CHƯƠNG X: VẤN ĐỀ TÔN GIÁO TRONG QUÁ TRÌNH
XÂY DỰNG CNXH
I. BẢN CHẤT, NGUỒN GỐC, TÍNH CHẤT CỦA TÔN GIÁO
1. Bản chất và nguồn gốc của tôn giáo
Vấn đề tôn giáo chúng ta đã được nghiên cứu trong môn Triết học,
nhưng nếu Triết học Mác – Lênin nghiên cứu vấn đề tôn giáo với tính cách
là một hình thái ý thức XH nói chung thì CNXHKH nghiên cứu vấn đề tín
ngưỡng, tôn giáo như một trong những nhu cầu tinh thần của một bộ phận
nhân dân trong CNXH, có liên quan đến nhiều lĩnh vực khác, trước hết là
lĩnh vực chính trị, tinh thần… Như vậy, CNXHKH nghiên cứu vấn đề tín
ngưỡng, tôn giáo chủ yếu dưới góc độ chính trị - xh, trên cơ sở phương
pháp luận triết học Mác – Lênin.
a. Bản chất của tôn giáo
- Chủ nghĩa Mác – Lênin coi tín ngưỡng, tôn giáo là một hình thái ý
thức xã hội phản ánh một cách hoang đường, hư ảo hiện thực khách
quan. Qua sự phản ánh của tôn giáo, những sức mạnh tự phát trong tự
nhiên và xã hội đều trở thành thần bí.
Như chúng ta đã biết ý thức xã hội là toàn bộ đời sống tinh của XH,
phản ánh tồn tại XH trong một giai đoạn lịch sử nhất định, trong hình thái ý
thức XH có nhiều loại như : quan điểm, tư tưởng, văn hóa, đạo đức, triết
học…Tôn giáo chỉ là một bộ phận ( một yếu tố) trong hình thái ý thức XH.
Nhưng khác với các hình thái ý thức XH khác, tôn giáo là sự phản ánh
xuyên tạc hiện thực khách quan ( tức phản ánh sai lệch, không chính xác
thế giới khách quan).
Chẳng hạn khi giải thích nguồn gốc của thế giới thì Đạo Kitô cho
rằng: Thiên chúa là đấng sáng tao ra vũ trụ, trời đất, muôn vật, trong đó có
con người… Sự giải thích như trên là hoàn toàn sai lầm. Bởi sự phát triển
mạnh mẽ của khoa học tự nhiên, người ta đã chứng minh rằng TG mà
chúng ta đang sống là kết quả phát triển lâu dài của giới tự nhiên và con
người chỉ là một bộ phận, là sản phẩm hoàn thiện nhất của sự phát triển của
tự nhiên.
Th.sĩ Nguyễn Thị Thu Hà
1
Do vậy trong tác phẩm “Chống Đuyrinh”, Ph.Ăng ghen viết: “ Tất
cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo – vào trong đầu óc con
người – của những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của
họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang hình
thức những lực lượng siêu trần thế”
- Ở đây khi nghiên cứu vấn đề tôn giáo, chúng ta cần thấy sự khác
nhau giữa tín ngưỡng và tôn giáo, chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau mà
ranh giới để phân biệt chúng chỉ là tương đối:
+ Tín ngưỡng là khái niệm rộng hơn tôn giáo. Ở đây chỉ đề cập đến một
dạng tín ngưỡng – đó là tín ngưỡng tôn giáo ( gọi tắt là tôn giáo)
Tín ngưỡng là niềm tin và sự ngưỡng mộ của con người vào một đối tượng
nhất định nào đó. Tuy nhiên, không phải mọi niềm tin và sự ngưỡng mộ
đều được coi là tín ngưỡng, mà chỉ có những niềm tin và sự ngưỡng mộ của
con người hướng vào lực lượng siêu nhiên ngoài trần thế và coi lực lượng
ấy có khả năng chi phối, thậm chí quyết định số phận con người mới được
coi là tín ngưỡng. Như vậy tín ngưỡng là sự tôn thờ, tin theo thần thánh,
phản ánh nhu cầu tâm linh khác nhau của mỗi người, mỗi cộng đồng dân
tộc.
