MỤC LỤC
MỤC LỤC...................................................................................................................................... 1
MỤC LỤC.........................................................................................................................................1
LỜI NÓI ĐẦU..........................................................................14
Với mỗi sinh viên ngoài việc tiếp thu kiến thức lý thuyết trên giảng đường thì việc tiếp xúc
thực tiễn là yêu cầu không thể thiếu đối với sinh viên. Do đó việc đi thực tập nhận thức là một
trong những yêu cầu tất yếu của sinh viên bất cứ trường đại học nào trên cả nước. Lý thuyết
trên giấy phải đi kèm kiến thức thực tế thì sinh viên mới thực sự có thể hiểu rõ lý thuyết đã
học đồng thời trang bị một số ít kiến thực thực tiến để giúp đỡ sinh viên sau khi tốt nghiệp ra
trường có thể nắm bắt và hoà nhịp tốt với công việc thực tiễn không bị mơ hồ về công việc
trong tương lai..........................................................................................................................14
Cũng như mọi khoá học sinh viên Bách Khoa ngành điện đều được đi thực tập nhận thức
tại một công ty nhất định trong thời gian một ngày để hiểu về quy trình sản suất của một loại
sản phẩm nào đó. Năm nay sinh viên ngành Tự Động hóa khoá 53 được thực tập nhận thức
tại nhà máy xi măng Hoàng Thạch tại thị trấn Minh Tân – Kinh Môn – Hải Dương .Chuyến đi
này đã đem lại nhiều kiến thức thực tiễn bổ ích cho mỗi người .Qua việc trực tiếp xuống nơi
sản suất chúng em đã hiểu phần nào đó về quá trình sản suất xi măng của công ty từ khâu sản
suất thực tế tới việc xem xét các mô hình và quá trình điều khiển hệ thống sản suất xi măng.
Đây là kiến thực thực tiễn chuyên ngành rất bổ ích giúp chúng em hiểu rõ hơn về lý thuyết
điều khiển mà mình đang học và sắp được học. ......................................................................14
Không những vậy, chúng em còn được học 1 tuần lý thuyết ở trên lớp. Tất cả các lý
thuyết liên quan đến những thiết bị điện đơn giản nhất như máy biến áp, máy điện quay,… rồi
các linh kiện điện tử đơn giản như diode, transistor, thyristor,... Và cuối cùng là phần học vô
cùng bổ ích về PLC. Đây là môn học rất quan trọng của ngành Tự Động Hóa. Nhờ có thầy Hà
Tất Thắng mà chúng em đã hiểu sâu hơn về những kiến thức đã học cũng như biết sắp tới
mình sẽ học gì và ra trường sẽ làm được gì,…..........................................................................14
Chúng em rất biết ơn nhà trường cũng như thầy cô đã tạo điều kiện giúp đỡ chúng
em về mọi mặt..........................................................................................................................14
Nội dung chính báo cáo nhận thức nói lên những kiến thức thu được sau hai buổi
đi thực tập tại Hoàng Thạch , cùng với đó là phần lý thuyết đã học trên lớp...........................14
1
Bài báo cáo được làm với những kiến thức được học trên ghế nhà trường, những
kiến thức thu được trong buổi đi thực tế và sự tìm tòi trên mạng, tài liệu nên không thể tránh
được những sai sót và nhầm lẫm. Rất mong thầy cô giáo thông cảm.......................................14
Em xin chân thành cảm ơn .................15
PHẦN 1:NỘI DUNG...................................................................................................15
I.Tự động hoá là gì?......................................................................................................................15
Tự động hoá là công nghệ sản xuất,sử dụng cá hệ thống cơ khí, điện, điện tử,máy tính để
hoạt động và điều khiển quá trình,nhằm nâng cao năng suất lao động,chất lượng hiệu quả và
giảm tối đa sưc lao động của con người.......................................................................................15
Trường Đaị học Bách Khoa Hà Nội (ĐHBKHN) được thành lập ngày 6 tháng 3 năm 1956 và
khai giảng khóa đầu tiên ngày 15 tháng 10 năm 1956 với 1000 sinh viên chính quy của 14
ngành học thuộc 4 liên khoa Cơ-Điện, Mỏ-Luyện kim, Xây dựng và Hóa-Thực phẩm. Khoa Điện
được thành lập cùng với ngày thành lập Trường trong liên khoa Cơ-Điện và được tách thành
khoa độc lập từ tháng 9 năm 1958. Ban đầu Khoa Điện gồm 3 khối ngành chính là Điện, Nhiệt
và Vô tuyến điện.
Năm 1960 thầy Tạ Bá Miên là Phó Phòng Giáo vụ được giao nhiệm vụ chuẩn bị cán bộ và tài
liệu cho mở ngành Điện khí hóa xí nghiệp (ĐKHXN) của Trường ĐHBKHN. Thầy Tạ Bá Miên đã
mời các thầy Nguyễn Bính và thầy Nguyễn Nam Tặng tốt nghiệp ở Trung Quốc tham gia vào
công việc chuẩn bị mở ngành ĐKHXN.
Thời gian đầu về Trường ĐHBKHN, thầy Bính và thầy Tặng tham gia công tác giảng dạy ở Bộ
môn Kỹ thuật điện và tích cực chuẩn bị các tư liệu cho việc thành lập Bộ môn ĐKHXN. Ngày 20
tháng 5 năm 1962, Bộ môn ĐKHXN được quyết định thành lập với đội ngũ cán bộ của Bộ môn
ban đầu gồm 5 thầy: 4 cán bộ giảng dạy là các thầy Nguyễn Bính (Trưởng Bộ môn đầu tiên),
Nguyễn Nam Tặng, Nguyễn Thành, Hồ Khắc Thiệu và 1 cán bộ phục vụ giảng dạy là đồng chí
Hoàng Tất Hưng. Cuối năm 1962, Bộ môn được bổ sung thầy Lê Đình Anh tốt nghiệp khóa 3
Khoa Điện. Bộ môn bắt đầu đào tạo ngành ĐKHXN từ khóa 5 của Trường gồm 42 sinh viên
được chọn từ các sinh viên học năm thứ hai ngành Phát dẫn điện. Kể từ đó ngày 20 tháng 5
trở thành ngày hội truyền thống của ngành Điện khí hóa - Tự động hóa Trường ĐHBKHN.
Các môn học chuyên ngành ban đầu của ngành bao gồm: Truyền động điện, Trang bị điện máy
công nghiệp do thầy Nguyễn Bính, Tạ Bá Miên, Lê Đình Anh dạy, Khí cụ điện do thầy Hồ Khắc
Thiệu dạy, Lý thuyết điều khiển tự động do thầy Nguyễn Nam Tặng dạy, môn Cung cấp điện
XNCN do thầy Võ Viết Đạn (Bộ môn Phát dẫn điện) phụ trách và môn Điện tử công nghiệp do
thầy Ngô Đức Dũng (Khoa Vô tuyến điện) giảng dạy. Thầy Nguyễn Thành thời gian đầu là phụ
giảng môn Cung cấp điện và hướng dẫn thực tập gần 20 sinh viên tại khu gang thép Thái
2
Nguyên.
Theo quy hoạch ban đầu của trường do Liên Xô thiết kế không có ngành ĐKHXN, vì vậy cơ sở
vật chất và phòng thí nghiệm buổi ban đầu rất đơn sơ. Bộ môn được sử dụng 5 gian nhà cấp 4
thuộc dãy 18 khu trường cũ. Bộ môn Kỹ thuật điện cung cấp một số động cơ điện, máy phát
và một số vật tư phụ tùng. Bằng sự cố gắng nỗ lực hết mình của tập thể các thầy, cán bộ bộ
môn và sinh viên, sau một thời gian ngắn, Bộ môn đã xây dựng được 6 bàn thí nghiệm cơ bản
đầu tiên về Truyền động điện và Trang bị điện.
Năm 1963, Bộ môn dần được bổ sung nhân lực và các môn học mới. Hai thầy Nguyễn Công
Hiền và thầy Nguyễn Trọng Thuần tốt nghiệp khóa 4 Khoa Điện, tiếp đó là thầy Nguyễn
Thương Ngô tốt nghiệp ở Liên Xô đã về công tác ở Bộ môn. Môn học Trang bị điện thiết bị
luyện kim được đưa vào giảng dạy do thầy Nguyễn Thương Ngô, Nguyễn Thành và thầy
Nguyễn Trọng Thuần phụ trách, Thầy Nguyễn Công Hiền dạy môn Cung cấp điện. Bộ môn
được bổ sung hai cán bộ cho phòng thí nghiệm là đồng chí Nguyễn Lê Trung và Trần Ánh
Tuyết tốt nghiệp Trường Trung cấp Kĩ thuật I về.
