Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn từ dân cư tại chi nhánh NHNoPTNT Thanh Xuân Nam – Hà Tây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (582.95 KB, 95 trang )

Luận văn tốt nghiệp

1

LỜI MỞ ĐẦU
Đất nước ta đang trong thời kỳ biến đổi mạnh mẽ của nền kinh tế, thời kỳ đẩy
mạnh CNH - HĐH đất nước, đưa đất nước thoát khỏi tình trạng kém phát triển và nâng
cao chất lượng cuộc sống. Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương “phát huy nội lực bên
trong, nguồn vốn trong nước đóng vai trò quyết định, nguồn vốn nước ngoài giữ vai trò
quan trọng”. Quá trình hội nhập nền kinh tế khu vực và quốc tế diễn ra hết sức sôi
động đã tạo nên sự cạnh tranh khốc liệt trong toàn bộ nền kinh tế nói chung và ngành
ngân hàng nói riêng. Chính vì vậy, việc khai thông nguồn vốn đối với hoạt động huy
động vốn của các NHTM hiện nay được đặt ra rất bức thiết. Công tác huy động vốn
của các ngân hàng hiện nay luôn được đòi hỏi phải đạt hiệu quả cao.
Như vậy, vấn đề huy động vốn không chỉ được quan tâm “từ đâu?” mà phải
được tính đến “như thế nào”, “bằng cách gì” để có hiệu quả cao nhất, đáp ứng nhu cầu
cho vay và đầu tư của ngân hàng với chi phí thấp nhất.
Trong giai đoạn hiện nay, sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế cũng đã có tác
động tích cực làm thu nhập của người dân ngày càng một cao hơn. Điều này đồng
nghĩa với việc nguồn tiền tạm thời chưa được dùng đến cũng ngày một lớn, trong khi
đó nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh cũng không ngừng tăng cao
đã thúc đẩy các ngân hàng phải không ngừng tìm cách duy trì và tăng cường bộ phận
nguồn vốn quan trọng này. Có thể nói vốn huy động từ dân cư giữ vai trò và vị trí quan
trọng bậc nhất trong hoạt động kinh doanh của mọi ngân hàng thương mại – luôn
chiếm tỷ trọng lớn nhất và là nguồn tiền chủ yếu sử dụng cho các hoạt động kinh
doanh sinh lời của ngân hàng (hoạt động cấp tín dụng, đầu tư và các hoạt động khác).
Nhận thức rõ sự cần thiết và tầm quan trọng của công tác huy động vốn, đặc biệt
là huy động vốn từ khu vực dân cư trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng, với
những kiến thức đã học và qua thời gian thực tập tại chi nhánh NHNo&PTNT Thanh

Nguyễn Thị Mai Phương



Lớp: Tài chính doanh nghiệp 46B


Luận văn tốt nghiệp

2

Xuân Nam – Hà Tây, em đã chọn đề tài "Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động
huy động vốn từ dân cư tại chi nhánh NHNo&PTNT Thanh Xuân Nam – Hà Tây "
Ngoài phần mở đầu, kết thúc, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được trình
bày theo 3 chương.
- Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về hiệu quả hoạt động huy động vốn từ dân
cư tại ngân hàng thương mại
- Chương 2: Thực trạng hiệu quả hoạt động huy động vốn từ dân cư tại chi
nhánh NHNo&PTNT Thanh Xuân Nam – Hà Tây.
- Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động huy động vốn từ dân cư
tại chi nhánh NHNo&PTNT Thanh Xuân Nam – Hà Tây
Do thời gian nghiên cứu cũng như kiến thức thực tế không nhiều, luận văn của
em còn nhiều điểm chưa đề cập đến và còn có những thiếu sót nhất định. Rất mong
nhận được sự góp ý của các thầy, cô giáo cùng các bạn để chuyên đề của em được
hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo hướng dẫn thực hiện khoá luận
cùng toàn thể các cô chú, anh chị ở chi nhánh NHNo&PTNT Thanh Xuân Nam – Hà
Tây đã tạo điều kiện giúp đỡ em trong thời gian thực tập và nghiên cứu viết luận văn.
Đặc biệt, em xin gửi lời cám ơn chân thành tới thầy giáo, T.S Hoàng Xuân Quế, người
đã rât tận tình hướng dẫn cho em từ những bước đầu tiên trong việc xác định mục đích
nghiên cứu và tính cấp thiết của đề tài, và thầy cũng đã giúp đỡ em rất nhiều trong quá
trình thực hiện, phân tích cũng như đưa ra các giải pháp trong luận văn tốt nghiệp này.


Nguyễn Thị Mai Phương

Lớp: Tài chính doanh nghiệp 46B


Luận văn tốt nghiệp

3

CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG
VỐN TỪ DÂN CƯ TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1.1 Tổng quan về nguồn vốn và hoạt động huy động vốn của NHTM
1.1.1 Nguồn vốn của ngân hàng thương mại.
Ngân hàng là một tổ chức tài chính quan trọng bậc nhất trong mọi nền kinh tế, lịch
sử hình thành và phát triển của nó gắn với nền sản xuất hàng hóa. Do vậy, có thể nói
ngay từ khi mới ra đời ngân hàng đã được coi là một sản phẩm độc đáo của nền sản
xuất hàng hóa và là một động lực quan trọng cho sự phát triển kinh tế của mọi quốc
gia.
Đã có rất nhiều các cách tiếp cận khác nhau để đưa ra khái niệm thế nào là ngân
hàng. Tuy nhiên cách tiếp cận thận trọng nhất là xem xét ngân hàng trên phương diện
những loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp. Theo đó, ngân hàng là các tổ chức tài
chính cung cấp các một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín
dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với
bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. Bên cạnh đó, cũng có một số
định nghĩa dựa trên các hoạt động chủ yếu. Luật các tổ chức tín dụng của nước cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ghi rõ: “ Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh
tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số
tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”.

Từ khái niệm trên cho chúng ta thấy ngân hàng - với tư cách là một tổ chức trung
gian tài chính luôn tìm kiếm lợi nhuận từ việc dùng tiền của người này để tài trợ cho
người khác với mức lãi suất cao hơn. Do đó, ngân hàng luôn luôn tìm cách huy động
được vốn để có thể thực hiện được các dịch vụ một cách đa dạng và phong phú nhất.
Nguyễn Thị Mai Phương

Lớp: Tài chính doanh nghiệp 46B


Luận văn tốt nghiệp

4

Vốn của ngân hàng là những giá trị tiền tệ do ngân hàng tạo lập hoặc huy động
được dùng để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác, nhằm đạt
được các mục tiêu khác nhau. Nó chi phối toàn bộ hoạt động của NHTM, quyết định
sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Biểu hiện của vốn trong kinh doanh ngân hàng
chủ yếu là bằng tiền. Vốn của ngân hàng cũng có thể thuộc quyền sở hữu của ngân
hàng hoặc đi vay từ bên ngoài. Việc sử dụng vốn phải đáp ứng được yêu cầu lợi nhuận
và an toàn.
Nguồn vốn của NHTM bao gồm: vốn chủ sở hữu và vốn nợ; trong vốn nợ lại gồm
có tiền gửi, tiền vay và vốn nợ khác. Trong đó vốn chủ sở hữu và tiền gửi là hai loại
vốn chủ yếu được NH sử dụng trong hoạt động của mình.
Vốn chủ sở hữu
Để bắt đầu hoạt động ngân hàng (được pháp luật cho phép) chủ ngân hàng phải có
một lượng vốn nhất định. Đây là loại vốn ngân hàng có thể sử dụng lâu dài, hình thành
nên trang thiết bị, nhà cửa cho ngân hàng. Nguồn hình thành loại vốn này rất đa dạng,
tùy thuộc tính chất sở hữu, năng lực tài chính của chủ ngân hàng, yêu cầu và sự phát
triển của thị trường. Vốn chủ sở hữu có thể gồm có: nguồn vốn hình thành ban đầu,
nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động, các quỹ và nguồn vay nợ có thể chuyển

đổi thành cổ phần.
Nguồn vốn hình thành ban đầu: tùy theo tính chất của mỗi ngân hàng mà nguồn gốc
hình thành vốn ban đầu khác nhau. Nếu là ngân hàng thuộc sở hữu Nhà nước, ngân
sách Nhà nước cấp (vốn của Nhà nước). Nếu là ngân hàng cổ phần, các cổ đông đóng
góp thông qua mua cổ phần hoặc cổ phiếu. Ngân hàng liên doanh do các bên liên liên
doanh góp; ngân hàng tư nhân là vốn thuộc sở hữu của tư nhân.
Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động: trong quá trình hoạt động, NH gia
tăng vốn của chủ theo nhiều phương thức khác nhau tùy thuộc vào điều kiện cụ thể.

