Tải bản đầy đủ (.doc) (111 trang)

Truyện ngắn Trần Đức Tiến nhìn từ thể loại (Qua khảo sát tập Lỏng và Tuột)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (474.58 KB, 111 trang )

1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN THỊ TRUNG DƯƠNG

TRUYỆN NGẮN TRẦN ĐỨC TIẾN
NHÌN TỪ THI PHÁP THỂ LOẠI
(QUA KHẢO SÁT TẬP LỎNG VÀ TUỘT)

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

NGHỆ AN - 2013


2
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN THỊ TRUNG DƯƠNG

TRUYỆN NGẮN TRẦN ĐỨC TIẾN
NHÌN TỪ THI PHÁP THỂ LOẠI
(QUA KHẢO SÁT TẬP LỎNG VÀ TUỘT)

Chuyên ngành: LÝ LUẬN VĂN HỌC
Mã số: 60.22.32

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học:


PGS.TS. BIỆN MINH ĐIỀN

NGHỆ AN - 2013


3
MỤC LỤC


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Trong văn học hiện đại (của nhiều nước trên thế giới) truyện
ngắn là thể loại có vai trò quan trọng đối với đời sống văn chương, thường
được nhà văn lựa chọn để chuyển tải những góc nhìn về cuộc sống. Nếu như
tiểu thuyết là thể loại chiếm lĩnh đời sống trong toàn bộ sự đầy đặn và toàn
vẹn của nó, thì truyện ngắn thường chỉ hướng tới việc khắc họa một hiện
tượng, phát hiện một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hay đời sống tâm
hồn của con người. Cũng chính vì thế, truyện ngắn trở thành một thể loại văn
học rất nhạy cảm với những biến đổi của đời sống xã hội và tái hiện được mọi
biến thái của đời sống vật chất cũng như tinh thần của con người. Nó đã vươn
tới cái nhìn toàn diện hơn về cuộc sống, bởi vì nó rất năng động có khả năng
to lớn trong việc đáp ứng những đòi hỏi yêu cầu ngày càng cao của cuộc sống.
Nó được ví là thể loại có nội khí “một lời mà thiên cổ, một gợi mà trăm suy”.
Ngày nay, khi xã hội với sự phát triển như vũ bão của các nghành khoa học và
công nghệ, cùng với xu thế toàn cầu hóa đã tạo ra một xã hội hiện đại đầy
biến động. Sự biến động ấy của xã hội đã tác động đến đời sống con người. Vì
vậy, truyện ngắn mới là thể tài chiếm ưu thế trong việc phát hiện ra mọi vấn
đề, đáp ứng được nhu cầu của thời đại kinh tế thị trường. Tuy nhiên, thực tiễn
sáng tác cũng như lý thuyết về truyện ngắn nhất là về thi pháp của thể loại

ngày càng đặt ra nhiều vấn đề cần phải tìm hiểu, nghiên cứu, đánh giá một
cách khoa học.
1.2. Trần Đức Tiến - một nhà văn chuyên nghiệp, từng đoạt nhiều
giải thưởng văn học, đặc biệt là ở thể loại truyện ngắn. Ông đã có những
tìm tòi, nỗ lực lớn trong nghệ thuật viết truyện ngắn, bắt kịp truyện ngắn
thế giới. Trần Đức Tiến từng tốt nghiệp trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Hà Nội, một trong những ngôi trường hàng đầu của hệ thống các trường đại
học Việt Nam. Tuy nhiên, ông lại bén duyên với văn chương. Đây được


2
xem như một “cơ duyên”, cái “nghiệp” gắn vào ông. Cũng bởi vì, văn
chương là thứ trời cho, không phải ai cũng có được “cơ duyên” như vậy.
Trong hai năm 1990 và 1992 ông trình làng hai cuốn tiểu thuyết đầu tay
Linh hồn bị đánh cắp và Bụi trần. Tiểu thuyết vốn được ví là “ngành công
nghiệp nặng” trong văn học. Vì vậy, một người mới chân ướt chân ráo vào
nghề như ông đã vấp phải một “hòn đá tảng” trên con đường văn chương
đầy chông chênh và thử thách. Khi thể loại tiểu thuyết còn chưa tạo nên tên
tuổi cho ông thì dường như truyện ngắn lại là thể loại mang đến cho ông
nhiều thành công nhất với vô số các giải thưởng lớn nhỏ, đặc biệt là giải
thưởng của hội Nhà văn Việt Nam năm 2011 với tập truyện ngắn Lỏng và
tuột. Truyện ngắn của ông thường mang đến cho người đọc một cảm giác
nửa hư nửa thực, đôi khi nó chập chờn như một giấc mơ mà lúc tỉnh dậy
chúng ta không tài nào nhớ lại cho rành rẽ được. Con người trong truyện
ngắn là những hình ảnh của cuộc sống xung quanh, được ông đúc rút qua
sự trải nghiệm về đoạn đời đang đi qua và mang nó vào trong từng trang
viết. Đó là một trải nghiệm rất đáng kể của một người đã sống, đã viết khá
nhiều, từng trải, lăn lộn với cuộc đời và nếm trải đủ mùi vị của thăng trầm,
sướng khổ, vui buồn như ông. Như vậy, nghiên cứu truyện ngắn Trần Đức
Tiến sẽ cho chúng ta cái nhìn mới về con người hiện đại cũng như những

nỗ lực tìm tòi thi pháp mới của truyện ngắn.
1.3. Lỏng và tuột - tập truyện ngắn mới đây của Trần Đức Tiến (Giải
thưởng hội Nhà văn Việt Nam 2011) cho thấy những tìm tòi, đổi mới về thi
pháp thể loại (truyện ngắn) của nhà văn trên nhiều phương diện nhất là
giọng điệu nghệ thuật. Mặc dù mới ra mắt bạn đọc nhưng tập truyện Lỏng
và tuột được giới yêu thích văn chương đánh giá cao trên nhiều phương
diện, nhất là trên phương diện thi pháp thể loại. Lỏng và tuột chỉ gói gọn
trong mười lăm truyện ngắn, không gây bất ngờ, không ồn ào, mà là sự ổn
định, nhuần nhị và đầy đặn của nhà văn sau nhiều năm lặng lẽ, kiên trì theo
đuổi. Ở Lỏng và tuột, nhà văn trực tiếp đi sâu miêu tả những vấn đề tâm lí