Với sự cố gắng hết mình, sự tâm huyết với nghề nghiệp, tinh thần làm việc hăng say, tất cả vì
sự nghiệp xây dựng và ổn định của Bộ môn buổi ban đầu, các thầy giáo thế hệ đầu tiên của Bộ
môn đã vượt qua mọi khó khăn về cơ sở vật chất, phòng thí nghiệm, thiếu thốn về tài liệu,…
để soạn bài giảng và giảng dạy, xây dựng Bộ môn cho đào tạo khóa sinh viên đầu tiên của
ngành. Cuối năm 1964 khóa sinh viên đầu tiên của ngành ĐKHXN (khóa 5 của Trường) tốt
nghiệp đánh dấu một điểm mốc rất quan trọng trong quá trình hình thành, phát triển của Bộ
môn và ngành Tự động hóa của Trường ĐHBKHN....................................................................17
..................................................................................................................................................18
Đồng chí Trần Duy Hưng, Chủ tịch Thành phố Hà Nội trao tặng phẩm cho 5 Tổ Lao động XHCN
năm học 1963-1964. Thầy Nguyễn Thành, người đứng thứ 3 từ bên trái, đại diện cho Bộ môn
nhận tặng phẩm........................................................................................................................19
Các kỹ sư ĐKHXN khóa đầu tiên ra trường kịp thời đáp ứng nhu cầu về nhân lực cán bộ kỹ
thuật của nền công nghiệp đang ở thời kỳ kế hoạch hóa 5 năm lần thứ nhất. Bộ môn được bổ
sung 4 thầy tốt nghiệp khóa 5 gồm 3 thầy ngành ĐKHXN: Bùi Đình Tiếu, Lê Tòng và Nguyễn Dư
Xứng và thầy Nguyễn Mộng Hùng ngành Vô tuyến điện làm cán bộ giảng dạy. Cô Lê Thị Tuyết
tốt nghiệp từ Trường Trung học Kỹ thuật I được tuyển làm kỹ sư phòng thí nghiệm.
..................................................................................................................................................19
Do có những đóng góp đáng kể vào sự nghiệp đào tạo, nghiên cứu khoa học và chuyển giao
công nghệ, Bộ môn ĐKHXN đã được công nhận là Tổ Lao động Xã hội Chủ nghĩa cùng 4 đơn vị
khác của Trường ĐHBKHN lần đầu vào năm học 1963-1964 và liên tục hơn 10 năm sau đó....19
3
II.1.2 Giai đoạn 1965-1974: Đào tạo và xây dựng, bảo vệ miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền
Nam..........................................................................................................................................19
Sau khi khóa sinh viên đầu tiên của Bộ môn tốt nghiệp, Bộ môn tiếp tục được củng cố về
mọi mặt, vừa đảm bảo sự ổn định và phát triển trong đào tạo vừa tham gia vào sự nghiệp xây
dựng, bảo vệ miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam.
..................................................................................................................................................19
Các năm tiếp theo, Bộ môn tiếp tục bổ sung nhân lực cán bộ giảng dạy là các kỹ sư tốt nghiệp
loại giỏi của ngành ĐKHXN. Các thầy cô giáo Bộ môn tiếp tục hoàn thiện bài giảng, giáo trình
cho các môn học đã có và chuẩn bị đưa vào giảng dạy các môn học mới.................................19
..................................................................................................................................................20
Các thầy cô giáo Bộ môn làm thí nghiệm mẫu Truyền động điện (năm 1965)..........................20
Năm 1966, Bộ môn chuyển văn phòng và phòng thí nghiệm từ dẫy nhà 18 ban đầu lên làm
việc nhà C. Các phòng thí nghiệm đặt ở tầng hầm nhà C, tầng 2 là phòng làm việc. Từ đây, các
thí nghiệm cơ bản ban đầu của Bộ môn dần được đổi mới, nâng cấp. Năm 1966, hai bàn thí
nghiệm truyền động điện mới với hệ phụ tải động theo mô hình của Liên xô đã được xây
dựng. Các thí nghiệm đó đã góp phần đào tạo hàng nghìn kỹ sư từ khóa 10 của Bộ môn. Cuối
năm 1971, sau thời gian di chuyển, sơ tán chống chiến tranh phá hoại của Đế quốc Mỹ, rồi trở
lại Hà Nội, Bộ môn chính thức được chuyển về nhà C9 khu trường mới gồm 5 phòng ở tầng 1,
tầng 2 nhà C9 như hiện nay; 1 phòng ở tầng 2 C9, sau này bàn giao cho Bộ môn Điều khiển tự
động. Năm 1968, lớp tại chức đầu tiên ngành ĐKHXN gồm 23 sinh viên đã làm lễ tốt nghiệp,
mở ra một loại hình đào tạo kỹ sư ĐKHXN từ các đối tượng đang là người trực tiếp sản xuất.
..................................................................................................................................................20
Trong giai đoạn này, Đế quốc Mỹ leo thang chiến tranh đánh phá miền Bắc, cùng với toàn
trường, Bộ môn chuyển sang thực hiện nhiệm vụ đào tạo trong thời chiến: vừa thực hiện
nhiệm vụ đào tạo với khối lượng ngày càng tăng, vừa tham gia chiến đấu và phục vụ chiến
đấu. Đại đội tự vệ của Khoa Điện gồm các thầy do thầy Nguyễn Bính và thầy Trần Văn Tảo chỉ
huy vừa giảng dạy vừa sẵn sàng tham gia chiến đấu đánh trả máy bay địch từ các hào công sự
trên nóc nhà A1, A3 bằng các khẩu súng trường thô sơ...........................................................21
.................................................................................................................................................21
Ảnh các thầy cô giáo Bộ môn chụp năm 1973..........................................................................21
Thực hiện chủ trương của Trường, năm 1966 Bộ môn chia làm hai bộ phận: Bộ phận sơ tán ở
hai điểm Lạng Sơn và Hà Bắc và một bộ phận đưa sinh viên năm cuối đi thực tập ở các cơ sở
thực tập xung quanh Hà Nội. Khóa 7A, 7B và khóa 8 đang và sắp làm tốt nghiệp tiếp tục bám
4
trụ gần Trường. Các khóa 9, 10 và lớp chuyên tu được lệnh sơ tán đến Lạng Sơn, vùng chiến
khu Việt Bắc ngày xưa. Khu C (ĐHBKHN), H2 (ký hiệu của Khoa Điện) được hình thành từ đó.
Tại Khu H2 Lạng Sơn, trong một ngôi nhà lá độc lập, bộ môn vẫn duy trì tất cả các hoạt động
học thuật, giảng dạy khóa 9, 10. Các tài liệu, thiết bị quý được đóng hòm vận chuyển lên và
bảo quản tại đây. Các giờ giảng cùng các giờ thí nghiệm Truyền động điện, Tự động khống chế
truyền động điện, Trang bị điện vẫn được thực hiện trong những gian nhà lá do các thầy và
sinh viên tự xây dựng bên cạnh sông Kỳ Cùng hiền hòa. Nguồn điện được cung cấp từ các “Lô
cô” do Bộ môn Nhiệt cung cấp. Tháng 6 năm 1969, các lớp khóa 9, lớp chuyên tu chuyển về sơ
tán ở Hải Phòng, sau đó về Hiệp Hòa (Hà Bắc). Các khóa sinh viên này phải học tập trong điều
kiện khó khăn của chiến tranh phá hoại của Đế quốc Mỹ. Các thầy cô giáo của Bộ môn do phải
phụ trách môn học năm cuối, hướng dẫn thiết kế tốt nghiệp khóa 8, 9, 10 nên phải đi lại rất
nhiều lần từ Hà Nội lên Lạng Sơn, Hà Bắc.................................................................................22
Đầu những năm 70, Nhà trường được trang bị máy tính điện tử MINSK và Bộ môn được trang
bị máy tính tương tự, Bộ môn đã bổ sung hai môn học Kỹ thuật tính trên máy tính số và Mô
hình hóa các hệ thống tự động trên máy tính tương tự do thầy Nguyễn Bính biên soạn bài
giảng và giảng dạy, thầy Nguyễn Văn Đức tham gia giảng dạy và hướng dẫn thực hành.........22
Trong thời gian chống chiến tranh phá hoại miền Bắc của Mỹ, Bộ môn luôn giữ vững chỉ tiêu
tuyển sinh, giảng dạy tốt lý thuyết. Các thầy giáo của Bộ môn đưa sinh viên đi thực tập phục
vụ sản xuất. Các thầy giáo cùng sinh viên ngành ĐKHXN đã phục hồi các thiết bị máy móc ở
một số nhà máy (Nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo, Nhà máy cơ khí Giải Phóng…) và khắc phục
hậu quả lũ lụt năm 1971. Trong giai đoạn 1971-1973, các thầy Nguyễn Bính và Trịnh Đình Đề
tham gia đề tài khoa học cấp Nhà nước GK1 “Nghiên cứu phá thủy lôi điều khiển của Mỹ” do
GS.TSKH. Vũ Đình Cự làm chủ nhiệm. Đề tài GK1 được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh, thầy
Nguyễn Bính được thưởng Huân chương chiến công hạng 3, thầy Trịnh Đình Đề được tặng
Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ........................................................................................22
II.1.3 Giai đoạn 1975-1983: Thời kỳ củng cố và phát triển........................................................22
- Mô hình thang máy.................................................................................................................36
- Mô hình thí nghiệm hệ truyền động số...................................................................................36
- Hệ cân băng định lượng..........................................................................................................36
- Hệ điều khiển bằng máy tính và PLC.......................................................................................36
- Mô hình máy gia công CNC.....................................................................................................36
- Đề tài cấp nhà nước….............................................................................................................36
- Đề tài cấp bộ, cấp trường.......................................................................................................36
5
Chương trình đào tạo hệ chính quy:.........................................................................................37
-Kiến thức cơ bản 81 học trình..................................................................................................37
- Kiến thức cơ sở 103 học trình.................................................................................................37
- Kiến thức chuyên ngành 75 học trình.....................................................................................37
- Các môn học chuyên ngành:...................................................................................................37
+ Truyền động điện
Điều khiển Robot..............................................37
+Điện tử công suất
Trang bị điện máy GCKL.............................................37
+ Lý thuyết điều khiển tự động
+ PLC công nghiệp
Trang bị điên máy CNDC..........................................37
Tổng hợp hệ điện cơ....................................................37
Chương 1:.....................................................................................................................................41
Sơ lược về nhà máy xi măng Hoàng Thạch...................................................................................41
Tổng quan công nghệ sản xuất xi măng....................................................................................44
Ðể phù hợp 2 dây chuyền hiện có và phát huy cao nhất hiệu quả đầu tư, dây chuyền 3 chỉ đầu
tư thêm một số công đoạn chính là một máy đập đá sét, công đoạn nghiền liệu, công đoạn lò
nung và hai si-lô chứa Clanh-ke. ...............................................................................................60
Ngày 20-1-2003, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 91/QÐ-TTg về Dự án đầu tư xây dựng
dây chuyền 3 Nhà máy xi-măng Hoàng Thạch. Chủ đầu tư là Công ty xi-măng Hoàng Thạch với
tổng mức đầu tư phê duyệt là 1.542 tỷ đồng, trong đó nhu cầu ngoại tệ 66 triệu USD. Chủ đầu
tư trực tiếp quản lý thực hiện dự án, xây dựng trên diện tích sử dụng là 7,46 ha tại mặt bằng
hiện nay của Nhà máy xi-măng Hoàng Thạch. Thời gian xây dựng 33 tháng với nguồn từ hai
nguồn: vốn tự có (200 tỷ đồng) và vốn vay trong nước từ các Ngân hàng Thương mại cổ phần.