Nguyễn Thị Mai Phương

Lớp: Tài chính doanh nghiệp 46B


Luận văn tốt nghiệp

5

- Nguồn từ lợi nhuận: Trong điều kiện thu nhập ròng lớn hơn không, chủ ngân hàng
có xu hướng gia tăng vốn của chủ bằng cách chuyển một phần thu nhập ròng thành
vốn đầu tư. Tỷ lệ tích lũy tùy thuộc vào cân nhắc của chủ ngân hàng về tích lũy và tiêu
dùng. Những ngân hàng lâu năm, thu nhập ròng lớn, nguồn vốn tích lũy từ lợi nhuận sẽ
cao hơn so với vốn của chủ hình thành ban đầu.
-Nguồn bổ sung từ việc phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm... để mở rộng
quy mô hoạt động, hoặc để đổi mới trang thiết bị, hoặc để đáp ứng yêu cầu gia tăng
vốn của chủ do Ngân hàng Nhà nước quy định... Đặc điểm của hình thức huy động vốn
này là không thường xuyên, song giúp cho ngân hàng có được lượng vốn sở hữu lớn
trong một thời gian ngắn, vào lúc cần thiết.
Các quỹ: Ngân hàng có nhiều quỹ. Mỗi quỹ có mục đích riêng. Trước tiên là quỹ
dự phòng tổn thất. Quỹ này được trích lập hàng năm và được tích luỹ lại nhằm bù đắp

những tổn thất xảy ra. Quỹ bảo toàn vốn nhằm bù đắp hao mòn của vốn dưới tác động
của lạm phát. Quỹ thặng dư là phần đánh giá lại tài sản của ngân hàng và chênh lệch
giữa thị giá và mệnh giá cổ phiếu khi phát hành cổ phiếu mới. Các quỹ của ngân hàng
thuộc quyền sở hữu của ngân hàng. Nguồn hình thành các quỹ này là từ thu nhập của
ngân hàng. Tuy nhiên, khả năng sử dụng các quỹ này vào hoạt động kinh doanh tuỳ
thuộc vào mục đích sử dụng quỹ.
Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần: Các khoản vay trung và dài hạn
của NHTM mà có khả năng chuyển đổi thành vốn cổ phần có thể được coi là một bộ
phận vốn chủ sở hữu của NH (vốn bổ sung) do nguồn này có một số đặc điểm như sử
dụng lâu dài, có thể đầu tư vào nhà cửa, đất đai và có thể không phải hoàn trả khi đến
hạn.
Nguồn tiền gửi
Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của NHTM. Khi một
ngân hàng bắt đầu hoạt động, nghiệp vụ đầu tiên được thực hiện là mở các tài khoản
Nguyễn Thị Mai Phương

Lớp: Tài chính doanh nghiệp 46B


Luận văn tốt nghiệp

6

tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho khách hàng, bằng cách đó ngân hàng huy động
tiền gửi của các doanh nghiệp, các tổ chức và của dân cư.
Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của
ngân hàng. Để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và để có được nguồn tiền
có chất lượng ngày càng cao, các ngân hàng đã đưa ra và thực hiện nhiều hình thức
huy động khác nhau.
- Tiền gửi thanh toán (tiền gửi giao dịch hoặc tiền gửi thanh toán): đây là tiền của

doanh nghiệp hoặc cá nhân gửi vào ngân hàng để nhờ ngân hàng giữ và thanh
toán hộ. Trong phạm vi số dư cho phép, các nhu cầu chi trả của doanh nghiệp và
cá nhân đều được ngân hàng thực hiện. Các khoản thu bằng tiền của doanh
nghiệp và cá nhân đều có thể được nhập vào tiền gửi thanh toán theo yêu cầu.
Nhìn chung, lãi suất của các khoản tiền này rất thấp( hoặc bằng không), thay vào
đó chủ tài khoản có thể được hưởng các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp với
mức phí thấp.
- Tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp, các tổ chức xã hội: Nhiều khoản thu bằng
tiền của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội sẽ được chi trả sau một thời gian
xác định. Tiền gửi thanh toán tuy rất thuận tiện cho hoạt động thanh toán song
lãi suất lại thấp. Để đáp ứng nhu cầu tăng thu của người gửi tiền, ngân hàng đã
đưa ra hình thức tiền gửi có kỳ hạn. Người gửi tiền không được sử dụng các
hình thức thanh toán đối với tiền gửi thanh toán để áp dụng đối với loại tiền gửi
này. Tuy không thuận lợi cho tiêu dùng bằng hình thức tiền gửi thanh toán, song
tiền gửi có kỳ hạn được hưởng lãi suất cao hơn tùy thuộc vào độ dài của kỳ hạn
gửi tiền.
- Tiền gửi tiết kiệm của dân cư: Các tầng lớp dân cư đều có các khoản thu nhập
tạm thời chưa sử dụng (các khoản tiền tiết kiệm). Trong điều kiện có khả năng
tiếp cận với ngân hàng, họ đều có thể gửi tiết kiệm nhằm thực hiện các mục tiêu
Nguyễn Thị Mai Phương

Lớp: Tài chính doanh nghiệp 46B


Luận văn tốt nghiệp

7

bảo toàn và sinh lời đối với các khoản tiết kiệm.. Nhằm thu hút ngàu càng nhiều
tiền tiết kiệm, các ngân hàng đều cố gắng khuyến khích dân cư thay đổi thói

quen giữ vàng và tiền mặt tại nhà bằng cách mở rộng mạng lưới huy động, đưa
ra các hình thức huy động đa dạng và các mức lãi suất cạnh tranh hấp dẫn.
- Tiền gửi của các ngân hàng khác: nhằm mục đích nhờ thanh toán hộ và một số
mục đích khác, ngân hàng thương mại này có thể gửi tiền tại ngân hàng khác.
Tuy nhiên, quy mô nguồn này thường không lớn.
Nguồn đi vay
Tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của NHTM, tuy nhiên khi cần ngân hàng thường
phải vay mượn thêm từ các tổ chức tín dụng khác để đáp ứng những nhu cầu cấp bách.
Nguồn đi vay có thể gồm có:
- Vay NHNN: đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của
NHTM. Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ (thiếu dự trữ bắt buộc, dự trữ thanh toán),
các NHTM thường vay NHNN. Hình thức cho vay chủ yếucủa NHNN là tái chiết khấu
(hoặc tái cấp vốn). Các thương phiếu đã được các NHTM chiết khấu hoặc tái chiết
khấu trở thành tài sản của họ. Khi cần tiền, ngân hàng mang những thương phiếu này
lên tái chiết khấu tại NHNN. Nghiệp vụ này làm thương phiếu của NHTM giảm đi và
dự trữ (tiền mặt hoặc tiền gửi tại ngân hàng Nhà nước) tăng lên. NHNN điều hành
quan hệ vay mượn này một cách rất chặt chẽ; NHTM phải thực hiện các điều kiện đảm
bảo và kiểm soát nhất định.
- Vay các tổ chức tín dụng khác: đây là nguồn các NH vay mượn lẫn nhau và vay của
các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng. Các ngân hàng đang có dự trữ
vượt yêu cầu do có kết dư gia tăng bất ngờ về các khoản tiền huy động hoặc giảm cho
vay sẽ có thể sẵn lòng cho các NH khác vay để tìm kiếm lãi suất cao hơn. Ngược lại,
các ngân hàng đang thiếu hụt dự trữ có nhu cầu vay mượn tức thời để đảm bảo thanh
khoản. Như vậy nguồn vay mượn từ NH khác là để đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả
Nguyễn Thị Mai Phương