3
tình cảm riêng biệt rất cá nhân của con người hiện đại, chứ không còn lệ
thuộc vào những chi tiết, sự kiện mô tả cuộc sống đang từng ngày diễn ra.
Con người trong tác phẩm sống đến một lúc nào đó thì nhận thấy cái đời
sống xung quanh mình, mọi kết nối với mình dường như cứ “lỏng lẻo” và
“tuột” ra khỏi mình. Lỏng và tuột đưa đến cho người đọc cái nhìn mới về
con người trong xã hội hiện đại chịu sự tác động của kinh tế thị trường.
Bên cạnh đó tác phẩm cũng cho thấy sự nỗ lực tìm tòi đổi mới thi pháp
truyện ngắn của Trần Đức Tiến. Với đề tài này chúng tôi hy vọng sẽ góp
một phần nhỏ cho việc nhìn nhận và đánh giá tập truyện Lỏng và tuột nói
riêng, truyện ngắn của Trần Đức Tiến nói chung trong đổi mới thi pháp
truyện ngắn của văn xuôi đương đại.
2. Đối tượng nghiên cứu và giới hạn của đề tài
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Truyện ngắn Trần Đức Tiến nhìn từ thi pháp thể loại (qua khảo sát
tập Lỏng và tuột)
2.2. Giới hạn của đề tài
Đề tài bao quát tất cả các truyện ngắn của Trần Đức Tiến, đặc biệt

tập trung vào mười lăm truyện ngắn trong tập Lỏng và tuột của tác giả.
Văn bản chính dùng để khảo sát, luận văn dựa vào cuốn Lỏng và tuột
(Trần Đức Tiến), Nxb Hội Nhà văn, 2010.
3. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
3.1. Truyện ngắn với tư cách là một thể loại độc lập, truyện ngắn
(short story) xuất hiện tương đối muộn, vào khoảng thế kỷ XIX. Truyện
ngắn là “Tác phẩm tự sự cỡ nhỏ. Nội dung của thể loại truyện ngắn bao
trùm hết các phương diện của đời sống: đời tư, thế sự hay sử thi, nhưng
cái độc đáo của nó là ngắn. Truyện ngắn được viết ra để tiếp thu liền một
mạch, đọc một hơi không nghỉ”[27;370]. Như vậy, ấn tượng mà truyện
ngắn để lại, thứ nhất nằm ở hình thức (dung lượng), thứ hai là nằm ở khả
năng tác động mạnh mẽ và tức thì. Truyện ngắn hiện đại ngày nay đã cho


4
thấy khá nhiều cách tân và thể nghiệm táo bạo, vượt ra ngoài những giới
hạn, phá vỡ hoàn toàn cấu trúc năm màn truyền thống, thậm chí truyện
mà không có chuyện. Bên cạnh đó trong hình thức nén gọn của mình,
truyện ngắn có thể uyển chuyển thâm nhập vào mọi ngõ ngách của đời
sống và biến đổi linh hoạt kịp thời với nhịp đời trôi chảy. Nó không có
tham vọng thâu tóm mọi hiện thực, không nhắm đến sự hoàn hảo.
Truyện ngắn đôi khi chỉ là một buổi chiều, một giấc mơ, một tiếng thở
dài, một mảnh vỡ đâu đó của tâm hồn. Thể loại truyện ngắn đang ngày
càng trở nên đa dạng và phức tạp hơn, khiến cho mọi định nghĩa về nó
trở nên chật hẹp và mọi tiêu chí đưa ra không được thỏa mãn trọn vẹn.
Có thể gọi truyện ngắn là thể loại của thời hiện tại. Bởi mọi định nghĩa
về nó vẫn chưa được hoàn thiện. Và cái chính, tác động của truyện ngắn
là tức thời và liền mạch. Nó tạo một lát cắt, bất ngờ đặt người đọc vào
đâu đó giữa lòng cuộc sống rồi cứ thế đẩy anh ta đi tiếp. Truyện ngắn
không đòi hỏi người đọc phải bao quát được nhiều tầng của hiện thực, nó

chỉ là một khoảnh khắc được ngưng đọng, một tia sáng được soi chiếu,
thành ra người đọc dễ dàng đến với truyện ngắn trong bất cứ thời gian
nào, bối cảnh nào. Ký ức nó để lại bao giờ cũng tươi rói và đầy ấn tượng,
trong khoảnh khắc ấy, phút giây ấy.
3.2. Trần Đức Tiến là nhà văn luôn có ý thức tìm tòi cách tân văn
học. Tác phẩm của ông mang lại cho độc giả cảm giác vừa lạ, vừa quen, ẩn
chứa nhiều giá trị nghệ thuật. Tuy nhiên, phạm vi nghiên cứu truyện ngắn
Trần Đức Tiến còn khá mới mẻ, hiện nay vẫn chưa có công trình nghiên
cứu nào đáng kể và quy mô, nếu có chỉ mới dừng lại ở một số bài nghiên
cứu trên báo chí, phỏng vấn, điểm sách, trên các trang Web… nhưng vẫn
còn rất rời rạc và nhỏ lẻ.
Một số bài báo, trang Web (hầu như tập trung trong các trang Web
Nhavantphcm.com; Tranductienhnv.blogspot.com; Phongdiep.net; Antgct.cand.cm…)
với các bài viết:


5
“Nhà văn Trần Đức Tiến - Người chưng cất truyện ngắn nguyên
chất” của Lục Hạ, “Thong thả nhâm nhi Trần Đức Tiến” của Tạ Duy Anh,
“Lỏng và tuột” của Khánh Phương, “Lỏng và tuột: giọng điệu mới của
Trần Đức Tiến” của Nhật Tuấn, “Soi vào cõi người ta thấy mình” của Bùi
Việt Thắng được đăng tải trên trang Web: w.w.w. Nhavantphcm.com.
Trước hết tác giả Lục Hạ trong bài viết “Nhà văn Trần Đức Tiến Người chưng cất truyện ngắn nguyên chất” cho rằng: “Truyện ngắn của
Trần Đức Tiến là thứ truyện nguyên chất sát gần với cuộc sống, vừa lột tả
sâu xa con người. Nhiều tác phẩm văn xuôi có những trang đẹp như thơ,
những thân phận gai góc… có thể chuyển thể, truyện ngắn của Trần Đức
Tiến khó chuyển thể được như vậy. Nhưng không phải vì thế mà người đọc
không nhớ lâu”. Tác giả chủ yếu viết về con người trong tập truyện Lỏng
và tuột - con người khuất lấp bên trong con người thực tại. Cuối cùng tác
giả kết luận: “Lỏng và tuột cũng như nhiều tác phẩm văn học đã và đang

hoàn thành, có lẽ Trần Đức Tiến muốn đưa ra một quan niệm khác về văn
học. Có thể không mới trong quan niệm văn chương của nhiều người đã và
đang cầm bút nhưng hình như ngày hôm nay nó bị lãng quên, bỏ sót”[28].
Tạ Duy Anh trong bài viết “Thong thả nhâm nhi Trần Đức Tiến” mổ
xẻ lí do truyện ngắn Trần Đức Tiến trong bối cảnh còn xa lạ với dư luận
mặc dù đã được Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành và được giải thưởng
của Hội Nhà văn. Bên cạnh đó tác giả còn nhấn mạnh sự ổn định của thể
loại trong truyện ngắn Trần Đức Tiến: “Có thể nói, kể từ những tác phẩm
nổi danh cách đây mấy chục năm như Chuyện về những con cá cờ, Soạn và
U, rồi hàng loạt tác phẩm sau đó in trong tập Tuyệt đối yên tĩnh, Trần Đức
Tiến vẫn giữ được hai điều quan trọng với một nhà văn: Tính độc đáo của
lối kể và sự nghiêm túc”. Trong bài viết này tác giả nghiên cứu truyện ngắn
Trần Đức Tiến về nội dung lẫn nghệ thuật, về những khía cạnh cách tân và
những thiếu sót, cẩu thả về ý tưởng truyện chủ yếu tập ở truyện ngắn Lỏng
và tuột. Cuối cùng tác giả nhận xét: “Đọc Trần Đức Tiến vì thế mà vừa ghê