Tháng 2-2003, công ty thành lập Ban quản lý Dự án Hoàng Thạch 3 và tiến hành nhiều bước
công việc như: chia dự án thành 35 gói thầu phù hợp, trong đó có gói thầu chính là gói thầu số
1 "Cung cấp thiết kế, thiết bị, vật tư và các dịch vụ kỹ thuật dây chuyền đồng bộ"; tổ chức mời
thầu, chào hàng cạnh tranh, chấm thầu và hoàn thiện hồ sơ trình cấp có thẩm quyền phê
duyệt như: gói thầu cung cấp sắt thép xây dựng do nhà thầu Liên danh An Huy-Vinakansai; gói
thầu cung cấp thang máng, giá đỡ cáp và phụ kiện hệ thống phân phối điện do Công ty cổ
phần tập đoàn đầu tư thương mại công nghiệp Việt Á; gói thầu cung cấp gạch chịu lửa do Viện
Vật liệu xây dựng... ..................................................................................................................60
6
Tổ chức đấu thầu lần thứ nhất phải hủy bỏ do giá trị chào thầu sau khi đàm phán cao hơn giá
trị gói thầu được phê duyệt. Sau khi Hội đồng Quản trị Tổng Công ty xi-măng Việt Nam phê
duyệt và điều chỉnh tổng mức đầu tư lên 1.942,898 tỷ đồng, trong đó ngoại tệ là 76.306.027
USD, lần đấu thầu thứ hai thành công, tạo tiền đề cho công tác chuẩn bị xây dựng dự án. Ngày
1-6-2006, Công ty xi-măng Hoàng Thạch phối hợp Công ty xuất nhập khẩu xi-măng
(VINACIMEX) ký hợp đồng cung cấp thiết kế, thiết bị, vật tư và các dịch vụ kỹ thuật dây chuyền
đồng bộ cho dự án theo hình thức hợp đồng trọn gói với nhà thầu F.L.Smidth, với tổng giá trị
hơn 80 tỷ đồng. Thời gian thực hiện hợp đồng 31 tháng kể từ ngày hợp đồng có hiệu lực,
trong đó thiết kế kỹ thuật 6,5 tháng, thời gian giám sát thi công là 22,5 tháng; thời gian chạy
thử có tải, chạy thử công nghiệp, chạy thử năng suất hai tháng. ............................................60
Ðược sự đồng ý của Bộ Xây dựng và Tổng Công ty Công nghiệp xi-măng Việt Nam, ngày 4-22007, Công ty xi-măng Hoàng Thạch đã tổ chức khởi công xây dựng Dự án dây chuyền 3 Nhà
máy xi-măng Hoàng Thạch và ký kết triển khai các gói thầu tư vấn theo hình thức chỉ định
thầu với các công ty: Công ty Tư vấn đầu tư phát triển xi-măng (CCID), Viện Kinh tế xây dựng Bộ Xây dựng, Tổng Công ty tư vấn xây dựng Việt Nam, Công ty xuất nhập khẩu xi-măng
(VINACIMEX), Viện Khoa học công nghệ xây dựng - Bộ Xây dựng và Công ty Kiểm toán Việt
Nam (VACO)... Việc thi công xây dựng và lắp đặt thiết bị dự án gồm bốn đơn vị chính: Công ty
cổ phần lắp máy 69-3, đứng đầu tổ hợp xây lắp; Công ty cổ phần đầu tư xây dựng và thương
mại Việt Nam (Constrexim Holdings); Công ty cổ phần xây dựng số 9 (Vinaconex 9) và Tổng
Công ty xây dựng Bạch Ðằng. Ngoài ra còn một số gói thầu khác, như: gói thầu Cung cấp thiết
kế, thiết bị và lắp đặt hệ thống báo cháy, cứu hỏa, hệ thống chiếu sáng, thông gió, chống sét...
đều giao cho các công ty trong nước. ......................................................................................61
Trong quá trình tổ chức thực hiện dự án, công ty đã gặp rất nhiều khó khăn do phải điều
chỉnh tổng mức đầu tư. Lần thứ nhất khi lập báo cáo nghiên cứu khả thi. Khảo sát của tư vấn
CCID cho thấy địa chất của mặt bằng dây chuyền 3 yếu hơn địa chất mặt bằng dây chuyền 2,
nên tại các hạng mục công trình có tải trọng lớn đã dự kiến xử lý móng cọc với chiều dài
khoan nhồi khoảng 21 m. Tuy nhiên, trên cơ sở nén tĩnh nhà thầu đưa ra thiết kế cọc có chiều
dài từ 30 đến 40 m, riêng phần si-lô cọc dài từ 55 đến 60 m (chênh lệch 251,2 tỷ đồng), mặt
khác tiền lương tối thiểu khi đó do Nhà nước quy định tăng từ 290.000 đồng lên 450.000
đồng... nên Hội đồng quản trị Tổng Công ty xi-măng Việt Nam tiếp tục quyết định điều chỉnh
tổng mức đầu tư của dự án lên 2.279,193 tỷ đồng, trong đó ngoại tệ là 56.565.593 ơ-rô. Lần
thứ hai từ năm 2007 đến năm 2009 do suy thoái kinh tế toàn cầu và biến động giá nguyên vật
liệu cộng thêm lãi suất ngân hàng tăng tác động đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của các
doanh nghiệp tham gia thi công xây dựng, chủ đầu tư phải tiếp tục đề nghị và được Hội đồng
Quản trị Tổng Công ty Công nghiệp xi-măng Việt Nam chấp thuận tại Văn bản số 957/XMVNHÐQT ngày 11-6-2009 với tổng mức đầu tư điều chỉnh tăng lên 2.402,412 tỷ đồng. ..............61
Nhận thức rõ tầm quan trọng của Dự án Hoàng Thạch 3, Công ty xi-măng Hoàng Thạch cùng
các nhà thầu, chuyên gia F.L.Smidth đã nỗ lực tháo gỡ khó khăn bằng nhiều biện pháp đẩy
nhanh tiến độ thi công, tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất trong điều kiện có thể cho các nhà
7
thầu thi công, hỗ trợ năng lực, thiết bị của dây chuyền Hoàng Thạch 1 và 2 trong điều kiện có
thể... Hằng tuần tổ chức họp kiểm điểm tiến độ với các nhà thầu, tăng cường giám sát, điều
phối hiện trường để các nhà thầu thi công đan xen nhằm bảo đảm tiến độ, chất lượng, an
toàn và hiệu quả. Ngoài ra, chủ đầu tư chú trọng rà soát toàn bộ vật tư, thiết bị đã cung cấp
để đôn đốc các nhà thầu giao hàng đúng tiến độ lắp đặt, đồng thời yêu cầu nhà thầu FLS
chỉnh sửa và cung cấp thiết kế đáp ứng tiến độ, phối hợp với chuyên gia FLS giải quyết các
vướng mắc ngay tại hiện trường, chủ động phối hợp với các ngân hàng cung cấp đủ nguồn
vốn cho các nhà thầu xây lắp... ................................................................................................62
Ngày 4/3, phát biểu tại lễ kỷ niệm 30 năm thành lập và đón nhận Huân chương Độc lập hạng
Nhì, đồng thời khánh thành dây chuyền 3 của Công ty ximăng Hoàng Thạch, Phó Chủ tịch
nước Nguyễn Thị Doan đã ghi nhận, biểu dương những thành quả mà công ty đã đạt được
trong 30 năm qua.....................................................................................................................62
Sau 30 năm hoạt động, đến nay, Công ty ximăng Hoàng Thạch đã sản xuất và tiêu thụ 48,3
triệu tấn ximăng, nộp ngân sách 3.794 tỷ đồng và lợi nhuận 3.803 tỷ đồng.............................62
Riêng năm 2009, sản lượng ximăng tiêu thụ của công ty đạt hơn 4 triệu tấn và sản lượng
clinker đạt hơn 1,7 triệu tấn, doanh thu đạt 3.478 tỷ đồng, nộp ngân sách 158 tỷ đồng, lợi
nhuận 477 tỷ đồng, nâng mức thu nhập bình quân đầu người lên hơn 7 triệu đồng/tháng.. . .62
Nhân dịp kỷ niệm 30 năm thành lập, công ty đã khánh thành dây chuyền 3. Kể từ nay, Hoàng
Thạch ghi danh công suất hoạt động đạt ngưỡng 3,5 triệu tấn clinker/năm./.........................62
Chương3 : ................................................................................................................................63
Tìm hiểu mạng điện cơ sở Công ty xi măng Hoàng Thạch.........................................................63
* Xi măng Hoàng Thạch được đóng vào vỏ bao mới, lớp ngoài làm bằng giấy kraft phức hợp
với một lớp PP, lớp ruột làm bằng giấy kraft. Để tăng cường thời gian bảo quản cho xi măng và
hạn chế phát sinh bụi trong quá trình vận chuyển, từ năm 2003 tại Công ty xi măng Hoàng
Thạch chỉ sử dụng loại vỏ bao không xăm lỗ.............................................................................77
* Trên mặt chính vỏ bao có in :.................................................................................................77
- Loại sản phẩm : PCB 30 hoặc PCB 40......................................................................................77
- Tiêu chuẩn sản xuất sản phẩm : TCVN 6260:1997.................................................................77
- Nhãn hiệu hàng hoá độc quyền hình tượng con sư tử. Bên trên vòng tròn lớn về bên phải có
in dấu hiệu ® ............................................................................................................................77
-Dấu công bố phù hợp tiêu chuẩn CS và dấu sản phẩm phù hợp tiêu chuẩn VN in song song..77
8
và môi trường của Công ty xi măng Hoàng Thạch hiện nay đã được quốc tế hoá và luôn được
