1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
LÊ PHƯƠNG THẢO
ĐẶC ĐIỂM TRUYỆN LƯU TRỌNG LƯ
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
Nghệ An - 2013
2
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
LÊ PHƯƠNG THẢO
ĐẶC ĐIỂM TRUYỆN LƯU TRỌNG LƯ
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VĂN HỌC
MÃ SỐ: 60.22.32
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học:
TS. LÊ VĂN DƯƠNG
Người hướng dẫn khoa học: TS.
NGHỆ AN - 2013
3
MỤC LỤC
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Lưu Trọng Lư (1911-1990) thường được biết đến với tư cách là
một nhà thơ, một nhà viết kịch, một người nồng nhiệt đấu tranh cho sự thắng
thế của phong trào Thơ mới. Nhưng bên cạnh đó, ông còn xuất hiện trên văn
đàn với không ít các truyện ngắn và tiểu thuyết. Trên thực tế, số truyện ngắn,
tiểu thuyết Lưu Trọng Lư đã viết, đã in ra trong toàn bộ đời văn của mình
nhiều gấp vài ba lần số tập thơ hay số vở kịch ông đã viết, đã dàn dựng. Nhân
dịp kỉ niệm 100 năm sinh của nhà văn (tháng 2-2011), bộ sưu tập truyện ngắn
và tiểu thuyết của Lưu Trọng Lư (do Lại Nguyên Ân, Hoàng Minh sưu tầm và
biên soạn) đã ra đời, bao gồm một số lượng khá lớn những tác phẩm hầu như
đã bị quên lãng kể từ sau lần công bố đầu tiên. Đây chính là cơ hội để hậu thế
có dịp tìm hiểu cũng như ghi nhận những đóng góp của ông trong tiến trình
phát triển của nền văn học Việt Nam - với tư cách là một nhà văn.
1.2. Trong sự nghiệp sáng tác của mình, Lưu Trọng Lư đã để lại một số
lượng tác phẩm truyện tương đối nhiều và hơn nữa đặc sắc về nghệ thuật, có
sức hấp dẫn lớn đối với người đọc. Tuy vậy, cho đến nay vẫn thiếu những công
trình nghiên cứu chuyên sâu, hệ thống về các tác phẩm văn xuôi của ông.
Chính vì vậy, nghiên cứu về các tác phẩm truyện của Lưu Trọng Lư là một
việc làm cần thiết. Chúng tôi tin chắc rằng đây chính là mảnh đất màu mỡ với
nhiều tiềm năng sẽ được khai phá. Tìm hiểu đặc điểm truyện của Lưu Trọng
Lư, chúng tôi mong muốn góp phần mang đến một cái nhìn toàn diện và cụ thể
hơn về những nét đặc sắc cả về nội dung và nghệ thuật trong mảng sáng tác
này của ông. Đồng thời, qua đó làm nổi bật những đóng góp của nhà văn trong
bối cảnh phát triển của văn xuôi Việt Nam trước 1945.
2. Lịch sử vấn đề
Trước đây, nói đến Lưu Trọng Lư, người ta thường nghĩ tới ông với tư
cách là một nhà thơ lớn, một nhà viết kịch tài ba. Đã có rất nhiều công trình,
bài viết nghiên cứu về sự nghiệp sáng tác thơ của Lưu Trọng Lư. Các sáng tác
văn xuôi của Lưu Trọng Lư nói riêng dường như đã bị lãng quên và phủ mờ
trong lớp bụi thời gian.
2
Ngay từ khi mới ra đời, các tác phẩm của ông đã được công chúng nồng
nhiệt đón nhận. Trong loạt bài mang tiêu đề Văn học Việt Nam hiện đại đăng
nhiều kỳ trên tuần báo Loa từ tháng 7 đến tháng 10/1935, nhà phê bình Trương
Tửu đã đánh giá cao hai truyện ngắn của Lưu Trọng Lư là: Người sơn nhân, Ly
Tao tuyệt vọng và tiểu thuyết Tiếng địch trong rừng sim (tức Khói lam chiều).
Trương Tửu đã khẳng định Lưu Trọng Lư là một trong ba nhà văn có lối tả cảnh
mới mẻ nhất, tính đến thời điểm ấy (theo ông: sự tả cảnh ở Thế Lữ có tính cách
kỳ thú /pistoresque/; ở Lan Khai có tính cách xúc cảm /émotionnel/; ở Lưu Trọng
Lư có tính cách thần bí /mystique/)… “Bốn truyện Người sơn nhân, Tiếng địch
trong rừng sim, Hương Giang sử, Ly Tao tuyệt vọng đã thiết lập cho ông một vị
trí chức sắc trong làng văn hiện đại”. “Khi truyện Khói lam chiều được in thành
sách riêng (1936), báo chí văn nghệ Hà Nội có khá nhiều bài khen ngợi, và nhân
đó, đã đánh giá rất khả quan về tương lai tác giả” [6, 84].
Đến đầu năm 1940, vị trí của nhà văn Lưu Trọng Lư ở thể loại tiểu
thuyết không những không còn được đề cao mà còn bị hạ thấp rõ rệt. Đáng
chú ý là nhận định của Vũ Ngọc Phan, trong Nhà văn hiện đại, ông cho rằng,
về thơ thì Lưu Trọng Lư là “một thi sĩ biệt tài”, nhưng về văn xuôi tự sự thì
Lưu Trọng Lư là “một nhà tiểu thuyết rất tầm thường”. Đây là một trong
những nhận định có ảnh hưởng lớn tới cách nhìn nhận và đánh giá của các
nhà nghiên cứu về văn xuôi Lưu Trọng Lư. Từ đây, các sáng tác của ông ít
được quan tâm chú ý và dần rơi vào quên lãng. Trong mục từ “Lưu Trọng
Lư” ở Từ điển văn học in năm 1983 đã được in lại vào năm 2004 hầu như
không có sự thay đổi khi kể tên bốn tác phẩm văn xuôi: Người sơn nhân,
Khói lam chiều, Chiếc cáng xanh, Chiến khu Thừa Thiên, bên cạnh các tác
phẩm thơ và kịch. Trong một vài nỗ lực cố gắng của các nhà nghiên cứu, các tác
phẩm của Lưu Trọng Lư đã dần được quan tâm, đơn cử trong cuốn Từ điển tác
phẩm văn xuôi Việt Nam (từ cuối thế kỷ XIX đến 1945) đã có 7 mục từ mô tả 7
tác phẩm tự sự của Lưu Trọng Lư: Huyền Không Động (tức Trà Hoa Nữ), Con
đười ươi, Nàng công chúa Huế, Huế một buổi chiều, Chiếc cáng xanh, Cô
Nhung.
3
Đặc biệt, từ năm 2011, cùng với quá trình biên soạn sưu tập truyện
ngắn, tiểu thuyết Lưu Trọng Lư cho tới khi bộ sách này hoàn thành, các tác
phẩm của ông mới thực sự bắt đầu được quan tâm trở lại. Từ đó, đã có một số
bài viết đề cập tới vấn đề này, trong đó đáng lưu ý là một số bài viết sau:
Trong bản tham luận mở đầu của Lễ kỷ niệm 100 năm sinh của tác giả Lưu
Trọng Lư, nhà thơ Hữu Thỉnh đã nhấn mạnh thực tiễn sáng tác đa dạng trên khắp
các lĩnh vực văn chương từ thơ đến văn xuôi, kịch, phê bình văn học của tác giả
này. Ở bài viết này, Hữu Thỉnh đã kể lại câu chuyện thú vị về anh lính binh nhì
đọc lén tiểu thuyết Chuyện cô Nhụy như một minh chứng sống động cho sức hấp
dẫn của tiểu thuyết Lưu Trọng Lư. Đồng thời, nhà thơ Hữu Thỉnh cũng đưa ra
những nhận định tinh tế khi đi vào khai thác “một vỉa Lưu Trọng Lư”: “Theo tôi,
trong những nhà văn nổi tiếng trước 1945, Lưu Trọng Lư là một trường hợp đặc
biệt nhất. Đó là một dòng sông hợp lưu cả ba dòng lãng mạn, hiện thực và yêu
nước”, “bảo ông là nhà thơ lãng mạn, rõ quá rồi, không ai phản bác được. Nhưng
ông rất lãng mạn trong thơ đồng thời rất hiện thực trong văn xuôi” [68, 16].