6
sợ, khinh thường cái cuộc đời mà ông mô tả nhưng lại không thể không
thèm khát nó, được tiếp tục sống với nó. Ông làm ngược lại cách của nhiều
người khi dùng cái mông lung, huyền ảo, cái không thể nắm bắt bằng lý
trí, cái tạo ra cảm giác về sự thẳm sâu, bao la để làm dung môi cho thứ
vật liệu đơn giản hơn có tên là hiện thực. Bạn đọc luôn luôn phải tự xác
định vị trí của mình trong toạ độ nghệ thuật do ông vẽ ra. Nhưng cái đích
mà họ hướng tới hoá ra lại ở ngay trước mắt. Nó giống như cảm giác về
giấc mộng Hoàng lương. Chỉ khác rằng, cuộc đời với Trần Đức Tiến
không phải là cái chớp mắt của số phận. Cái cuộc đời ấy là trường cửu và
đáng sống” [3].
Tác giả Khánh Phương trong bài viết: “Lỏng và tuột” nhận xét về tác
phẩm: “Tái xuất giang hồ với Lỏng và tuột, tuyển tập gồm 15 truyện ngắn

Trần Đức Tiến không dành cho bạn đọc sự bất ngờ, mà là một sự ổn định,
nhuần nhị và đầy đặn của phong cách cũng như nội dung thể loại, sau nhiều
năm lặng lẽ, kiên trì viết hàng vài chục truyện ngắn cũng không kém phần
duyên dáng, phóng túng, đăng tải rải rác trên các báo, tạp chí, từ Vũng Tàu,
Cửa biển (Hải Phòng) cho tới Văn nghệ, Văn nghệ Thành phố Hồ Chí
Minh…” và “Không còn nệ vào những tình tiết, sự kiện mô phỏng đời sống
đang diễn ra, nhà văn trực tiếp miêu tả những vấn đề tâm lý tình cảm riêng
biệt, rất cá nhân, bằng chính những diễn tiến nội tâm, cảm xúc, vừa cô
đọng, vừa biến hoá bất ngờ” [45].
Cũng đi sâu vào bình diện cụ thể của tác phẩm, tác giả Trần Nhật
Tuấn trong bài viết: “Lỏng và tuột: giọng điệu mới của Trần Đức Tiến”
nhận xét: “Trần Đức Tiến tuy không còn trẻ, nhưng tập truyện ngắn Lỏng
và tuột vừa ra mắt bạn đọc cho thấy anh đang nỗ lực tìm tòi cho mình một
giọng điệu mới” [69].
Trong bài viết “Soi vào cõi ta thấy lòng mình (về tập truyện
Lỏng và tuột của Trần Đức Tiến)” tác giả Bùi Việt Thắng nhận xét:
“Đọc truyện ngắn Trần Đức Tiến, tôi chú ý và thích thú cái mà các


7
nhà lí luận gọi là “nhịp điệu văn xuôi”. Người ta hay nói đến giọng
điệu như là cái cốt lõi của phong cách một nhà văn, nhưng lại ít chú ý
đến nhịp điệu, trong khi nhịp điệu tạo nên phần hồn của câu văn. Tôi
cũng nghĩ rằng thời hiện đại nhà văn không mấy ai ngồi “mài” từng
chữ khi viết vì chính họ cũng như đồng loại đang sống trong thời
buổi đời sống vận hành với tốc độ “một ngày bằng hai mươi năm”
[54].
Nhìn chung với truyện ngắn của Trần Đức Tiến nói chung và tập
truyện Lỏng và tuột nói riêng, những đánh giá của các tác giả có vị trí
trong giới nghiên cứu - phê bình còn khiêm tốn. Và việc nghiên cứu đó

chỉ mới dừng lại ở những nhận định, chưa có một công trình quy mô nào
nghiên cứu về truyện ngắn của ông đặc biệt là tập truyện Lỏng và tuột.
Tuy nhiên, với chúng tôi - những người thực hiện đề tài này thấy rằng,
những bài viết trên dù chỉ mới dừng lại ở việc đánh giá tác giả và tác
phẩm, nhưng cũng sẽ là nguồn tài liệu quý giá mang tính định hướng cho
chúng tôi trong việc nghiên cứu, học tập này. Chúng tôi hy vọng với đề
tài này sẽ đi sâu vào tìm hiểu nghiên cứu về thi pháp thể loại truyện ngắn
Trần Đức Tiến nhằm khẳng định những đóng góp của ông trong văn xuôi
đương đại nước nhà.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Qua khảo sát tập truyện Lỏng và tuột, luận văn nhằm xác định những
đặc điểm về thi pháp thể loại (tức nghệ thuật tổ chức truyện ngắn) của Trần
Đức Tiến, đánh giá những thành công (và cả hạn chế) của nhà văn ở thể
loại này.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.2.1. Đưa ra một cái nhìn khái quát về tập truyện Lỏng và tuột trên
hành trình sáng tạo của Trần Đức Tiến và hành trình của truyện ngắn Việt
Nam đương đại.


8
4.2.2. Đi sâu khảo sát, phân tích xác định những nỗ lực của Trần Đức
Tiến trong nghệ thuật tổ chức giọng điệu và ngôn ngữ truyện ngắn (qua tập
Lỏng và tuột).
Cuối cùng rút ra một số kết luận về tập Lỏng và tuột nói riêng, truyện
ngắn Trần Đức Tiến nói chung trong truyện ngắn Việt Nam đương đại…
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau, trong
đó có các phương pháp chính: Phương pháp thống kê - phân loại, phương

pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp so sánh - loại hình, phương pháp
cấu trúc - hệ thống…
6. Đóng góp và cấu trúc luận văn
6.1. Đóng góp
Luận văn là công trình đi sâu tìm hiểu tập truyện ngắn Lỏng và tuột
của Trần Đức Tiến trên phương diện thi pháp thể loại với cái nhìn tập trung
và hệ thống.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho
việc tìm hiểu, nghiên cứu truyện ngắn Trần Đức Tiến nói riêng và truyện
ngắn Việt Nam đương đại nói chung.
6.2. Cấu trúc của luận văn
Ngoài Mở đầu, Kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung chính của
luận văn gồm ba chương.
Chương 1: Truyện ngắn Trần Đức Tiến trong bối cảnh truyện ngắn
Việt Nam đương đại
Chương 2: Nghệ thuật dựng truyện và xây dựng nhân vật của Trần
Đức Tiến qua tập Lỏng và tuột
Chương 3: Nghệ thuật tổ chức giọng điệu và ngôn ngữ truyện ngắn
của Trần Đức Tiến qua tập Lỏng và tuột


9
Chương 1
TRUYỆN NGẮN TRẦN ĐỨC TIẾN
TRONG BỐI CẢNH TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI
1.1. Truyện ngắn đương đại và một số vấn đề thi pháp thể loại
1.1.1. Một cái nhìn chung về truyện ngắn Việt Nam đương đại
(sau 1975)
1.1.1.1. Tiền đề xã hội - thẩm mỹ của sự đổi mới truyện ngắn từ sau 1975
Văn học bắt nguồn từ đời sống, phản ánh đời sống một cách chân

