Tải bản đầy đủ (.pdf) (65 trang)

Thơ haikư việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (410.55 KB, 65 trang )

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận này, đầu tiên tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới
cô giáo – T.S Nguyễn Thị Bích Dung đã trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong
suốt quá trình thực hiện.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong tổ văn học nước
ngoài, các thầy cô giáo trong khoa Ngữ văn – Trường Đại học sư phạm Hà Nội 2,
cùng toàn thể các bạn sinh viên đã tạo điều kiện thuận lợi và đóng góp những ý
kiến quý báu để tôi hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 5 năm 2010.
Tác giả khóa luận

Trần Thị Tuyết

LỜI CAM ĐOAN
Để hoàn thành khóa luận này, ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận
được sự giúp đỡ tận tình của cô giáo hướng dẫn – T.S Nguyễn Thị Bích Dung,
cùng các thầy cô trong khoa Ngữ văn. Tuy nhiên, tôi xin cam đoan những kết quả
nghiên cứu trong khóa luận này là của riêng tôi, không trùng với kết quả của tác
giả khác.

Hà Nội, tháng 5 năm 2010
Tác giả khóa luận

Trần Thị Tuyết
1


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................. 1


2. Lịch sử vấn đề ................................................................................. 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................... 6
4. Mục đích nghiên cứu ....................................................................... 7
5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................. 7
6. Đóng góp của khóa luận .................................................................. 7
7. Bố cục của khóa luận ...................................................................... 7
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1 : THƠ HAIKƯ NHẬT BẢN TRUYỀN THỐNG .............. 8
1.1. Nguồn gốc thơ Haikư ................................................................... 8
1.2. Những đặc điểm thơ Haikư ........................................................ 10
1.2.1. Quý đề .................................................................................... 10
1.2.2. Quý ngữ ................................................................................... 14
1.2.3. Yếu tố Thiền ............................................................................ 20
1.2.4. Tạo sự liên kết về nội dung ..................................................... 23
CHƯƠNG 2 : THƠ HAIKƯ VIỆT NAM ............................................... 27
2.1. Sự hình thành và phát triển......................................................... 27
2.2. Đặc điểm về nội dung thơ Haikư Việt ....................................... 29
2.2.1. Đa dạng về đề tài ..................................................................... 29
2.2.2. Yếu tố mùa .............................................................................. 39
2.2.3. Yếu tố Thiền ............................................................................ 46

2


2.3. Một số đặc trưng về nghệ thuật thơ Haikư Việt ......................... 50
2.3.1. Sáng tạo về cấu trúc ................................................................ 50
2.3.2. Nhạc tính và cách sử dụng động, tính từ................................. 53
2.3.3. Một số thủ pháp nghệ thuật ..................................................... 55
KẾT LUẬN ....................................................................................... 59
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………….61


3


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Lý do khoa học
Nhật Bản là đất nước của một nền thi ca rất vĩ đại, người Nhật thường tự hào
về đất nước mình là một “THI QUỐC” - đất nước của thi ca. Nhật Bản có hai thể
thơ dân tộc chủ yếu là Tanka và Haikư.
Thơ Haikư là một trong những thể loại văn học độc đáo của Nhật Bản,
Haikư - tâm hồn Nhật Bản, cái đẹp khoảnh khắc thường ngày được thăng hoa, giữ
gìn, phát huy thành giá trị cái đẹp vĩnh hằng: Hoa thời gian trong đời sống con
người và trong nghệ thuật. Nó chẳng những là quốc hồn của xứ sở Phù Tang mà
còn thuộc về kho tàng văn hóa thế giới, với vẻ đẹp nhẹ nhàng mà thẳm sâu, khoảnh
khắc mà vĩnh hằng trong thế giới tâm giao ở tâm thức mỗi con người.
Haikư – loài hoa đậm hương sắc nhất của vườn hoa thơ ca xứ sở Phù Tang,
từ giữa thế kỉ XX đã vượt ra biên giới đất nước và trở thành tài sản chung của nhân
loại: Haikư thế giới (world Haikư). Sáng tác thơ Haikư đã trở thành phong trào
rộng khắp từ Đông sang Tây. Từ những nhà thơ lớn như Paul Eluard, J. L
Borges…Nhiều hội nghị Haikư quốc tế được tổ chức, nhiều công trình nghiên cứu
ra đời – 17 âm tiết mà nói được bao điều Tuy vậy ở Việt Nam thơ Haikư còn ít
được biết đến. Buổi đầu Haikư chỉ thu hút được một số ít người yêu thơ tham gia
sáng tác phê bình. Cuối thế kỉ XX có thêm một số công trình nghiên cứu thơ Haikư
ra đời nhưng số lượng chỉ đếm trên đầu ngón tay. Hai đất nước Việt Nam và Nhật
Bản cùng chịu ảnh hưởng của nền văn hóa phương Đông. Chính vì vậy thể thơ
Haikư Nhật Bản có điều kiện thuận lợi để phát triển và nở rộ ở Việt Nam.

