sự đối lập tương phản trong Thơ chữ Hán Nguyễn
Du là một công việc thú vị, bổ ích song cũng đầy khó khăn. Do khả năng có
hạn của người thực hiện đề tài, người viết xin được đi vào tìm hiểu các mặt đối
lập tương phản ở một số bình diện cơ bản: sự đối lập tương phản về không
gian, thời gian; sự đối lập tương phản trong thế giới con người.
2.2. Sự đối lập, tương phản trong Thơ chữ Hán Nguyễn Du
2.2.1. Sự đối lập, tương phản về không gian, thời gian
2.2.1.1. Sự đối lập tương phản giữa thế giới âm - dương
Trong các tác phẩm của mình từ Đoạn trường tân thanh, Văn chiêu
hồn, Thơ chữ Hán Nguyễn Du thường tạo nên hai thế giới, hai không gian đối
lập nhau: cõi âm và cõi dương. Trong Văn chiêu hồn tự thân tác phẩm cũng đã
cho thấy một cách rõ rệt hai thế giới: âm - dương. Người trên dương thế cúng
tế giải thoát cho các linh hồn chết oan ở cõi âm. ở Đoạn trường tân thanh,
nàng Kiều mở đầu tình yêu đằm thắm, ước mơ cháy bỏng tại một vùng "ngổn
ngang gò đống", "cỏ áy bóng tà" tạo nên cảm giác lạc vào chốn vĩnh hằng.
Sau đó không lâu, hình ảnh nấm mồ, bóng ma kĩ nữ Đạm Tiên xuất hiện như

một sợi dây định mệnh theo suốt cuộc đời Thuý Kiều. Trong Thơ chữ Hán
Nguyễn Du, người đọc cũng dễ dàng nhận thấy sự xuất hiện của hai thế giới
âm - dương. Nhà thơ dựng lên không gian của chết chóc như muốn so sánh
đối lập nó với cuộc đời đang có - cõi trần gian.
Không gian của cõi âm được diễn tả bằng sự chết chóc, đó là nơi diễn
ra cuộc sống của các hồn ma còn không gian của cõi dương là của người sống,
không gian vũ trụ. Cõi âm - cõi dương là hai thế giới, hai môi trường hoàn
toàn đối lập nhau về không gian. Dưới ngòi hút của Nguyễn Du hai thế giới
đối lập này hiện ra rõ nét.

29


×