thực, đó là nguyên lí chung của văn học. Thực tế, thì các sáng văn chương
cũng đã chứng minh cho điều đó. Bản thân văn học và đời sống vốn là hai
vòng tròn đồng tâm. Nếu như tách rời chúng, văn học sẽ trở thành một thứ
nghệ thuật huyền bí mơ hồ rơi vào trạng thái cực đoan. Đời sống là mảnh
đất màu mỡ để nuôi dưỡng văn học và cũng là chìa khóa giải thích những
hiện tượng phức tạp của văn học. Ngòi bút của nhà văn phải bắt rễ sâu từ
cuộc sống thì mới có thể có sức sống bền bỉ và lâu dài. Tác phẩm của nhà
văn viết hay, hay dở đều do vốn sống có nhuần nhụy hay không. Tuy nhiên,
hiện thực đời sống phản ánh vào văn chương không phải là quá trình rập
khuôn, máy móc mà là sự tích lũy vốn sống, sự từng trải cộng vào đó là bộ
óc nhạy cảm của nhà văn. Cuộc sống luôn vận động không ngừng theo quy
luật của nó. Vì vậy, ngòi bút phản ánh của nhà văn cũng phải theo đó mà
chuyển biến một cách linh hoạt, nhạy bén, đa dạng và phong phú. Qua mỗi
giai đoạn, mỗi thời kì khác nhau với những khuynh hướng sáng tác khác
nhau, quan niệm văn học phán ánh hiện thực cũng phải thay đổi cho phù
hợp với tiến trình vận động của lịch sử văn học.
Thời kì 1945 - 1975 cả đất nước gồng mình lên với hai cuộc
kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và xây dựng xã hội chủ nghĩa ở
miền Bắc. Một không khí cách mạng lan tỏa khắp mọi ngõ ngách len lõi
vào đời sống của mỗi con người. Văn chương thời kì này hòa mình vào


10
dòng chảy của cách mạng để ca ngợi kịp thời và tái hiện đời sống hiện
thực khốc liệt trên quy mô sử thi cuộc chiến đấu anh hùng bất khuất của
dân tộc. Đời sống hiện thực hiện lên đa dạng, phong phú về chất liệu
thẩm mỹ như: tiền tuyến và hậu phương, chiến đấu và sản xuất, tổ quốc
và chủ nghĩa xã hội, tình yêu và lí tưởng... Đó là những bình diện luôn
được lồng vào nhau, đan xéo với nhau trong cuộc sống thực. Văn học
giai đoạn này làm nhiệm vụ xung kích trong hai cuộc kháng chiến

chống Pháp và chống Mỹ. Nó đã phản ánh kịp thời những bước đi mang
tính thời sự nóng bỏng cho cách mạng. Và trên hết văn học giai đoạn
này để lại một kho tàng văn xuôi đồ sộ với một đội ngũ nhà văn đông
đảo. Trong ba mươi năm, truyện ngắn đã gặt hái được nhiều thành tựu
với hàng trăm truyện ngắn, tập truyện ngắn có giá trị: Làng (Kim Lân),
Mùa Lạc (Nguyễn Khải), Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài), Rừng xà nu
(Nguyễn Trung Thành), Chiếc lược ngà (Nguyễn Quang Sáng)… Có
thể nói, hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ là hai cuộc
chiến tranh thần thánh kết tinh của sức mạnh và văn hóa dân tộc mấy
nghìn năm, trở thành “trạng thái sử thi” điển hình, là biểu tượng của
nhân loại yêu chuộng hòa bình. Vì vậy, văn học giai đoạn này tập trung
tái hiện bức tranh rộng lớn của cuộc chiến tranh nhân dân lúc bấy giờ
được xem như là một lẽ tất yếu, phù hợp với yêu cầu cách mạng và mục
đích, nhiệm vụ, quy luật phát triển văn học của dân tộc nói chung.
Sau đại thắng mùa xuân năm 1975, đất nước ta hoàn toàn giải phóng,
tổ quốc thống nhất, cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội, một thời kì mới, viễn
cảnh mới mở ra cho nền văn học nước nhà phát triển trong điều kiện hòa
bình. Công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở vùng mới giải phóng, những
bước đi lên của cuộc sống dựng xây, hay chiến công của sự nghiệp bảo vệ
tổ quốc, những khó khăn của buổi trưởng thành, hậu quả nặng nề của chiến
tranh cũng như những kí ức còn nguyên vẹn về cuộc kháng chiến anh hùng


11
và hy sinh vô bờ bến của nhân dân đã gợi ra biết bao đề tài và chủ đề mới
cho văn học.
Giai đoạn 1975 - 1985 (mười năm kế tiếp) được xem là giai đoạn
chuyển mình tìm kiếm con đường đổi mới phù hợp với yêu cầu của một
thời kì hậu chiến còn quá nhiều phức tạp. Văn học thời kì này vẫn chưa
thoát khỏi trường sử thi, do quán tính vận động của một kiểu tư duy nghệ

thuật đã tồn tại khá lâu trong tiến trình ba mươi năm trước đó. Kiểu tư duy
ấy đã ăn sâu vào cảm thức sáng tác của văn nghệ sĩ. Muốn thay đổi họ cần
phải có một quá trình cho công cuộc đổi mới đất nước một cách toàn diện.
Nguyễn Minh Châu (Miền đất cháy), Khuất Quang Thụy (Trong cơn gió
lốc), Nguyễn Trí Huân (Họ đã sống như thế)... các tác phẩm văn học này
đã có sự vận động không trùng khít hoàn toàn với sự sang trang của lịch sử
dân tộc sau năm 1975. Văn học giai đoạn này kế thừa các nguyên tắc
truyền thống của văn học giai đoạn trước nhưng đã mở ra bình diện mới
trong sự lí giải, thể hiện con người. Và các nhà văn đang cố gắng tháo bỏ
mình ra khỏi những quan niệm đơn giản về hiện thực.
Bước vào những năm đầu của thập niên 80 của thế kỉ XX, tình hình
kinh tế - xã hội của đất nước ta gặp nhiều khó khăn, rơi vào tình trạng
khủng hoảng trầm trọng. Bối cảnh xã hội thay đổi, cuộc sống hiện ra với tất
cả những mặt phức tạp như nó vốn có. Không những vậy, đây còn là thời kì
giao thoa giữa cái cũ và cái mới, cái cũ thì vẫn tồn tại còn cái mới thì mới
manh nha, hai yếu tố thuận và nghịch của đời sống kinh tế - xã hội đều tác
động đến văn học. Ngoài ra những tính chất phức tạp và sự chi phối của
kinh tế thị trường đẩy tới sự phân cực trắng - đen, tốt - xấu, thiện - ác trong
xã hội mà Nguyễn Minh Châu đã nhận định: “Thời kì này diễn ra một cuộc
đối chứng giữa nhân cách và phi nhân cách, giữa hoàn thiện và chưa hoàn
thiện, giữa ánh sáng và bóng tối, còn rơi rớt bên trong tâm hồn một con
người”. Trước tình hình đó, tháng 12 năm 1986 Đại hội lần thứ VI của
Đảng đã xác định đổi mới toàn diện: “Đổi mới là nhu cầu bức thiết của sự