4



1.2. Lý do sư phạm
Tuy chỉ chiếm một tỷ lệ rất đỗi khiêm nhường trong chương trình nhưng thơ
Haikư nằm trong phần “những nội dung mới và khó” trong sách Ngữ văn 10.
Không phải chỉ nhằm lạ hóa tạo hứng thú mà trước hết ở góc độ liên thông về mặt
thể loại, đây là một thể thơ độc đáo có giá trị về mặt nội dung và nghệ thuật cao.
Là thành quả tiêu biểu cho thơ ca Nhật Bản, nó thể hiện những đặc trưng triết lý và
nghệ thuật phương Đông. Đây là dịp cho giáo viên và các em học sinh tiếp xúc với
một vẻ đẹp “quen mà lạ” khoảnh khắc mà vĩnh hằng của một thể loại thơ được
xem là quốc hồn, quốc túy của nền thi ca cổ điển Nhật Bản. Đọc thơ Haikư sẽ tạo
cho học sinh hình thành thói quen biết cách diễn đạt nhiều ý nghĩ trong phạm vi
ngắn nhất “17 âm tiết”.
Đến với thể thơ Haikư này người đọc được chiêm ngưỡng rất nhiều vẻ đẹp
khác nhau. Nó như một cuộc hành trình đưa du khách đến với xứ sở Mặt trời mọc.
Chúng ta hiểu hơn về một đất nước không chỉ mạnh về kinh tế mà trên nhiều lĩnh
vực khác chúng ta phải tiếp thu và học tập. Nhật Bản nơi có những danh lam thắng
cảnh làm say đắm lòng người, đến với những phong tục truyền thống của người
Nhật. Và đặc biệt hơn nó giúp ta hiểu về con người Nhật Bản – một tài nguyên quý
giá đáng phải trân trọng. Tất cả những điều ấy ta có thể tìm thấy trong thơ Haikư.
Đọc thơ Haikư, tâm hồn con người như được thanh lọc và trong sáng hơn. Nhưng
có một điều độc đáo là khi đến với Việt Nam sẽ có rất nhiều mới lạ. Vẫn là cái
bình rượu ấy nhưng bên trong chứa đựng thứ rượu tinh túy và có sức ấp dẫn lạ kỳ.
Đó là lý do mà người viết chọn đề tài “Thơ Haikư Việt Nam”. Kết quả
nghiên cứu sẽ giúp người viết có cái nhìn toàn diện và sâu sắc hơn về mặt nội dung
và nghệ thuật của thể thơ này trên mảnh đất Việt Nam.

5


2. Lịch sử vấn đề

Nói về thơ Haikư, nhà nghiên cứu văn học, triết học và tôn giáo Nhật Bản
Rêzinand Blait đã viết: “Trong thơ Nhật Bản chúng ta được quay lại với những bạn
bè thuở ấu thơ, về với những cơn mưa gõ vào cửa sổ, với những con đường cô
quạnh trải dài trong đêm, với những con sóng dào dạt muôn đời, với vầng trăng khi
gần khi xa, với tất cả những cảm giác về đường nét, kết cấu, khối lượng hình thức
– cái kho báu vô tận của cuộc sống hàng ngày”.
Quả đúng như vậy, ra đời khoảng thế kỉ XVII thơ Haikư đã thu hút sự chú ý
của nhiều bạn đọc và các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Sự ảnh hưởng của
nó không chỉ thu hẹp trong phạm vi quốc gia mà lan rộng và có tiếng vang trên thế
giới.
Tạp chí văn học số 4 -1992 đã giành riêng cho việc tìm hiểu về văn học
Nhật Bản. Bài “Thế kỉ Bạc” của thơ Nhật Bản Alêcxandr Đôlin viết: “Đến thể thơ
Haikư tách ra từ Tanka vào thế kỉ thứ XVII nó hình thành trong lòng nền văn hóa
thành thị mới trở thành sự vật điển hình của thứ nghệ thuật của “thế giới biến
đổi”(ukiô). Thơ Haikư kế thừa của thơ Tanka không chỉ cách cảm thụ bi ai về thế
giới và nguyên tắc phản ánh theo lối gợi, mà còn thủ pháp thơ ca cụ thể: từ ám chỉ,
ẩn dụ đồng âm, các từ theo mùa”.A. Đôlin đã có những nét khái quát nhất về
nguồn gốc thơ Haikư và những thủ pháp nghệ thuật được sử dụng khi sáng tác thể
thơ này.
Tạp chí văn học số 5 -1997, bài “Khái lược văn học Nhật Bản” N.I.Kônrat
(1891 -1970) – Viện sĩ nhà Đông phương học Nga cho rằng: “Lúc đầu thơ Haikư
chủ yếu được hát nơi chùa chiền và nhất là ở các gia đình Samurai tu hành. Nhưng
rồi nó được chú ý bởi các nhóm rộng rãi thuộc tầng lớp chiến binh và sau đó bởi
những đại diện của giai cấp mới. Các thương nhân và thợ thủ công nơi các đô thị
vừa mới ra đời”. Qua đó cho ta biết phạm vi sử dụng và đối tượng tiếp nhận thơ
Haikư.
6


Tạp chí văn học số 5 – 1998, thơ Haikư được nhìn ở phương diện khác.

Trong “những quan niệm thẩm mĩ của người Nhật”. V.V.Ôtrinnicôp – nhà văn,
nhà báo nổi tiếng của Liên Xô cũ: “Thể loại thơ Haikư cũng vậy, đó là những bài
thơ có một câu duy nhất và xuất phát từ hình tượng thơ. Hình thức cực kỳ cô đọng
này có khả năng mang trong nó ẩn ý thực sự sâu thẳm”.
Tạp chí văn học số 4 – 1992, Lý Khắc Cung khi viết “Đôi nét về đất nước
Phù Tang” có nhắc đến phong tục “Tết Nhật Bản, những người đứng tuổi và có
lòng với văn hóa dân tộc, thích đọc thơ Haikư. Đó là một loại thơ cổ truyền thống
gồm ba dòng 17 âm tiết. Phong cách gợi cảm gây được tâm trạng, cung cấp hình
ảnh để điểm xuyết cho những dòng suy nghĩ và cảm xúc. Nhường phần còn lại cho
người đọc tự hình dung ra”.
Tạp chí văn học số 4 -1992 tìm hiểu “Tính Thiền trong thơ Haikư Nhật
Bản” của tác giả T.P.Grigôriêra. Đây là một trong những đặc điểm tiêu biểu của
thơ Haikư Nhật Bản truyền thống.
Nghiên cứu văn học số 7 -2005 đi tìm hiểu kĩ hơn về một trong ngũ trụ thơ
Haikư là Basho và so sánh với Huyền Quang – tác giả gương mặt ưu tú của văn
học Lý Trần. Bài viết “Basho (1644-1694) và Huyền Quang (1254-1334) sự gặp
gỡ mùa thu hay sự tương hợp về cảm thức thẩm mĩ” của Lê Từ Hiển.
Roland Barther (Pháp) có nhận xét: “Sự ngắn gọn của Haikư không phải về
hình thức. Haikư không phải là một tư tưởng phong phú rút vào một hình thức
ngắn gọn mà là sự tin vắn tắt tìm ra được hình thức vừa vặn cho mình”.
Còn nhà thơ Tagor (Ấn Độ) lại cho rằng: “Trong thơ Haikư nhà thơ chỉ giới
thiệu đề tài rồi bước sang một bên và lý do khiến nhà thơ rút nhanh chóng thế vì
người Nhật có quyền năng tinh thần về tư tưởng rất lớn”. Đó là nét khái quát độc
đáo về hình thức thể thơ Haikư.

