B
TR
GIÁO D C VÀ ÀO T O
NG
I H C KINH T TP.HCM
HUY HOÀNG
LU N V N TH C S KINH T
TP. H Chí Minh – N m 2000
LỜI NÓI ĐẦU
I. Đặt vấn đề nghiên cứu:
Sản xuất Nông nghiệp trên thế giới hiện nay có nhiều hình thức tổ chức sản
xuất khác nhau. Đến nay trang trại gia đình là hình thức sản xuất ổn định nhất, là
lực lượng sản xuất chủ yếu, tạo ra phần lớn khối lượng nông sản hàng hoá ở các
nước nhất là ở các nước đã phát triển, đã tiến hành công nghiệp hoá và cơ giới
hoá nông nghiệp.
Từ khi có chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần, vận động theo cơ
chế thị trường, có sự quản lý cuả nhà nước, ở Việt Nam đã xuất hiện nhiều loại
hình kinh tế mới trong nông lâm nghiệp, trong đó có kinh tế trang trại.
Đối với nước ta kinh tế trang trại gia đình mới hình thành và đang ở giai
đoạn đầu phát triển trong nền kinh tế thị trường còn sơ khai. Thực trạng, xu hướng
phát triển, định hướng phát triển và các giải pháp đồng bộ cho kinh tế trang trại
gia đình là những vấn đề đang đặt ra một cách bức xúc trên phạm vi cả nước cũng
như ở từng điạ phương. Giải quyết những vấn đề này là giải quyết một trong
những vấn đề cơ bản để phát triển nông nghiệp.
Thật vậy , đối với tỉnh Bà Riạ -Vũng tàu từ sau khi có NQ 10/BCT (
4/1988), NQ TW5 (khoá VII) ban hành tháng 6 1993, luật đất đai năm 1993, đã
xuất hiện mô hình kinh tế trang trại. Kinh tế trang trại phát triển đã tạo ra nhiều
hộ nông dân khá và những người lao động nông nghiệp trong vùng có công ăn
việc làm và thu nhập tăng lên, lao động nhàn rỗi trong xã hội đều được sử dụng
thu hút vào các nông trại. Nhưng họ chưa thật sự an tâm, họ thiếu một hành lang
pháp lý cuả nhà nước bảo hộ cho họ. Bên cạnh đó, chủ trang trại xuất thân từ
người sản xuất nhỏ nên sự hiểu biết về thị trường ít, chưa am hiểu nhiều về khoa
học và công nghệ, chủ yếu quản lý theo kinh nghiệm, vốn còn nhỏ. Hay việc hình
thành cơ cấu sản xuất ở các trang trại mang nặng tính tự phát và còn nhiều bất
hợp lý, trình độ sản xuất còn thấp. Do đó hiệu quả, chất lượng và sức cạnh tranh
cuả các sản phẩm từ kinh tế trang trại có hơn kinh tế hộ nông nghiệp, nhưng còn
thấp so yêu cầu thị trường cũng như so với các sản phẩm cùng loại cuả các nước
trong khu vực, dẫn đến khó tiêu thụ sản phẩm, có thể lâm vào tình trạng khó khăn
thậm chí có thể dẫn đến phá sản.
Vì vậy việc định hướng phát triển kinh tế trang trại ở Tỉnh Bà Riạ
Vũng tàu là cần thiết nhằm tạo một hướng đi đúng, hợp quy luật thúc đẩy việc
khai thác tiềm năng, phát huy nội lực để phát triển nông nghiệp, nông thôn theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại sản xuất hàng hoá quy mô lớn; gắn phát triển
nông nghiệp với công nghiệp, với thị trường trong nước và thế giới.
Với những lý do trên, bản thân tôi chọn đề tài: “ Định hướng phát triển
1
kinh tế Trang trại gia đình ở Tỉnh Bà Riạ- Vũng Tàu” để làm luận án tốt
nghiệp kinh tế chuyên ngành quản trị kinh doanh. Hy vọng công trình nghiên
cứu này sẽ góp một phần nhỏ vào quá trình phát triển kinh tế trang trại gia
đình ơ ûBà Riạ- Vũng tàu .