12
nghiệp cách mạng, là vấn đề có ý nghĩa sống còn. Phải đổi mới, trước hết là
đổi mới tư duy, chúng ta mới có thể vượt qua khó khăn” [15;15]. Và đất
nước từ thời điểm đó thực sự mở cửa, cải tổ nền kinh tế - xã hội và hiện
thực đời sống cũng từ đó được sắp xếp lại. Đời sống văn chương cũng được

hưởng một bầu không khí dân chủ và cởi mở. Có thể thấy Đại hội VI đã
mở ra công cuộc đổi mới, mang lại không khí dân chủ với tinh thần “nhìn
thẳng sự thật, đánh giá đúng sự thật”, tạo điều kiện cho sự chỉ hướng đổi
mới của văn học, và bảo tồn những giá trị tinh hoa truyền thống văn hóa.
Trạng thái tinh thần mới giúp cho các nhà văn tìm tòi sáng tạo và không
ngừng trăn trở trước những vấn đề phức tạp của đời sống để đáp ứng nhu
cầu xã hội mới sau chiến tranh cũng như khẳng định mình trong xu thế hội
nhập với văn học toàn cầu. Văn học đương đại đang đi trên con đường đổi
mới, hội nhập, hoàn thiện và hiện đại.
Từ giữa những năm 90 của thế kỉ XX đến nay, trong xu thế ổn định
của xã hội, văn học về cơ bản không xa rời đường lối đổi mới của Đảng tại
Đại hội VI. Văn học hiện nay quan tâm nhiều hơn đến yêu cầu đổi mới
trong sự vận động nội tại của nó. Bởi trước đó văn học đổi mới là do nhu
cầu mới của xã hội và khát vọng dân chủ. Và trên hết, “văn học vẫn đang
gắng gỏi trên con đường gập gềnh để tìm đến những giá trị nhân văn vốn
luôn luôn là sự kết tinh cuối cùng của một nền văn học chân chính” [14].
1.1.1.2. Bức tranh truyện ngắn Việt Nam sau 1975
M.Bakhatin chỉ rõ: Mỗi thể loại thể hiện một thái độ thẩm mỹ đối
với hiện thực, một cách cảm thụ nhìn nhận, giải minh thế giới và con
người. Truyện ngắn cũng là một thể loại như thế, đặc biệt trong xã hội hiện
đại. Vì thế nó thu hút được sự quan tâm của người sáng tác, người nghiên
cứu, người đọc [4;67].
Truyện ngắn là một thể loại văn học rất nhạy cảm với những biến
động của xã hội. Khi đất nước có chiến tranh, truyện ngắn là một thể loại
xung kích trên mặt trận văn học. Với chức năng đặc thù của mình, truyện


13
ngắn đã kịp thời phản ánh bức tranh muôn mặt của cuộc sống. Sau khi
chiến tranh kết thúc, nhất là trong thời kì đổi mới dường như lúc nào

truyện ngắn cũng đáp ứng được tâm lí, thị hiếu của độc giả, không chỉ
bởi sự nhỏ gọn của hình thức mà còn do sự chuyển tải được những vấn
đề nhức nhối của chiến tranh, của cuộc sống mà trước đây chưa có điều
kiện để nói tới. Vì thế truyện ngắn đã và đang là trung tâm thu hút sức
sáng tạo của các nhà văn.
Phát triển trong không khí dân chủ với ý thức của chủ nghĩa sáng
tạo, đời sống văn học Việt Nam sau 1975 đã thực sự bước sang “một thời
kì khác” (Nguyễn Kiên), thời kì của giao lưu văn hóa được mở rộng. Đây là
một trong những nguyên nhân quan trọng mang tới bước phát triển mới của
văn học nước nhà. Thông qua giao lưu, hội nhập, văn học nước ta có điều
kiện tiếp thu lĩnh hội những giá trị đích thực, những thành tựu to lớn của
văn học thế giới. Sự quản lí văn học có chuyên môn và trình độ, tôn trọng
tài năng và cá tính sáng tạo của nhà văn cũng như có những chế độ đãi ngộ
xứng đáng với lao động nghệ thuật đã khiến cho đội ngũ nhà văn tăng lên
cả về số lượng và chất lượng. Quan niệm văn học thời kì này cởi mở hơn,
gắn với cá tính sáng tạo của người viết hơn, các nhà văn không thần thánh
hóa văn chương, không đặt vào đó quá nhiều kì vọng cao siêu. Văn chương
cũng như một hiện tượng của đời sống. “Văn chương sẽ sống cái sức sống
tự nhiên của nó. Nhưng tất cả mọi việc trên đời này, văn chương cũng có
giới hạn, có sự sáng lên, sự mất đi, có cái cao cả cũng như cái bình
thường”(Lê Minh Khuê). Với Phạm Thị Hoài văn chương là “một trò chơi
vô tăm tích” và “viết là một phép ứng xử”, “trước hết là ứng xử với bản
thân mình sau là ứng xử với môi trường và môi trường ở đây là toàn bộ
những gì mà tự nhiên và con người tạo ra, kể cả những di sản quá khứ và
những tín hiệu mơ hồ về tương lai”[31]. Như vậy, cách nhìn nhận văn học
như một công cụ tinh thần, một vũ khí tuyên truyền về cơ bản đã được giải
tỏa. Văn học đã được nhìn nhận trong bản chất đặc thù của nghệ thuật ngôn


14

từ, xuất phát từ quan niệm mang tính cá thể của người cầm bút. Vì thế,
chúng ta thấy nhà văn đã có một tâm thế mới, một vị thế mới, tự do hơn và
chủ động hơn trong sáng tạo nghệ thuật.
Nằm trong mạch vận động chung của văn xuôi Việt Nam sau 1975,
truyện ngắn vươn lên trở thành thể loại trụ cột của văn học, là sự chuyển
biến từ một nền văn học chịu sự tác động của quy luật chiến tranh sang nền
văn học chịu sự chi phối của quy luật đời thường. Các phạm trù thẩm mỹ
cũng được mở rộng: từ cái cao cả anh hùng đến cái bi, cái hài, cái xấu, cái
kệch cỡm. Hiện thực của văn học sau 1975 là hiện thực đa chiều. Nó có sự
đan cài hòa quyện những mặt đối lập: có trắng - đen, có thiện - ác, tích cực
- tiêu cực trong mỗi con người. Hơn lúc nào hết truyện ngắn luôn thể hiện
vai trò của mình trong việc tiếp cận và phản ánh hiện thực sinh động đa
dạng của bức tranh cuộc sống văn học môn màu sau 1975. Truyện ngắn với
ưu thế nhỏ gọn của hình thức, sự chuyển hóa nhanh những vấn đề bức xúc
của đời sống xã hội đang có nhiều màu sắc. Bàn về văn xuôi sau 1975,
Nguyên Ngọc nhận định: “Đến đây bổng thấy một quy luật rất thú vị về
phát triển của thể loại văn học. Truyện ngắn bổng nổi bật hàng đầu. Những
năm trước truyện ngắn gần như lịm đi, bị đè bẹp dưới sức nặng của tiểu
thuyết ngổn ngang kia, nó ngoi lên và bùng nổ. Tôi có cảm giác chúng ta
đang đứng trước một vụ được mùa truyện ngắn. Truyện ngắn đông nhiều
và thật sự có một số truyện ngắn hay” [40]. Với một khối lượng đồ sộ
truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu như: Bức tranh, Cỏ lau, Bến quê,
Phiên chợ Giát, Chiếc thuyền ngoài xa, cho đến Thiên sứ (Phạm Thị Hoài)
rồi Tướng về hưu (Nguyễn Huy Thiệp), và các tác phẩm như Bước qua lời
nguyền (Tạ Duy Anh), Cánh đồng bất tận (Nguyễn Ngọc Tư), Mùa hoa cải
bên sông (Nguyễn Quang Thiều)… đã mang đến cho văn học một luồng
sinh khí mới sau thời kì đổi mới. Tốc độ phát triển của truyện ngắn còn
được thống kê qua các phong trào thi viết truyện ngắn, theo Bùi Việt Thắng
“Cuộc thi truyện ngắn 2001 - 2002 do tạp chí văn nghệ quân đội tổ