Lớp: Tài chính doanh nghiệp 46B


Luận văn tốt nghiệp


8

cấp bách và trong nhiều trường hợp nó bổ sung hoặc thay thế cho nguồn vay mượn từ
NHNN.
- Vay trên thị trường vốn: giống như các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, các ngân
hàng cũng vay mượn bằng cách phát hành các giấy nợ (kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu)
trên thị trường vốn. Rất nhiều các NHTM thiếu nguồn tiền gửi trung và dài hạn dẫn
đến không đáp ứng được nhu cầu cho vay trung và dài hạn. Do vậy, các khoàn vay
trung và dài hạn nhằm bổ sung cho các nguồn tiền gửi, đáp ứng nhu cầu cho vay và
đầu tư trung và dài hạn. Thông thường đây là khoản vay không có đảm bảo. Nhũng
ngân hàng có uy tín hoặc trả lãi cao sẽ huy động được nhiều vốn hơn. Khả năng vay
mượn còn phụ thuộc vào trình độ phát triển của thị trường tài chính, tạo khả năng
chuyển đổi cho các công cụ nợ dài hạn của ngân hàng.
Các nguồn khác
Loại này bao gồm nguồn uỷ thác, nguồn trong thanh toán và các nguồn khác.
- Nguồn uỷ thác: NTHM thực hiện các dịch vụ ủy thác như ủy thác cho vay, uỷ thác
đầu tư, uỷ thác cấp phát, uỷ thác giải ngân và thu hộ... Các hoạt động này tạo nên
nguồn ủy thác tại ngân hàng.
- Nguồn trong thanh toán: các hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt có thể hình
thành nguồn trong thanh toán (séc trong quá trình chi trả, tiền kí quỹ để mở L/C...)
Những ngân hàng là ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ có kết số dư từ tiền của các
ngân hàng thành viên chuyển về để thực hiện cho vay.
- Nguồn khác: các khoản nợ khác như thuế chưa nộp, lương chưa trả...
1.1.2 Vai trò của vốn đối với hoạt động kinh doanh Ngân hàng.
Đối với bất kỳ doanh nghiệp nào, muốn hoạt động kinh doanh được thì phải có
vốn bởi vốn phản ánh năng lực chủ yếu để quyết định khả năng kinh doanh. Riêng đối
với Ngân hàng là một doanh nghiệp kinh doanh một loại hàng hoá đặc biệt là “ tiền tệ”
Nguyễn Thị Mai Phương


Lớp: Tài chính doanh nghiệp 46B


Luận văn tốt nghiệp

9

với đặc thù hoạt động kinh doanh là “đi vay để cho vay” nên nguồn vốn đối với hoạt
động kinh doanh của Ngân hàng lại càng có vai trò hết sức quan trọng. Vốn là điểm
đầu tiên trong chu kỳ kinh doanh của ngân hàng. Ngoài vốn ban đầu cần thiết tức là đủ
vốn điều lệ theo luật định thì để bắt đầu hoạt động kinh doanh của mình, việc đầu tiên
mà ngân hàng phải làm là huy động vốn. Vốn huy động sẽ cho phép ngân hàng cho
vay, đầu tư... để thu lợi nhuận. Nói cách khác, nguồn vốn mà ngân hàng huy động
được nhiều hay ít quyết định đến khả năng mở rộng hay thu hẹp tín dụng. Nguồn vốn
huy động được nhiều thì cho vay được nhiều và mang lại lợi nhuận cao cho ngân hàng.
1.1.2.1 Vốn giữ vai trò quan trọng trong việc hình thành NHTM
Đối với bất kỳ doanh nghiệp nào, muốn hoạt động sản xuất kinh doanh được
thì phải có : Công nghệ - Lao động – Tiền vốn trong đó vốn là nhân tố quan trọng, nó
phản ánh năng lực chủ yếu để quyết định khả năng kinh doanh. Riêng đối với NHTM,
vốn lại càng là nhân tố không thể thiếu trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Vốn là cơ sở để NHTM tổ chức hoạt động kinh doanh, ngân hàng không thể thực hiện
các nghiệp vụ kinh doanh nếu không có vốn. Như đã biết, đặc trưng của hoạt động
ngân hàng: vốn không chỉ là phương tiện kinh doanh chính mà còn là đối tượng kinh
doanh chủ yếu của NHTM. Ngân hàng là tổ chức kinh doanh loại hàng hóa đặc biệt
trên thị trường tiền tệ (thị trường vốn ngắn hạn) và thị trường chứng khoán (thị trường
vốn dài hạn). Những ngân hàng trường vốn là ngân hàng có nhiều thế mạnh trong kinh
doanh. Hơn nữa, vốn lớn là lợi thế đầu tiên trong việc chấp hành pháp luật trước hết là
luật NHNN, luật các TCTD, tạo thế mạnh và thuận lợi trong kinh doanh tiền tệ. Chính
vì thế, có thể nói vốn là điểm đầu tiên trong chu kỳ kinh doanh của ngân hàng, là khâu
cốt tử của ngân hàng. Do đó, ngoài vốn ban đầu cần thiết, tức là đủ vốn điều lệ theo

luật định thì ngân hàng phải thường xuyên chăm lo tới việc tăng trưởng vốn trong suốt
quá trình hoạt động của mình
Từ đặc trưng kinh doanh của Ngân hàng, vốn vừa là phương tiện kinh doanh,
vừa là đối tượng kinh doanh. Các NHTM thực hiện kinh doanh loại “hàng hoá đặc
Nguyễn Thị Mai Phương

Lớp: Tài chính doanh nghiệp 46B


Luận văn tốt nghiệp

10

biệt” – tiền tệ trên thị trường tiền tệ (thị trường vốn ngắn hạn) và thị trường chứng
khoán (thị trường vốn dài hạn). Vì vậy, ngoài vốn ban đầu khi thành lập theo qui định
của pháp luật, các Ngân hàng phải thường xuyên tìm mọi biện pháp để tăng trưởng vốn
trong quá trình hoạt động kinh doanh.
1.1.2.2 Vốn quyết định khả năng thanh toán và năng lực cạnh tranh của ngân
hàng:
Trong nền kinh tế thị trưòng, để tồn tại và ngày càng mở rộng quy mô hoạt động
thì việc đòi hỏi các ngân hàng phải có uy tín lớn trên thị trường là điều trọng yếu. Uy
tín đó phải được thể hiện trước hết ở khả năng sẵn sàng thanh toán, chi trả cho khách
hàng của ngân hàng. Chúng ta đã biết, đại bộ phận vốn của ngân hàng là vốn tiền gửi
và đi vay, do vậy ngân hàng phải trả cho khách hàng khi họ có yêu cầu rút tiền. Với
một ngân hàng có quy mô vốn nhỏ, khi nhu cầu vay vốn trên thị trường là rất lớn, một
mặt ngân hàng không đáp ứng đủ nhu cầu vay, mặt khác với quy mô nhỏ, ngân hàng
nếu cho vay tối đa nguồn vốn huy động đuợc, dự trữ ít sẽ dẫn đến mất khả năng thanh
toán. Trong khi đó, với một ngân hàng trường vốn, họ thực hiện dự trữ đủ khả năng
thanh toán đồng thời vẫn thỏa mãn được nhu cầu vay vốn của nền kinh tế, do đó sẽ tạo
được uy tín ngày càng cao.

Khả năng thanh toán của ngân hàng càng cao thì vốn khả dụng của ngân hàng
càng lớn. Vì vậy nếu loại trừ các nhân tố khác, khả năng thanh toán của ngân hàng tỷ
lệ thuận với vốn của ngân hàng nói chung và với vốn khả dụng của ngân hàng nói
riêng. Với tiềm năng vốn lớn, ngân hàng có thể hoạt động kinh doanh với quy mô ngày
càng mở rộng, tiến hành các hoạt động cạnh tranh có hiệu quả nhằm giữ chữ tín, vừa
nâng cao vị thế của ngân hàng.