duy trì thực hiện tốt..................................................................................................................78
- Khối lượng tịnh (KLT) bao xi măng : 50 kg..............................................................................78
- Số lô sản phẩm........................................................................................................................78
- Tháng, năm sản xuất và máng xuất của sản phẩm được in bằng máy in phun điện tử dọc theo
vỏ bao.......................................................................................................................................78
- Tại 2 đầu vỏ bao có in giáp lai giữa băng nẹp và thân vỏ bao lô gô biểu tượng của Công ty xi
măng Hoàng Thạch, mỗi đầu có 3 dấu lô gô.............................................................................78
* Mặt phụ in lô gô biểu tượng, địa chỉ giao dịch, hướng dẫn sử dụng. ...................................78
* Tại hai cạnh bên một cạnh in hàng chữ TỔNG CÔNG TY XI MĂNG VIỆT NAM và cạnh kia in
hàng chữ XI MĂNG HOÀNG THẠCH..........................................................................................78
* Nhãn mác được in xen kẽ 2 màu xanh dương và đỏ sen (trừ hàng chữ in phun điện tử là
màu đen)...................................................................................................................................78
* Vỏ bao đựng xi măng có các kích thước :...............................................................................78
- Chiều dài vỏ bao : 760 ± 2 (mm).............................................................................................78
- Chiều rộng vỏ bao : 420 ± 2 (mm) ..........................................................................................78
- Bề dày cạnh vỏ bao : 80 ± 1 (mm)...........................................................................................78
* Bề ngoài bao xi măng thể hiện:..............................................................................................78
- Bao xi măng căng đều, giấy vỏ bao mới, miệng bao không bị bật ra và nhàu nát...................78
- Hai đầu bao được khâu bằng máy. Khoảng cách bước chỉ 10÷14 mm...................................78
- Khi tháo đầu bao đổ xi măng ra màu xi măng đồng nhất, không có hiện tượng phân lớp, khi
chà xát bột xi măng không thấy sạn.........................................................................................78
6.2 Hạn chế và các giải pháp.....................................................................................................78
Hạn chế: Cung vượt cầu............................................................................................................78
9
Nhu cầu tiêu thụ xi măng của Việt Nam trong những năm qua phát triển với tốc độ nhanh,
bình quân mức tăng trưởng trong giai đoạn 2001- 2008 đạt 16,45%. Năng lực sản xuất xi
măng từ nguồn clinker trong nước mới đạt khoảng 80% nhu cầu, vì thế hàng năm vẫn phải
nhập khẩu thêm clinker từ các nước trong khu vực. ...............................................................79
Trong hai năm 2006 và 2007 có 4 nhà máy xi măng với tổng công suất thiết kế 4,24 triệu tấn đi
vào sản xuất. Năm 2008 có thêm 10 nhà máy xi măng mới với công suất 11,93 triệu tấn hoàn
thành, đưa tổng công suất thiết kế đến cuối năm 2008 lên 39,5 triệu tấn (trong đó có 3 triệu
tấn xi măng lò đứng). ...............................................................................................................79
Theo kế hoạch, năm 2009 dự kiến sẽ hoàn thành và đưa vào sản xuất 18 dự án xi măng với
tổng công suất 20,47 triệu tấn xi măng, nâng tổng công suất thiết kế của ngành xi măng đạt
gần 60 triệu tấn. Khả năng huy động công suất thực tế năm 2009 khoảng 45 - 46 triệu tấn, đáp
ứng nhu cầu xi măng của năm 2009 (dự kiến là 44 - 45,5 triệu tấn). Như vậy kể từ năm 2009
nước ta không phải nhập khẩu clinker để nghiền. Sau năm 2010 sẽ có thêm một số dự án mới
hoàn thành. Khả năng cung sẽ vượt cầu khoảng 5 - 7 triệu tấn từ năm 2010 là khó tránh khỏi.
Điều này sẽ làm thị trường xi măng cạnh tranh gay gắt hơn....................................................79
Một số giải pháp.......................................................................................................................79
Tiết kiệm chi phí sản xuất .........................................................................................................79
Trong bối cảnh thị trường xi măng trong nước cung vượt cầu thì yếu tố nâng cao tính cạnh
tranh của sản phẩm phải đặt lên hàng đầu. Doanh nghiệp phải chủ động tiết kiệm chi phí,
nâng cao chất lượng, giảm giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh đối với sản phẩm cùng
loại của các nước trong khu vực. Để đạt được mục tiêu này có một số nhóm giải pháp sau:
Đẩy mạnh áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, tăng số ngày chạy lò lên 320 - 330
ngày/năm, giảm thời gian dừng lò để sửa chữa nhằm đạt và vượt công suất thiết kế; nâng cao
chất lượng và mác xi măng, sản xuất clinker chất lượng cao PC50, PC60, tăng tỷ lệ pha phụ gia
puzolan, tro xỉ nhiệt điện, xỉ hạt lò cao để giảm tỷ lệ clinker, giảm lượng khí thải CO2, NOx,
SO2. Triển khai việc xây dựng các trạm sử dụng nhiệt thải lò nung để sản xuất điện, phấn đấu
tự cung cấp đến 30% nhu cầu sử dụng điện của nhà máy và giảm lượng phát thải ô nhiễm môi
trường. Tận dụng, tái chế phế thải làm nhiên liệu cho ngành xi măng, nhằm tiết kiệm chi phí
sản xuất.....................................................................................................................................79
Đẩy mạnh quảng bá và tìm đường xuất khẩu ..........................................................................79
Mỗi loại hình doanh nghiệp đều có mạng lưới và phương thức kinh doanh riêng, nhưng thực
tiễn thời gian qua cho thấy mạng lưới kinh doanh xi măng theo phương thức bán hàng thông
qua các nhà phân phối chính, các Cty thương mại và các đại lý là tương đối hiệu quả. Phương
thức này giảm chi phí lưu thông, chi phí bán hàng. Tuy nhiên, cần tăng cường công tác kiểm
tra về thực hiện cam kết trách nhiệm giữa các khâu trong hệ thống. ......................................80
10
Để nâng cao hiệu quả tiêu thụ, đổi mới phương thức bán hàng là cần thiết. Ngoài ra, cần
nghiên cứu giảm chi phí vận chuyển clinker từ Bắc vào Nam để có giá bán hợp lý, mới cạnh
tranh được clinker nhập khẩu từ các nước Đông Nam Á. DN cũng cần tăng cường xây dựng và
quảng bá thương hiệu sản phẩm, điều này đặc biệt quan trọng đối với những nhà máy mới
đưa vào sản xuất. Cùng với việc đẩy mạnh tiêu thụ trong nước, cần xúc tiến tìm kiếm thị
trường xuất khẩu clinker, lưu ý thị trường Nga, các nước Đông Âu như Ba Lan, Ucraina và
Châu Phi, nhất là những thị trường mà ảnh hưởng của sự suy thoái kinh tế ít rõ nét. Tăng
cường kiểm tra, chống xi măng Trung Quốc nhập lậu qua đường biên giới.............................80
Cân đối cung cầu thị trường phía Nam ....................................................................................80
Nhu cầu tiêu thụ xi măng các tỉnh phía Nam những năm gần đây khoảng 38-40% nhu cầu xi
măng cả nước. Dự tính năm 2009 khoảng 17,5 - 18 triệu tấn, trong khi khả năng đáp ứng công
suất tại chỗ của 4 nhà máy xi măng lò quay và 1 nhà máy xi măng lò đứng ở miền Nam khoảng
5,5 triệu tấn (XM Bình Phước dự kiến hoạt động tháng 6/2009). Như vậy cần phải vận chuyển
từ Bắc vào Nam khoảng 12 - 12,5 triệu tấn. Đây là khối lượng vận chuyển rất lớn, đòi hỏi phải
có sự chuẩn bị để chủ động về nguồn cung cấp xi măng, clinker, phương tiện kho bãi; đồng