Nhà thơ Vi Thùy Linh ở bài viết Trang văn đời và mối tình mãn kiếp đã
chú ý tới chất trữ tình xuyên thấm trong các sáng tác văn xuôi của Lưu Trọng
Lư: “Ở văn xuôi, tính tự sự với yếu tố tự truyện thường xuyên được sử dụng
như chất liệu để hư cấu hoặc đối tượng để trần thuật. Chất thơ đẫm trong văn
xuôi - một số bài ý thơ được khai thác, phát triển trong các truyện với thi pháp
lãng mạn. Ông nhấn vào các bi kịch tâm hồn, hướng tới những kẻ thất cơ, yếu
thế với nhiều kiểu thất bại” [38]. Tác giả Vi Thùy Linh đã nhận thấy kiểu
nhân vật nổi bật trong sáng tác của Lưu Trọng Lư là: “nhân vật nam thanh, nữ
tú kiểu mới (học trường Pháp Việt), cổ súy tình yêu tự do, ưu tiên phái đẹp
ngay từ cái tên (Cô Nhung, Cô Nguyệt, Cô gái tân thời, Nàng công chúa Huế,
Những nét đan thanh, Cái vò sữa của cô Parrette), khiến văn Lưu Trọng Lư
tới nay vẫn không lạc điệu lỗi thời, mà lấp lánh và lôi cuốn” [38].
Từ đó, tác giả đã nhận thấy mối quan hệ mật thiết, gắn bó giữa thế giới
thơ và thế giới văn xuôi Lưu Trọng Lư: “Thế giới thơ Lưu Trọng Lư tiếp nối
với thế giới văn xuôi, nhiều ý tưởng trong thơ được nhấn mạnh, lan tỏa hơn
4
các truyện ngắn, dài” [38]. Lưu Khánh Thơ cũng có những nhận xét tương
đồng: "nhìn chung các sáng tác văn xuôi của Lưu Trọng Lư thời trước cách
mạng in đậm dấu ấn của một tâm hồn thi nhân. Ông thường để cảm xúc của
mình tràn lên trang giấy, ít tuân thủ những nguyên tắc cần thiết đặc trưng của
thể loại văn xuôi như xây dựng cốt truyện, khắc họa tính cách" [39].
Trong bài viết Lưu Trọng Lư - người viết văn xuôi, tác giả Phong Lê đã
khẳng định những đóng góp của Lưu Trọng Lư với vai trò là một nhà văn bên
cạnh tư cách một nhà thơ. Sau khi thống kê hàng loạt các tác phẩm văn xuôi
của Lưu Trọng Lư, tác giả nhận thấy: “Tất cả tạm tính là 14 cuốn, nhiều hơn
hẳn Xuân Diệu, Thế Lữ; và có thể sánh ngang hoặc vượt hơn nhiều cây bút
văn xuôi tiêu biểu cùng thời như Thạch Lam, Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh, Bùi
Hiển...” [36]. Phong Lê đặc biệt chú ý tới tác phẩm Chiếc cáng xanh, truyện
ngắn Người sơn nhân với những nhận định đề cao về tác phẩm này và tập
trung chủ yếu ở hồi ký Nửa đêm sực tỉnh. Tác giả đã chỉ ra đề tài nổi bật trong
các sáng tác văn xuôi của Lưu Trọng Lư “là tình và mộng, tình và những
tưởng tượng. Những cuộc tình, những mối tình đơn phương hoặc đa chiều,
đem lại hạnh phúc, hoặc tạo nên rắc rối, khổ đau cho con người” [36]. Đặc
biệt, tác giả Phong Lê đã so sánh truyện Lưu Trọng Lư với một số các tác giả
khác và ông đã sắc sảo nhận thấy những nét đặc sắc trong văn xuôi Lưu
Trọng Lư: “những chuyện kỳ ảo, hoang đường như người hóa đười ươi, ma
quỷ đội lốt thiếu nữ... được viết với một bút pháp tự nhiên, dễ dàng, không
quá bận tâm về bố cục, về cấu trúc, tựa như là nghĩ sao viết vậy mà trở nên
lủng củng, rời rạc. Đó là cách viết khác với Thế Lữ, rất nghiêm cẩn, chặt chẽ trong
bố cục, rất chọn lựa trong chi tiết để đạt hiệu quả gây hồi hộp, bất ngờ trong
những truyện trinh thám hoặc kỳ ảo; cũng rất khác với Xuân Diệu trong chăm sóc
kỹ lưỡng cho ý tưởng và lời văn, để cho văn gần với thơ...” [36].
Trong số các bài viết về văn xuôi Lưu Trọng Lư nói chung, đáng chú ý
hơn cả là bài viết Văn xuôi tự sự Lưu Trọng Lư của tác giả Lại Nguyên Ân
trên tạp chí Nhà văn, số 7, năm 2011. Là một người đã dày công sưu tầm,
biên soạn bộ sưu tập truyện ngắn, tiểu thuyết Lưu Trọng Lư, Lại Nguyên Ân
5
đã có dịp được tiếp xúc, tìm hiểu các tác phẩm một cách kĩ lưỡng, sát sao và
cụ thể nhất. Quá trình làm việc nghiêm túc và cẩn trọng trên từng văn bản đã
giúp ông có được cái nhìn tổng quát về sự nghiệp sáng tác văn xuôi. Sau khi
đưa đến cho người đọc một cái nhìn tổng quan về sự thay đổi vị trí của các tác
phẩm văn xuôi Lưu Trọng Lư trong cách đánh giá của các nhà nghiên cứu,
Lại Nguyên Ân đã chỉ ra một vài đặc điểm nổi bật trong sáng tác của nhà văn
này. Tác giả đã chú ý tới sự tác động qua lại trong thế giới nghệ thuật thơ với
thế giới văn xuôi: “thế giới thơ Lưu Trọng Lư thật ra không tách rời, mà
ngược lại, có sự tiếp nối với thế giới văn xuôi do ông sáng tạo, đó là cuộc
sống trong các truyện ngắn truyện dài ông viết. Nhiều khi, một vài ý tưởng
xúc cảm chỉ in gọn trong một vài câu thơ đoạn thơ, sẽ có âm vang rộng dài
hơn, mà không chỉ một lần, trong các truyện ngắn truyện dài” [6, 87]. Bên
cạnh đó, ông còn nhận thấy ranh giới mong manh giữa tiểu thuyết và truyện
ngắn trong sáng tác văn xuôi của Lưu Trọng Lư: “Tựu trung Lưu Trọng Lư
đều gọi các sáng tác văn xuôi tự sự của mình là “tiểu thuyết” (dù là “đoản
thiên tiểu thuyết” tức truyện ngắn, hay là “tiểu thuyết”, “truyện dài”) và triển
khai chúng trong khá nhiều kiểu tác phẩm” [6, 88]. Vấn đề này cũng được
ông nhắc lại trong Lời dẫn của bộ sưu tầm truyện ngắn, tiếu thuyết Lưu Trọng
Lư: “Ranh giới này (tức truyện ngắn và tiểu thuyết) chỉ là tương đối, vì nhiều
truyện ngắn khi đăng lần đầu vẫn được gọi là “đoản thiên tiểu thuyết”, đồng
thời không ít tác phẩm gọi là “tiểu thuyết” cũng chỉ có dung lượng khá nhỏ”
[44, 8]. Lại Nguyên Ân chia các tác phẩm văn xuôi của Lưu Trọng Lư làm ba
kiểu: Truyện thuộc loại thần tiên, ma quái (Hương Giang sử; Trà Hoa nữ;
Người nữ tỳ cuả bà chúa Liễu; Công chúa Lã Mai; Con đười ươi; Một tháng
với ma); truyện viết theo truyền thuyết, dã sử (Con voi già của vua Hàm
Nghi; Chạy loạn); truyện tâm lý xã hội, thế sự. Đồng thời, ông cũng chỉ ra đề
tài chủ yếu trong các sáng tác của Lưu Trọng Lư: “Đề tài hầu hết những