Vấn đề kinh tế trang trại nói chung và kinh tế trang trại gia đình nói riêng ở
nước ta được đề cập và quan tâm từ sau đổi mới nhất là từ sau 1993. Từ đó đến
nay có nhiều bài viết cuả nhiều nhà nghiên cứu được đăng trên nhiều tạp chí. Tuy
vậy, cho đến nay vẫn cón khá nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề mang tính thời
sự này.
II. Mục tiêu nghiên cứu:
Phân tích cơ sở khoa học vai trò và xu hướng phát triển kinh tế trang trại
gia đình. Từ đó đề xuất định hướng và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế
trang trại gia đình ở tỉnh Bà Riạ- Vũng tàu sao cho đúng hướng và có hiệu quả.
III. Nội dung nghiên cứu
1. Hệ thống và làm rõ những vấn đề lý luận về kinh tế trang trại .
2. Đánh giá thực trạng và xu thế phát triển kinh tế trang trại gia đình ở tỉnh
Bà Riạ- Vũng tàu.
3. Từ thực tiễn sản xuất, đề ra một số định hướng và các giải pháp cụ thể
để có thể quản lý và phát triển kinh tế trang trại gia đình ở tỉnh Bà Riạ Vũng
Tàu. Kiến nghị về chủ trương , cơ chế chính sách, luật pháp đối với loại hình kinh
tế này., hầu góp phần tạo một nội lực mới trong việc phát huy các tiềm năng về
đất đai, lao động, vốn.v.v..... trong nông nghiệp nông thôn.
IV. Đối tượng và phạm vi giới hạn nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là: các trang trại gia đình - là kiểu trang trại độc lập
sản xuất kinh doanh cuả từng gia đình do người có năng lực và uy tín trong gia
đình đứng ra quản lý và lao động chủ yếu là các thành viên trong gia đình ( không
quan tâm tới các loại hình khác như Hợp tác xã, Nông trường ) thuộc các lãnh vực
bao gồm : chăn nuôi, trồng trọt, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối, lâm nghiệp trong
phạm vi tỉnh Bà Rịa- Vũng tàu.
V. Phương pháp nghiên cứu:
Trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng va duy vật lịch sử , luận án còn
sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác như: phương pháp phân tích hệ thống,
phương pháp thống kê so sánh, phưong pháp điều tra chuyên sâu : phỏng vấn.
VII. Bố cục cuả luận án gồm: lời mở đầu, 3 chương, kết luận và danh mục tài
liệu tham khảo.
2
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KINH TẾ TRANG TRẠI
I. NHỮNG GIỚI HẠN CUẢ KINH TẾ TIỂU NÔNG VÀ TÍNH TẤT YẾU
CUẢ KINH TẾ TRANG TRẠI.
Theo nhiều nghiên cứu, tổng kết ở các nước cho thấy kinh tế nông hộ thường phát
triển qua 4 giai đoạn :
- Giai đoạn đầu mang tính kinh tế tự nhiên, con người dựa vào thiên nhiên
nhiều như săn bắn, hái lượm, sản xuất chưa đáp ứng nhu cầu tối thiểu của cuộc
sống.
- Giai đoạn thứ hai, kinh tế hộ sản xuất tự túc, tự cấp nhằm đảm bảo nhu
cầu thiết yếu của gia đình.
- Giai đoạn thứ ba, đã có tích lũy một ít vốn, từng bước mở rộng sản xuất,
từ độc canh cây lương thực, chuyển sang kinh doanh tổng hợp, sản xuất hàng hóa
bắt đầu xuất hiện.
- Giai đoạn thứ tư, nhờ sự phát triển thuận lợi của giai đoạn trước, vốn tích
lũy được nhiều hơn, có điều kiện ứng dụng khoa học kỹ thuật tiến tiến, từng bước
thực hiện cơ giới hóa nông nghiệp. Năng suất, chất lượng, số lượng sản phẩm tăng
vọt so với giai đoạn trước, sản xuất hàng hóa là mục đích chủ yếu, quy mô sản
xuất mở rộng, đẩy mạnh tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm. Từ sản xuất thuần
nông chuyển sang sản xuất kinh doanh tổng hợp nông - công nghiệp- dịch vụ đã
đặt ra, và tìm thị trường tiêu thụ sản phẩm, từng bước hình thành các hợp tác xã
mang tính chất kinh doanh cổ phần.