thời phải có phương án bốc, dỡ đáp ứng nhu cầu từng tháng, từng mùa vụ trong các điều kiện
thời tiết. ...................................................................................................................................80
Ngoài ra, yêu cầu đẩy nhanh tiến độ 4 nhà máy xi măng ở khu vực phía Nam: Hà Tiên 2,
Holcim, An Phú (Bình Phước), Minh Tâm (Bình Phước) để giảm lượng vận chuyển từ Bắc vào;
xúc tiến việc thành lập Cty CP vận tải clinker, xi măng Bắc Nam...............................................80
Các giải pháp về kích cầu..........................................................................................................80
Song song việc triển khai gói kích cầu phát triển kinh tế trị giá 1 tỷ USD, Chính phủ đang chỉ
đạo các bộ ngành soạn thảo một số chương trình phát triển kinh tế - xã hội mà thông qua các
chương trình đó góp phần kích cầu tiêu thụ xi măng................................................................80
Xây dựng đường giao thông bằng bê tông xi măng..................................................................80
Đầu tư phát triển hệ thống giao thông đường bộ bằng bê tông xi măng nhất là hệ thống
đường cao tốc, đường ven biên giới, đường giao thông nông thôn sẽ là một trong những giải
pháp kích cầu tiêu thụ xi măng tốt và hiệu quả. Đường bê tông xi măng có nhiều ưu điểm là
thời gian sử dụng lâu, ít gây ô nhiễm môi trường, chi phí duy tu bảo dưỡng thấp. Tuy nhiên,
do trước đây giá nhựa đường rẻ, giá xi măng cao, nguồn cung cấp xi măng mác cao ít và hạn
chế làm chi phí xây dựng mặt đường bê tông xi măng cao hơn mặt đường bê tông nhựa, ngoài
ra công nghệ thi công phức tạp, chưa hoàn chỉnh hệ thống tiêu chuẩn thi công và nghiệm thu
với từng công nghệ ở cấp quốc gia nên chưa được phát triển mạnh mẽ. Hiện nay giá xi măng
khoảng 60 - 62 USD/tấn, trong khi đó giá nhựa đường tăng cao theo giá dầu mỏ, vật liệu xi
măng, sắt thép sản xuất được ở trong nước, thì chi phí xây dựng sẽ thay đổi ở mức tương
11
đương nhau. Ngoài ra, chúng ta đã làm chủ được công nghệ hiện đại để thi công và nghiệm
thu mặt đường bê tông xi măng chất lượng cao. Thực hiện chủ trương này, các cơ quan chức
năng đang soạn thảo báo cáo trình Thủ tướng về kế hoạch, cơ chế, lộ trình thực hiện. Trước
mắt hai bộ GTVT và Xây dựng đã thống nhất thí điểm một đoạn của tuyến đường cao tốc Ninh
Bình - Thanh Hoá để xem xét áp dụng cho các dự án khác. Nếu trong quy hoạch phát triển
mạng đường bộ cao tốc Việt Nam đến năm 2020 theo Quyết định số 1734/QĐ-TTg ngày
1/12/2008 gồm 22 tuyến với tổng chiều dài 5.873km phổ biến 4 - 6 làn xe, một số tuyến rộng
8 làn xe được triển khai xây dựng một số tuyến bằng đường bê tông xi măng thì không chỉ vừa
góp phần kích cầu tiêu thụ xi măng, sắt, thép mà còn góp phần giảm nhập siêu.....................81
Phát triển vật liệu xây không nung............................................................................................81
Đây là một chương trình lớn cần thiết, cũng là một giải pháp kích cầu tiêu thụ xi măng tốt, bởi
nhu cầu vật liệu xây rất lớn. Năm 2007 cả nước tiêu thụ 21 tỷ viên gạch tiêu chuẩn, năm 2008
khoảng 23 tỷ viên, dự kiến năm 2009 là 25 tỷ viên, năm 2015 là 32 - 33 tỷ viên. Thói quen
thích sử dụng gạch xây đất sét nung, làm tài nguyên đất sét đang bị khai thác cạn kiệt, lãng
phí và ảnh hưởng đến môi trường sinh thái. Từ năm 2001 Chính phủ đã có chủ trương phát
triển vật liệu xây không nung thay thế gạch đất sét nung với mục tiêu đến năm 2010 gạch
không nung thay thế được 30% gạch đất sét nung. Tuy nhiên, đến năm 2008, tỷ lệ này chỉ
dừng ở mức 7,5 - 8,0%..............................................................................................................81
Tiếp tục thực hiện chủ trương này, Bộ Xây dựng đang soạn thảo chương trình phát triển vật
liệu xây không nung trình Thủ tướng phê duyệt với mục tiêu đến năm 2015 gạch không nung
thay thế được 20 - 25% gạch nung và năm 2020 là 30 - 40%. Nếu đến năm 2015 đạt được mục
tiêu đề ra, tức là sản xuất được 6,5 - 8 tỷ viên gạch không nung quy tiêu chuẩn, thì lượng xi
măng được tiêu thụ để sản xuất khối lượng gạch không nung nói trên cần khoảng 1,5 - 2 triệu
tấn/năm....................................................................................................................................81
Chương trình phát triển nhà ở..................................................................................................82
Hiện Bộ Xây dựng đang triển khai một số đề án về nhà ở như: Đề án nhà ở xã hội giai đoạn
2009 - 2015; Đề án nhà ở công vụ của Chính phủ; Đề án phát triển nhà ở cho công nhân, xây
dựng công trình sinh hoạt văn hoá, cơ sở phúc lợi xã hội tại các KCN tập trung. Chương trình
phát triển nhà ở đã đặt ra các mục tiêu: Phát triển tăng thêm khoảng 58,5 triệu m2 sàn, trong
đó diện tích nhà ở đô thị là 30,2 triệu m2 sàn, diện tích nhà ở nông thôn là 28,3 triệu m2 sàn,
xây dựng 450 nghìn m2 nhà ở xã hội. Đây là những chương trình, mà việc thực hiện chúng sẽ
góp phần thúc đẩy thị trường xi măng trong nước phát triển..................................................82
Ngoài những chương trình trọng điểm nêu trên, các chương trình khác như: kiên cố hoá kênh
mương nội đồng, phát triển đường bê tông nông thôn, kiên cố hoá trường học cũng đang
được tiếp tục triển khai… sẽ góp phần tiêu thụ lượng xi măng khá lớn....................................82
12
.................................................................................................................................................83
.................................................................................................................................................83
PHẦN KẾT LUẬN....................................................................................................................83
Thực tập nhận thức là thời gian sinh viên có thể học hỏi nhiều điều kinh nghiệm thực tế về
các kiến thức chuyên ngành đã được trang bị trên giảng đường. Việc làm quen với các máy
móc thực tế và các thiết bị hiện đại, tiên tiến sinh viên có thể tiếp cận thực tế, củng cố lý
thuyết và thực tiễn để tạo thêm kinh nghiệm để có thể làm việc sau này................................83
Qua thời gian hai ngày tham quan nhà máy Xi măng Hoàng Thạch cùng với 1 tuần học lý
thuyết trên lớp, mặc dù thời gian còn hạn chế nhưng nó đã giúp cho sinh viên ngành Tự Động
Hóa tích luỹ nhiều kinh nghiệm quý báu về các môn học đã học cũng như chuẩn bị học, các hệ
thống trong nhà máy đồng thời cũng tìm hiểu thêm về hệ thống truyền thông trong xí nghiệp.
Đồng thời cũng giúp sinh viên hiểu được công việc mình sẽ làm sau này.................................83
Em xin chân thành cảm ơn bộ môn, các thầy cô cũng như các kĩ sư của nhà máy đã tận tình
giúp đỡ chúng em trong đợt thực tập nhận thức vừa qua. Do thời gian thực tập cũng còn hạn
chế, kinh nghiệm thực tế còn yếu nên bài báo cáo có thể mắc phải sai sót mong các thầy
thông cảm.................................................................................................................................83
13
LỜI NÓI ĐẦU
Với mỗi sinh viên ngoài việc tiếp thu kiến thức lý thuyết trên giảng đường thì việc
tiếp xúc thực tiễn là yêu cầu không thể thiếu đối với sinh viên. Do đó việc đi thực
tập nhận thức là một trong những yêu cầu tất yếu của sinh viên bất cứ trường đại
học nào trên cả nước. Lý thuyết trên giấy phải đi kèm kiến thức thực tế thì sinh
viên mới thực sự có thể hiểu rõ lý thuyết đã học đồng thời trang bị một số ít kiến
thực thực tiến để giúp đỡ sinh viên sau khi tốt nghiệp ra trường có thể nắm bắt và
hoà nhịp tốt với công việc thực tiễn không bị mơ hồ về công việc trong tương lai.