truyện thần tiên này của Lưu Trọng Lư đều là tình yêu: những tình yêu không
bị giới hạn bởi ranh giới tiên - tục, thần - người, thầy tu - gái điếm, v.v…,
những tình yêu như là tham vọng sống sục sôi, làm thành động lực vô song
6
của nhân vật, khiến họ thậm chí sẵn sàng đối mặt với cái chết, đối mặt những
trừng phạt tàn khốc” [6, 89]. Ông còn chú ý tới ba không gian nghệ thuật cơ
bản trong tiểu thuyết Lưu Trọng Lư: vùng thôn quê đồi núi Quảng Bình quê
hương ông; thành phố Huế và thành phố Hà Nội. Bên cạnh đó, Lại Nguyên Ân
đã có những đánh giá sắc sảo về thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Lưu Trọng
Lư: “Về thế giới nhân vật trong truyện của Lưu Trọng Lư, có một nét khá nổi
bật là ông thường xây dựng những nhân vật chính như là những con người thất
bại” [6, 91]. Về nghệ thuật xây dựng nhân vật, Lại Nguyên Ân nhận thấy:
“Không ngẫu nhiên Lưu Trọng Lư thường đưa thư tín vào văn bản: đây từ lâu đã
được xem là cách rất tốt để thể hiện thế giới tâm lý, tư tưởng của nhân vật” [6,
92]. Đặc biệt, Lại Nguyên Ân cũng nhận thấy sự can dự của Lưu Trọng Lư vào
khuynh hướng lãng mạn qua các sáng tác văn xuôi: “một phần đáng kể sáng tác
tự sự của Lưu Trọng Lư, - cũng tương tự sáng tác thơ của ông, - bộc lộ một
khuynh hướng phong cách lãng mạn khá rõ rệt. Lãng mạn, ở thế giới tiểu thuyết
Lưu Trọng Lư, không chỉ biểu lộ ở sự tập trung quá rõ vào các chuyện tình yêu,
trong đó dang dở nhiều hơn hạnh đạt; “lãng mạn” ở văn xuôi tự sự Lưu Trọng
Lư còn lộ rõ thậm chí ở ngay ngôn từ tự sự của ông, một ngôn từ thường trực
khả năng “lên cơn sốt” xúc cảm với những cơn sóng tràn bờ, mở đường cho
độc thoại của nhân vật hoặc các trường đoạn mô tả tâm lý nhân vật và “ngoại
đề trữ tình” của chính người kể chuyện” [6, 94]. Và cuối cùng, Lại Nguyên
Ân khẳng định: “lãng mạn là nét phong cách khá nổi bật ở văn xuôi tự sự
trước 1945 của Lưu Trọng Lư”. Tóm lại trong bài viết này, tác giả Lại
Nguyên Ân đã chú ý tới những đặc điểm nổi bật của văn xuôi Lưu Trọng Lư
ở một số phương diện cơ bản như đề tài, thế giới nhân vật, ngôn ngữ...
Bên cạnh đó, luận văn “Văn xuôi tự sự của Lưu Trọng Lư thời kì trước
1945” của tác giả Hồ Thị Thanh Thủy đã tập trung làm nổi bật đặc trưng
phong cách nghệ thuật Lưu Trọng Lư trước 1945 với ba điểm chính: “Lãng
mạn trong cảm hứng sáng tạo và chọn lựa đề tài”, “Ưu tiên thể hiện thế giới
cảm xúc của con người”, “Tiếp thu linh hoạt kinh nghiệm nghệ thuật của
nhiều khuynh hướng sáng tác”. Từ đó, tác giả đã đi vào phân tích những biểu
7
hiện cụ thể và giá trị của các đặc trưng bút pháp ấy qua các sáng tác cụ thể,
tiêu biểu trong các tác phẩm văn xuôi tự sự của Lưu Trọng Lư. Tác giả luận
văn đã khẳng định: “Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, Lưu Trọng Lư
thuộc vào số những tác giả viết thành công ở cả hai lĩnh vực thơ và văn xuôi.
Những tác phẩm thơ trong phong trào Thơ mới của ông đã được độc giả biết
tới nhiều và bình phẩm ngay từ khi nó mới chào đời. Riêng mảng văn xuôi tự
sự sáng tác thời kì trước năm 1945, tuy còn nhiều ý kiến đánh giá chưa đồng
nhất, song nó đã một lần nữa khẳng định con người cũng như tư tưởng và sự
nghiệp văn học của Lưu Trọng Lư là rất phong phú, cần được nhìn nhận và
đánh giá một cách đầy đủ và toàn diện hơn nữa trong tương lai” [73, 121].
Với hệ thống luận điểm sắc sảo và dẫn chứng cụ thể, luận văn là một trong
những nguồn tư liệu và gợi dẫn quan trọng cho bài viết của chúng tôi.
Như vậy, trong những năm gần đây, các nhà nghiên cứu đã quan tâm
tới các tác phẩm truyện của Lưu Trọng Lư với khá nhiều các bài viết. Song
chưa có một công trình nào đi sâu vào việc nghiên cứu Đặc điểm truyện Lưu
Trọng Lư một cách đầy đủ, hệ thống. Tất cả những ý kiến đánh giá trên đều là
những gợi dẫn quan trọng cho chúng tôi khi nghiên cứu đề tài này.
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi tư liệu khảo sát
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là đặc điểm truyện Lưu Trọng Lư.
3.2. Phạm vi tư liệu khảo sát
Luận văn tập trung khảo sát 54 truyện của Lưu Trọng Lư sáng tác trước
năm 1945 (trừ Chiến khu Thừa Thiên và Chuyện cô Nhụy) được in trong bộ
sưu tập Lưu Trọng Lư - Tác phẩm truyện ngắn, tiểu thuyết (2 tập) do Lại
Nguyên Ân, Hoàng Minh sưu tầm, biên soạn.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn nhằm tìm hiểu:
- Truyện Lưu Trọng Lư trong bối cảnh văn xuôi Việt Nam trước 1945.
- Cảm hứng chủ đạo và những hình tượng nổi bật trong truyện Lưu
Trọng Lư.
8
- Một số nét nổi bật về phương thức thể hiện trong truyện Lưu Trọng Lư.
Qua đó nhằm mang đến một cái nhìn đầy đủ về sự nghiệp sáng tác của
Lưu Trọng Lư, đồng thời, khẳng định những đóng góp của ông trên tiến trình
phát triển của văn xuôi Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
- Phương pháp thống kê, phân loại
- Phương pháp cấu trúc, hệ thống
- Phương pháp so sánh, đối chiếu
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1. Truyện Lưu Trọng Lư trong bối cảnh văn xuôi Việt Nam
trước 1945
Chương 2. Cảm hứng chủ đạo và những hình tượng nổi bật trong
truyện Lưu Trọng Lư
Chương 3. Phương thức thể hiện trong truyện Lưu Trọng Lư
9
Chương 1
TRUYỆN LƯU TRỌNG LƯ
TRONG BỐI CẢNH VĂN XUÔI VIỆT NAM TRƯỚC 1945
1.1. Khái niệm truyện
Truyện là một khái niệm khá quen thuộc trong lịch sử văn học Việt
Nam. Tuy nhiên, khái niệm này được nhìn nhận trên những phạm vi khác
nhau ở từng giai đoạn khác nhau trong tiến trình phát triển của văn học.