Trong những năm qua, từ sau nghị quyết 10 của bộ chính trị (4/1988) và
nghị quyết hộ nghị TW 6 (3/1989) gia đình xã viên trở thành đơn vị kinh tế tự chủ.
Hộ nông dân cả nước đã huy động mọi khả năng sẳn có như lao động, vật tư tiền
vốn để sản xuất. Nhờ đó mà nông nghiệp và đời sống nông thôn nhìn chung đã
đạt được kết quả cao hơn các thời kỳ trước, tuy nhiên tỷ suất hàng hóa của nông
hộ còn thấp như quy mô và những điều kiện sản xuất như ruộng đất, vốn, kỹ
thuật, thị trường…bị hạn hẹp, dẫn đến năng suất lao động thấp. Sản phẩm làm ra
mới đủ tự cấp, tự túc, phần còn lại là sản phẩm hàng hóa rất ít. Như C.Mác đã
phân tích về kinh tế tiểu nông: “Những người sản xuất, tức nông dân ở đây đã
tiêu dùng đại bộ phận sản phẩm nông nghiệp là tư liệu sinh hoạt trực tiếp và chỉ
một phần dư ra mới đi vào lưu thông buôn bán với thị trường với tư cách là hàng
3
hóa.(C.Mác toàn tập 25 tr. 520). Đó chính là những giới hạn của kinh tế tiểư nông
hay kinh tế nông hộ. Trong nền kinh tế thị trường như hiện nay, tính chất sản xuất
cuả kinh tế tiểu nông không còn phù hợp nưã mà đòi hỏi phải có 1 hình thức tổ
chức sản xuất khác tiến bộ hơn, phù hợp hơn mang lại hiệu quả kinh tế hơn. Từ đó
kinh tế trang trại ra đời.Do đó xu hướng phát triển từ kinh tế tiểu nông sang kinh
tế trang trại là tất yếu, khách quan của qúa trình phát triển vì những lẽ sau:
- Tích tụ và tập trung tư bản trong sản xuất là quy luật của qúa trình chuyển
từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn, từ sản xuất hàng hóa giản đơn lên sản xuất hàng
hóa trình độ cao. Chỉ khi mà tư liệu sản xuất, vốn, sức lao động được tập trung ở
một quy mô nhất định thì mới có điều kiện phát triển phân công lao động cả chiều
rộng lẫn chiều sâu và sản xuất hàng hóa do vậy phát triển.
- Xuất phát từ quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sau hơn 10 năm đổi mới, cùng với sự tăng
cường tiềm lực cơ sở vật chất kỹ thuật trong nông nghiệp thì một đội ngũ nông
dân sản xuất giỏi, biết làm giàu, có năng lực sản xuất kinh doanh cũng đã từng
bước hình thành. Như vậy là tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất trong
nông nghiệp đã có sự phát triển mới. Do vậy đòi hỏi quy mô sở hữu, quan hệ,
cách thức, công cụ và biện pháp quản lý sản xuất kinh doanh cũng có sự "chuyển
dịch "tương ứng. Thực tiễn cho thấy quy mô qúa nhỏ bé, phân tán về tư liệu sản
xuất, vốn, sức lao động là những cản ngại cho việc cơ giới hóa và việc áp dụng
rộng rãi, có hiệu quả các tiến bộ khoa học - công nghệ vào sản xuất.
- Sự hình thành kinh tế trang trại là kết quả của qúa trình chuyển dịch cơ
cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Đồng thời do đặc điểm, ưu thế vốn có của mình nên kinh tế trang trại lại có khả
năng đáp ứng nhu cầu của sự chuyển dịch cơ cấu công nghiệp và kinh tế nông
thôn đặt ra. Mặt khác, sự phát triển của kinh tế trang trại sẽ tạo ra những điều
kiện và động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn
nhanh hơn, hiệu quả hơn.
- Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn và nâng cao trình độ xã hội hóa thực tế
của nền kinh tế. Nội dung cơ bản của xã hội hóa là gia tăng cả chiều rộng lẫn
chiều sâu sự liên kết, hợp tác sản xuất kinh doanh và đảm bảo những điều kiện
cho sự chuyển hóa linh hoạt về vai trò, vị trí của các khu vực trong nền kinh tế. Sự
phát triển của kinh tế trang trại gắn liền với sự phát triển của phân công lao động
và đồng thời cũng phản ánh trình độ phân công lao động. Phân công lao động
càng cao, thặng dư càng nhiều thì tất yếu quan hệ trao đổi cũng mở rộng và do
vậy, sự liên kết, hợp tác trong sản xuất kinh doanh theo đó cũng gia tăng.
- Xuất phát từ nội dung vận hành của cơ chế kinh tế thị trường. Quy mô,
dung lượng của thị trường được quyết định bởi số lượng, chủng loại hàng hóa.
4
Trong kinh tế thị trường, ai cung cấp được nhiều hàng hóa chất lượng cao, giá cả
thấp thì người đó tăng cường được sức cạnh tranh. Cạnh tranh do vậy, không chỉ
tạo nên sức ép buộc mỗi doanh nhân không những phải lựa chọn công nghệ sản
xuất thích hợp mà còn phải lựa chọn được hướng đầu tư có khoa học, tổ chức lao
động, quản lý kinh doanh của mỗi yếu tố đầu ra đầu vào bảo đảm sinh lợi nhiều
nhất.
Trang trại với ưu thế về quy mô, vừa có điều kiện tăng năng suất lao động,
tăng năng suất trên một đơn vị diện tích, vừa có khả năng khai thác hữu hiệu lợi
thế so sánh của từng vùng lãnh thổ. Nhờ vậy, trang trại có khả năng thực hiện tốt
việc sản xuất ra hàng loạt sản phẩm với chi phí thấp nhất, trên cơ sở đó thúc đẩy
tăng trưởng cả thị trường đầu ra lẫn thị trường đầu vào.
Tóm lại, kinh tế trang trại là mô hình tổ chức sản xuất kinh doanh của một
nền nông nghiệp thương phẩm mà sự xuất hiện vận động của nó nảy sinh từ
những yêu cầu khách quan bởi qúa trình phát triển cơ chế thị trường trong nông
nghiệp, nông thôn. Từ kinh nghiệm các nước trên thế giới và thực tiễn nước ta, có
thể thấy con đường để sản xuất nông nghiệp từ tự cấp, tự túc chuyển sang sản
xuất hàng hóa là con đường phát triển kinh tế trang trại mà phổ biến là trang trại
gia đình.
II. ĐẶC ĐIỂM VÀ XU HƯỚNG VẬN ĐỘNG CUẢ KINH TẾ TRANG TRẠI
GIA ĐÌNH
1. Đặc điểm kinh tế trang trại gia đình
- Kinh tế trang trại gia đình là hình thức tổ chức sản xuất phù hợp với đặc
điểm sản xuất nông nghiệp mà đối tượng chủ yếu là sinh vật. Người chủ trang trại
trực tiếp tác động vào quá trình sinh sản cuả cây trồng, vật nuôi luôn bám sát
ruộng đồng, chuồng trại nên đạt hiệu quả cao trong sản xuất.
- Kinh tế trang trại gia đình thực chất là một tập thể lao động gia đình bao
gồm chủ trại, lao động chính, lao động phụ và khi cần thuê thêm 1 ít lao động. Vì
vậy việc điều hành quản lý lao động rất thuận lợi, đem lại hiệu quả cao.
- Khác với nền sản xuất nông nghiệp tự cung, tự cấp cuả tiểu nông, kinh tế
trang trại là bước phát triển mới, trở thành lực lượng sản xuất quan trọng, nổi bật
trong nền kinh tế nông nghiệp thương phẩm.
- Cơ sở sản xuất cuả kinh tế trang trại gia đình phổ biến là quy mô vưà
phải, gọn nhẹ nên có khả năng thích ứng linh hoạt trước các biến động cuả thị
trường và hoàn cảnh cho phép thay đổi nhanh chóng cơ cấu sản xuất, phương
hướng, tạo thế cạnh tranh có lợi cho nền kinh tế thị trường.