Cũng như mọi khoá học sinh viên Bách Khoa ngành điện đều được đi thực tập
nhận thức tại một công ty nhất định trong thời gian một ngày để hiểu về quy trình
sản suất của một loại sản phẩm nào đó. Năm nay sinh viên ngành Tự Động hóa
khoá 53 được thực tập nhận thức tại nhà máy xi măng Hoàng Thạch tại thị trấn
Minh Tân – Kinh Môn – Hải Dương .Chuyến đi này đã đem lại nhiều kiến thức
thực tiễn bổ ích cho mỗi người .Qua việc trực tiếp xuống nơi sản suất chúng em đã
hiểu phần nào đó về quá trình sản suất xi măng của công ty từ khâu sản suất thực tế
tới việc xem xét các mô hình và quá trình điều khiển hệ thống sản suất xi măng.
Đây là kiến thực thực tiễn chuyên ngành rất bổ ích giúp chúng em hiểu rõ hơn về lý
thuyết điều khiển mà mình đang học và sắp được học.
Không những vậy, chúng em còn được học 1 tuần lý thuyết ở trên lớp. Tất cả
các lý thuyết liên quan đến những thiết bị điện đơn giản nhất như máy biến áp, máy
điện quay,… rồi các linh kiện điện tử đơn giản như diode, transistor, thyristor,... Và
cuối cùng là phần học vô cùng bổ ích về PLC. Đây là môn học rất quan trọng của
ngành Tự Động Hóa. Nhờ có thầy Hà Tất Thắng mà chúng em đã hiểu sâu hơn về
những kiến thức đã học cũng như biết sắp tới mình sẽ học gì và ra trường sẽ làm
được gì,…
Chúng em rất biết ơn nhà trường cũng như thầy cô đã tạo điều kiện giúp đỡ
chúng em về mọi mặt.
Nội dung chính báo cáo nhận thức nói lên những kiến thức thu được sau hai
buổi đi thực tập tại Hoàng Thạch , cùng với đó là phần lý thuyết đã học trên lớp
Bài báo cáo được làm với những kiến thức được học trên ghế nhà trường,
những kiến thức thu được trong buổi đi thực tế và sự tìm tòi trên mạng, tài liệu nên
không thể tránh được những sai sót và nhầm lẫm. Rất mong thầy cô giáo thông
cảm.
14
Em xin chân thành cảm ơn
PHẦN 1:NỘI DUNG
I.Tự động hoá là gì?
Tự động hoá là công nghệ sản xuất,sử dụng cá hệ thống cơ khí, điện, điện tử,máy
tính để hoạt động và điều khiển quá trình,nhằm nâng cao năng suất lao động,chất
lượng hiệu quả và giảm tối đa sưc lao động của con người
Công nghệ này bao gồm:
-Các máy tự động được gia công chi tiết
-Các hệ thống lắp ráp tự động
-Các rô bốt
-Hệ thống lưu giữ và vận chuyển
-Các hệ thống kiểm tra và giám sát chất lượng
-Các hệ thống điều khiển quá trình
-Hệ thống thu thập,xử lý số liệu giúp điều hành,giám sát
Quá trình sản xuất tự động hoá có thể phân thành:
-Sản xuất rời rạc: sản xuất máy bay, tàu hoả …
-Sản xuất theo quá trình liên tục: các nhà máy hoá chất, giấy, xi măng…
II.Giới thiệu bộ môn tự động hoá
Sự ra đời và phát triển của Bộ môn Tự động hóa gắn liền với công cuộc xây dựng
đất nước với sự phát triển ngày càng hiện đại của nền công nghiệp của Việt Nam. Bộ
môn Điện khí hóa đựợc thành lập tháng 5-1962 trong điều kiện khó khăn nhân lực và về
cơ sở vật chất. Được sự quan tâm giúp đỡ của lãnh đạo nhà trường, với tâm huyết của
người Thầy và tinh thần phấn đấu không ngừng của tập thể cán bộ, thầy cô giáo của Bộ
môn, một năm sau ngày thành lập, Bộ môn Điện khí hóa vinh dự là 1 trong 5 đơn vị của
trường ĐHBK Hà nội đã được công nhận là tổ Lao động XHCN. Lớp kỹ sư Điện khí hóa
khóa đầu tiên (1964) đã đáp ứng kịp thời yêu cầu của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội với kế hoạch 5 năm lần thứ nhất. Những năm tháng ác liệt của cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước, Thầy và trò của Bộ môn Điện khí hóa đã khắc phục vô vàn khó
khăn để dạy tốt, học tốt và tham gia phục vụ chiến đấu và sản xuất. Đáp ứng yêu cầu của
sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước trong thời kỳ mới, Bộ môn Tự động
hóa đã có bước phát triển cao hơn với đôi ngũ cán bộ, thầy cô giáo có trình độ cao , với
các trang thiết bị mới hiện đại, tiếp tục thực hiện xuất sắc nhiêm vụ đào tạo và nghiên cứu
khoa học. Nhìn lại 47 năm qua, từ buổi đầu thành lập với tên gọi Điện khí hóa, Bộ môn
15
Tự động hóa đã có những đóng góp quan trọng trong việc đào tạo nguồn nhân lực Điện
khí hóa - Tự động hóa cho sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Các thế
hệ Thầy cô giáo của Bộ môn, các thế hệ Sinh viên của ngành Điện khí hóa – Tự động hóa
đã xây dựng nên truyền thống đáng tự hào của Bộ môn Tự động hóa và góp phần vào sự
nghiệp giáo dục - đào tạo của Trường ĐHBK Hà Nội.
II.1 Sơ Lược Quá Trình Hình Thành, Xây Dựng Và Phát Triển Của Bộ Môn Tự
động Hóa (1962-2010)
II.1.1 Bộ môn Điện khí hóa xí nghiệp giai đoạn đầu (1962-1964): Thành lập và ổn
định
16
Trường Đaị học Bách Khoa Hà Nội (ĐHBKHN) được thành lập ngày 6 tháng 3 năm
1956 và khai giảng khóa đầu tiên ngày 15 tháng 10 năm 1956 với 1000 sinh viên
chính quy của 14 ngành học thuộc 4 liên khoa Cơ-Điện, Mỏ-Luyện kim, Xây dựng
và Hóa-Thực phẩm. Khoa Điện được thành lập cùng với ngày thành lập Trường
trong liên khoa Cơ-Điện và được tách thành khoa độc lập từ tháng 9 năm 1958.
Ban đầu Khoa Điện gồm 3 khối ngành chính là Điện, Nhiệt và Vô tuyến điện.
Năm 1960 thầy Tạ Bá Miên là Phó Phòng Giáo vụ được giao nhiệm vụ chuẩn bị
cán bộ và tài liệu cho mở ngành Điện khí hóa xí nghiệp (ĐKHXN) của Trường
ĐHBKHN. Thầy Tạ Bá Miên đã mời các thầy Nguyễn Bính và thầy Nguyễn Nam
Tặng tốt nghiệp ở Trung Quốc tham gia vào công việc chuẩn bị mở ngành
ĐKHXN.
Thời gian đầu về Trường ĐHBKHN, thầy Bính và thầy Tặng tham gia công tác
giảng dạy ở Bộ môn Kỹ thuật điện và tích cực chuẩn bị các tư liệu cho việc thành
lập Bộ môn ĐKHXN. Ngày 20 tháng 5 năm 1962, Bộ môn ĐKHXN được quyết
định thành lập với đội ngũ cán bộ của Bộ môn ban đầu gồm 5 thầy: 4 cán bộ giảng
dạy là các thầy Nguyễn Bính (Trưởng Bộ môn đầu tiên), Nguyễn Nam Tặng,
Nguyễn Thành, Hồ Khắc Thiệu và 1 cán bộ phục vụ giảng dạy là đồng chí Hoàng
Tất Hưng. Cuối năm 1962, Bộ môn được bổ sung thầy Lê Đình Anh tốt nghiệp
khóa 3 Khoa Điện. Bộ môn bắt đầu đào tạo ngành ĐKHXN từ khóa 5 của Trường
gồm 42 sinh viên được chọn từ các sinh viên học năm thứ hai ngành Phát dẫn điện.
Kể từ đó ngày 20 tháng 5 trở thành ngày hội truyền thống của ngành Điện khí hóa Tự động hóa Trường ĐHBKHN.
Các môn học chuyên ngành ban đầu của ngành bao gồm: Truyền động điện, Trang
bị điện máy công nghiệp do thầy Nguyễn Bính, Tạ Bá Miên, Lê Đình Anh dạy, Khí
cụ điện do thầy Hồ Khắc Thiệu dạy, Lý thuyết điều khiển tự động do thầy Nguyễn
Nam Tặng dạy, môn Cung cấp điện XNCN do thầy Võ Viết Đạn (Bộ môn Phát dẫn
điện) phụ trách và môn Điện tử công nghiệp do thầy Ngô Đức Dũng (Khoa Vô
tuyến điện) giảng dạy. Thầy Nguyễn Thành thời gian đầu là phụ giảng môn Cung
cấp điện và hướng dẫn thực tập gần 20 sinh viên tại khu gang thép Thái Nguyên.