7


R.H.Blith và D.T Suzuki nói về thơ Haikư.
R.H.Blith viết:

Thứ 1, “Một bài thơ Haikư là sự biểu đạt một sự khai sáng nhất nhất thời,
trong đó chúng ta nhìn thấu cuộc sống của sự vật. Một bài thơ Haikư không là thơ,
không là văn chương; nó là một bàn tay vẫy, một cánh cửa mở, một tấm gương
được lau chùi. Nó là con đường trở về thiên nhiên, thiên nhiên – vầng trăng, thiên
nhiên – anh đào, thiên nhiên – lá rụng, tóm lại thiên nhiên Phật. Nó là con đường
mà ở đó, cơn mưa mùa đông lạnh lẽo, một cánh nhạn đêm, thậm chí một ngày
nóng nực vô cùng, hay đêm thật dài…trở nên thật sự sống động, dự phần vào nhân
loại chúng ta, nói bằng sự im lặng tự thân và ngôn ngữ diễn cảm”.
Thứ 2, “Nó không chỉ là sự vắn tắt nhờ đó Haikư tách biệt một nhóm đặc
biệt các hiện tượng ra khỏi số còn lại; hay sự gợi ý của nó, qua đó tiết lộ toàn bộ
thế giới của kinh nghiệm. Nó không chỉ là sự khác lạ trong cách sử dụng quý ngữ,
bằng cách đó cho chúng ta cảm giác về một quãng thời gian trong năm. Đặc trưng
riêng biệt là sự tự xóa mình đi, là bản chất tự hủy, bằng cách đó giúp chúng ta hơn bất kì dạng văn chương nào khác - hiểu sự vật ngay trong bản thân chúng”.
Thứ 3, “Tình yêu thiên nhiên là tôn giáo, và tôn giáo đó là thơ ca, ba điều
này là một. Đó là đức tin thinh lặng của nhưng nhà thơ Haikư”.
Thứ 4, “Mặt trời tỏa sáng, tuyết rơi, núi dâng lên và thung lũng chìm xuống
đêm sâu và nhạt dần sang ngày…hiếm khi chúng ta chú ý đến những điều
này…Khi chúng ta hiểu thấu ý nghĩa bất khả giải của những điều này thì đó chính
là cuộc sống, đó là tồn tại. Thực hiện điều này 24 giờ mỗi ngày chính là con đường
của Haikư. Đó là cuộc đời phong phú hơn”.
D.T. Suzuki đã viết: “Haikư và Thiền, tuy nhiên không nên nhầm lẫn. Haikư
là Haikư mà Thiền là Thiền. Haikư có mảnh đất riêng của nó, nó là thơ nhưng cũng
dự phần vào Thiền, ở điểm mà thơ và Thiền có liên quan”.

8


Gần đây giúp chúng ta có cái nhín khái quát nhất về thể loại này, hai tác giả
Lê Từ Hiển và Lưu Đức Trung đã tuyển chọn và biên soạn ra mắt bạn đọc cuốn
“Haikư hoa thời gian”. Có thể nói cuốn sách này giới thiệu vẻ đẹp thơ Haikư trên

những phương diện như: quá trình hình thành, đặc trưng thi pháp, cấu trúc nghệ
thuật, ngôn ngữ, thủ pháp nghệ thuật, cảm thức thẩm mĩ thiên nhiên và triết lý tự
nhiên với cái nhìn tương giao – nhất thể thấm đẫm tinh thần Thiền học và tinh thần
phương Đông.
Như vậy, tuy đã có công trình nghiên cứu đề cập đến thơ Haikư Nhật Bản
nhưng các ý kiến bài viết mới chỉ dừng lại ở những thành tựu chung nhất về nội
dung và nghệ thuật của thể thơ này. Trên tinh thần ấy, khóa luận bước đầu tìm hiểu
thơ Haikư Việt Nam trên cơ sở so sánh đối chiếu với thơ Haikư Nhật Bản để thấy
được điểm kế thừa và đổi mới của thể thơ này khi đến Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Thơ Haikư ở Việt Nam
3.2. Phạm vi tư liệu nghiên cứu
- Tuyển tập thơ Haikư Việt Nam – Nxb Lao động (Câu lạc bộ thơ Haikư
Thành phố Hồ Chí Minh)
Ngoài ra người viết còn tham khảo nguồn tư liệu:
- Một số bài thơ Haikư đạt giải và tiêu biểu trong cuộc thi thơ Haikư Việt
Nhật lần 1(2007) và lần 2(2009)
- Một số bài thơ tiêu biểu của các tác giả như:
Matsuo Basho, Yosa Buson, Kobayashi Issa, Masaoka Shiki

9


4. Mục đích nghiên cứu
So sánh thơ Haikư truyền thống và thơ Haikư Việt Nam để thấy được điểm
kế thừa, cách tân đổi mới, từ đó chỉ ra nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của
thể thơ này ở Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành khóa luận, chúng tôi sử dụng một số phương pháp sau:

- Phương pháp khảo sát, so sánh đối chiếu
- Phương pháp phân tích, giảng bình
- Phương pháp hệ thống
6. Đóng góp của khóa luận
Khóa luận đã bước đầu tìm hiểu một cách hệ thống thơ Haikư Việt Nam qua
hai phương diện: đặc điểm về nội dung và nghệ thuật của thể thơ này. Qua đề tài
này, người viết có thể hiểu biết sâu hơn về một thể thơ có nguồn gốc từ Nhật Bản:
Haikư – Hoa thời gian.
7. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần Mở đầu và kết luận, nội dung của khóa luận được chia thành
hai chương:
Chương 1: Thơ Haikư Nhật Bản truyền thống
Chương 2: Thơ Haikư Việt Nam

10


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
THƠ HAIKƯ NHẬT BẢN TRUYỀN THỐNG
1.1 . Nguồn gốc thơ Haikư
Thơ Haikư bắt nguồn từ thể thơ Đoản ca (Tanka) của Nhật Bản. Đoản ca gồm
31 âm tiết (oniji) chia làm hai vế, vế đầu có ba dòng 17 âm tiết (5-7-5) vế sau gồm
hai dòng 14 âm tiết (7-7). Đoản ca là thể thơ xướng họa. Vế đầu có một người khởi
xướng, vế sau do người khác họa theo, những người sau đó lại nối tiếp như kiểu
của hai người trước, cứ thế mà kéo dài hàng trăm hàng ngàn câu, sau này được gọi
là liên ca (renga).
Tanka phổ biến đầu tiên trong cung đình của vương gia, quý tộc. Nội dung
thường mang tính giải trí, mua vui trào lộng, nhiều khi dung tục tầm thường. Về
sau được phổ biến rộng rãi trong các tầng lớp xã hội.

Đến thế kỉ XVII, Matsuo Basho cách tân nội dung và hình thức thể thơ này.
Ông dứt vế đầu 17 âm tiết xây dựng thành một bài thơ độc lập mang đậm chất suy
tư, trữ tình.
Buổi đầu, Basho gọi là hokku hoặc haikai, về sau ghép lại thành Hai-kư.
Thơ Haikư cực ngắn chỉ có ba dòng với 17 âm tiết, bài thơ không cần chấm câu,
thường dùng từ ngắt (keri).
Trên thế giới có nhiều thể thơ ngắn như: thơ tứ tuyệt xuất thân từ Trung Quốc,
thơ Sijo xuất thân từ Triều Tiên, thơ lục bát có nguồn gốc ở Việt Nam…nhưng thơ
Haikư vẫn là ngắn nhất. Trong truyền thống thơ ca Nhật Bản , thơ Haikư giữ một
vị trí rất quan trọng. Nó là viên ngọc quý giá và là một phần tài sản tinh thần trong
kho tàng văn học Nhật Bản.

11


Thơ Haikư gắn liền với những tên tuổi Basho, Buson, Issa, Shiki.


Basho tên thật là Matsuo Kinsaku. Basho là bút danh (tiếng Nhật Basho có
nghĩa là cây chuối, vì ông thích cây chuối nên lấy bút danh này). Ông sinh
năm 1644, con trai út thứ bảy của một Sumurai phục vụ cho lãnh chúa thành
Ueno. Ông làm thơ từ năm 20 tuổi. Năm 1672, ông đến Edo (ngày nay là
Tokyo) thực hành Zen dưới sự chỉ dẫn của thiền sư Butcho. Năm sau ông
xuất bản tập thơ đầu tiên mở đầu cho kiểu thơ riêng biệt của ông (thơ
Haikư). Nhà thơ thường đi phiêu dạt nên có danh hiệu là “thi sĩ hành
hương”. Năm 1694 ông đi bộ xuống các tỉnh phía Nam của Nhật bị bệnh và
chết ở tuổi 50.




Taniguchi Buson (còn có tên là Yosa Buson) là thi sĩ và họa sĩ. Ông sinh
năm 1716 ở ngoại ô thành Ôsaka. Mồ côi cha mẹ từ nhỏ. Năm 1737, ông
đến thành Edo học vẽ và làm thơ theo Basho. Năm 1772, ông ra mắt tập thơ
đầu tiên. Người ta biết đến ông nhiều như là một họa sĩ. Ông mất năm 1784.



Kobayashi Issa (còn có tên là Kobayashi Yataro) sinh năm 1763 tại
Kashiwabara, tỉnh Shinano. Cuộc đời ông nhiều bất hạnh. Ông mất mẹ thuở
còn thơ ấu. Bà mẹ kế đối xử tàn tệ với ông. Ông sống trong nghèo khổ. Con
chết. Cuộc hôn nhân lần thứ hai không hạnh phúc. Tuy vậy thơ ông tràn đầy
sự yêu đời. Năm 1777 ông đến Edo tập làm thơ dưới sự dẫn dắt của
Mizoguchi Sogan và Nordkuan Chikua. Ông sinh sống ở nhiều nơi: Kyoto,
Osaka, Nagasaki, Matsuyama…Khi cha chết, ông trở về Kashiwabara và
cưới một thiếu nữ còn trẻ. Lúc này ông đã nổi tiếng vừa viết văn vừa làm
thơ. Ông viết trên 20 000 bài thơ Haikư. Năm 1826, ông cưới vợ lần thứ ba
và mất năm 1827.



Shiki Masaoka bút danh là Masaoka Tsunenori sinh năm 1867 tại
Matsuyama, cha chết khi ông 5 tuổi. Bà mẹ là một nhà giáo đã dạy ông văn
học Nhật và làm thơ. Ông bắt đầu làm thơ năm 1885. Năm 1892, ông ngưng
12


học vì lý do sức khỏe và từ đó ông chuyên tâm làm thơ Haikư và Tanka.
Ông xuất bản tờ báo Nippon chuyên về thơ Haikư. Năm 1894 ông mắc bệnh
lao phổi và mất năm 1902.
Mỗi nhà thơ đều có cuộc đời riêng, số phận riêng. Bốn nhà thơ nổi tiếng đã