+ Tôn giáo là một trong những hình thức tín ngưỡng có quan niệm, ý thức,
hành vi và các tổ chức tôn giáo.Tóm lại, tôn giáo thường có giáo lý giáo
luật, lế nghi và các tổ chức tôn giáo.
+ Điều khác biệt giữa tín ngưỡng và tôn giáo là ở chỗ:
Tôn giáo có hệ thống giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức giáo hội chặt chẽ,
còn tín ngưỡng mang tập tục thiêng liêng ( ví dụ: tục thờ cúng tổ tiên, thờ
các vị anh hùng dân tộc…) xuất phát từ niềm tin của con người nhưng
không nhất thiết phải trở thành giáo lý, giáo luật, tổ chức.
Tôn giáo mang tính cộng đồng XH, tác động đến cả cộng đồng, có khi ảnh
hưởng đến cả dân tộc, cả một quốc gia, thậm chí nhiều nước ( Hồi giáo,
Thiên chúa giáo, Phật giáo…); còn tín ngưỡng không mang tính cộng đồng
không ảnh hưởng lớn về XH.
- Mê tín dị đoan:
+ Mê tín là sự tin theo một cách mù quáng vào cái thần bí, thần thánh, ma
quỷ, số mệnh.
+ Dị đoan là điều quái lạ, huyễn hoặc do tin vào sự nhảm nhí, không có cơ
sở khoa học.
Th.sĩ Nguyễn Thị Thu Hà
2
Mê tín, dị đoan đều là niềm tin của con người vào lực lượng siêu nhiên,
thần bí một cách mê muội, mú quáng, với những hành vi cực đoan, thái
quá, phi nhân tính, phản văn hóa. Mê tín, dị đoan thường dẫn đến hậu quả
xấu ảnh hưởng đến đời sống XH, làm suy đồi lối sống, đạo đức của con
người ( như bói toán, lên đồng, gọi hồn…)
Hiện tượng mê tín, dị đoan thường đan xen vào các hình thức sinh hoạt tín
ngưỡng, tôn giáo. Do đó, cùng với việc tôn trọng và bảo đảm quyền tự do
tín ngưỡng của nhân dân thì đồng thời phải loại bỏ dần mê tín, dị đoan
nhằm lành mạnh hóa đời sống XH.
Tuy nhiên bên cạnh mặt tiêu cực thì tôn giáo còn chứa một số nhân tố có
giá trị về văn hóa, đạo đức phù hợp với XH nên nó vẫn còn điều kiện để
tồn tại.
- Về phương diện thế giới quan:
TGq duy vật Mác - xít và TGq tôn giáo là đối lập nhau. Tuy vậy trong thực
tiễn, những người cộng sản có lập trường Mác – xít không bao giờ có thái
độ xem thường hoặc trấn áp những nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo hợp pháp
của nhân dân. Ngược lai, chúng ta luôn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và
không tín ngưỡng của nhân dân.
Sự khác nhau giữa CNXH hiện thực và “thiên đường” mà các tôn giáo
thường hướng tới là ở chỗ, trong quan niệm tôn giáo “thiên đường” không
phải là hiện thực XH mà là ở “thế giới bên kia”, “thượng giới”. Còn những
người cộng sản chủ trương và hướng con người vào XH văn minh, hạnh
phúc ngay ở thế giới hiện thực.
Tóm lại: Tôn giáo là sản phẩm của con người, gắn với những điều kiện lịch
sử tự nhiên và lịch sử xh nhất điịnh. Xét về mặt bản chất, tôn giáo là một
hiện tượng XH phản ánh sự bất lực của con người trước tự nhiên và XH.