Theo quy hoạch ban đầu của trường do Liên Xô thiết kế không có ngành ĐKHXN,
vì vậy cơ sở vật chất và phòng thí nghiệm buổi ban đầu rất đơn sơ. Bộ môn được sử
dụng 5 gian nhà cấp 4 thuộc dãy 18 khu trường cũ. Bộ môn Kỹ thuật điện cung cấp
một số động cơ điện, máy phát và một số vật tư phụ tùng. Bằng sự cố gắng nỗ lực
hết mình của tập thể các thầy, cán bộ bộ môn và sinh viên, sau một thời gian ngắn,
Bộ môn đã xây dựng được 6 bàn thí nghiệm cơ bản đầu tiên về Truyền động điện
và Trang bị điện.
17
Năm 1963, Bộ môn dần được bổ sung nhân lực và các môn học mới. Hai thầy
Nguyễn Công Hiền và thầy Nguyễn Trọng Thuần tốt nghiệp khóa 4 Khoa Điện,
tiếp đó là thầy Nguyễn Thương Ngô tốt nghiệp ở Liên Xô đã về công tác ở Bộ môn.
Môn học Trang bị điện thiết bị luyện kim được đưa vào giảng dạy do thầy Nguyễn
Thương Ngô, Nguyễn Thành và thầy Nguyễn Trọng Thuần phụ trách, Thầy
Nguyễn Công Hiền dạy môn Cung cấp điện. Bộ môn được bổ sung hai cán bộ cho
phòng thí nghiệm là đồng chí Nguyễn Lê Trung và Trần Ánh Tuyết tốt nghiệp
Trường Trung cấp Kĩ thuật I về.
Với sự cố gắng hết mình, sự tâm huyết với nghề nghiệp, tinh thần làm việc hăng
say, tất cả vì sự nghiệp xây dựng và ổn định của Bộ môn buổi ban đầu, các thầy
giáo thế hệ đầu tiên của Bộ môn đã vượt qua mọi khó khăn về cơ sở vật chất,
phòng thí nghiệm, thiếu thốn về tài liệu,… để soạn bài giảng và giảng dạy, xây
dựng Bộ môn cho đào tạo khóa sinh viên đầu tiên của ngành. Cuối năm 1964 khóa
sinh viên đầu tiên của ngành ĐKHXN (khóa 5 của Trường) tốt nghiệp đánh dấu
một điểm mốc rất quan trọng trong quá trình hình thành, phát triển của Bộ môn và
ngành Tự động hóa của Trường ĐHBKHN.
18
Đồng chí Trần Duy Hưng, Chủ tịch Thành phố Hà Nội trao tặng phẩm cho 5 Tổ Lao
động XHCN năm học 1963-1964. Thầy Nguyễn Thành, người đứng thứ 3 từ bên
trái, đại diện cho Bộ môn nhận tặng phẩm.
Các kỹ sư ĐKHXN khóa đầu tiên ra trường kịp thời đáp ứng nhu cầu về nhân lực cán bộ
kỹ thuật của nền công nghiệp đang ở thời kỳ kế hoạch hóa 5 năm lần thứ nhất. Bộ
môn được bổ sung 4 thầy tốt nghiệp khóa 5 gồm 3 thầy ngành ĐKHXN: Bùi Đình
Tiếu, Lê Tòng và Nguyễn Dư Xứng và thầy Nguyễn Mộng Hùng ngành Vô tuyến
điện làm cán bộ giảng dạy. Cô Lê Thị Tuyết tốt nghiệp từ Trường Trung học Kỹ
thuật I được tuyển làm kỹ sư phòng thí nghiệm.
Do có những đóng góp đáng kể vào sự nghiệp đào tạo, nghiên cứu khoa học và chuyển
giao công nghệ, Bộ môn ĐKHXN đã được công nhận là Tổ Lao động Xã hội Chủ
nghĩa cùng 4 đơn vị khác của Trường ĐHBKHN lần đầu vào năm học 1963-1964
và liên tục hơn 10 năm sau đó.
II.1.2 Giai đoạn 1965-1974: Đào tạo và xây dựng, bảo vệ miền Bắc, đấu tranh giải
phóng miền Nam
Sau khi khóa sinh viên đầu tiên của Bộ môn tốt nghiệp, Bộ môn tiếp tục được củng
cố về mọi mặt, vừa đảm bảo sự ổn định và phát triển trong đào tạo vừa tham gia
vào sự nghiệp xây dựng, bảo vệ miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam.
Các năm tiếp theo, Bộ môn tiếp tục bổ sung nhân lực cán bộ giảng dạy là các kỹ sư tốt
nghiệp loại giỏi của ngành ĐKHXN. Các thầy cô giáo Bộ môn tiếp tục hoàn thiện
bài giảng, giáo trình cho các môn học đã có và chuẩn bị đưa vào giảng dạy các môn
học mới.
19
Các thầy cô giáo Bộ môn làm thí nghiệm mẫu Truyền động điện (năm 1965)
Năm 1966, Bộ môn chuyển văn phòng và phòng thí nghiệm từ dẫy nhà 18 ban đầu lên
làm việc nhà C. Các phòng thí nghiệm đặt ở tầng hầm nhà C, tầng 2 là phòng làm
việc. Từ đây, các thí nghiệm cơ bản ban đầu của Bộ môn dần được đổi mới, nâng
cấp. Năm 1966, hai bàn thí nghiệm truyền động điện mới với hệ phụ tải động theo
mô hình của Liên xô đã được xây dựng. Các thí nghiệm đó đã góp phần đào tạo
hàng nghìn kỹ sư từ khóa 10 của Bộ môn. Cuối năm 1971, sau thời gian di chuyển,
sơ tán chống chiến tranh phá hoại của Đế quốc Mỹ, rồi trở lại Hà Nội, Bộ môn
chính thức được chuyển về nhà C9 khu trường mới gồm 5 phòng ở tầng 1, tầng 2
nhà C9 như hiện nay; 1 phòng ở tầng 2 C9, sau này bàn giao cho Bộ môn Điều
khiển tự động. Năm 1968, lớp tại chức đầu tiên ngành ĐKHXN gồm 23 sinh viên
đã làm lễ tốt nghiệp, mở ra một loại hình đào tạo kỹ sư ĐKHXN từ các đối tượng
đang là người trực tiếp sản xuất.
20
Trong giai đoạn này, Đế quốc Mỹ leo thang chiến tranh đánh phá miền Bắc, cùng với
toàn trường, Bộ môn chuyển sang thực hiện nhiệm vụ đào tạo trong thời chiến: vừa
thực hiện nhiệm vụ đào tạo với khối lượng ngày càng tăng, vừa tham gia chiến đấu
và phục vụ chiến đấu. Đại đội tự vệ của Khoa Điện gồm các thầy do thầy Nguyễn
Bính và thầy Trần Văn Tảo chỉ huy vừa giảng dạy vừa sẵn sàng tham gia chiến đấu
đánh trả máy bay địch từ các hào công sự trên nóc nhà A1, A3 bằng các khẩu súng
trường thô sơ.
Ảnh các thầy cô giáo Bộ môn chụp năm 1973
21
Thực hiện chủ trương của Trường, năm 1966 Bộ môn chia làm hai bộ phận: Bộ phận sơ
tán ở hai điểm Lạng Sơn và Hà Bắc và một bộ phận đưa sinh viên năm cuối đi thực
tập ở các cơ sở thực tập xung quanh Hà Nội. Khóa 7A, 7B và khóa 8 đang và sắp
làm tốt nghiệp tiếp tục bám trụ gần Trường. Các khóa 9, 10 và lớp chuyên tu được
lệnh sơ tán đến Lạng Sơn, vùng chiến khu Việt Bắc ngày xưa. Khu C (ĐHBKHN),
H2 (ký hiệu của Khoa Điện) được hình thành từ đó. Tại Khu H2 Lạng Sơn, trong
một ngôi nhà lá độc lập, bộ môn vẫn duy trì tất cả các hoạt động học thuật, giảng
dạy khóa 9, 10. Các tài liệu, thiết bị quý được đóng hòm vận chuyển lên và bảo
quản tại đây. Các giờ giảng cùng các giờ thí nghiệm Truyền động điện, Tự động
khống chế truyền động điện, Trang bị điện vẫn được thực hiện trong những gian
nhà lá do các thầy và sinh viên tự xây dựng bên cạnh sông Kỳ Cùng hiền hòa.
Nguồn điện được cung cấp từ các “Lô cô” do Bộ môn Nhiệt cung cấp. Tháng 6
năm 1969, các lớp khóa 9, lớp chuyên tu chuyển về sơ tán ở Hải Phòng, sau đó về
Hiệp Hòa (Hà Bắc). Các khóa sinh viên này phải học tập trong điều kiện khó khăn
của chiến tranh phá hoại của Đế quốc Mỹ. Các thầy cô giáo của Bộ môn do phải
phụ trách môn học năm cuối, hướng dẫn thiết kế tốt nghiệp khóa 8, 9, 10 nên phải
đi lại rất nhiều lần từ Hà Nội lên Lạng Sơn, Hà Bắc.