15
chức có gần 2000 tác phẩm dự thi bằng với số lượng truyện ngắn của
bốn năm 1978 - 1979; 1983 - 1984. Điều đó cho thấy truyện ngắn sau đổi
mới đạt được nhiều thành tựu. Cùng với sự gia tăng nhiều tên tuổi mới và
số lượng tác phẩm, truyện ngắn thời kì này đã mở ra hướng tìm tòi cả trong
tiếp nhận hiện thực lẫn thi pháp thể loại.
Truyện ngắn là mảnh đất tập hợp được nhiều cá tính sáng tạo độc
đáo. Trước hết, truyện ngắn sau 1975 đã có sự tìm tòi đổi mới của những
nhà văn từng sáng tác ở hai giai đoạn văn học như Bùi Hiển với tập truyện
ngắn Tâm tưởng, Nguyễn Quang Sáng tập truyện ngắn Con mèo của
Foujita. Đặc biệt Nguyễn Minh Châu được xem là người mở đường tài
năng “tinh anh” với nhiều tác phẩm như: Bức tranh, Người đàn bà trên
chuyến tàu tốc hành, Cỏ lau, Bến quê... Nhân vật trong tác phẩm thường là
nhân vật tự ý thức, nhân vật tự đối diện với tòa án lương tâm. Cũng như
Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải cũng đã bắt nhịp được với văn học đổi
mới. Ngòi bút của ông vẫn thống nhất và biến hóa với tính triết luận tỉnh
táo. Với cách viết, đặt vấn đề, nghệ thuật kể chuyện tự nhiên dân dã và
duyên dáng, truyện ngắn Nguyễn Khải là những triết lý sâu sắc về con
người và cuộc đời. Nhà văn thông qua những sự kiện xã hội, những vấn đề
thời sự nóng bỏng để nêu bật lên những triết luận sâu sắc về những vấn đề
vĩnh hằng của con người như: Một người Hà Nội, Nắng chiều.
Từ những năm 80 đến nay các phong cách viết truyện ngắn đầy sáng
tạo, linh hoạt bắt đầu hình thành và phát triển. Hàng loạt các cây bút trẻ
xuất hiện và gây ra nhiều cuộc tranh luận sôi nổi trên văn đàn như: Nguyễn
Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Hòa Vang, Nguyễn Quang Lập, Tạ Duy Anh...
Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp khai thác nhiều mảng đề tài, cộng với cái
nhìn hiện thực cách viết sắc lạnh, đầy tinh thần phê phán. Hòa Vang lại có
pha trộn giữa hiện thực và hoang đường tạo nên sức ám gợi cho người đọc
phải băn khoăn suy nghĩ trăn trở. Tất cả đã làm nên một bức tranh truyện

ngắn sau 1975 đa dạng, phong phú trên mọi phương diện của thể loại. Đặc


16
biệt từ sau 1975 sự xuất hiện của các nhà văn nữ đã đem lại một luồng
không khí mới trong văn học. Bằng sự mẫn cảm của nữ giới, họ đã góp
phần thể hiện đậm nét bề sâu của cuộc sống và cả bề sâu hiện thực của con
người. Phạm Thị Hoài là cây bút nữ đầu tiên với tác phẩm Mê lộ và nở rộ
những cây bút trẻ như: Nguyễn Thị Thu Huệ, Dạ Ngân, Y Ban, đặc biệt là
Phan Thị Vàng Anh, về sau có Nguyễn Ngọc Tư là cây bút thực sự gây ấn
tượng với ngòi bút đậm chất Nam Bộ. Có thể nói, chỉ với một lát cắt đồng
đại truyện ngắn từ sau 1975 đến nay đã quy tụ nhiều cá tính sáng tạo, một
Nguyễn Khải triết lí sâu sắc, một Nguyễn Quang Sáng thì bổ bã chân chất
thuần phác, Bảo Ninh lại dữ dội bạo liệt, Nguyễn Huy Thiệp thì sắc lạnh,
Phạm Thị Hoài phá cách khinh bạt, còn Nguyễn Ngọc Tư lại nhân hậu văn
phong đậm chất Nam Bộ. Và có thể kể ra hàng loạt các tên tuổi khác đã tạo
nên diện mạo cho văn học đương đại như: Nguyễn Quang Lập, Hồ Anh
Thái, Tạ Duy Anh, Phạm Hoa, Nguyễn Ngọc Thuần, Y Ban... Bằng sự trăn
trở, thể nghiệm, đội ngũ những người viết truyện ngắn nhiều thế hệ đã góp
phần không nhỏ trong việc kế thừa và cách tân thể loại, mang đến cho
truyện ngắn đương đại một không khí mới mẻ và vô cùng phong phú.
Truyện ngắn thời kì đổi mới đi sâu vào mọi vấn đề của cuộc sống
thường nhật. Đó là nỗi đau của chiến tranh để lại, là sự mất mát của người
lính bước ra khỏi cuộc chiến, là nỗi hận thù của dòng họ gia tộc, là bi kịch
gia đình và cái khắc nghiệt của đói khát và cô đơn. Có cả những vấn đề của
cõi tâm linh, tiềm thức và vô thức. Có cả sự xen lẫn giữa niềm hân hoan,
hạnh phúc và nỗi xót xa cay đắng. Dường như, mọi cảm xúc cung bậc của
đời sống hiện thực đều hiện lên trong từng câu văn giản dị, mộc mạc ấy.
Bao nhiêu phức tạp ồn ào, bao nhiêu dư vị đắng chát của cuộc sống thời đổi
mới đều được truyện ngắn phản ánh chân thực. Truyện ngắn giờ đây không

còn là “mũi khoan thăm dò nhỏ nhẹ”(Nguyên Ngọc), mà đã và đang mang
sức nặng của những sự khái quát, mỗi một câu chuyện là thấy cả một cảnh
đời, một kiếp người, một vận hội, một thời đại... Dung lượng của truyện


17
ngắn tăng, có thể xem là điểm nổi bật của truyện ngắn đương đại Việt
Nam. Có những truyện ngắn sức nặng hơn cả một cuốn tiểu thuyết như:
Bước qua lời nguyền của Tạ Duy Anh, Phiên chợ Giát của Nguyễn Minh
Châu... thậm chí là truyện ngắn Kịch Câm của Phan Thị Vàng Anh.
Văn xuôi đương đại có những cách tân nghệ thuật, trước hết phải kể
đến truyện ngắn. Nếu như trước đây, cốt truyện đóng vai trò chủ yếu trong
truyện ngắn nói riêng và loại hình tự sự nói chung thì hiện nay cốt truyện
không còn đóng vai trò chủ đạo. Thậm chí người viết không cần tới cốt
truyện. Chi tiết và sự kiện lên ngôi. Có khi không còn có cả sự kiện mà chỉ
có ngôn ngữ, cách hành văn. Bên cạnh đó là lối viết theo dòng suy tưởng,
viết theo phân mảnh rời rạc lộn xộn, lối viết hướng về các khu vực riêng tư
uẩn khúc của nội tâm, dồn nén hoặc buông thả của tiềm thức hay dục
tính… mà không còn hoặc cần nhân vật. Không những vậy, nhà văn còn
thay những logic thông thường bằng những nghịch lí và phi lí để thấy cuộc
sống đầy những ngẫu nhiên. Gia tăng yếu tố kỳ ảo, huyền thoại tạo nên
chiều sâu trong khám phá hiện thực. Tuy nhiên, mọi thứ vẫn đang thử
nghiệm và chưa mang lại thành công nhưng thực sự nó đã tạo nên sự đa
dạng, phong phú trong bức tranh truyện ngắn đương đại đầy màu sắc.
Trong sự thay đổi chung của thời đại, như một hệ quả tất yếu thì
truyện ngắn cũng có sự chuyển đổi đáng kể. Càng ngày truyện ngắn càng
có sự xâm nhập nhiều thể loại. Các tiêu chí để xác định truyện ngắn dường
như không còn quan trọng. Có những truyện ngắn như một bài thơ, văn
xuôi, có những truyện ngắn thiên về phóng sự, thiên về vở kịch một màn
hay nghiêng về bút kí... Và nhìn chung truyện ngắn có sự biến hóa đa dạng