b. Nguồn gốc của tôn giáo
Tôn giáo ra đời tồn tại trong những điều kiện lịch sử nhất định. Đã có nhiều
cách lý giải khác nhau về nguồn gốc của tôn giáo. Tuy nhiên, trong các
nguồn gốc của tôn giáo, cần chú ý tới các nguồn gốc cơ bản sau:
* Nguồn gốc kinh tế - xã hội của tôn giáo
- Do trong xh CSNT, trình độ phát triển của LLSX còn thấp kém
Th.sĩ Nguyễn Thị Thu Hà
3
Trong XH CSNT, LLSX còn hết sức thấp kém, con người chưa giải thích
được các hiện tượng xảy ra trong thế giới có ảnh hưởng đến đời sống của
họ như mưa, gió, bão lụt, sấm sét. Ngay cả những giấc mơ, họ cũng không
giải thích do đâu mà có… điều đó làm cho con người luôn cảm thấy yếu
đuối và bất lực trước thiên nhiên bao la đầy bí ẩn, con người đành thờ
phụng, cầu khẩn và monh chờ được sự che chở của thần linh, thượng đế.
Đó là hình thức tồn tại đầu tiên của tôn giáo. Chính vì vậy Ph.Ăngghen
viết: “Tôn giáo sinh ra trong thời đại hết sức nguyên thủy, từ những biểu
tượng hết sức sai lầm nguyên thủy của con người về bản chất của chính họ
và về giới tự nhiên bên ngoài bao quanh họ”
- Chế độ tư hữu xuất hiện cũng là nguồn gốc để hình thành tôn giáo.
Bởi vì khi xuất hiện chế độ tư hữu, xh phân chia thành giai cấp, giai cấp
thống trị XH đã dùng nhiều thủ đoạn khác nhau để áp bức và bóc lột nhân
dân lao động, đời sống của quần chúng ngày càng trở nên khốn khổ, họ
phải chịu tác động của các yếu tố tự phát, ngẫu nhiên, may rủi… không giải
thích rõ ràng và tường tận của những nỗi bất hạnh đó, một lần nữa con
người lại bị động, bất lực trước những lực lượng tự phát nảy sinh trong XH,
người ta lại hi vọng, ảo tưởng vào cuộc sống tốt đẹp hơn ở TG bên kia.
Như vậy, sự yếu kém cuat trình độ phát triển của LLSX, sự bần cùng về
kinh tế, áp bức về chính trị, thất vọng, bất lực trước những bất công XH là
nguồn gốc sâu xa của tôn giáo.
* Nguồn gốc nhận thức của tôn giáo.
- Ở những giai đoạn lịch sử nhất định, nhận thức của con người về tự
nhiên, XH và bản thân mình là có giới hạn. Khoa học có nhiệm vụ từng
bước khám phá những điều chưa biết. Song khoảng cách giữa biết và
chưa biết luôn tồn tại, điều gì mà khoa học chưa giải thích được thì điều
đó dễ bị tôn giáo thay thế.
Nhận thức của con người là một quá trình vô tận, cùng với sự phát triển của
khoa học công nghệ đã ngày càng giúp cho con người khám phá TG. Song
ở mỗi thời kỳ lịch sử cụ thể thì khoảng cách giữa cái “biết” và “chưa biết”
vẫn tồn tại, điều gì khoa học chưa giải thích được thì điều đó được giải
thích một cách hư ảo qua các tôn giáo. Ngay cả những vấn đề đã được KH
chứng minh nhưng do trình độ của dân trí thấp nên vẫn là mảnh đất cho tôn
giáo tồn tại và phát triển.
Th.sĩ Nguyễn Thị Thu Hà
4
Sự xuất hiện và tồn tại của tôn giáo còn gắn liền với đặc điểm nhận thức
của con người. Con người ngày càng nhận thức đầy đủ hơn, sâu sắc hơn
TG khách quan, khái quát hóa thành những khái niệm, phạm trù, quy luật.
Nhưng càng khái quát hóa, trừu tượng hóa đến mức hư ảo thì sự vật, hiện
tượng được con người nhận thức, càng có khả năng xa rời hiện thực và bị
phản ánh sai lệch hiện thực. Sự nhận thưc bị tuyệt đối hóa, cường điệu hóa
của chủ thể nhận thức sẽ dẫn đến thiếu khách quan, dễ rơi vào ảo tưởng,
thần thánh hóa đối tượng.