hình thành tứ trụ thơ Nhật Bản.
1.2. Những đặc diểm của thơ Haikư
1.2.1. Quý đề
Quý đề hay chính là đề tài trong thơ Haikư. Theo “Từ điển thuật ngữ văn
học”, đề tài là khái niệm chỉ các hiện tượng đời sống được miêu tả phán ánh trực
tiếp trong sáng tác văn học. Đề tài là phương diện khách quan của nội dung tác
phẩm”[T.110].
Đề tài trong thơ Haikư ưa chuộng những sự vật nhỏ bé, đa dạng với những
rung cảm chân thành, giản dị, hồn nhiên mang sắc thái rất Nhật Bản. Trong thơ
Haikư truyền thống thì đề tài là bức tranh thiên nhiên bốn mùa nhiều màu sắc rực
rỡ, huyền bí và đầy quyến rũ. Bức tranh thiên nhiên không chỉ có trăng, sao, hoa lá
cỏ cây mà còn là tiếng chim gù trong ban trưa tĩnh mịch, tiếng dế kêu trong đêm,
tiếng chim gọi bầy, những áng mây xa, những con sóng, những cánh hoa anh
đào…
Xin bắt đầu bằng mùa hạ khi Basho chỉ nghe thấy tiếng ve sầu vang vọng
qua kẽ lá. Đây là âm thanh đặc trưng của mùa hè ở xứ sở Nhật Bản. Khi nghe âm
thanh này thi nhân lại có cảm giác rất “Thiền”:
“Nhẹ nhàng thanh thoát
tiếng ve ca
thấm vào non núi”
(Basho)
Trong cuộc vui ấy, mấy ai thấy chết chóc đang chờ, Những con ve sầu ấy
không biểu lộ dấu hiệu nào là cuộc sống của chúng sắp tàn:
13


“Ve sầu vui hát
không mảy may hay biết
chết đã gần kề”
(Basho)

Như vậy bức tranh thiên nhiên mùa hạ đã được nhà thơ cảm nhận thật tinh tế
qua tiếng ve sầu.
Nhưng với Issa mùa hạ đươc nhìn nhận qua hình ảnh đám mây trôi luôn thay
hình đổi dạng:
“Đám mây trong ngày khổ ải
từ hình quỷ
chuyển sang hình Phật”
(Issa)
Mùa hạ là mùa cỏ cây tốt tươi nhưng Basho còn nhìn thấy dưới lớp cỏ cây
ấy là mồ chôn những ước mơ hiển hách của biết bao kẻ trượng phu:
“Cỏ mùa hạ
đang chôn vùi bao ước mơ chiến thắng
cố chinh nhân”
(Basho)
Các nhà thơ còn đưa ta đến với thiên nhiên mùa thu. Chỉ nhìn những trái ớt
chín mọng trên cây, danh họa Buson đã thấy cả một mùa thu đang làm thiên nhiên
rực rỡ lộng lẫy:
“Đẹp biết bao
những trái ớt đỏ tươi
sau trận gió thu”
(Buson)
Nếu mùa hạ với âm thanh của tiếng ve thì mùa thu thiên nhiên được Issa
cảm nhận là tiếng dế rên rỉ đêm thu. Không chỉ thế thi sĩ Issa đa cảm đã vội nghĩ
14


ngay đến ngày mình xuống mộ. Trước khi từ giã cõi đời, nhà thơ còn căn dặn
người bạn nhỏ đôi lời:
“Này chú dế
hãy làm người gác mộ

sau khi ta lìa đời”
(Issa)
Bóng đêm dày đặc, một vài tia chớp, và tiếng kêu xào xạc của một con chim
đi tìm mồi là những chấm phá kiệt xuất vẽ lên một đêm thu cô quạnh đến rùng
mình qua thần bút Basho:
“Vài tia chớp lập lòe
tiếng kêu con vạc ăn đêm
bay vào cõi tối”
(Basho)
Và mùa đông đã tới, tuyết trắng băng giá ngoài trời, băng giá cả trong lòng
thi nhân. Lúc này Buson ước ao đi ở ẩn trong núi Yoshino:
“Mùa đông ẩn dật
ngọn núi Yoshino
chiếm chọn tâm tư”
(Buson)
Với Basho – một nhà thơ ít khi dừng bước giang hồ. Tuy vậy, ông ngao
ngán trạng thái ốm đau khi chu du mùa đông qua những vùng hẻo lánh:
“Nằm bệnh giữa cuộc đời lãng du
mộng hồn còn phiêu bạt
những cánh đồng hoang vu”
(Basho)

15


Sau những chuỗi ngày mùa đông giá lạnh, mùa xuân lại trở lại. Mùa xuân
xuất hiện những sinh vật nhỏ bé mà nó đã được Issa rất trìu mến bằng cách an ủi,
vỗ về:
“Chú ếch yếu ớt
đừng bỏ cuộc nhé

Issa đang vỗ về chú đây”
(Issa)
Mùa xuân đến với làn mưa lất phất bay khiến hoa cỏ tốt tươi. Nhưng phũ
phàng làm sao, dưới làn mưa xuân ấy có một lá thư bị ai đó quăng đi để gió thổi vô
rừng, như Issa đã viết:
“Mưa xuân
lá thư vứt bỏ
gió cuốn vô rừng”
(Issa)
Xuân là mùa của hạnh phúc, của tái sinh, nhưng buồn thay Buson thấy xuân
cũng là mùa của tàn sát sinh linh trong khung cảnh hoàng hôn nơi triền núi:
“Hoàng hôn
tiếng bắn chim trĩ vang dội
triền núi mùa xuân”
(Buson)
Trong ánh xuân rực rỡ, thi bá Basho ước ao có tự do không vướng lụy hồng
trần, như hình ảnh chú chim sơn ca kia đang líu lo giữa bãi cỏ xanh:
“Giữa bãi cỏ
sơn ca líu lo
tự do, chẳng ưu phiền”
(Basho)