Nguyễn Thị Mai Phương

Lớp: Tài chính doanh nghiệp 46B


Luận văn tốt nghiệp

11

1.1.2.3 Vốn quyết định quy mô hoạt động tín dụng và các hoạt động kinh doanh
khác của ngân hàng:
Vốn của Ngân hàng quyết định việc mở rộng hay thu hẹp khối lượng tín dụng.
Thông thường, các Ngân hàng nhỏ phạm vi hoạt động kinh doanh, khoản mục đầu tư,
khối lượng cho vay ít và kém đa dạng hơn. Do đó, ảnh hưởng đến khả năng thu hút
vốn của các tổ chức kinh tế và tầng lớp dân cư, thậm chí không đáp ứng được nhu cầu
vốn vay của doanh nhiệp. Họ sẽ mất khách hàng và không tận dụng được cơ hội kinh
doanh. Nếu là Ngân hàng lớn, nguồn vốn dồi dào chắc chắn họ sẽ đáp ứng được nhu
cầu về vốn, có điều kiện để mở rộng quan hệ tín dụng với nhiều doanh nghiệp và thị
trường tín dụng.
Nguồn vốn lớn còn giúp ngân hàng hoạt động kinh doanh với nhiều loại hình
khác nhau như: Liên doanh liên kết, dịch vụ thuê mua tài chính, kinh doanh chứng
khoán… các hình thức kinh doanh này nhằm phân tán rủi ro và tạo thêm vốn cho Ngân
hàng. Đồng thời, nâng cao uy tín và tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Vì vậy, vốn có

vai trò quyết định trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
1.1.2.4 Nguồn vốn quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng
Thực tế đã chứng minh: quy mô, trình độ nghiệp vụ, phương tiện kỹ thuật của
ngân hàng là tiền đề cho việc thu hút nguồn vốn. Đồng thời, khả năng vốn lớn là điều
kiện thuận lợi đối với ngân hàng trong việc mở rộng quan hệ tín dụng với các thành
phần kinh tế xét cả về quy mô, khối lượng tín dụng, chủ động về thời gian, thời hạn
cho vay, thậm chí quyết định mức lãi suất vừa phải cho khách hàng. Điều đó sẽ thu hút
ngày càng nhiều khách hàng, doanh số hoạt động của ngân hàng sẽ tăng lên nhanh
chóng và ngân hàng sẽ có nhiều thuận lợi hơn trong kinh doanh. Đây cũng là điều kiện
để bổ xung thêm vốn tự có của ngân hàng, tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật và quy
mô hoạt động của ngân hàng trên mọi lĩnh vực.

Nguyễn Thị Mai Phương

Lớp: Tài chính doanh nghiệp 46B


Luận văn tốt nghiệp

12

Đồng thời vốn của ngân hàng lớn sẽ tạo ra thuận lợi cho việc sử dụng tổng hòa
các nguồn vốn khác. Trên cơ sở đó sẽ giúp ngân hàng có đủ khả năng tài chính để kinh
doanh đa năng trên thị trường, không chỉ đơn thuần là cho vay mà còn mở rộng các
hình thức liên doanh liên kết, kinh doanh dịch vụ thuê mua (leasing), mua bán nợ
(factoring), kinh doanh trên thị trường chứng khoán. Chính các hình thức kinh doanh
đa năng này sẽ góp phần phân tán rủi ro trong hoạt động kinh doanh và tạo thêm vốn
cho ngân hàng đồng thời tăng sức cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường.
Ngoài ra vốn của ngân hàng dồi dào sẽ tạo điều kiện cho NHNN đảm bảo khả
năng thực thi chính sách tiền tệ, góp phần ổn định lưu thông tiền tệ, đảm bảo cân đối

tiền – hàng trong nền kinh tế.
Xuất phát từ vai trò của nguồn vốn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng
và của nền kinh tế nên nguồn vốn nói chung và vốn huy động nói riêng phải thường
xuyên được bảo toàn và không ngừng mở rộng quy mô, nâng cao hiệu quả của vốn là
tiền đề quan trọng quyết định sự tồn tại và phát triển của hoạt động kinh doanh ngân
hàng, đáp ứng vốn cho nền kinh tế. Vì vậy, nâng cao hiệu quả huy động vốn là sự cần
thiết trong quá trình hoạt động của NHTM ở tất cả các quốc gia.
1.1.3 Hoạt động huy động vốn của NHTM
Như đã đề cập ở những nội dung trên, ta thấy vốn thực sự có vai trò vô cùng
quan trọng đối với mọi hoạt động của ngân hàng. Vì vậy, ngân hàng phải luôn coi
trọng công tác huy động vốn.
Huy động vốn là một nghiệp vụ cơ bản của NHTM nhằm thu hút vốn từ các tổ chức,
cá nhân trong nền kinh tế để phục vụ cho mục đích kinh doanh của mình. Hoạt động
huy động vốn của ngân hàng có thể được chia thành các nhóm đối tượng để thực hiện
hoạt động huy động, bao gồm các nhóm sau:

Nguyễn Thị Mai Phương

Lớp: Tài chính doanh nghiệp 46B


Luận văn tốt nghiệp

13

1.1.3.1 Huy động vốn từ khu vực dân cư
Bộ phận dân cư được coi là bộ phận thường xuyên có nguồn tiền nhàn rỗi do tạm
thời chưa dùng đến hoặc do tâm lý, thói quen tích lũy tiền ở hiện tại để phục vụ cho
nhu cầu tài chính trong tương lai. Trong nền kinh tế thị trường, các trung gian tài chính
phát triển mạnh mẽ tạo cho người dân có rất nhiều lựa chọn để tích lũy vốn. Trước hết

họ có thể giữ tiền trong két sắt nhưng việc giữ tiền như vậy sẽ không an toàn, hơn nữa
đồng tiền để trong két sắt có thể bị mất giá do lạm phát ngày càng có xu hướng tăng
cao. Lựa chọn thứ hai, họ có thể mua cổ phiếu của các công ty cổ phần hoặc mua trái
phiếu của chính phủ và các công ty; việc đầu tư vào chứng khoán mang lại lợi nhuận
cao song hoạt động này lại chứa đựng nhiều rủi ro hoặc ít có khả năng thanh toán. Do
đó, họ có lựa chọn thứ ba do ngân hàng mang lại đó là gửi tiền vào NH để vừa giữ
được vốn tích lũy của mình một cách an toàn, lại vừa thu được một khoản tiền lãi nhất
định.
Đa số người dân đều không thích rủi ro, mạo hiểm, không biết đầu tư số tiền
nhàn rỗi vào đâu nhưng vẫn muốn khoản tiền của mình sinh lời nên đây là nguồn có
tiềm năng rất lớn và tính ổn định cao. Nếu tiếp cận và khai thác nguồn này một cách có
hiệu quả sẽ đem lại cho ngân hàng nguồn vốn dồi dào phục vụ cho hoạt động kinh
doanh của mình. Ngân hàng huy động nguồn này qua các hình thức như tiền gửi thanh
toán, tiền gửi tiết kiệm, phát hành trái phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi,...
1.1.3.2 Huy động vốn từ các doanh nghiệp và tổ chức kinh tế khác
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, các tổ chức kinh tế thường có một bộ phận
vốn nhàn rỗi tạm thời như khấu hao đã trích nhưng chưa đem vào sử dụng chính thức,
tiền thu bán hàng chưa phải mua nguyên vật liệu đầu vào; trả lương; các quỹ đầu tư
phát triển, phúc lợi, khen thưởng đã trích nhưng chưa sử dụng đến. Để đảm bảo an
toàn tài sản mà đồng vốn vẫn sinh lời, các tổ chức kinh tế có thể gửi số vốn đó vào
ngân hàng, hoặc để thuận tiện cho quá trình sử dụng vốn doanh nghiệp có thể thanh
Nguyễn Thị Mai Phương