và đổi mới đáng kể trong việc thay đổi đề tài, không ngừng tìm tòi cách
viết, đa dạng trong cảm hứng. Truyện ngắn lúc này đã linh hoạt hơn trong
bút pháp sáng tạo. Bút pháp “tả thực” được vận dụng trong các sáng tác
truyện ngắn thời kì này đã có nhiều đổi mới so với trước đây. Nếu như
trước đây “tả thực” chỉ đóng vai trò thư kí của thời đại thì bây giờ nó không


18
dừng lại ở đó, mà soi chiếu hiện thực từ nhiều phương diện, góc độ khác
nhau để đảm bảo tính chân thực và toàn diện. Khi văn học được “cởi trói”
để hướng tới sự đa dạng thì bút pháp này có điều kiện phát huy. Bút pháp
phúng dụ huyền thoại được nhiều nhà văn sử dụng không chỉ có trong
truyện ngắn mà còn có trong cả tiểu thuyết. Nhiều nhà văn đã thành công
với bút pháp này như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị
Hoài, Tạ Duy Anh... Sự có mặt của bút pháp này bên cạnh bút pháp tả
thực cho phép nhà văn có cái nhìn sâu sắc hơn vào cuộc sống hiện thực,
đồng thời tạo ra sự lạ hóa để thu hút người đọc. Khi tiếp xúc với những
tác phẩm có sử dụng bút pháp phúng dụ huyền thoại người đọc có nhiều
cảm xúc mới mẻ về một hiện thực bề bộn, ngổn ngang, nghiệt ngã và
phức tạp qua những huyền thoại giàu chất tưởng tượng. Bên cạnh đó, bút
pháp trào lộng giễu nhại cũng được sử dụng hầu hết trong các thể loại văn
xuôi tự sự. Trào lộng giễu nhại không đơn thuần nhằm mục đích gây cười,
giải thiêng mà quan trọng hơn đó là hình thức tiếp cận các giá trị đời sống
một cách dân chủ, nhiều chiều, phi quy phạm. Cùng với bút pháp trào
lộng, giễu nhại, bút pháp tượng trưng cũng được các nhà văn sử dụng,
nhằm gia tăng chất lượng ý nghĩa của văn chương và tăng thêm sức mê
hoặc của tác phẩm. Chính sự đa dạng trong bút pháp sáng tạo đã tạo nên
sự đa dạng trong hình thức truyện ngắn. Đó là truyện giả cổ tích kiểu Tim
vỡ của Võ Thị Hảo, Những ngọn gió Hua tát của Nguyễn Huy Thiệp;
truyện kì ảo kiểu Bến trần gian của Lưu Sơn Minh; truyện dòng ý thức

kiểu Tiệm may Sài Gòn của Phạm Thị Hoài; truyện ngắn kiểu Kịch câm
của Phan Thị Vàng Anh; truyện kiểu cực ngắn kiểu Cam ngọt của Phạm
Sông Hồng, Hoa muộn của Phan Thị Vàng Anh. Có thể thấy, sự phân chia
gọi tên các hình thức của truyện ngắn chưa có một lý thuyết cụ thể để
cũng cố và khẳng định. Nhưng cũng phải thừa nhận truyện ngắn đương
đại Việt Nam đã và đang có những kiểu truyện ngắn như vậy. Điều đó


19
chứng tỏ sức sống của những mảng màu khác nhau trong một bức tranh
truyện ngắn đang dần hoàn thiện.
Nói chung truyện ngắn Việt Nam đương đại từ sau 1975 đến nay đã
thực sự khẳng định vai trò vị trí trong các thể loại khi đáp ứng được nhu cầu
của người đọc, khi nó tỏ ra là một thể loại vừa bám sát hiện thực cuộc sống đa
chiều vừa xoáy sâu vào mảng hiện thực trừu tượng thế giới tâm hồn con
người. Các nhà nghiên cứu và độc giả đã ưu ái dành cho truyện ngắn những
lời có cánh như “truyện ngắn lên ngôi”, “thăng hoa”, “được mùa”, “chân trời
của truyện ngắn” [50;204]. Truyện ngắn đương đại đã có những mùa gặt bội
thu, đã có cây sai trái ngọt. Sự khởi sắc đáng mừng của thể loại cỡ nhỏ không
phải ngẫu nhiên mà có. Đó là cuộc chạy tiếp sức từ những cây bút tiền trạm
như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Nguyễn Quang Sáng, Ma Văn
Kháng, Nguyễn Kiên... cho đến những cây bút trẻ thuộc thế hệ mới luôn sôi
nổi ý nguyện đổi mới cách viết như: Nguyễn Huy Thiệp, Tạ Duy Anh, Phạm
Thị Hoài, Nguyễn Quang Thiều, Phan Thị Vàng Anh, Lê Minh Khuê, Trần
Thùy Mai, Nguyễn Thị Thu Huệ... Và gần đây có Đỗ Hoàng Diệu, Nguyễn
Ngọc Tư và nhiều cây bút trẻ thế hệ 8X như Trần Thu Trang, Trang Hạ,
Trương Quế Chi, Phan Ý Yên... đang khẳng định sức viết trên văn đàn. Làm
nên sự thành công cho truyện ngắn đương đại không thể không nói đến sự
đóng góp đáng kể của các cây bút truyện ngắn Việt Nam hải ngoại, qua
cuốn Hai mươi năm truyện ngắn Việt Nam hải ngoại 1975 - 1995, Nxb Đại

Nam USA, 1995 (do nhà thơ Đặng Tiến từ California gửi về) qua những
tập truyện ngắn của Kiệt Tấn (Pháp), Nguyễn Thị Ngọc Lan, Hoài Mỹ,
Trần Thị Kim Lan, Lê Thị Huệ... Họ là những nhà văn có đóng góp đáng
kể cho bộ mặt truyện ngắn hải ngoại sau 1975, góp phần đẩy nhanh truyện
ngắn Việt Nam trên quá trình hiện đại hóa và hội nhập với truyện ngắn thế
giới.
1.1.2. Một số vấn đề thi pháp thể loại truyện ngắn