* Nguồn gốc tâm lý của tôn giáo
Các nhà duy vật cổ đại thường đưa ra luận điểm “ sự sợ hãi sinh ra thần
linh”. Các nhà kinh điển của CNM –Ln, đặc biệt là V.Lênin tán thành và
phân tích thêm: sợ hãi trước thế lực mù quáng của TB …, sự phá sản “đột
ngột”, “bất ngờ”, “ngẫu nhiên”, làm họ bị diệt vong…, dồn họ vào cảnh
chết đói, đó chính là nguồn gốc sâu xa của tôn giáo hiện đai.
Nhưng không chỉ từ sự sợ hãi trước sức mạnh tự phát của tự nhiên và XH
đưa con người đến nhờ cậy và tin tưởng vào thần linh, mà ngay cả những
tình cảm tâm lý tích cực như tình yêu, lòng biết ơn, sự kính trọng… trong
mối quan hệ giữa con ngưới với tự nhiên và con người với con người nhiều
khi cũng được thể hiện qua tín ngưỡng tôn giáo.
Ví dụ: Đạo thờ Đức Thánh Trần ( Trần Hưng Đạo), Đạo mẫu ( thờ bà chúa
Liễu hạnh)…
Như vậy khi nói đến nguồn gốc tâm lý của tôn giáo thực chất là nói đến sự
đền bù hư ảo, sự xoa dịu những nỗi đau trần thế… “ Tôn giáo là thuốc
phiện của nhân dân” – tức là một mặt nó đầu độc nhân dân, mặt khác nó
xoa dịu nỗi đau, bù đắp những mất mát trong cuộc sống của con người.
Tóm lại:
Tín ngưỡng tôn giáo đáp ứng nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân
dân, góp phần bù đắp những hụt hẫng trong cuộc sống, nỗi chống vắng
trong tâm hồn, an ủi, vỗ về, xoa dịu cho các số phận lúc sa cơ, lỡ vận. Vì
vậy, dù chỉ là hạnh phúc hư ảo, nhưng nhiều người vẫn tin theo nó.
2. Tính chất của tôn giáo
a. Tính lịch sử của tôn giáo.
Th.sĩ Nguyễn Thị Thu Hà
5
- Tôn giáo là một phạm trù lịch sử, nó ra đời và tồn tại trong một giai
đoạn lịch sử nhất định, đến một giai đoạn phát triển nhất định của XH
khi con người đạt đến mức độ trưởng thành cao và điều kiện sinh hoạt
vật chất dồi dào thì tôn giáo không còn lý do để tồn tại.
Tôn giáo là một phạm trù lịch sử tức là nó có quá trình sinh ra, tồn tại, phát
triển và diệt vong. Không phải là khi con người xuất hiện thì tôn giáo cũng
xuất hiện. Những người nguyên thủy đã từng sống hàng triệu năm không có
tôn giáo. Các ngành khoa học lịch sử, khảo cổ đã chứng minh rằng, trong
một thời gian dài, con người sống không có tôn giáo và tôn giáo mới xuất
hiện khi hình thành nười tinh khôn – tức là tôn giáo chỉ xuất hiện khi khả
năng tư duy, trừu tượng hóa của con người đạt tới mức độ nhất định và nó
sẽ mất đi khi nguồn gốc nảy sinh tôn giáo không còn nữa.
Tôn giáo là sản phẩm của lịch sử, là một hình thái ý thức XH, nên trong
mỗi thời kỳ lịch sử nhất định, tôn giáo có sự biến đổi cho phù hợp. Thời đại
thay đổi, tôn giáo cũng có sự thay đổi theo. Đó là nguyên nhân giải thích vì
sao trong điều kiện hiện nay tôn giáo vẫn tồn tại và phát triển.
b. Tính quần chúng của tôn giáo
- Tôn giáo phản ánh nhu cầu giải phóng và nhu cầu hạnh phúc có ý
nghĩa giáo dục nhân văn đối với một bộ phận nhân dân và nó đã thâm
nhập vào một bộ phận nhân dân ấy qua nhiều thế hệ và biến thành đức
tin, lối sống của họ.