Đầu những năm 70, Nhà trường được trang bị máy tính điện tử MINSK và Bộ môn được
trang bị máy tính tương tự, Bộ môn đã bổ sung hai môn học Kỹ thuật tính trên máy
tính số và Mô hình hóa các hệ thống tự động trên máy tính tương tự do thầy
Nguyễn Bính biên soạn bài giảng và giảng dạy, thầy Nguyễn Văn Đức tham gia
giảng dạy và hướng dẫn thực hành.
Trong thời gian chống chiến tranh phá hoại miền Bắc của Mỹ, Bộ môn luôn giữ vững chỉ
tiêu tuyển sinh, giảng dạy tốt lý thuyết. Các thầy giáo của Bộ môn đưa sinh viên đi
thực tập phục vụ sản xuất. Các thầy giáo cùng sinh viên ngành ĐKHXN đã phục
hồi các thiết bị máy móc ở một số nhà máy (Nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo, Nhà
máy cơ khí Giải Phóng…) và khắc phục hậu quả lũ lụt năm 1971. Trong giai đoạn
1971-1973, các thầy Nguyễn Bính và Trịnh Đình Đề tham gia đề tài khoa học cấp
Nhà nước GK1 “Nghiên cứu phá thủy lôi điều khiển của Mỹ” do GS.TSKH. Vũ
Đình Cự làm chủ nhiệm. Đề tài GK1 được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh, thầy
Nguyễn Bính được thưởng Huân chương chiến công hạng 3, thầy Trịnh Đình Đề
được tặng Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ.
II.1.3 Giai đoạn 1975-1983: Thời kỳ củng cố và phát triển
Trong giai đoạn này, Bộ môn đã được tăng cường về cán bộ cả về số lượng và chất
lượng. Một số thầy giáo của Bộ môn đã được đào tạo Phó tiến sĩ ở nước ngoài về. Năm
1980, thầy Nguyễn Bính được phong chức danh Phó Giáo sư đầu tiên của Bộ môn. Các
môn học cơ bản của Bộ môn như Truyền động điện, Trang bị điện, Điều khiển tự động
22
truyền động điện đã có đủ giáo trình và các bàn thí nghiệm do cán bộ Bộ môn và sinh
viên tự xây dựng. Năm 1975, môn học Điện tử công suất, sau này là một trong những
môn học xương sống của ngành được giảng dạy đầu tiên cho khóa 18 do thầy Nguyễn
Bính, Dương Văn Nghi dạy. Môn học Vi xử lý bắt đầu được giảng dạy năm 1982 và môn
học Tổng hợp hệ truyền động điện hiện đại được giảng dạy cho khóa 22 do thầy Nguyễn
Trọng Thuần giảng.
Phòng thí nghiệm được đổi mới, các bàn thí nghiệm Truyền động điện và Điều khiển
Lôgíc đã được hoàn thiện và xây dựng mới phục vụ tốt cho công tác đào tạo trong bối
cảnh Nhà trường và Bộ môn rất khó khăn về kinh phí. Với những thành tích đạt được
trong công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học, năm 1981 Bộ môn được tặng thưởng
Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ.
Năm 1976, một nhóm cán bộ của bộ môn gồm các thầy Nguyễn Nam Tặng, Lê Đình
Anh, Nguyễn Thương Ngô, Phạm Công Ngô, Lê Thành Lân được tách ra để thành lập Bộ
môn Điều khiển tự động. Bộ môn ĐKHXN lúc đó còn 16 cán bộ và do PGS. Bùi Đình
Tiếu là Trưởng Bộ môn.
Năm 1983, theo cơ chế quản lý 2 cấp của Nhà trường, Bộ môn lớn Tự động hóa được
thành lập do PGS. Nguyễn Bính làm Chủ nhiệm Bộ môn, GS. Nguyễn Trọng Thuần là
Phó Chủ nhiệm Bộ môn lớn và phụ trách tổ Điện khí hóa của Bộ môn lớn.
23
Ảnh các thầy cô giáo Bộ môn chụp năm 1979
Sau khi đất nước được thống nhất, Bộ môn cũng bước sang thời kì mới: tự hoàn thiện
mình, góp phần khôi phục hậu quả chiến tranh và góp phần vào công tác đào tạo đại học
ở miền nam. Liên tục từ năm 1977 đến năm 1981, theo yêu cầu của Bộ Đại học, Bộ môn
đã cử nhiều thầy giáo vào thỉnh giảng tại các trường ĐH Bách Khoa thành phố Hồ Chí
Minh, Đà nẵng, ĐH Kỹ thuật Thủ Đức. Các thầy Nguyễn Nam Tặng, Nguyễn Lê Trung,
Nguyễn Dư Xứng, Nguyễn Mộng Hùng được chuyển vào thành phố Hồ Chí Minh giảng
dạy, thầy Nguyễn Mạnh Hà bổ sung cho Đại học Bách Khoa Đà nẵng.
II.1.4 Giai đoạn 1983-1992: Thời kì tổ chức hai cấp
Bộ môn có nhiều đổi mới về chất lượng và số lượng đội ngũ cán bộ và chương trình đào
tạo, phòng thí nghiệm. Hàng năm lựa chọn sinh viên tốt nghiệp xuất sắc làm cán bộ giảng
dạy đã đảm bảo cho Bộ môn không hẫng hụt cán bộ sau này và bổ xung lực lượng trẻ
năng động cho đội ngũ thầy cô giáo. Các môn học được cải tiến nội dung và cập nhật
kiến thức mới như: Vi xử lý, Tổng hợp hệ điện cơ,…
Năm 1987, theo chủ trương quản lý hai cấp của Nhà trường, các khoa trực thuộc trường
được thành lập. Trên cơ sở Bộ môn ĐKHXN, để đáp ứng với nhu cầu đào tạo nguồn
24
nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa trên nền tảng nền công nghiệp có mức độ tự
động hóa ngày càng cao, Khoa Tự động hóa được thành lập do GS. Nguyễn Trọng Thuần
làm Trưởng Khoa; sau đó là GS. Nguyễn Công Hiền làm Trưởng Khoa.
Hoàn thành tốt nhiệm vụ đào tạo hệ đại học chính quy, Khoa Tự động hóa bắt đầu đào
tạo khóa cao học đầu tiên vào năm 1991-1992.
Đây là thời kì khó khăn chung của cả nước và ngành giáo dục, nhưng tập thể cán bộ
Khoa Tự động hóa đã luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, tâm huyết với sự nghiệp đào
tạo, cố gắng vượt qua các khó khăn, đảm bảo chất lượng đào tạo, tích cực nghiên cứu
khoa học, tham gia các đề tài lớn của Nhà nước về Tự động hóa. Các cán bộ Khoa Tự
động hóa đã chủ trì và tham gia 3 đề tài trong chương trình Tự động hóa 52B-01-04,
52B-01-05 và 52B-02-03 với kết quả nghiệm thu xuất sắc. Các kết quả nghiên cứu đã
được triển khai ứng dụng trong thực tế như: bộ khởi động động cơ công suất lớn ở các
trạm bơm, các thiết bị tự động hóa trong dây chuyền sản xuất đường,… Bộ môn cũng chủ
trì và tham gia các công trình đưa các nhà máy có mức độ tự động hóa cao như Xi măng
Hoàng Thạch, Đường Lam Sơn, Sữa Dielac,… vào vận hành theo đúng thiết kế khi các
chuyên gia nước ngoài đã về nước.
II.1.5 Giai đoạn 1993 đến nay: Đổi mới và phát triển tiến tới hội nhập
Do nhu cầu đào tạo nhân lực Tự động hóa của đất nước ngày càng cao, số lượng sinh
viên của Khoa Tự động hóa ngày càng tăng với chất lượng đầu vào ngày càng tốt so với
các ngành khác trong trường. Từ khóa 41, số lượng sinh viên tốt nghiệp hệ chính quy
ngành Tự động hóa hàng năm lớn hơn 100 với chất lượng tốt. Khối lượng giảng dạy hàng
năm tăng, khối lượng bình quân của một cán bộ gấp 2,5 lần khối lượng định mức. Từ
năm 2000, số lượng học viên cao học và nghiên cứu sinh hàng năm là 20-30, trong đó có
4-5 nghiên cứu sinh.
Giai đoạn này, Bộ môn được phép mở rộng các loại hình đào tạo. Ngoài hệ chính quy ban
ngày và tại chức, Năm 1993, khóa cao đẳng đầu tiên khai giảng, hàng năm tiếp theo, Bộ
môn tuyển sinh hàng trăm sinh viên hệ cao đẳng. Tháng 10 năm 2003, khai giảng khóa
kỹ sư văn bằng hai (KS2) ngành Tự động hóa đầu tiên với 130 sinh viên với chương trình
đào tạo 2,5 năm. Các năm tiếp theo, trung bình mỗi năm, Bộ môn khai giảng 2 khóa đào
tạo KS2.
Tháng 12 năm 1995, Trường ĐHBKHN chuyển từ cơ chế 2 cấp về cơ chế 3 cấp, Bộ môn
trở thành Bộ môn Tự động hóa XNCN và là một trong các bộ môn có số lượng cán bộ và
sinh viên đông nhất trong Khoa Điện. Trình độ chuyên môn và uy tín của đội ngũ cán bộ
25