5
- Kinh tế trang trại gia đình tuy là cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể nhưng
không đối lập với kinh tế hợp tác và các loại hình kinh tế khác mà trái lại có khả
năng thông qua liên doanh liên kết để tăng thêm năng lực sản xuất , kinh doianh
cho bản thân nó, đồng thời tạo mối liên hệ thúc đẩy các loại kinh tế khác cùng
phát triển. Nó còn có khả năng dung nạp nhiều trình độ khoa học và công nghệ
khác nhau từ thô sơ đến hiện đại phù hợp với yêu cầu , điều kiện khả năng cho
phép đối với từng loại trang trại để sản xuất sản phẩm với chi phí thấp, có hiệu
quả trong kinh doanh.
2. Xu hướng vận động cuả kinh tế trang trại gia đình
Hoạt động sản xuất kinh doanh cuả tổ chức kinh tế trang trại là phải gắn
với quan hệ thị trường, do thị trường và vì thị trường để tồn tại và phát triển. Tuy
nhiên tuỳ hoàn cảnh cụ thể mà chúng có những quy mô trình độ, mô hình tổ chức
quản lý, tính chất ngành nghề ..... khác nhau, trong trồng trọt cũng như trong chăn
nuôi gia súc, gia cầm, thủy hải sản.......
Phù hợp các yêu cầu, các quy luật kinh tế và đường lối đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá phát triển kinh tế nhiều thành phần theo định hùng
XHCN, xu hướng vận động cuả kinh tế trang trại sẽ có những biểu hiện sau đây:
Một là, quy mô tích tụ ruộng đất sử dụng sẽ dừng lại ở mức trung bình
khoảng 5-10 ha/trang trại
Hai là, việc đầu tư sản xuất kinh doanh sẽ ngày càng hướng vào phát triển
theo chiều sâu.
Ba là, phát triển kinh doanh tổng hợp.
III . VAI TRÒ KINH TẾ TRANG TRẠI GIA ĐÌNH TRONG QUÁ TRÌNH
CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ NÔNG NGHIỆP NÔNG NÔNG
THÔN.
- Thúc đẩy nhanh việc sản xuất hàng hoá: do kinh tế trang trại làm ra sản
phẩm để bán nên kích thích sản xuất và đòi hỏi phải cạnh tranh để tồn tại và phát
triển.
- Góp phần đưa sản xuất Nông nghiệp đi lên sản xuất lớn, làm cơ sở cho
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá do : hoạt động theo phương thức sản xuất
hàng hoá , các trang trại phải tìm mọi biện pháp huy động vốn mở rộng sản xuất
để tăng thêm lợi nhuận. Sự tập trung sản xuất đòi hỏi các trang trại phải sử dụng
máy móc để sản xuất nâng cao năng suất lao động, đầu tư khoa học công nghệ
máy móc thiết bị, tăng cường quản lý , nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
- Tăng tích lũy và thu nhập cho đất nước , cho nông daân.
6
- Góp phần thúc đẩy hình thành phân công lại lao động xã hội trong khu
vực và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở địa bàn.
IV. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI
Ở VIỆT NAM VÀ THẾ GIỚI.
1. Lịch sử phát triển kinh tế trang trại các nước trên Thế giới
Trải qua mấy trăm năm phát triển cuả chủ nghiã Tư Bản, dưới tác động cuả
các quy luật kinh tế thị trường, kinh tế trang trại trong nông nghiệp đã ra đời và
phát triển khá phổ biến ở các nước trên thế giới và ngày nay đã trở thành một mô
hình tổ chức kinh tế cơ bản đem lại hiệu quả cao ở nhiều nước.
- Ở Châu u, trước hết Tây u là cái nôi cuả cuộc Cách Mạng Công
nghiệp lần thứ nhất, đồng thời cũng là nơi xuất hiện đầu tiên hình thức tổ chức
sản xuất trang trại gia đình trong nông nghiệp sản xuất nông sản hàng hoá thay
thế cho hình thức tiểu nông và hình thức đại điền trang cuả giai cấp quý tộc.
Ở Nước Anh, theo thực tiễn cho thấy sản xuất nông nghiệp tập trung quy
mô lớn , sử dụng lao động làm thuê không mang lại hiệu quả mong muốn. Vì vậy
chính nước Anh vẫn tồn tại và phát triển kinh tế trang trại gia đình , theo thống kê
năm 1987 ở Anh có 254.000 trang trại.