20
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, thể loại văn học là “dạng thức của
tác phẩm văn học, được hình thành và tồn tại tương đối ổn định trong quá
trình phát triển lịch sử của văn học, thể hiện sự giống nhau về cách thức tổ
chức tác phẩm, về đặc điểm của loại hiện tượng đời sống được miêu tả và
về tính chất của mối quan hệ của nhà văn đối với các hiện tượng đời sống
ấy” [27;299]. Vì vậy, có thể hiểu “thi pháp thể loại” là hệ thống các phương
thức, phương tiện nghệ thuật biểu hiện đời sống đã trở thành một hệ thống
đặc trưng của một thể loại văn học nhất định. Tuy nhiên thể loại văn học
luôn có sự vận động. Theo M.Bakhtin, nhà lí luận văn học người Nga, thì
sự vận động của văn học thực chất là sự vận động của các thể loại. Do vậy,
thể loại văn học vừa cũ vừa mới, vừa ổn định vừa biến đổi. Cũng do vậy,
nếu nói tới thi pháp thể loại là xét thể loại đó trong một giai đoạn, một thời
điểm mà nó đạt được một sự ổn định nhất định. Vì mặc dù cũng là tiểu
thuyết, nhưng thi pháp tiểu thuyết chương hồi không thể giống với thi pháp
tiểu thuyết hiện đại dù nó vẫn mang những nét chung của loại hình tự sự. Ở
đây nói tới thi pháp truyện ngắn là xét truyện ngắn văn học hiện đại.
1.1.2.1. Thi pháp thể loại truyện ngắn
Truyện ngắn là một kiểu tư duy mới, một cách nhìn cuộc đời, một
cách nắm bắt đời sống rất riêng theo kiểu thể loại. Cho nên truyện ngắn
đích thực xuất hiện tương đối muộn màng trong lịch sử văn học. Truyện

ngắn, so với tiểu thuyết thường có ít nhân vật, sự kiện hơn. Nếu như tiểu
thuyết thường hướng tới chiếm lĩnh đời sống trong sự đầy đặn và tính toàn
vẹn của nó thì truyện ngắn thường phát hiện một nét bản chất trong quan hệ
nhân sinh hay đời sống tâm hồn con người. Xét thi pháp thể loại truyện
ngắn, người ta thường xét tới các yếu tố cốt truyện, tình huống, kết cấu,
nhân vật, không thời gian nghệ thuật, ngôn ngữ, giọng điệu… Đó là những
yếu tố cơ bản nhất của thi pháp thể loại truyện ngắn.
Cốt truyện là chuỗi các sự kiện được tạo dựng trong tác phẩm tự sự
và kịch. Truyện ngắn là thể loại thuộc phương thức tự sự vì vậy truyện


21
ngắn cũng có cốt truyện. Cốt truyện là phương tiện để nhà văn tái hiện các
xung đột xã hội, thể hiện cái nhìn của nhà văn đối với cuộc sống, có sức
mạnh hấp dẫn và lôi cuốn người đọc. Chuỗi sự kiến, biến cố ấy được hình
thành chủ yếu dựa trên hành động của nhân vật, được tổ chức theo quan hệ
nhân quả hoặc quan hệ bộc lộ ý nghĩa. Trên cơ sở đó, mỗi tác giả và ngay ở
mỗi tác phẩm cũng thể hiện một phương thức xây dựng riêng. Việc tìm
hiểu thi pháp cốt truyện vì vậy không phải là tìm hiểu truyện đó kể cái gì
mà là phát hiện dụng ý và quan niệm của tác giả.
Nhân vật là yếu tố quan trọng hàng đầu tác phẩm văn học. Goethe đại văn hào người Đức từng nói: “Con người là điều thú vị nhất đối với con
người”. Còn M.Gorki - đại văn hào người Nga thì nói: “Văn học là nhân
học”. Đúng vậy, con người chính là đối tượng hàng đầu của văn học. Con
người được tái hiện trong các tác phẩm văn học được gọi là nhân vật văn
học. Theo Trần Đình Sử, “nhân vật” là khái niệm dùng để chỉ hình tượng
các cá thể con người trong tác phẩm văn học - cái đã được nhà văn
nhận thức, tái tạo, thể hiện bằng các phương tiện riêng của nghệ thuật
ngôn từ. Các yếu tố thông thường của một nhân vật gồm có: tên, nguồn
gốc, ngôn ngữ, hành động, tâm lí, tính cách, số phận… Nhân vật là điều
kiện thiết yếu đảm bảo cho sự miêu tả thế giới của văn học có được

chiều sâu và tính hình tượng. Nhờ có nhân vật với những lời nói, hành
động, tương tác mà cốt truyện được hình thành. Nó được xem như là
chìa khóa để nhà văn bước vào thế giới hiện thực, tiếp cận những đề tài,
chủ đề mới mẻ, miêu tả và khái quát các loại tính cách xã hội. Do đó,
nhân vật văn học còn có khả năng giúp nhà văn thể hiện quan niệm
nghệ thuật về thế giới, về con người. Vì vậy, việc tìm hiểu nhân vật
không phải là liệt kê hàng loạt những chi tiết về nhân vật đó. Điều quan
trọng là phân tích được, chỉ ra được dụng ý của tác giả, quan niệm tư
tưởng của tác giả về cuộc sống, con người.


22
Không - thời gian nghệ thuật tức là không - thời gian được xây dựng
trong tác phẩm nghệ thuật. Trong truyện ngắn, đó là bối cảnh để nhân vật
sinh sống hoạt động. Tuy nhiên, nó không chỉ đơn thuần là bối cảnh sống
của nhân vật mà nó còn thể hiện dụng ý nghệ thuật của nhà văn. Không thời gian trong tác phẩm văn học chịu sự chi phối của quy luật tâm lí và ý
đồ sáng tác của tác giả. Tìm hiểu thi pháp không - thời gian nghệ thuật là
tìm hiểu ý đồ nghệ thuật, quan niệm của nhà văn về cuộc sống.
Ngôn ngữ là chất liệu của tác phẩm văn học. Bởi văn học chính là
nghệ thuật ngôn từ. Có ngôn ngữ mới có cốt truyện, có nhân vật, có không
- thời gian nghệ thuật… Cũng từ ngôn ngữ đó mà hình thành giọng điệu
của nhà văn. Viết như thế nào cho sâu sắc cho hấp dẫn với nhà văn luôn là
một thử thách. Với việc tiếp nhận, thì ngôn ngữ, giọng điệu là một trong
những yếu tố góp phần tạo nên vẻ đẹp, sức hấp dẫn riêng cho tác phẩm.
1.1.2.2. Những đổi mới về thi pháp thể loại truyện ngắn sau 1975
Truyện ngắn sau 1975 có sự biến hóa đa dạng, phong phú và có sự
đổi mới đáng kể về mặt thi pháp, trước hết là ở sự thay đổi trong quan
niệm nghệ thuật về con người. Trong quá trình vận động phát triển của
thể loại truyện ngắn đã có sự đổi mới trong quan niệm về con người. Mô
hình vận động của truyện ngắn hiện đại trong cái nhìn về con người là từ

con người cá nhân đến con người tập thể và sang con người cá thể.
Truyện ngắn vận động theo đường xoắn ốc với biên độ rộng hơn và hàm
chứa nhiều vấn đề sâu sắc hơn về con người. Vấn đề cá thể là vấn đề lớn
trong văn học, cá thể là đơn vị tồn tại đầu tiên của con người. Hay nói
cách khác cá thể là tế bào của xã hội. Tuy vậy không ở giai đoạn nào cá
thể được quan tâm đúng mức. Ở phương Tây phạm trù cá nhân phát triển
rất sớm ngay từ thời phục hưng. Chủ nghĩa nhân văn thời phục hưng đã
đề cao con người giương cao ngọn cờ giải phóng cá nhân thoát ra khỏi
sự ràng buộc của tôn giáo, của thần quyền. Ở phương Đông vấn đề cá
nhân được đề cập muộn màng. Văn học phương Đông về cơ bản chịu


×