Lớp: Tài chính doanh nghiệp 46B


Luận văn tốt nghiệp

14


toán qua ngân hàng cũng như sử dụng các dịch vụ khác của ngân hàng. Khi đó doanh
nghiệp cần phải gửi vốn vào ngân hàng dưới hình thức mở tài khoản tiền gửi thanh
toán
Đây là nguồn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn huy động được của ngân
hàng nhưng lại chứa đựng nhiều biến động nhất do nhu cầu thu chi của doanh nghiệp
thay đổi thường xuyên theo chu kỳ hoạt động.
Duy trì và tăng trưởng nguồn này cũng là một trong những mục tiêu chiến lược của
ngân hàng so chi phí huy động từ nguồn này thấp mà ngân hàng lại thu được nhiều phí
dịch vụ cũng như có thể đầu tư sinh lời trên số vố đó.
1.1.3.3 Đi vay từ NHNN các tổ chức tín dụng khác
Khi các NHTM có sự mất cân đối giữa nguồn vốn huy động và sử dụng vốn, xảy
ra hiện tượng thiếu vốn đột xuất.
Để đảm bảo khả năng thanh toán của mình, các tổ chức tín dụng vay vốn của
nhau qua thị trường liên ngân hàng. Thị trường này giúp cho NHTM bổ sung nguồn
vốn cho nhau, nhằm giải quyết tình trạng thiếu hụt vốn trong thanh toán. Nguồn vốn
này tuy không thường xuyên và ngân hàng chỉ huy động khi thực sự cần thiết nhưng
nó có thể cung cấp vốn trong thời gian rất ngắn giúp ngân hàng tận dụng được các cơ
hội kinh doanh hấp dẫn. Có thể nói hoạt động của thị trường này đã tận dụng đến mức
cao nhất các khả năng sẵn có của các tổ chức tín dụng, trước khi có nhu cầu vay vốn
của NHNN.
Việc thực hiện quan hệ tín dụng giữa các NHTM phải được tiến hành theo
nguyên tắc đi vay cho vay và phải được thoả thuận trên cơ sở hợp đồng tín dụng, vốn
vay phải đảm bảo bằng thế chấp, cầm cố (tiền mặt tại quĩ và các chứng từ có giá trị),
hay NHTM đi vay có thể xin ngân hàng Nhà nước bảo lãnh để vay vốn các ngân hàng
khác. Các ngân hàng đi vay phải chấp hành đầy đủ các quy chế dự trữ bắt buộc và an
toàn vốn, phải có tài khoản tiền gửi thanh toán hoạt động thường xuyên tại NHNN.
Nguyễn Thị Mai Phương

Lớp: Tài chính doanh nghiệp 46B



Luận văn tốt nghiệp

15

Khi các NHTM đã hết khả năng vay mượn của nhau mà vẫn thiếu vốn hoặc mất
khả năng thanh toán, các NHTM thực hiện vay vốn tại NHNN để tạo thêm nguồn vốn
bổ sung cho hoạt động kinh doanh của mình. Việc NHNN cho các NHTM vay đã làm
tăng khả năng thanh toán cho các NHTM. Nguồn vốn của NHNN là nguồn vốn cuối
cùng, làm cho khả năng thanh toán của nền kinh tế được bình thường. Nếu như thiếu
nguồn vốn này thì sẽ xuất hiện các cuộc khủng hoảng tài chính khi các NHTM mất khả
năng thanh toán. Tuy nhiên các NHTM thường hạn chế đi vay NHNN và chỉ vay khi
các nguồn trên chưa huy động được vì phải đáp ứng nhiều điều kiện mới có thể nhận
được vốn từ nguồn này và việc vay vốn này còn phải phù hợp với chính sách tiền tệ
trong từng thời kỳ. Nguồn vốn này cũng có tỷ trọng rất nhỏ trong tổng nguồn vốn của
NHTM nhưng lại là nguồn “cứu cánh” cuối cùng khi các NHTM lâm vào trạng thái
khủng hoảng.
Tóm lại các nguồn vốn đi vay từ các tổ chức tín dụng khác, từ NHNN để đảm
bảo khả năng thanh toán chỉ được thực hiện trong những trường hợp thật sự cần thiết.
Cho nên thời hạn vay thường ngắn, lãi suất thường cao hơn các hình thức huy động
vốn khác của NHTM.
1.2. Hoạt động huy động vốn từ dân cư của NHTM
1.2.1 Nguồn vốn từ dân cư của NHTM
1.2.1.1 Khái niệm
Nguồn vốn từ dân cư là một phần của vốn nợ mà NH có được thông qua việc
huy động vốn từ các cá nhân trong xã hội nhằm phục vụ cho mục đích kinh doanh của
mình.
Theo như phân tích ở trên, ta có thể dễ dàng thấy được dân cư chính là bộ phận
thường xuyên có nguồn tiền nhàn rỗi và đây chính là mục tiêu nhắm đến của các
NHTM trong quá trình huy động vốn của mình.


Nguyễn Thị Mai Phương

Lớp: Tài chính doanh nghiệp 46B


Luận văn tốt nghiệp

16

Liệu có thể phân chia nguồn tiền nhàn rỗi của dân cư thành các nhóm dòng tiền
chính? Các dòng tiền đó vì sao lại “chảy” vào ngân hàng? Và “chảy” bằng những con
đường nào?
Nếu xem xét theo mục đích, ta có thể phân chia thành những dòng tiền sau:
 Dòng tiền tiết kiệm
Là dòng tiền được tích lũy ở hiện tại cho nhiều nhu cầu chi tiêu trong tương lai. Dòng
tiền này xuất hiện bắt nguồn từ nhu cầu cơ bản của đại đa số người dân. Thu nhập và
chi tiêu của họ không như nhau trong các giai đoạn khác nhau. Đặc biệt là lúc về già,
khi họ không còn khả năng lao động nhưng vẫn có nhu cầu cần phải chi tiêu cho những
sinh hoạt thiết yếu hàng ngày nên vẫn rất cần tiền. Do vậy, có thể nói mục đích đầu
tiên của việc tích lũy tiền ở hiện tại của người dân là phục vụ cho nhu cầu chi tiêu khi
không có thu nhập. Bên cạnh đó, người dân cũng tích lũy tiền ở hiện tại khi họ có kế
hoạch dự phòng cho những khoản chi tiêu tài chính lớn trong tương lai mà hiện tại
chưa có đủ. Như vậy là họ đã chủ động chi tiêu ít hơn thu nhập mà họ có và cũng có
một số trường hợp chi tiêu ở hiện tại thấp hơn thu nhập một cách ngẫu nhiên. Khi đó,
người dân sẽ nghĩ đến việc đem số tiền dôi ra này gửi vào ngân hàng thay vì cất trữ ở
nhà – không đảm bảo mục tiêu an toàn và sinh lời. Đây là bộ phận chủ yếu, chiếm tỷ
trọng lớn nhất trong cơ cấu nguồn tiền gửi từ dân cư.
 Dòng tiền thu nhập
Dòng tiền này xuất hiện khi người dân nhận được thu nhập thông qua tài khoản thanh

toán mở tại ngân hàng. Những người này phải mở tài khoản cá nhân tại ngân hàng và
hàng tháng tiền lương của họ sẽ được chuyển vào tài khoản này theo thoả thuận giữa
nơi họ làm việc và ngân hàng đó. Thông thường họ không rút ngay toàn bộ số tiền đó
mà chỉ rút từng phần nhỏ nhẻ để tiêu dùng thông qua hệ thống rút tiền ATM. Do đó
NH có được một lượng vốn trong trong một khoảng thời gian và có thể sử dụng lượng
vốn này để phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình. Trong tương lai, khi toàn bộ
Nguyễn Thị Mai Phương