Ở các nước Châu u khác như Pháp, Đức, Italy, Hà Lan, Đan Mạch, Na
Uy, Th Điển..... trang trại gia đình rất phát triển, sản xuất ra nhiều sản phẩm
hàng hoá. Ví dụ: Ở Pháp năm 1928 có 5.672.000 trang trại gia đình quy mô bình
quân 5,9ha đến năm 1892 số trang trại tăng lên 5.703.000 và quy mô bình quân
5,8ha. Ở Đức năm 1882 có 5.276.000 trang trại quy mô bình quân 6ha đến năm
1907 số trang trại tăng lên 5.736.000 và quy mô bình quân 5,8ha.
Ở Hoa Kỳ năm 1988 có 2.159.000 trang trại nắm 65% diện tích đất đai,
cung cấp 70% giá trị nông sản cả nước.
- Các nước Châu Á là nơi có lượng nông dân nhiều nhất so với các Châu
lục khác , nhưng do chậm tiến hành công nghiệp hoá nên việc chuyển dịch từ kinh
tế tiểu nông sang kinh tế trang trại diễn ra chậm chạp hơn. Tuy nhiên mấy thập
kỷ gần đây ở một số nước Châu Á, trước hết là ở Vùng Đông Bắc Á trong quá
trình phát triển công nghiệp hoá đã và đang diễn ra quá trình hình thành và phát
triển kinh tế trang trại gia đình sản xuất ra nhiều nông sản hàng hoá đem lại hiệu
quả kinh tế rõ rệt, cụ thể như :
Nhật Bản là nước công nghiệp hoá sớm nhất và đạt trình độ cao nhất Châu
Á nên kinh tế trang trại trong nông nghiệp phát triển và trình độ công nghiệp hoá
7
cuả các trang trại rất cao. Tính đến năm 1990 Nhật Bản có 739.000 trang trại, quy
mô bình quân 1,4ha.
Đài Loan và Hàn Quốc là hai nước tiến hành công nghiệp hoá sau Nhật
Bản nhưng kinh tế trang trại cũng rất phát triển, Đài Loan có 821.604 trang trại
quy mô từ 1-2ha. Hàn Quốc có 2.155.000 trang trại.
Trung quốc thời gian gần đây bắt đầu Công nghiệp hoá, kinh tế trang trại
gia đình mới phôi thai từ sau cải cách kinh tế năm 1979. Đến nay xu thế phát
triển kinh tế trang trại gia đình sản xuất nông sản hàng hoá ngày càng rõ nét. Số
lượng trang trại ngày càng tăng, tuy nhiên so với 180 triệu hộ nông dân cả nước
thì tỷ lệ vẫn còn thấp.
Dù là kinh tế trang trại gia đình cuả các nước đi trước như Nhật Bản, Đài
Loan, Hàn Quốc, hay đi sau như Trung Quốc, đều cho thấy kinh tế trang trại phát
triển là xu thế tất yếu trong quá trình công nghiệp hoá đem lại hiệu quả kinh tế xã
hội rõ rệt.
- Các nước Đông Nam Á, trong điều kiện mới bắt đầu công nghiệp hoá,
kinh tế trang trại gia đình cũng đã xuất hiện, tập trung chủ yếu ở các vùng đồi núi
sản xuất nông sản xuất khẩu, còn chính ở vùng Đồng bằng sản xuất lương thực thì
phần lớn vẫn là hộ tiểu nông sản xuất còn mang nặng tính chất tự cung tự cấp.
Ở Malaixia, Inđônexia từ lâu đã có các đồn điền trồng cao su, cà phê sử
dụng công nhân làm thuê theo phương thức tư bản doanh nghiệp. Từ khi giành
được độc lập đã chuyển sang hình thức các công ty quốc doanh và tư nhân sản
xuất kinh doanh theo phương thức cho các hộ nông dân tự khai phá đất đai lập
trang trại sản xuất cây công nghiệp ở vùng tập trung . Quy mô trang trại chỉ từ 12ha là phổ biến, nhưng toàn bộ sản phẩm làm ra đều là hàng hoá. Các công ty
quốc doanh và tư nhân đảm bảo dịch vụ đầu vào, đầu ra cho các trang trại gia
đình sản xuất luá và cây công nghiệp. Đặc biệt ở Malaixia đã tổ chức phát triển
trang trại gia đình ở các vùng đất mới trồng cây công nghiệp xuất khẩu như cao
su, dầu cọ..... khá thành công và đạt hiệu quả cao, tiếp đến là phát triển kinh tế
trang trại trong ngành chăn nuôi gia cầm và bò sưã. Theo số liệu năm 1992 ở
Malaixia có 600.000 trang trại quy mô từ 2-3ha đã sản xuất 4 triệu tấn dầu cọ, 1
triệu tấn cao su, 6,5 triệu tấn dầu thực vật và 23.000 tấn hạt tiêu.