16


Quý đề trong thơ Haikư thật phong phú. Bốn mùa, mỗi mùa đều gợi lên
trong lòng thi nhân những hình ảnh và cảm xúc khác nhau. Qua những bài thơ
Haikư tiêu biểu ta thấy hiện lên một đất nước, xứ sở mặt trời mọc – đẹp trong
những cái nhỏ bé, đáng yêu.
Bên cạnh đề tài truyền thống đó, thơ Haikư hiện đại, mảng đề tài ngày càng

mở rộng hơn như: đề tài về mẹ, đề tài tình yêu. Thơ Haikư được các tác giả sử
dụng để ghi lại những điều đơn giản mà gần gũi hơn trong cuộc sống hàng ngày
mà ta sẽ gặp trong những bài thơ Haikư Việt Nam.
1.2.2. Quý ngữ
Mỗi bài thơ Haikư đều có một tứ nhất định, thường chỉ ghi lại một sự vật,
một khung cảnh cụ thể trong một thời điểm nhất định để từ đó khơi gợi cảm xúc,
một suy tư nào đó. Thời điểm trong thơ được xác định theo mùa và gọi là quý ngữ.
Việc dùng từ chỉ mùa thể hiện sâu sắc sự gắn bó của người Nhật với thiên nhiên.
Ví dụ những quý ngữ “mùa sương”, “gió mùa thu” chỉ mùa thu, quý ngữ “chim đỗ
quyên”, “tiếng ve” chỉ mùa hè, “mưa đông”, “cánh đồng hoang vu” chỉ mùa đông,
còn mùa xuân với những quý ngữ “hoa anh đào”, “hoa mơ”…
Sự luân chuyển của mùa thể hiện nhịp điệu của thế giới tự nhiên và đời sống
con người, và đó là sự vận động của thời gian. Khi cái nóng oi nồng làm tàn lụi
những cánh anh đào rực rỡ của mùa xuân qua đi thì cái se lạnh của mùa thu ùa về
làm cho màu xanh chuyển sang màu vàng, tiếng chim hót bỗng dừng và rồi những
bông tuyết trắng xóa bắt đầu rơi báo hiệu mùa đông đến. Sự xoay vần của tạo hóa
trên đất nước tạo cho người Nhật những nét tính cách thật đặc biệt.
Mùa xuân là khoảnh khắc ngắn ngủi, đẹp đẽ nhất của đời người. Mùa xuân
được miêu tả nhiều nhất trong thơ Haikư không chỉ vì tác giả nhắc đến từ “xuân”
nhiều mà cảnh sắc mùa xuân được miêu tả gắn với con người. Những từ chỉ mùa
mà ta thường gặp như: oanh, én, bướm, đào, mơ, liễu, ếch…Trong bài thơ nổi
tiếng của Basho:
17


“Ao xưa
con ếch nhảy
tiếng nước”
(Basho)
“Con ếch” (Kawaru) là quý ngữ. Ếch gắn bó mật thiết với thơ Haikư. Có

nhiều loại ếch khác nhau, nơi cư ngụ quen thuộc của chúng là đồng lúa hay ao
đầm. Tiếng kêu râm ran suốt mùa xuân – mùa kết đôi của loài ếch. Vì vậy ếch là
dấu hiệu chỉ mùa xuân.
Mùa xuân ở đất nước Nhật Bản, chúng ta không thể không nhắc đến tên các
loài hoa mà tiêu biểu là hoa mơ và hoa anh đào. Hoa mơ đã gợi cảm hứng cho
Basho làm bài thơ:
“Khắp chốn hoa mơ
ta sẽ vào Nam
hay lên Bắc”
“Hoa mơ” là quý ngữ dấu hiệu của mùa xuân. Hoa mơ có nguồn gốc từ
Trung Quốc. Hoa đã theo chân vị sứ giả trở về từ đại lục và ngay lập tức chiếm
được trái tim của người dân xứ sở Mặt trời mọc. Trong hợp tuyển thơ ca đầu tiên
của Nhật Bản “Vạn diệp tập” có hơn 100 bài viết về hoa mơ. Ngày nay vị trí đứng
đầu các loài hoa thuộc về hoa anh đào nhưng hoa mơ vẫn gắn bó sâu sắc với tinh
thần và văn hóa Nhật Bản.
Có lẽ trong thơ Haikư hoa anh đào được nhắc đến nhiều nhất. Trong văn học
Nhật Bản nói chung, từ “hoa” ngày nay là ám chỉ hoa anh đào. Nhưng anh đào
thực sự lên ngôi và thay thế vị trí hoa mơ vào thời Heian. Hoa anh đào có nhiều
loại, thay nhau nở suốt mùa xuân. Từ thế kỉ XVII, hoa anh đào được trồng khắp
nước và ngày hội hoa anh đào được tổ chức rộng rãi. Anh đào đã được gửi đến
nhiều quốc gia phương Tây và được xem là sứ giả của tình bằng hữu, thiện chí. Có
bài thơ rất hay viết về loài hoa này:
18


“Chốn này Kyoto
chín vạn chín người ra ngắm
anh đào nở hoa”
(Basho)
“Thế giới của thử thách

nếu hoa đào nở
đơn giản là nở thôi”
(Issa)
“Rắc từng lớp
lớp nọ lớp kia
tám lớp hoa đào”
(Shiki)
Hoa anh đào đẹp một vẻ đẹp mong manh, hư ảo nhưng nó lại là loài hoa
được nhiều người Nhật yêu thích. Chính vì vậy trước vẻ đẹp của loài hoa khi xuân
về mọi người nô nức với ngày hội ngắm hoa. Các thi nhân cùng hòa mình trong
ngày vui đó và viết những bài thơ Haikư đặc sắc về mùa xuân.
Issa lại thấy sự chuyển mùa sang xuân qua sự bốc hơi nước và đêm trăng
sáng. Đó là hai dấu hiệu thông báo xuân đã đến trong sự háo hức chờ đợi:
“Bồn tắm bốc hơi
và vầng trăng sáng
mùa xuân đến rồi”
(Issa)
Mùa xuân trôi qua đầy lưu luyến thì mùa hạ về với mẫu đơn, diên vĩ, hoa
sen, tiếng ve, tiếng cu gáy, thác nước, đom đóm…Nhiều bài thơ Haikư miêu tả
cảnh sắc mùa hè bằng tiếng cu gáy, hoặc tiếng ve râm ran:

19


“Ôi chim cu
bay lượn và ca hát
bận rộn xiết bao”
(Basho)
“Ôi tiếng ve
thấm xuyên vào đá

trong cõi quạnh hiu”
(Basho)
Trong bài thơ Haikư, ve có thể gợi nên nhiều mùa khác nhau tùy vào loại
của chúng. Nhưng hầu hết được xem như dấu hiệu của mùa hè. Mùa hè còn là mùa
của loài “côn trùng đèn lồng” – đom đóm. Đom đóm bay trong bóng tối gần mép
nước và phát ra ánh sáng nhấp nháy huyền bí. Đom đóm là một hình ảnh đặc biệt
nên thơ của mùa hè. Nhà thơ Shiki có bài thơ rất hay:
“Lặng lẽ
lửa đom đóm
mặt nước thẳm sâu”
(Shiki)
Có lẽ trong bốn mùa trong năm thì mùa thu là mùa được thi nhân nhắc đến
khá nhiều. Mùa thu với những đêm dài thanh vắng, tiếng châu chấu, tiếng dế kêu
trong đêm và những ánh trăng suông buồn bã. Basho là tác giả tiêu biểu khi viết về
đề tài mùa thu. Đầu tiên phải nói đến là hình ảnh trăng thu:
“Trăng thu
suốt đêm tôi dạo
loanh quanh bên hồ”
(Basho)
“Trăng” là hình tượng của thiên nhiên. Vầng trăng xuất hiện bốn mùa nhưng
đặc biệt gắn với mùa thu thời gian sáng nhất trong năm. Đứng đầu mùa xuân là
20


hoa, đứng đầu mùa đông là tuyết, đứng đầu mùa thu là trăng. Trăng đã trở thành
quý ngữ chỉ mùa thu.
Một bức tranh mùa thu ban đêm thật buồn và hiu quạnh, có gió mưa, có
tiếng xào xạc, tí tách trong vườn chuối cũng được chấm phá như một bức tranh
thủy mặc:
“Cây chuối trong gió thu

ta nghe giọt mưa rơi tí tách
rơi vào bể đêm”
(Basho)
Nhắc đến mùa thu người ta không thể quên nhắc đến “chiều thu”:
“Quạnh hiu đường này
không ai mà tôi
chiều thu”
(Basho)
“Chiều thu” hay hoàng hôn mùa thu. Các nhà thơ Nhật yêu thích quý ngữ
này và so sánh với “bình minh mùa xuân”, nhưng xuất hiện nhiều hơn. Theo bước
chân mùa thu, ngày ngắn dần và thành ngữ “hoàng hôn ập xuống” chỉ mặt trời tụt
xuống quá nhanh. Quý ngữ này đem lại ý nghỉa về sự trôi chảy của thời gian và sụ
chóng tàn của kiếp người. Đây là thời gian của hồi tưởng. Thu đến thường gợi
trong lòng thi nhân nỗi buồn sâu lắng.
Đi qua mùa thu ta đến với mùa đông Nhật Bản. Đọc tác phẩm “Xứ tuyết”
của Kawabata, chúng ta đã thấy đặc trưng mùa đông Nhật Bản dó là hình ảnh
tuyết. Cũng như với Trung Hoa, tuyết được xem là một trong những quý ngữ hàng
đầu của thơ ca truyền thống Nhật Bản. Phía Tây – từ Hokkaido chạm tới biển Nhật
Bản – là nơi có nhiều tuyết hơn bất cứ nơi nào trên thế giới và được xem là “Xứ
Tuyết”. Trong thơ Haikư đây là hình ảnh ta bắt gặp phổ biến khi nhắc đến mùa
đông:
21


“Sáng ngày tuyết
một mình, nhai nghiến
thịt cá hồi khô”
(Basho)
“Bông tuyết đầu mùa
đủ làm trĩu

lá thủy tiên”
(Basho)
Đồng hành với mùa đông là những cơn rét buốt, cây cối trơ trụi, khẳng khiu.
Nhà thơ Basho mô tả cảnh mùa đông bằng những hình ảnh độc đáo:
“Đến đây xem để thấy
một chiếc lá cô đơn
trên cành Kiri ấy”
(Basho)
Và đây là cảnh vườn chùa mùa đông trống vắng:
“Những chiếc lá rơi
dường như trăm tuổi
giữa ngôi vườn chùa”
(Basho)
Như vậy ta thấy thơ Haikư nổi bật yếu tố mùa, những quý ngữ trong bài thơ
cho ta biết được bài thơ viết về mùa nào trong năm. Thơ Haikư Nhật Bản, quý ngữ
có vai trò rất quan trọng. Những quý ngữ ấy đã vẽ lên trước mắt người đọc một đất
nước Nhật Bản với bốn mùa – mỗi mùa có một đặc trưng riêng tạo nên sự phong
phú, đa dạng của thiên nhiên xứ sở Mặt trời mọc. Hãy đến với những bài thơ
Haikư để cảm nhận được điều kì diệu này.

22


1.2.3. Yếu tố Thiền trong thơ Haikư
Như chúng ta đã biết, Nhật Bản từng chịu ảnh hưởng của nền văn minh
Trung Hoa, trong đó có một kênh hết sức quan trọng là sự chuyển tải qua lối tư duy
và ý niệm Phật giáo. Vào thế kỉ XII, tại Nhật lần lượt xuất hiện bốn chi phái Phật
giáo: Zodo, Shinshu, Nichizen, Zen (Thiền). Riêng chi phái thứ tư có ảnh hưởng
nhất tại Nhật Bản. Thiền đã ảnh hưởng đến tinh thần Nhật Bản qua sáu sắc thái: sự
hướng nội; chỉ thẳng; giản dị mộc mạc: không phân biệt; hoang vắng; cô liêu (vĩnh