Tính chất quần chúng của tôn giáo không chỉ thể hiện ở số lượng tín đồ các
tôn giáo chiếm tỷ lệ cao trong dân số TG ( theo Niên giám Đại Bách Khoa
của Anh ( 1991) công bố, tín đồ các loại tôn giáo chiếm 4/5 dân số TG) ,
mà tôn giáo còn là nơi sinh hoạt văn hóa, tinh thần của một bộ phận quần
chúng nhân dân lao động, dù tôn giáo hướng con người vào hạnh phúc hư
ảo ở TG bên kia – thế giới không có thật, song nó luôn phản ánh khát vọng
của con người vào một TG tự do, hạnh phúc, bình đẳng, bác ái. Tôn giáo
thường có tính nhân văn, nhân đạo và hướng thiện nên nó còn được nhiều
người trong XH tin theo.
c. Tính chính trị của tôn giáo
- Tôn giáo thường bị các giai cấp thống trị lợi dụng, sử dụng như một
công cụ để áp bức về mặt tinh thần đối với quần chúng nhân dân.
Th.sĩ Nguyễn Thị Thu Hà
6
Trong XH CSNT, tôn giáo chỉ phản ánh nhận thức hồn nhiên, ngây thơ của
con người về bản thân mình và thế giới xung quanh. Tính chính trị của tôn
giáo chỉ xuất hiện khi XH phân chia thành giai cấp và có đối kháng giai
cấp. Khi đó, quần chúng nhân dân lao động bị áp bức, bóc lột lấy tôn giáo
để gửi gắm những khát vọng của họ về tự do, hạnh phúc. Điều đó thể hiện
thái độ phản kháng tiêu cực của quần chúng đối với giai cấp thống trị.
Chính sự phản kháng tiêu cực của quần chúng đưa họ đến niềm tin tôn
giáo. Thấy dược điều đó, giai cấp thống trị phản động đã sử dụng tôn giáo
để mê hoặc, uy hiếp, ru ngủ quần chúng nhân dân bằng các thứ giáo lý
được cho là của thần thánh nhưng thực chất là do giai cấp thống trị đặt ra
để áp bức, nô dịch nhân dân. Do vây, cuộc đấu tranh chống các giai cấp
thống trị phản động lợi dụng tôn giáo không tách rời cuộc đấu tranh vì hạnh
phúc thực sự của nhân dân.
Những cuộc chính trị tôn giáo đã và đang xảy ra trên TG, thực chất vẫn là
xuất phát từ những lợi ích vật chất của những lực lượng XH khác nhau. Chỉ
có trong CNXH, các tôn giáo mới được bình đẳng trước pháp luật và
GCCN không sử dụng bất kỳ một tôn giáo nào như một công cụ để duy trì
vai trò thống trị của mình, sự liên minh giữa thế quyền và thần quyền của
nhà nước bóc lột trước đây bị loại bỏ. Tự do tín ngưỡng được Đảng và Nhà
nước XHCN coi trọng, coi như là biểu hiện của dân chủ trên lĩnh vực văn
háo tư tưởng.
II. VẤN ĐỀ TÔN GIÁO TRONG XH – XHCN
1. Nguyên nhân tồn tại của tôn giáo trong XH – XHCN.
Trước đây, nhiều quan điểm cho rằng, khi khoa học và kinh tế phát triển
cao thì tôn giáo sẽ tàn lụi. Nhưng một thực tế đang đặt ra hiện nay là ngay
cả những nước phát triển theo chế độ XHCN thì tín ngưỡng tôn giáo vẫn
tồn tại và phát triển. Suy cho cùng cũng là do vẫn còn có cơ sở cho sự nảy
sinh và tồn tại của tôn giáo với những điều kiện cụ thể mới. Ngoài những
nguồn gốc chung nêu trên, cần chú ý tới một số nguyên nhân cho sự tồn tại
và phát triển của tôn giáo dưới CNXH.
* Nguyên nhân nhận thức:
Th.sĩ Nguyễn Thị Thu Hà
7