Lớp: Tài chính doanh nghiệp 46B


Luận văn tốt nghiệp

17

thu nhập của người dân được nhận thông qua NH thì đây là dòng tiền chiếm vị trí quan
trọng thứ hai trong việc cung cấp nguồn vốn cho sự phát triển của ngân hàng.
 Dòng tiền thanh toán
Đây là dòng tiền được chuyển từ người này sang người khác hoặc của người này chi
trả cho người kia thông qua ngân hàng. Khi lưu thông hàng hóa và lưu thông tiền tệ
phát triển thì nhu cầu thanh toán qua ngân hàng của người dân cũng ngày một tăng
cao. Dòng tiền thanh toán xuất hiện khi họ có các nhu cầu chi trả tiền hàng hóa, dịch
vụ cho người bán hàng hoặc chuyển tiền cho người thụ hưởng nào đó. Để thực hiện
các nhu cầu này, họ có thể trực tiếp mang tiền mặt đến NH hoặc mở tài khoản thanh
toán tại NH. Đặc biệt việc chuyển tiền cho người ở nước ngoài chuyển về thông qua
NH sẽ đảm bảo được sự an toàn, tiện lợi, nhanh chóng, chính xác hơn bất kỳ phương
thức chuyển tiền nào. Dòng tiền này có xu hướng ngày càng tăng cả về số lượng lẫn
chất lượng cùng với sự phát triển của công nghệ thanh toán trong ngân hàng và quá
trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa của nền kinh tế xã hội. Tuy nhiên, dòng tiền này
tồn tại ở NH trong một thời gian ngắn nên NH sẽ gặp nhiều khó khăn khi sử dụng

nguồn tiền này cho mục đích kinh doanh.
 Dòng tiền đầu tư
Với đặc điểm là dòng tiền mà cá nhân sử dụng với mục đích trực tiếp sinh lời. Dân cư
là bộ phận thường không ưa rủi ro, mạo hiểm và họ sẵn sàng đầu tư vào nơi nào an
toàn hơn mặc dù mức sinh lời ở đó thấp hơn những nơi khác. Do đó khi quyết định đầu
tư, đa số người dân thường chọn ngân hàng là nơi đầu tư đáng tin cậy nhất. Họ sẽ đầu
tư dưới các hình thức như mua các chứng chỉ tiền gửi hoặc giấy tờ có giá mà NH phát
hành để giảm thiểu tối đa rủi ro cho khoản vốn của mình.
 Dòng tiền uỷ thác
Là dòng tiền mà chủ sở hữu của nó ủy thác cho NH bảo quản, quản lý hộ. Cùng với sự
phát triển của nền kinh tế xã hội, thu nhập của người dân được nâng cao, ngày càng có
Nguyễn Thị Mai Phương

Lớp: Tài chính doanh nghiệp 46B


Luận văn tốt nghiệp

18

nhiều người trở nên giàu có, sở hữu nhiều tài sản có giá trị lớn. Từ đó làm xuất hiện
nhu cầu bảo quản tài sản một cách chuyên nghiệp, và họ đã nghĩ tới việc giao tài sản,
những vật có giá (vàng, đá quý, kim cương,...) của mình cho ngân hàng giữ hay bảo
quản hộ.
Dòng tiền này cũng “chảy” vào NH khi NH đóng vai trò là người được uỷ thác trong di
chúc, quản lý tài sản cho khách hàng đã qua đời. Bên cạnh đó cũng có trường hợp,
khách hàng có một số tiền lớn và muốn đầu tư sinh lời trên số tiền đó nhưng không có
thông tin cũng như các kiến thức về thị trường tài chính; họ có thể ủy thác nhờ NH đầu
tư hộ. Và NH sẽ quản lý và đầu tư khoản tiền đó cho đến khi khách hàng có nhu cầu
lấy lại. Hiện nay đang có rất nhiều các loại hình ủy thác phát sinh theo nhu cầu ngày

càng đa dạng của người dân và NH cũng nhờ đó mà có thể tạo thêm thu nhập cho
mình.
Tóm lại, việc phân định các dòng tiền này chỉ mang tính tương đối. Tuy nhiên đây
cũng là một trong những căn cứ quan trọng giúp NH phát triển các hình thức huy động
vốn sao cho có hiệu quả, nhằm khai thác tối đa nguồn vốn từ khu vực dân cư.
1.2.1.2 Đặc điểm của nguồn vốn huy động từ dân cư
Gia tăng vốn huy động từ dân cư luôn là mục tiêu tăng trưởng hàng năm của các
NHTM. Hiện nay các NHTM luôn tìm mọi cách để duy trì và thu hút thêm càng nhiều
vốn huy động từ dân cư bởi những đặc điểm rất quan trọng của nguồn vốn này đối với
các hoạt động kinh doanh của NH:
Trước hết, đây là nguồn vốn có quy mô lớn nhất trong tổng nguồn vốn huy động của
NHTM. Điều này là do bản chất của những khoản huy động từ dân cư chính là những
khoản tiền nhàn rỗi nhất trong xã hội và được tiết kiệm để tái đầu tư sinh lời thông qua
NH. Chính vì vậy mà chi phí huy động vốn từ dân cư sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến chi
phí huy động chung của tổng nguồn vốn huy động và là một trong những chỉ tiêu quan
trọng để NHTM quyết định lãi suất cho vay.
Nguyễn Thị Mai Phương

Lớp: Tài chính doanh nghiệp 46B


Luận văn tốt nghiệp

19

Hai là, vốn huy động từ dân cư là nguồn ổn định nhất, là cơ sở để NHTM quyết định
tỷ lệ cho vay và tỷ lệ dự trữ. Vốn huy động từ các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế xã hội
hay từ các tổ chức tín dụng khác thường không ổn định do sự chuyển động liên tục của
các dòng tiền trong nền kinh tế. Còn vốn chủ sở hữu có chi phí huy động rất lớn nên
không có hiệu quả cao khi cho vay; trong khi đó, vốn huy động từ dân cư có tính chất

ổn định do người dân khi gửi tiền vào NH thường do mục đích tích lũy để tiêu dùng
cho những nhu cầu tài chính trong tương lai, do đó có kế hoạch và có thể dự báo được
thời điểm tăng giảm.
Ba là, vốn huy động từ dân cư là nguồn tiền có thời hạn tương đối dài, là tiền để
NHTM cho vay trung và dài hạn. Điều này được quyết định bởi hành vi tích lũy của
người dân khi gửi tiền. Các nguồn khác lãi suất cao nên không thể có được thời hạn
dài, hoặc vay của các tổ chức kinh tế xã hội thì thời hạn thường rất ngắn hoặc không
kỳ hạn do việc sử dụng vốn thường xuyên của các tổ chức này.
Bốn là, do nguồn là ổn định và có quy mô lớn nên vốn huy động từ dân cư có vai trò
chủ chốt trong việc các NHTM ra quyết định cung ứng vốn cho nền kinh tế. Nếu
nguồn này nhỏ, các NHTM sẽ không thể cho vay được nhiểu cũng như thực hiện các
hoạt động đầu tư khác. Tuy nhiên, nếu nguồn vốn này quá lớn, trong khi khả năng cho
vay của các NHTM có hạn sẽ làm cho chi phí hoạt động của NH bị đẩy lên rất cao, làm
ảnh hưởng đến lợi nhuận của NH. Ngoài ra, tổng nguồn vốn huy động từ dân cư của
các NHTM tăng trưởng sẽ là “nguồn bổ sung rất lớn cho nền kinh tế”, giúp NN giảm
bớt gánh nặng cung cấp vốn cho các chương trình Quốc gia, giúp cho các doanh
nghiệp có khả năng tài chính lớn mạnh để đầu tư sản xuất, nâng cao sức cạnh tranh với
các doanh nghiệp nước ngoài, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động và tăng
thu nhập cho nền kinh tế.
Như vậy, vốn huy động từ dân cư không chỉ là một nguồn huy động chủ yếu, mà còn
là đòn bẩy hoạt động của nền kinh tế. Các NHTM phải luôn coi trọng nguồn vốn này
và có các biện pháp duy trì, ổn định và phát triển sao cho có hiệu quả nhất.
Nguyễn Thị Mai Phương