Trong giáo trình Lí luận văn học tập hai do Trần Đình Sử chủ biên, các
tác giả đã đề cập khá đầy đủ về nguồn gốc cũng như sự thay đổi trong quan
niệm khái niệm truyện từ xưa cho tới nay. Theo các tác giả: “Thuật ngữ
“truyện” có nhiều nghĩa. Với nguồn gốc chữ Hán, truyện ban đầu có nghĩa là
giải thích kinh nghĩa. Ví dụ Xuân Thu Tả truyện (Ông họ Tả giải thích Kinh
Xuân Thu). Nghĩa thứ hai là bài văn xuôi ghi chép một sự tích nào đó. Đây là
thể loại của sử học. Sách Lĩnh Nam chích quái có tên đầy đủ là “Lĩnh Nam
chích quái liệt truyện”, ghi các sự tích như Hồng Bàng, Bánh chưng, Trầu
cau, Ngư tinh, Hồ tinh v.v” [62, 290]. Từ đó, các tác giả cũng đã đề cập tới
quan niệm về truyện trong phạm vi rộng: “Mở rộng ra trong tiếng Việt thuật
ngữ “truyện” chỉ tác phẩm văn học là một bản kể có miêu tả nhân vật, diễn
biến sự kiện thú vị như truyện cổ tích, truyện thần thoại, truyện cười, truyện
truyền kì, truyện Nôm, truyện thơ, truyện dài, truyện vừa, truyện ngắn, truyện
rất ngắn (mini)…” [62, 291].
Trong quá trình phân biệt các thể loại của truyện và tiểu thuyết, các tác
giả cũng chỉ rõ: “Ở Việt Nam, đến đầu thế kỉ XX người ta mới sử dụng thuật
ngữ “tiểu thuyết” như Trung Quốc. Nhưng đồng thời vẫn sử dụng thuật ngữ
truyện. Truyện dài, truyện vừa, truyện ngắn hoàn toàn đồng nghĩa với các
thuật ngữ trường thiên tiểu thuyết, đoản thiên tiểu thuyết. Tuy vậy, thuật ngữ
“truyện” có cội nguồn sử học và phát triển từ thời trung đại. Thuật ngữ “tiểu
thuyết” tuy mượn từ Trung Quốc nhưng mang nội hàm hiện đại của thể loại
10
văn học châu Âu. Có thể nói, từ truyện đến tiểu thuyết là hai giai đoạn phát
triển của cùng một loại hình văn học. Trong tiếng Việt hiện đại, người ta dùng
thuật ngữ “tiểu thuyết” để chỉ tác phẩm truyện có quy mô lớn, còn quy mô
nhỏ và vừa vẫn gọi là truyện, nhưng thực chất vẫn là một” [62, 291-292].
Tác giả Lại Nguyên Ân trong 150 thuật ngữ văn học cũng đồng nhất
với quan điểm trên khi chỉ ra hai cách hiểu thường gặp của khái niệm truyện:
“Một mặt nó vẫn được dùng để trỏ mọi loại tác phẩm tự sự có cốt truyện nói
chung (bao gồm cả truyền kì, tiểu thuyết), mặt khác lại có lối dùng như
thuật ngữ trỏ dung lượng tác phẩm tự sự (“truyện dài”, “truyện vừa”,
“truyện ngắn”)” [5, 347]. Tác giả cũng chỉ ra sự nhầm lẫn trong quá trình
sử dụng khái niệm truyện và tiểu thuyết, đặc biệt khi nhà văn dùng thuật ngữ
này hay thuật ngữ kia để gọi tên thể loại của tác phẩm mình chấp bút. Trong
thực tế có tác phẩm dạng truyện là tiểu thuyết và có tiểu thuyết là truyện, tuy
không phải bao giờ truyện cũng là tiểu thuyết hay ngược lại. Điều này được
thể hiện rất rõ trong các sáng tác của Lưu Trọng Lư, ông hầu như gọi các
sáng tác văn xuôi tự sự của mình là “tiểu thuyết” (dù là “đoản thiên tiểu
thuyết” tức truyện ngắn, hay là “tiểu thuyết”, “truyện dài”).
Trong Từ điển văn học bộ mới, sau khi chỉ ra nguồn gốc, sự tồn tại của
khái niệm truyện trong hệ thống thể loại văn học Trung Quốc và văn học Việt
Nam với hai cách hiểu cơ bản, các tác giả xác định phân biệt tiểu thuyết và
truyện là điều không dễ dàng. Từ đó khẳng định: “Phạm vi truyện rộng hơn
phạm vi tiểu thuyết” và chỉ ra một số đặc điểm của truyện: “Ở truyện còn giữ
lại nhiều hình thức thể loại khác nhau, đặc biệt là giữ lại những nét thuộc sử
thi “tiền tiểu thuyết”. Ví dụ loại truyện mang tính tiểu sử về nhân vật có
thực, dù được “tiểu thuyết hóa” ở mức nhất định; vì nó thiên hẳn về việc
kể lại một cuộc đời theo các mốc niên biểu.” Và từ đó, các tác giả cũng
minh định những đặc điểm của truyện “Ở truyện, bản thân việc mở rộng
cái thế giới mà nhân vật đi vào, theo dòng chảy của một cuộc đời hoặc sự
đổi thay các ấn tượng về những cảnh và người mà nhân vật tiếp xúc - đã
11
là mục đích của trần thuật, của sự thể hiện nghệ thuật. Ở truyện, chất
giọng của tác giả (hoặc nhân vật kể chuyện) có vai trò lớn” [52, 1838].
Như vậy, có thể nhận thấy, khái niệm truyện được đề cập với hai nghĩa
cơ bản. Trước hết, khái niệm truyện được sử dụng để chỉ mọi tác phẩm tự sự
có cốt truyện nói chung, bao gồm cả truyện ký, tiểu thuyết. Bên cạnh đó, khái
niệm này còn được dùng như một thuật ngữ chỉ dung lượng tác phẩm (truyện
dài, truyện vừa, truyện ngắn, truyện trong lòng bàn tay hay truyện siêu ngắn).
Ở đây, chúng tôi sử dụng khái niệm truyện để gọi toàn bộ sáng tác văn
xuôi của Lưu Trọng Lư với nghĩa truyện chỉ tác phẩm văn học là một bản kể
có miêu tả nhân vật, diễn biến sự kiện thú vị không hạn chế về dung lượng.
Sở dĩ, chúng tôi chọn khái niệm truyện này thay vì “tiểu thuyết” bởi tính chất
thể loại ở khái niệm truyện đã được mờ hóa đi rất nhiều so với tiểu thuyết.
Đặc biệt, áp dụng vào đối tượng cụ thể, chúng tôi nhận thấy trong các sáng
tác của Lưu Trọng Lư, nhà văn hầu như gọi các sáng tác văn xuôi tự sự của
mình là “tiểu thuyết” (dù là “đoản thiên tiểu thuyết” tức truyện ngắn, hay là
“tiểu thuyết”, “truyện dài”). Bởi vậy, lựa chọn khái niệm “truyện” với sự
minh định ý nghĩa như trên sẽ giúp chúng ta một mặt khái quát, mặt khác khu
biệt những tác phẩm của Lưu Trọng Lư trên mảng sáng tác này.
1.2. Tổng quan về sự phát triển của truyện Việt Nam từ 1900-1945
1.2.1. Những tiền đề lịch sử, xã hội và tư tưởng, thẩm mỹ của giai
đoạn văn học đầu thế kỷ XX đến năm 1945
Ðầu thế kỉ XX, Pháp cơ bản đã thực hiện xong công cuộc bình định
trên đất nước ta và đẩy mạnh khai thác thuộc địa, xây dựng trật tự mới. Kể từ
sau cái chết của Phan Ðình Phùng (1896), phong trào chống Pháp theo ngọn
cờ Cần Vương đã thất bại hoàn toàn. Bộ máy cai trị của Pháp được tổ chức lại
theo lối hiện đại hơn, chặt chẽ hơn, có quyền lực hơn và phá dần thế tự trị
làng xã ngày trước trong chế độ phong kiến. Sau hai cuộc khai thác thuộc địa
(từ 1897 đến 1913 và từ 1918 đến 1929), Việt Nam đã chuyển từ xã hội
phong kiến sang xã hội thuộc địa nửa phong kiến.