tịch). Sáu sắc thái này tạo nên thẩm mĩ Thiền mà tự nó biểu lộ trong nghệ thuật.
Thẩm mĩ cộng hưởng với bốn tiêu chuẩn về vẻ đẹp của người Nhật là: Sabi, Wabi,
Sibui, Yugen lưu lại dấu ấn trong vườn cảnh, trà thất, kịch nô và thi ca. Đặc biệt là
trong thi ca, dấu ấn Thiền còn đậm nét hơn cả Triết học xứ Phù Tang. Nguyên
nhân chỉ vì lĩnh vực thơ ca tác động đến con người bằng con đường vô thức, những
nhân tố cấu trúc cảm xúc tâm lý vốn là phạm vi tác động của Thiền. Thể loại chịu
ảnh hưởng nhất của Thiền là Haikư – một thể thơ Nhật Bản. Yếu tố này biểu hiện
rất rõ trong thơ Haikư.
Cả thức sabi là linh hồn của tịch liêu, xa xưa. Nó không giới hạn vào trạng
thái của cá nhân mà nó là niềm cô tịch, vô ngã như trong kinh nghiệm Thiền giáo:
“Ôi tiếng ve kêu
thấu xuyên vào đá
trong cõi quạnh hiu”
(Basho)
Với bài thơ trên, Basho mượn âm thanh mạnh và sắc của ve để thể hiện niềm
cô tịch, vô ngại của thiên nhiên. Đá núi như mềm ra trở nên vô ngại, cùng với tiếng
ve ta bước vào cảnh giới của sự vô ngại, nơi mọi vật dung chứa lẫn nhau. Bằng
phương tiện sabi, linh hồn nhân thế hòa vào vô biên chạm vào vĩnh cửu. Trong bài
thơ nổi tiếng của Basho ông cũng phản ánh vũ trụ trong ba câu thơ vẻn vẹn 19 âm
tiết (5-9-5):
23


“Trên cành khô
cánh quạ đâu
chiều thu”
Bức tranh thơ ấy là một sự cô tịch. Cành cây, cánh quạ chiều thu là một sự
cô tịch mà Basho mang trong trái tim mình khi ông lắng nghe niềm im lặng rất
tuyệt của chân không.
Bài thơ khiến ta nhớ tới hiện tượng wabi (đà) là cái đơn sơ, bình thường mà

ta bắt gặp một sự khiêm tốn nhất, nghèo nàn nhất. Sự nghèo nàn của một con ếch
nhỏ, một chiếc lá rơi, cánh chim trời, thanh âm của nước:
“Ao xưa
con ếch nhảy
tiếng nước”
Tiếng vang của nước là tiếng vang của chính ta, là tiếng vang của vũ trụ.
Một con ếch đã đánh thức vũ trụ bằng bước nhảy của mình. Bài thơ kì bí này kết
hợp thần tình hai yếu tố cốt yếu: cái tức thời với cái vĩnh cửu.
Cảm thức aware (bi cảm) ta cũng thấy trong bài thơ Haikư của Basho nói về
cảnh biệt ly:
“Ngọn lúa nào
trong ngón tay níu chặt
khi từ biệt nhau”
(Basho)
Bài thơ chỉ thể hiện những gì cốt yếu nhất của cảm thức ly biệt, còn những
nguyên nhân khác nhà thơ không nhắc đến. Hình ảnh ngọn lúa gợi ta liên tưởng
đến không gian trên cánh đồng. Chi tiết ngón tay níu chặt thể hiện con người cố
kìm nén tình cảm đang muốn òa vỡ. Chỉ ghi nhận khoảnh khắc ấy bài thơ cũng đủ
gợi nên nỗi niềm xao xuyến, day dứt trong lòng người.

24


Cảm thức Yugen (u huyền).Chính sự tịch nặng đã gợi cho ta cảm giác u
huyền. Giữa hai yếu tố này có mối tương quan lẫn nhau. Từ cái nhìn sâu thẳm về
một sự vật huyền diệu nào đó trong khoảnh khắc, khiến cho tâm ta xao xuyến ngất
ngây, khát khao hoà nhập vào. Nó đem tâm ta chìm đắm trong thế giới mênh
mang, lãng đãng u huyền. Một con quạ đậu trên cành khô như một chấm đen mà ta
nhìn thấy đang tan hòa với màu tối sẫm của hoàng hôn trong buổi chiều thu tĩnh
lặng, tâm và vật nhập làm một.

Ở thơ Haikư tràn đầy một thiên nhiên mộc mạc, bình dị hồn nhiên và tươi
mát (bầu trời, trăng gió, mưa xuân, sương, con suối, đồng cỏ, nhánh bìm bìm…).
Nhưng vừa vặn với một khuôn khổ nhỏ bé 17 âm tiết, đối tượng miêu tả của Haikư
thường là một mảng rất nhỏ của thiên nhiên cuộc sống bất chợt bắt gặp tiếng chim
hót, con ốc sên bám trên cánh cửa, một tà áo lay động trong gió, một đôi dép
vương hoa đào…Trong thế giới hồn nhiên và thi vị ấy, xuất hiện nhiều sinh vật
nhỏ bé tầm thường như: con cua, con ốc, con chuột, ruồi con, chấy rận…Những
sinh vật này thường bị quên trong văn chương phong kiến giàu chất quý tộc.
Chúng sống hành động tự do, hồn nhiên và bình đẳng cùng mọi sự vật trong vũ trụ.
Một con ốc từ từ bình thản bò lên ngọn núi Fuji hùng vĩ, một chú chuột ung dung
uống nước bên dòng Sumida…Cái đẹp của những bức tranh nhỏ này không rực rỡ
đập ngay vào mắt người ngoạn thưởng mà nó ẩn mình trong sự hài hòa bình dị.
Yếu tố Thiền là một đặc điểm nổi bật trong thơ Haikư. Chính yếu tố này đã
làm cho những bài thơ Haikư mang vẻ đẹp đơn sơ, bình dị mà vẫn lắng sâu cảm
xúc. Người Nhật có những quan niệm thẩm mĩ độc đáo và những quan niệm ấy in
dấu đậm nét trong thơ Haikư.

25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×