Lớp: Tài chính doanh nghiệp 46B


Luận văn tốt nghiệp

20


1.2.2 Các hình thức huy động vốn từ dân cư của NHTM
Ngày nay cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế, thu nhập của người dân
ngày càng một cao hơn. Điều này đồng nghĩa với việc nguồn tiền tạm thời chưa được
dùng đến cũng ngày một lớn, trong khi đó nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển sản xuất
kinh doanh cũng không ngừng tăng cao đã thúc đẩy các ngân hàng phải không ngừng
tìm cách duy trì và tăng cường một bộ phận nguồn vốn quan trọng – luôn chiếm tỷ
trọng cao nhất trong tổng nguồn vốn của các NHTM này. Ở các NHTM hiện nay, việc
huy động vốn từ khu vực dân cư chủ yếu được thực hiện thông qua các hình thức sau :
1.2.2.1 Tiền gửi thanh toán
Tiền gửi thanh toán là loại tiền mà khách hàng gửi vào ngân hàng nhằm thực hiện việc
chi trả cho hoạt động kinh doanh và tiêu dùng của cá nhân mình mà không cần dùng
đến tiền mặt. Đây là một bộ phận tiền đang chờ thanh toán, chúng không phải tiền để
dành, do vậy khách hàng gửi tiền không mất quyền sử dụng số tiền này; họ có thể rút
ra, chuyển nhượng hoặc tiến hành việc chi trả thanh toán cho các khoản chi tiêu bất cứ
lúc nào theo yêu cầu. Theo đó, ngân hàng sẽ thực hiện việc chi trả hộ khách hàng bằng
cách trích, chuyển tiền từ tài khoản của người phải trả (ghi nợ vào tài khoản của họ),
sang tài khoản của người thụ hưởng bằng cách ghi có vào tài khoàn đối ứng. Như vậy
đối với ngân hàng, tiền gửi thanh toán là một khoản nợ mà ngân hàng phải trả cho
khách hàng bất kỳ lúc nào khi họ có yêu cầu. Tuy nhiên, không phải lúc nào khách
hàng cũng có nhu cầu chi trả và cũng không phải tất cả các khách hàng đều có nhu cầu
chi trả, thanh toán giống nhau. Vậy nên, trong những lúc khoản tiền này tạm thời nhàn
rỗi nó sẽ trở thành nguồn vốn của ngân hàng, và từ đó ngân hàng có thể sử dụng để cho
vay.
Tiền gửi thanh toán hay chính là tiền gửi không kỳ hạn, và khách hàng có thể rút bất
kỳ lúc nào mà không cần phải báo trước cho ngân hàng, do đó ngân hàng rất khó kế
hoạch hóa việc sử dụng loại tiền gửi này. Chính vì vậy, các NHTM thường trả lãi suất
Nguyễn Thị Mai Phương

Lớp: Tài chính doanh nghiệp 46B



Luận văn tốt nghiệp

21

rất thấp ( khoảng 0.25%/tháng) hoặc thậm chí không trả lãi cho loại tiền gửi này; và
các ngân hàng cũng chỉ có thể sử dụng nguồn tiền gửi này có mức độ để luôn bảo đảm
cho việc đáp ứng được nhu cầu thanh toán của khách hàng một cách nhanh chóng nhất.
Việc không được hưởng lãi hoặc được hưởng một mức lãi suất rất thấp đã làm cho
khách hàng thường chỉ duy trì một số dư tiền gửi vừa phải, chỉ đủ để đáp ứng nhu cầu
chi trả hàng ngày của họ. Mặc dù số dư tiền gửi của từng khách hàng thường không
lớn, nhưng do những tiện ích của việc được sử dụng dịch vụ thanh toán không dùng
tiền mặt, các NHTM đã thu hút được một số lượng lớn khách hàng đến mở tài khoản
tiền gửi thanh toán. Toàn bộ số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng đã
hình thành nên nguồn vốn ngắn hạn của ngân hàng. Nhờ đó, ngân hàng có thể sử dụng
nguồn tiền này cho mục đích cấp tín dụng ngắn hạn hoặc cung cấp các dịch vụ khác
của ngân hàng.
1.2.2.2 Tiền gửi tiết kiệm.
Tiển gửi tiết kiệm là khoản tiền để dành của mỗi các nhân được gửi vào ngân
hàng, nhằm hưởng lãi suất theo qui định. Tiền gửi tiết kiệm là bộ phận thu nhập bằng
tiền gửi của cá nhân chưa sử dụng được gửi vào tổ chức tín dụng. Nó là một dạng đặc
biệt của tích luỹ tiền tệ trong tiêu dùng cá nhân. Khi gửi tiền người gửi tiền được giao
một sổ tiết kiệm coi như một giấy chứng nhận tiền gửi vào ngân hàng. Đến thời hạn
khách hàng rút tiền ra được nhận một khoản tiền lãi trên tổng số tiền gửi tiết kiệm.
Đối với các ngân hàng, đây là nguồn tiền lớn, ổn định nhưng có tính chất nhỏ lẻ
và số lượng khách hàng lớn. Khi gửi tiền tiết kiệm, khách hàng không được quyền rút
tiền trước hạn, tuy nhiên để thỏa mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng, hiện nay các
NHTM đã cho phép khách hàng rút tiền trước hạn nhưng thay vào đó họ chỉ được
hưởng mức lãi suất không kỳ hạn.

Mặc dù các khoản tiền gửi tiết kiệm của cá nhân mang tính chất nhỏ lẻ, nhưng
xét về tổng lượng tiền tiết kiệm trong dân cư thì lại là một nguồn tiền rất lớn và rất cần
Nguyễn Thị Mai Phương

Lớp: Tài chính doanh nghiệp 46B


Luận văn tốt nghiệp

22

thiết cho đầu tư, phát triển kinh tế. Đối với phần tiền này của mình, người dân có rất
nhiều lựa chọn khác nhau, họ có thể đem khoản tiền đó mua và tích trữ vàng, đi đầu tư
trên thị trường chứng khoán hoặc có thể tích trữ tiền mặt trong nhà...
Nắm bắt được vai trò quan trọng của nguồn vốn dồi dào này, các NHTM hiện
nay đang cố gắng để có thể thay đổi được thói quen giữ tiền mặt, tích trữ vàng cũng
như để cạnh tranh với các trung gian tài chính khác bằng cách không ngừng tăng
cường, mở rộng và nâng cao hiệu quả của hoạt động huy động vốn nói chung và huy
động tiền gửi tiết kiệm nói riêng. Cụ thể được thực hiện thông qua việc rộng mạng lưới
chi nhánh, đa dạng hoá các hình thức huy động với các kỳ hạn phong phú, đưa thêm
nhiều tính năng mới vào các sản phẩm huy động tiết kiệm nhằm đáp ứng tốt nhất các
nhu cầu của khách hàng. Căn cứ theo kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm được chia thành: tiết
kiệm không kỳ hạn và tiết kiệm có kỳ hạn. Trong đó:
+ Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn.
Loại tiền gửi này người gửi tiền có thể rút ra một phần hoặc toàn bộ số tiền gửi
bất kỳ lúc nào. Nhưng khác với loại tiền gửi thanh toán, người gửi tiền không được sử
dụng các công cụ thanh toán để chi trả cho người khác, lãi suất tiền gửi tiết kiệm
thường cao hơn và phần lớn những người gửi tiền tiết kiệm là do chưa xác định được
nhu cầu chi tiêu cụ thể trong tương lai, nhưng lại hưởng mức lãi trong thời gian khoản
tiền nhàn rỗi.

+ Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn.
Khi cá nhân gửi tiền vào ngân hàng loại tiền gửi tích kiệm có kỳ hạn trên cơ sở
thoả thuận giữa khách hàng và ngân hàng về thời hạn gửi, lãi suất theo qui định và
khách hàng chỉ được rút tiền ra khi đến hạn. Nhưng trong thực tế ở nước ta hiện nay để
khuyến khích người gửi tiền các NHTM vẫn cho khách hàng rút ra trước thời hạn và
được hưởng lãi suất thấp hơn lãi suất tiền gửi có kỳ hạn (thông thường bằng lãi suất
tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn).
Nguyễn Thị Mai Phương

Lớp: Tài chính doanh nghiệp 46B


Luận văn tốt nghiệp

23

Do nguồn vốn huy động từ loại tiền gửi này mang tính ổn định, cho nên các
NHTM thường đưa ra nhiều loại kỳ hạn khác nhau như loại 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng,
24 tháng… nhằm thu hút càng nhiều nguồn vốn với lãi suất của các kỳ hạn khác nhau.
Thông thường kỳ hạn ngày càng dài thì lãi suất huy động ngày càng cao (lãi suất tiền
gửi có kỳ hạn lớn hơn lãi suất tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi thanh toán).
Như vậy có thể thấy nguồn vốn huy động từ tiền gửi tiết kiệm của dân cư luôn
chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng số các loại tiền gửi vào ngân hàng và nó cũng phụ
thuộc rất lớn vào thu nhập bình quân theo đầu người, tỷ lệ tiết kiệm trên tổng thu nhập
của dân cư, chất lượng phục vụ của NHTM, sự ổn định đồng tiền và tăng trưởng vững
chắc của nền kinh tế
1.2.2.3. Huy động vốn qua phát hành công cụ nợ.
Vốn phát hành của ngân hàng, đây là hình thức huy động vốn thông qua phát
hành kỳ phiếu, trái phiếu…Đó là các công cụ nợ của ngân hàng.
Đặc điểm của loại vốn này là lãi suất cao hơn lãi suất tiền gửi tiết kiệm. Mục

đích huy động dùng để đáp ứng cho các dự án đầu tư lớn. Nguồn vốn này được huy
động theo nhiều thời hạn khác nhau như ngắn hạn, trung hạn, dài hạn. Thời hạn càng
dài thì lãi suất càng cao. Hiện nay ở Việt nam các NHTM thường huy động nguồn vốn
này dưới hình thức phát hành kỳ phiếu có mục đích và trái phiếu trung, dài hạn.
 Phát hành kỳ phiếu ngân hàng
Khi các NHTM có nguồn vốn tài chính dồi dào để tài trợ cho các nguồn vốn có
qui mô lớn, nhằm phát triển kinh tế địa phương, chuyển dịch cơ cấu kinh tế hoặc liên
doanh, liên kết với các tổ chức kinh tế mà nguồn vốn tự có chưa đáp ứng được, NHTM
trình ngân hàng Nhà nước xin phép phát hành kỳ phiếu để tạo nguồn vốn tín dụng
tương đối lâu dài cho các hoạt động này.
Như vậy kỳ phiếu là một chứng chỉ huy động vốn có mục đích, có thời hạn,
người sở hữu có thể chuyển nhượng cho người khác qua chứng nhận của ngân hàng, vì
Nguyễn Thị Mai Phương

Lớp: Tài chính doanh nghiệp 46B


Luận văn tốt nghiệp

24

trên sổ kỳ phiếu có ghi tên người hưởng. Kỳ phiếu ngân hàng được phát hành nhằm
huy động vốn trong dân cư một cách linh hoạt có tác dụng thu hút cá nguồn tiền nhàn
rỗi vào ngân hàng, góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định giá trị của đồng tiền, tạo
nguồn vốn trung dài hạn để đầu tư cho các dự án phát triển kinh tế.
 Phát hành trái phiếu.
Trái phiếu ngân hàng thực chất là giấy nhận nợ có kỳ hạn của ngân hàng đối với
những người mua trái phiếu (nhà đầu tư). Trái phiếu được các NHTM hay các tổ chức
tín dụng phát hành nhằm huy động vốn cho chính bản thân ngân hàng hoặc các tổ chức
tín dụng có liên quan. Thời hạn của trái phiếu thường lớn hơn một năm. Lãi suất của

trái phiếu thường cao hơn lãi suất của tiền gửi tiết kiệm, kỳ phiếu. Các NHTM phát
hành trái phiếu trên cơ sở nhu cầu sử dụng vốn thông qua các dự án đầu tư của các
doanh nghiệp mà ngân hàng cam kết cho vay.
Huy động vốn thông qua việc phát hành các công cụ nợ của các NHTM như kỳ
phiếu, trái phiếu là một hình thức mới trong công tác huy động vốn của NHTM ở cá
nước đang phát triển. Vốn được huy động từ hình thức này dùng để đầu tư cho các dự
án trung và dài hạn.
Ở nước ta hình thức này được Ngân hàng sử dụng từ năm 1992. Nhưng cho đến
nay khối lượng vốn huy động của NHTM qua hình thức này vẫn còn thấp so với các
hình thức huy động vốn truyền thống khác. Để phát huy được thế mạnh của công cụ
huy động vốn này đòi hỏi phải có thị trưòng vốn hoàn chỉnh (thị trưòng chứng khoán).
1.2.3 Chi phí huy động vốn từ dân cư
Các khoản vốn huy động của ngân hàng thực chất là các khoản nợ của ngân hàng đối
với khách hàng. Do đó, ngân hàng phải trả một khoản tiền lãi cho khách hàng một
khoản lãi như một phần thưởng vì khách hàng đã để cho ngân hàng sử dụng tiền của
họ cho hoạt động kinh doanh đầu tư sinh lãi.

Nguyễn Thị Mai Phương

Lớp: Tài chính doanh nghiệp 46B


Luận văn tốt nghiệp

25

Ta có:
Chi phí huy động = Chi phí trả lãi + Chi phí phi lãi
- Chi phí trả lãi: là lãi phải trả cho các loại tiền gửi, cho kỳ phiếu, trái phiếu mà ngân
hàng phát hành căn cứ theo lãi suất huy động mà khách hàng và ngân hàng đã có thỏa

thuận.
Chi phí trả lãi = ∑ quy mô vốn huy động i * Lãi suất huy động i
Lãi suất huy động là yếu tố rất quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô và hiệu quả
huy động. Việc xác định lãi suất huy động là công việc rất phức tạp và có tính quyết
định tới chất lượng của nguồn huy động, tới chất lượng tài sản nên đòi hỏi đến tính
nhạy bén của các nhà quản lý ngân hàng. Và công tác quản lý lãi suất huy động cũng
được coi là một bộ phận trong quản lý chi phí của ngân hàng. Lãi suất chi trả càng cao,
lượng vốn huy động càng lớn, từ đó có thể mở rộng các hoạt động tín dụng và đầu tư.
Tuy nhiên, lãi suất cao làm gia tăng chi phí của các ngân hàng và nếu doanh thu không
tăng kịp chi phí thì lợi nhuận của ngân hàng sẽ bị giảm tương ứng.
Ta có thể thấy rằng, lãi suất huy động gắn liền với mỗi loại sản phẩm của từng ngân
hàng khác nhau. Và trên cơ sở tác động của hàng loạt các yếu tố như khả năng tiết
kiệm và gia tăng tiết kiệm của quốc gia; nhu cầu đầu tư của cá nhân, hộ gia đình; tỷ lệ
lạm phát, tỷ lệ sinh lời của các hoạt động đầu tư khác, trình độ phát triển của thị trường
tài chính, khả năng sinh lời của các ngân hàng,... Tất cả hình thành nên lãi suất huy
động của ngân hàng.
- Chi phí phi lãi: chi phí phi lãi rất đa dạng và không ngừng gia tăng. Trong điều kiện
các ngân hàng hiện nay đang gia tăng cạnh tranh bằng các hình thức phi lãi suất, nó
bao gồm các chi phí trả lãi trực tiếp cho người gửi tiền. Chi phí tăng tính tiện ích cho
người gửi tiền (như việc mở rộng chi nhánh, quầy giao dịch, điểm huy động, trang bị
thêm máy đếm hay soi tiền cho khách hàng...) Bên cạnh đó, các chi phí như: chi phí
lương cho cán bộ nguồn vốn, chi phí bảo hiểm tiền gửi và một số chi phí khác. Chi phí
Nguyễn Thị Mai Phương

Lớp: Tài chính doanh nghiệp 46B


×