12
Về kinh tế, đầu thế kỉ XX, nước ta vẫn là một nước nông nghiệp lạc
hậu. Thực dân Pháp thực hiện chính sách kinh tế thực dân, coi Việt Nam và
toàn xứ Đông Dương là thuộc địa để khai thác tài nguyên và tiêu thụ hàng
hóa. Kinh tế hàng hoá kích thích sự phát triển của công thương nghiệp làm
cho thành thị phát triển, làm xuất hiện nhiều nhu cầu mới, phát triển nhiều
nghề mới, tầng lớp thị dân phát triển với thị hiếu hoàn toàn khác với người
nông dân và những ông quan. Nếu như ông quan và người nông dân thích đạo
đức thì tầng lớp thị dân lại vô cùng say sưa với những cuộc phiêu lưu bí ẩn, lạ
lẫm, đặc biệt là sự khám phá, nhìn ngó vào nội tâm của chính mình. Thị hiếu
của tầng lớp thị dân đã dần buộc văn học trở thành hàng hóa, luôn luôn phải
đổi mới và tôn trọng thị hiếu nếu muốn chiếm lĩnh được trái tim của độc giả.
Trong vài ba mươi năm, cơ cấu giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt
Nam đã có nhiều thay đổi. Giai cấp tiểu tư sản thành thị tăng lên đáng kể bao
gồm nhiều tầng lớp: tiểu thương, viên chức, thợ thủ công, học sinh, trí thức
mới… Từ đây xuất hiện một lực lượng sáng tác mới trong đời sống văn học.
Ðó chính là lớp trí thức Tây học, được đào tạo từ các trường Pháp - Việt.
Ngay từ khi còn ở trên ghế nhà trường, họ đã được tiếp thu những di sản văn
học phương Tây, đặc biệt là văn học Pháp, góp phần hình thành những quan
niệm văn học mới. Đây cũng chính là tầng lớp độc giả mới trong xã hội với
một thị hiếu mới. Giai cấp công nhân được hình thành và lớn mạnh nhanh
chóng, ngày càng có vị trí quan trọng trong đời sống chính trị. Giai cấp tư sản
ra đời nhưng yếu ớt và phụ thuộc vào tư bản Pháp. Sự phát triển các đô thị
dẫn đến sự phá sản nông nghiệp, làm cho nông thôn tiêu điều xơ xác. Nông
dân kéo ra thành thị ngày càng đông. Một tầng lớp tiểu tư sản nghèo ngày
càng phát triển, sống bấp bênh ở thành thị.
Như một quy luật tất yếu, những thay đổi về kinh tế, chính trị - xã hội
đã kéo theo sự biến đổi về tình hình văn hoá, tư tưởng. Cùng với quá trình
khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, văn hóa Pháp đã xâm nhập vào Việt
Nam một cách mạnh mẽ. Nền văn hóa đó với sự tiếp thu đa dạng xô bồ, cực
13
đoan có, bình tĩnh, chọn lọc có đã nhanh chóng làm rạn vỡ, đứt gãy những
nền tảng văn hóa cổ truyền phương Đông đã ngự trị hàng ngàn năm trên mảnh
đất này. Sự phân hóa về lối sống, tư tưởng ngày một mạnh mẽ đặc biệt ở tầng
lớp trí thức Tây học thành thị. Việc bãi bỏ chế độ khoa cử Hán học và thay đổi
hệ thống giáo dục đã làm cho chữ Hán và Nho giáo mất dần địa vị trọng yếu. Xã
hội Việt Nam đã có những chuyển biến cơ bản từ ý thức hệ phong kiến sang ý
thức hệ tư sản. Nhu cầu đời sống cá nhân của con người ngày một phức tạp và
tất yếu cái khung chật hẹp của lễ giáo phong kiến không còn phù hợp nữa. Điều
đó kéo theo nhu cầu khẳng định cái tôi trong các tác phẩm văn học ngày càng
mãnh liệt, đòi hỏi sự chuyển mình của văn học cả về nội dung, tư tưởng lẫn hình
thức. Trong xã hội đang chuyển mình mạnh mẽ đó, những xung đột giữa cái cũ
và cái mới trong tư tưởng, lối sống, nếp nghĩ diễn ra gay gắt và cái mới đã tỏ
rõ ưu thế.
Nhắc tới những yếu tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của văn học
thời kì này phải kể đến vai trò của báo chí, hoạt động xuất bản và một công cụ
rất quan trọng là chữ quốc ngữ. Lúc này, in ấn hiện đại từ phương Tây đã thay
thế truyền thống với ưu thế nhanh, giá thành rẻ, số lượng bản in nhiều là tiền
đề cho sự xuất hiện báo chí. Báo chí đã có bước phát triển đi từ công báo đến
bảo chí tư nhân, từ báo chí chữ Hán sang báo chữ quốc ngữ, đi từ những tờ
báo tạp sự sang tờ báo dành riêng cho văn học. Với chức năng cập nhật những
chuyện thời sự thường ngày đang diễn ra, báo chí đã góp phần hướng độc giả
quan tâm đến cuộc sống thường ngày và thị hiếu ấy đã hướng văn học tời thời
hiện tại, cuộc sống thường nhật. Ở giai đoạn đầu chưa có tờ báo riêng cho văn
học nhưng bất cứ một tờ báo lớn nào cũng có một mục dành cho văn học; lâu
dần hình thành ở người đọc nhu cầu được đọc văn học một cách thường
xuyên. Ở các đô thị lớn đã hình thành những độc giả chuyên nghiệp, từ đó
thúc đẩy việc xuất hiện các nhà văn chuyên nghiệp. Cũng thông qua báo chí,
những tác phẩm dịch thuật lần đầu tiên được đến với Việt Nam, vừa giới thiệu
với người Việt những thực đơn văn học mới và giới thiệu cả những khuôn
14
mẫu để các tác giả có thể bước đầu mô phỏng, học tập. Đồng thời, sự phổ
biến của chữ quốc ngữ đã giúp văn học thoát khỏi tính đặc tuyển để hướng tới
đại chúng. Cùng với việc sử dụng chữ quốc ngữ, người Việt cũng nhận ra
diện mạo tâm hồn mình, thúc đẩy khao khát có một khuôn mặt riêng, một dấu
ấn riêng trong văn học.
Tình hình chính trị xã hội Việt Nam có nhiều biến động kéo theo đó là
ý thức thẩm mĩ của con người cũng thay đổi. Lối sống tư sản đã tấn công
quyết liệt vào xã hội phong kiến Việt Nam, cùng với nó là sự du nhập ồ ạt của
nền văn hoá phương Tây. Quan niệm về cái đẹp của cuộc sống, của con
người, cũng như cái đẹp trong nghệ thuật đã có nhiều thay đổi. Ðối với sáng
tác văn chương, trước đây, ông cha ta quan niệm cái đẹp toát lên từ sự hài hoà
cân đối của một bài thơ Ðường luật, từ sự hoàn chỉnh của phép đối, của cách
gieo vần... Giờ đây, những yếu tố đó đang chịu sự lấn át dần bởi chất phóng
khoáng, tự do vừa tìm thấy được từ văn học phương Tây.
Tất cả những yếu tố trên đã trở thành tiền đề cho công cuộc hiện đại
hóa văn học Việt Nam nói chung và truyện Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến
1945 nói riêng.
1.2.2. Sự phát triển của truyện Việt Nam từ 1900 đến 1945
Sự biến đổi mạnh mẽ về chính trị, văn hóa, tư tưởng của xã hội Việt
Nam đầu thế kỉ XX đã kéo theo sự đổi mới của văn học, trước hết ở quan
niệm sáng tác. Các nhà văn thời kì này quan niệm: nhà văn phải quan tâm đến
đối tượng công chúng là toàn thể nhân dân, trong đó có cả quần chúng lao
động. Cho nên, văn học không còn thu hẹp trong một nhóm nhỏ, mà được
công bố rộng rãi bằng nhiều hình thức. Giờ đây người ta tìm cách in ấn để
xuất bản tác phẩm văn học.
Tiếp đó là sự thay đổi về quan niệm về thể loại: tiểu thuyết và kịch
được công nhận là một thể loại văn học. Nếu như nho sĩ ngày trước chuộng
thơ, gởi gắm tâm hồn của mình trong thơ, bộc bạch tâm sự chí khí bằng thơ
thì lớp nghệ sĩ mới hôm nay lại say mê văn xuôi, hướng về văn xuôi nhiều
15
hơn. Họ nhận thấy văn xuôi có nhiều khả năng phản ánh chân thật, cụ thể đa
dạng cuộc sống. Ðối với các nhà nho, vấn đề mô tả hiện thực cuộc sống
không phải là điều mà họ quan tâm đến. Ngược lại, nền văn học mới để hết
tâm sức vào phản ánh hiện thực, vai trò nhận thức của văn học đối với cuộc
sống được nâng cao. Chính vì vậy, sang đầu thế kỉ XX, văn xuôi Việt Nam
đã thể hiện những tiến bộ rõ rệt. Các thể văn xuôi, từ truyện ngắn đến tiểu
thuyết, phóng sự, tùy bút đều phát triển khá mạnh, đặc biệt là các thể truyện.
Chữ quốc ngữ đã được dùng phổ biến ở Nam Bộ cùng với sự xuất hiện
của báo chí từ khoảng ba mươi năm cuối thế kỉ XIX và đã được dùng để sáng
tác văn học (khởi đầu là tiểu thuyết Truyện thầy Lazarô Phiền của Nguyễn
Trọng Quản in năm 1887). Đến đầu thế kỉ XX, phong trào sáng tác văn xuôi
phát triển mạnh mẽ ở Nam Bộ với hàng chục tác giả như Bửu Đình Phú Đức,
Trần Chánh Chiếu, Nguyễn Chánh Sắt, Trần Quang Nghiệp, nổi bật hơn cả
là Hồ Biểu Chánh. Tiểu thuyết quốc ngữ Nam Bộ thời kì này tuy còn in đậm
dấu ấn của văn xuôi trung đại, nhưng đã có những đổi mới khi thể hiện rõ sự
chân thật, đa dạng của cuộc sống thành thị và cả nông thôn. Các tác phẩm
của Hồ Biểu Chánh đã đề cập đến sự áp bức, bóc lột của tầng lớp thống trị ở
nông thôn (địa chủ, hương chức, hội tề ...) đối với dân lành vô tội. Đồng thời,
tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh đã khai thác hiện thực cuộc sống sôi động, bề bộn,
với vô số hạng người khác nhau ở chốn thành thị như những người thợ thuyền
sống chui rúc trong các ngõ hẻm tăm tối, nghèo nàn; giới thông ngôn ký lục,
những kẻ nịnh bợ Tây, sợ sệt quan trên, thích bắt nạt dân lành, ăn chơi trác
táng, trọng tiền tài danh lợi xem nhẹ nhân nghĩa… Hơn nữa, các tác giả đã
đưa ngôn ngữ bình dân, gần với lời ăn tiếng nói hàng ngày mang đặc điểm
phương ngữ Nam Bộ vào trong tác phẩm của mình.
Năm 1925, Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách ra đời được xem là một cột
mốc mở đầu cho tiểu thuyết hiện đại theo khuynh hướng lãng mạn. Bắt đầu từ
năm 1933, nhóm Tự lực văn đoàn với những tên tuổi như Nhất Linh, Khái
Hưng, Hoàng Ðạo, Thạch Lam, Tú Mỡ, Thế Lữ (về sau thêm Xuân Diệu,
16
Trần Tiêu) đã đem lại sự cách tân toàn diện cho tiểu thuyết. Nhờ thức tỉnh ý
thức cá nhân và sự quan tâm đặc biệt đến nhu cầu giải phóng cá nhân, các tác
giả của nhóm Tự lực văn đoàn đã nhiệt thành chống lễ giáo phong kiến, đòi
quyền tự do yêu đương, đề cao hạnh phúc cá nhân thông qua các tác phẩm
tiêu biểu như Nửa chừng xuân, Ðoạn tuyệt, Lạnh lùng, Ðôi bạn, Gia đình,
Thoát ly, Thừa tự... Trong thời kỳ mặt trận dân chủ, tiểu thuyết Tự lực văn
đoàn quan tâm đến cuộc sống của tầng lớp dân nghèo ( Hai vẻ đẹp của Nhất
Linh, Con đường sáng của Hoàng Ðạo…), tuy nhiên “xu hướng bình dân"
của họ chủ yếu mang tính chất cải lương. Tiểu thuyết của nhóm Tự lực văn
đoàn đặc biệt đã có những đóng góp nhất định về phương diện nghệ thuật:
đổi mới trong kết cấu tiểu thuyết hiện đại (đó là lối kết cấu không theo trật
tự thời gian, câu chuyện có thể phát triển theo tâm lý nhân vật và cũng có
thể đột ngột chuyển từ nhân vật này qua nhân vật khác). Hơn thế, họ đã chú
trọng đi sâu khám phá đời sống nội tâm của nhân vật với những diễn biến
tâm lý phong phú và tương đối phức tạp. Đây chính là đóng góp rất đáng
quan trọng của tiểu thuyết Tự lực văn đoàn trong tiến trình văn xuôi Việt
Nam nói chung và tiểu thuyết Việt Nam nói riêng.
Văn xuôi hiện thực phê phán cũng phát triển mạnh mẽ với các tên tuổi
tiêu biểu như Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao,
Nguyên Hồng, Tô Hoài, Bùi Hiển. Các nhà văn hiện thực phê phán chủ yếu
hướng vào phản ánh hiện thực xã hội với tinh thần phê phán, thông qua việc
xây dựng những mâu thuẫn, xung đột xã hội, giai cấp trong hoàn cảnh có tính
điển hình, khắc học tính cách nhân vật trong mối quan hệ chặt chẽ và chịu sự tác
dộng của hoàn cảnh. Tuy nhiên, mỗi nhà văn đều chọn cho mình một lối đi
riêng. Nếu Ngô Tất Tố trong Tắt đèn thành công trong việc xây dựng các xung
đột xã hội dồn nén trong khoảng không gian hẹp và thời gian ngắn, thì Vũ Trọng
Phụng trong Giông tố, Số đỏ lại bao quát bức tranh xã hội, đặc biệt xã hội thành
thị với đủ các mối quan hệ chồng chéo phức tạp. Nhà văn Nam Cao lại thể hiện
biệt tài với việc đề cập tới những vấn đề tưởng chừng rất tủn mủn, nhỏ nhặt
17
trong đời sống, để rồi nhà văn đã lách ngòi bút của mình đi sâu khám phá những
diễn biến vô cùng vi diệu của thế giới tâm hồn con người. Từ đó, gửi gắm biết
bao triết lí nhân sinh sâu sắc tới người đọc. Ngòi bút hiện thực tỉnh táo đi liền
với chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc, năng lực miêu tả và phân tích tâm lí nhân vật
triệt để được xem là những đặc sắc trong sáng tác của Nam Cao. Bên cạnh đó,
truyện ngắn trào phúng của Nguyễn Công Hoan là những bức hí họa rất sinh
động về xã hội đương thời; tập trung xây dựng những nghịch lí, mâu thuẫn đẩy
đến cao trào rồi nhanh chóng mở nút làm tiếng cười bật ra.
Bên cạnh một Nam Cao tỉnh táo, sâu sắc, một Nguyễn Công Hoan hóm
hỉnh, đáo để là Thạch Lam, Thanh Tịnh nhẹ nhàng, tinh tế. Tất cả những gương
mặt ấy đã làm phong phú thêm cho diện mạo của truyện ngắn thời kì này.
Truyện ngắn của Thạch Lam và Thanh Tịnh thấm đẫm chất trữ tình, cốt truyện
thường đơn giản, thiên về khám phá những biểu hiện tâm trạng với những xúc
cảm, cảm giác tinh tế, nhẹ nhàng trong đời sống con người. Trong số những
gương mặt tiêu biểu sáng tác truyện ngắn thời kì này còn phải kể đến Tô Hoài,
Kim Lân, Bùi Hiển với những am hiểu sâu rộng về phong tục và cả những hủ
tục ở nhiều vùng miền. Ngoài ra còn phải kể tới rất nhiều những gương mặt tiêu
biểu khác như Lan Khai, Thế Lữ….
Tóm lại từ năm 1900 đến 1945, truyện Việt Nam vừa có sự kế thừa của
truyện trung đại nhưng nhìn chung đã có sự đổi mới sâu sắc ở mọi phương diện.
Phạm vi phản ánh được mở rộng, hướng tới mọi mặt của đời sống xã hội và con
người, không còn bị gò bó trong mục đích giáo huấn đạo lí. Quá trình hiện đại
hóa được thể hiện rõ nét ở phương diện nghệ thuật. Ngôn ngữ truyện thoát khỏi
lối văn biền ngẫu khuôn sáo, ngôn ngữ đời sống tự nhiên, sinh động đã ồ ạt bước
vào trong tác phẩm. Điểm nhìn trần thuật và ngôi kể thay đổi linh hoạt, nghệ
thuật miêu tả tâm lí được chú trọng. Nhân vật trong truyện hiện đại không còn
đơn thuần là nhân vật loại hình mà mang cá tính, số phận cá thể và hiện lên với
thế giới tâm lí phức tạp.
1.3. Nhìn chung về con người và sự nghiệp sáng tác của Lưu Trọng Lư
18
1.3.1. Lưu Trọng Lư - vài nét về tiểu sử
Theo quan điểm tiếp cận lịch sử phát sinh, nghiên cứu những yếu tố bên
ngoài văn bản như xã hội, văn hóa, nhà văn… để cắt nghĩa tác phẩm là một việc
làm hết sức cần thiết. Mỗi một tác phẩm văn chương đều ra đời trong một bối
cảnh lịch sử, xã hội văn hóa cụ thể. Tất cả những yếu tố đó khúc xạ qua lăng
kính chủ quan của nhà văn, hòa quyện trong quan niệm thẩm mĩ, nhân sinh quan
của tác giả để bước vào tác phẩm. Những ảnh hưởng đó được chắt lọc, thẩm
thấu một cách tự nhiên trong sáng tác của nhà văn. Chính vì vậy, khi đến với
“đứa con tinh thần” của nhà văn, người đọc cần vận dụng một cách thích hợp
những hiểu biết về văn hóa, xã hội đặc biệt cần nghiên cứu cụ thể tiểu sử của
một tác giả để có thể khám phá những tầng sâu ý nghĩa của văn bản. Đối với mỗi
nghệ sĩ nói chung và nhà văn nói riêng, môi trường gia đình có ảnh hưởng rất
lớn đến con đường nghệ thuật của họ. Nhà tâm lí học S.Freud đã phân tích
những ảnh hưởng của người mẹ lên sáng tác của Edga Allan Poe, Đỗ Lai Thúy
từng phân tích những ẩn ức ấu thơ trong sáng tác của Hoàng Cầm… Có thể
nói, những ấn tượng tuổi thơ có sức ám ảnh lớn đối với cuộc đời của mỗi con
người và in đậm dấu ấn trong những sáng tác nghệ thuật của họ.
Lưu Trọng Lư sinh ngày 19 - 06- 1911, tại làng Cao Lao Hạ (nay là xã Bắc
Trạch), huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình, trong một gia đình quan lại nhỏ.
Nói tới những yếu tố ảnh hưởng đến sáng tác của Lưu Trọng Lư không
thể không nhắc tới yếu tố gia đình, đặc biệt là người mẹ. Hình ảnh người mẹ
đã bước vào các tác phẩm của Lưu Trọng Lư, ở tất cả các thể loại từ thơ,
truyện ngắn, tiểu thuyết đến phê bình. Chiếc cáng xanh là dòng kí ức về
những kỉ niệm tuổi thơ, trong đó hình ảnh trung tâm là hình ảnh người mẹ. Ở
những tiểu luận, phê bình sau này ông nhắc đến mẹ như khởi nguồn cho cảm
hứng nghệ thuật của mình. Hình ảnh người mẹ hiện lên qua dòng hoài niệm
da diết đã trở thành hình tượng hết sức ám ảnh. Ngay từ trang đầu tiên của tác
phẩm này ông đã khẳng định: “Người đàn bà thứ nhất đã chiếm giữ cả tâm
hồn bừng sương của tôi là mẹ tôi. Cuốn tiểu thuyết này hay là cuộc đời tôi -
19
tôi có thể nói là bắt đầu từ con đường ấy và người đàn bà ấy. Những cảm giác
đầu tiên của tôi, là do người đàn bà và cái cảnh đường ấy in vào trong tâm
hồn tôi. Và nay tôi là người thế nào, là do những cảm giác đầu tiên đó đã đúc
nên vậy” [46, 931].
Tuy là vợ quan tri huyện nhưng người mẹ của Lưu Trọng Lư vẫn sống
cuộc sống bình dị, có phần lam lũ như bao người phụ nữ nông thôn khác:
“Sinh ở nơi dân dã, mẹ tôi, về nhà họ Trương, mà vẫn giữ cái cốt cách của
dân dã. Tôi còn thấy như mới hôm qua, cái người đàn bà cũ kỹ ấy, mỗi lần ở
chợ về, vất cái nón thượng quai thao xuống đất, đặt cái thúng nặng ở nách
xuống, nhổ bãi trầu, và nhoẻn một nụ cười rộng và bao dung biết chừng nào”
[46, 954]. Tuổi thơ của Lưu Trọng Lư được bao bọc trong môi trường văn
hóa đậm màu sắc dân gian với tập tục nhuộm lá móng tay trong ngày tết
Đoan ngọ, những câu chuyện huyền thoại và đặc biệt là một thế giới phong
phú, sâu nặng nghĩa tình qua những lời ru của mẹ: “Nếu tôi có quyền được
tiếc, ấy là tôi chỉ tiếc không được, từ trong cuống họng tôi, phát ra những
cái điệu nhịp mơ hồ là những tiếng hát ở bên nôi một đứa bé. Tiếng hát ru
của cái dĩ vãng êm đềm, ru một cái tương lai đẹp đẽ” [46, 994]. Ông đồng
thời cũng khẳng định: “Chính mẹ tôi cũng là người truyền lại cho tôi những
phong vị dạt dào của ca dao và có lẽ mẹ tôi không có sự giáo dục đáng kể nào
ngoài sự dạy bảo của những câu ca dao” [40, 264]. Suối nguồn ngọt ngào từ
những câu hát ru của mẹ, phong vị dạt dào của ca dao đã trở thành dòng chảy
êm đềm nhưng giàu nội lực trong sáng tác của Lưu Trọng Lư.
Cũng chính sự hiền từ, tâm hồn nhạy cảm, giàu trắc ẩn của người mẹ đã
ảnh hưởng sâu sắc đến tâm hồn của ông. Người mẹ sống hòa vào thiên nhiên,
giữa đất đai cây cỏ, gắn một phần sinh mệnh của mình với từng giàn trầu,
hàng cau, hàng ngày lo lắng cho nong tằm, cuộn tơ đã truyền cho tâm hồn trẻ
thơ sự say mê, ngây ngất, tình cảm hồn hậu với thế giới cây cỏ: “Tôi thích
nhất là người ta kể cho nghe cái đời của loài cây” [46, 941]. Sự khô héo của
cây cam sành sau cái chết của ông ngoại, sự héo hon của giàn trầu sau sự ra đi
20
mãi mãi của người mẹ khiến ông không khỏi xót xa: “Có một điều này mà
đến nay tôi cũng nhận thấy là cây cối hình như cũng gây ra, và cũng chịu lấy
một phần lớn những đau khổ của đời tôi” [46, 941]. Phải chăng, tiếng thu, âm
thanh xào xạc của rừng thu đã được khơi nguồn tình yêu hồn nhiên, niềm tin
về một linh hồn man mác tồn tại trong mỗi lá cây, ngọn cỏ ấy? Và có lẽ, con
mắt trẻ thơ hồn nhiên trong sáng nhưng cũng hết sức tinh tế ấy đã khiến cho
ngòi bút của ông chạm được tới những âm thanh vi diệu của đất trời, những
âm thanh lặng lẽ gần như vô thanh, đó chính là sự cựa quậy căng tràn trong
linh hồn vạn vật.
Bên cạnh đó, tâm hồn nhạy cảm, lòng trắc ẩn của Lưu Trọng Lư được
thừa hưởng từ người mẹ là một cơ may đặc biệt đối với sự nghiệp sáng tác
của ông. Tình yêu thương vô bờ bến đối với người mẹ tảo tần, chịu thương
chịu khó đã khiến cho Lưu Trọng Lư đặc biệt đồng cảm với nỗi khổ của
người phụ nữ. Cùng với người mẹ, hình ảnh hai người chị gái số phận éo le,
người láng giềng phía nam với cuộc đời đầy đau khổ, bất hạnh nhưng không
nỡ chết vì thương chồng, thương con; người láng giềng phía bắc côi cút,
nghèo rớt mùng tơi, chắt chiu để đốt chút vàng mã mong sưởi ấm linh hồn
của đứa con xấu số đã gợi lên cho ông biết bao niềm trắc ẩn. Và tất cả những
số phận, những cuộc đời ấy đã hòa vào nhau, tạo nên một ấn tượng sâu sắc, để
rồi hình tượng người phụ nữ u buồn, sầu mộng luôn hiển hiện trong các sáng
tác của ông.
Và một lần nữa, trái tim giàu xúc cảm, tràn đầy tình yêu thương đã phải
đối mặt với những chấn động tinh thần mạnh mẽ với nỗi ám ảnh về sự bơ vơ,
lạc lõng giữa cuộc đời trước sự ra đi quá sớm của người mẹ: “Lòng tôi quằn
quại: Tôi không ngờ trong một phút, tôi cách xa mẹ tôi đến thế. Tôi kêu gào
như kẻ điên. Tôi không ngờ, sự đau thương có thể làm cho người ta điên
cuồng được” [46, 958]. Từ cái chết của mẹ, cậu bé mười tuổi ấy luôn phải đối
mặt với cảm giác bị bỏ rơi, bơ vơ, lạc lõng, đặc biệt là sự in đậm về dấu ấn
của sự sống và cái chết trong tâm trí thơ dại. Và cảm thức lưu lạc, niềm nhớ
21
tiếc dĩ vãng đã đeo đuổi suốt cuộc đời của Lưu Trọng Lư. Ông luôn ấp ủ
trong trái tim mình hình ảnh người mẹ ăn trầu, dung dị hiền từ giữa đời
thường, mỗi khi có nắng mới lại đem áo ra phơi trước giậu. Lạc trong quá
khứ, chìm trong mộng ảo, luôn trăn trở tìm kiếm cái đẹp đã lùi xa vào dĩ vãng
là những hệ quả tất yếu của một trái tim mãi lưu luyến trong bóng hình người
mẹ - một biểu tượng cho vẻ đẹp dung dị, thầm lặng của truyền thống: “Tôi
thương tiếc biết bao, khi tôi nghĩ đến cái việc ngày nay trên đất nước tôi, đã
không còn những người đàn bà cũ kỹ, hiền lành như màu áo “cổ y”, những
người đàn bà lặng lẽ mà thâm trầm gần đất cát biết bao, sống giữa những cây
cối thân yêu, hồn của đất nước” [46, 959]. Điều này được thể hiện rõ nét
trong cách cư xử của ông đối với thơ ca truyền thống. Lưu Trọng Lư một mặt
ủng hộ và đấu tranh nhiệt thành cho Thơ mới, nhưng đồng thời ông luôn trân
trọng, gìn giữ vẻ đẹp của thơ ca truyền thống.
Bên cạnh đó, khi nói tới sự ảnh hưởng từ gia đình không thể không
nhắc tới người cha của Lưu Trọng Lư. Nếu như người mẹ là hiện thân cho
những gì dung dị, gần gũi, đằm thắm, tràn đầy yêu thương thì người cha lại là
đại diện tiêu biểu cho nền Hán học nghiêm khắc, nghiệt ngã. Thân sinh của
Lưu Trọng Lư, cụ Lưu Trọng Kiến đỗ cử nhân Hán học, từng có thời làm
quan tri huyện, sau trở về dạy học đúng như hình mẫu nhà nho chuẩn mực. Cả
một đời tôn sùng những giáo lý hà khắc của Nho gia với cách xử sự lí trí đến
tàn nhẫn, ông “muốn đào luyện con cái thành những kẻ phục tùng, cúi đầu mà
chịu, cam tâm mà chịu, đau khổ mà chịu” [46, 961]. Nhưng cũng chính người
cha đã giúp cho Lưu Trọng Lư sớm làm quen với kho tàng văn chương bác
học: “Cha tôi vẫn là một nhà nho đã đưa tôi vào thế giới của văn chương bác
học. Bên võng người, tôi đã được nghe, cũng từ tuổi ấu thơ - nghe cha ngâm
và giảng về những bài thơ, bài văn chữ Hán: từ bài Thu thanh của Âu Dương
Tu đến bài Quy khứ của Đào Uyên Minh. Tử nhỏ, qua giọng ngâm thơ của
cha, tôi đã thấm ít nhiều cái âm điệu của hai câu thơ trong Đằng vương các”
[40, 50]. Sự tác động của môi trường giáo dục Tây học đã giúp Lưu Trọng Lư
22
có cơ hội được tiếp xúc với những tư tưởng mới mẻ của phương Tây, từ đó tạo
nên sự phản ứng mạnh mẽ đối với những giáo huấn lạnh lùng, có phần khắc
nghiệt của người cha: “Cái gương nhẫn nhục ấy, vô lý biết bao, bất công biết
bao, nhưng thầy tôi cũng nhét vào tâm trí các chị tôi tưởng như nhét một món
ăn rất hiền lành. Còn đối với bọn con trai chúng tôi, thầy tôi cũng dạy những
điều tương tự lấy trong cuộc đời của những người đã qua, “chú qua”, “bác
qua”… và nhiều khi cũng lấy ở trong sách vở thánh hiền nữa. Đại để, ý thầy tôi
là muốn đào luyện chúng tôi thành những kẻ phục tùng” [46, 961]. Những
xung đột ngầm của thời thơ ấu chính là căn nguyên sâu xa của sự phản kháng
dữ dội đối với nền Hán học giáo điều và sự sáo mòn trong thơ cũ.
Hình ảnh người mẹ, người cha của Lưu Trọng Lư đã bước vào tác
phẩm của ông, trở thành những hình tượng nghệ thuật sống động. Đồng thời,
gia đình với sự ảnh hưởng trái chiều từ cha và mẹ đã hình thành nên cá tính
và chi phối sự nghiệp sáng tác của Lưu Trọng Lư. Thơ Lưu Trọng Lư thường
thiên về tình cảm mà coi nhẹ lí trí, gần với mạch nguồn của thơ ca dân gian,
từ chối kiểu thơ ca ngâm vịnh, thù tạc có đăng đối chặt chẽ. Những ảnh
hưởng từ người mẹ đã tạo nên niềm hoài niệm da diết đối với quá khứ tươi
đẹp, nỗi sầu mộng trước thực tại, khả năng nắm bắt một cách tinh tế những
rung động vi diệu của tâm hồn con người, lòng trắc ẩn trước vẻ đẹp, thân
phận của người phụ nữ thấm đẫm trong từng trang thơ, trang văn của ông.
Cùng với yếu tố gia đình, quê hương và những mảnh đất Lưu Trọng Lư
từng gắn bó cũng đã tiếp sức cho ông trong hành trình sáng tạo đầy gian khó:
“Cách đây gần một thế kỷ, tôi là học trò nhỏ của trường Tỉnh. Mỗi ngày chủ
nhật, tôi thường cùng với dăm ba bạn trẻ đồng học, sáng sớm hay chiều tà,
ra nơi đây, cửa sông Nhật Lệ. Nơi đây có những cồn cát cao, rất dốc. Cát
trắng mà mịn, kêu chút chít dưới chân. Từ trên cồn cát, tôi lắng nghe tiếng
gió biển rì rào, tiếng dương liễu và cát vỗ vào mặt tôi. Có phải chính nơi
đây, mà gió cát từ tuổi ấu thơ của tôi, đã vã vào tâm hồn tôi một khí vị giang
hồ” [32, 391]. Vùng quê Quảng Bình đã in dấu ở không gian nghệ thuật trong