Ở Thái Lan, cũng hình thành các vùng sản xuất nông sản xuất khẩu như cà
phê, cao su, sắn mà lực lượng sản xuất chủ yếu là các trang trại gia đình. Đến
năm 1988 Thái Lan có 5.245 trang trại quy mô bình quân 4,52 ha.
2. Lich sử phát triển kinh tế trang trại ở Việt Nam qua các giai đoạn
2.1 Trước 1975
Ở Việt Nam kinh tế trang trại đã có từ lâu, nhưng có lẽ phải đến khi thực
8
dân Pháp thiết lập chế độ thuộc điạ tại Việt Nam vào cuối thế kỷ XIX thì kinh tế
trang trại mới hình thành rõ nét do người Pháp lập ra các đồn điền trồng cao su ,
cà phê chè ở các tỉnh Miền Đông Nam bộ, Tây Nguyên và miền núi phía Bắc.
- Kinh tế tiểu nông cuả những gia đình bần nông và một phần trung nông
lớp dưới là những gia đình có chút ít ruộng đất và công cụ sản xuất thường phải
lãnh canh ruộng đất cuả địa chủ để cày cấy thêm. Việc làm thuê chỉ là phụ.
- Kinh tế trang trại cuả các địa chủ phú nông . Hoạt động cuả họ theo
phương thúc phát canh thu tô và thuê tầng lớp cố nông, bần nông lao động.
- Kinh tế đồn điền cuả các chủ đồn điền cao su người Pháp, tổ chức sản
xuất cao su trên những diện tích rộng lớn hàng trăm hàng nghìn ha. Đất đai không
phải thuê mướn mà là chiếm không để sản xuất. Chủ Đồn điền chỉ thuê lao động ,
đầu tư máy móc, công cụ giống, phân bón.... để khai hoang và sản xuất. Trong
loại hình kinh tế này máy móc được sử dụng khá rộng rãi. Nhân lực được sử dụng
dưới dạng làm thuê. Họ lao động theo sự hướng dẫn cuả các nhà kỹ thuật và quản
lý. Mọi công việc cuả đồn điền do chính người chủ đảm nhiệm hoặc do những
nhân viên kỹ thuật và quản lý được thuê quản lý. Tuyệt đại bộ phận sản phẩm
cuả nông nghiệp đồn điền được tiêu thụ trên thị trường.
2.2 Từ 1975-1986
Năm 1975 đất nước thống nhất , cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên
CNXH, thực hiện chủ trương cải tạo Nông nghiệp, phần lớn các đồn điền được
quốc hữu hoá, hình thành các nông trường quôc doanh, đẩy mạnh phong trào hợp
tác hoá nông nghiệp đưa nông dân vào hợp tác xã, tập đoàn sản xuất. Đặc điểm
trong thời kỳ nay là kinh tế hợp tác, kinh tế quốc doanh phát triển nhanh chóng,
kinh tế tiểu chủ, hộ gia đình sản xuất hàng hoá giảm bớt. Kinh tế hợp tác càng
phát triển thì kinh tế hộ sản xuất hàng hoá sẽ càng bị thu hẹp.
2.3 Từ 1986 đến nay
- Nghị quyết 10 cuả Bộ Chính trị Trung ương Đảng ( 1988)và nghị quyết
hội nghị trung ương Đảng lần thứ 6 ( khoá VI) đã khẳng định vai trò hộ nông dân,
thưà nhận hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ, nông dân chỉ còn một nghóa vụ
nộp thuế, thực hiện chính sách một giá, với nông dân chủ yếu là giá thoả thuận,
thực hiện thương mại hoá vật tư...
- Đại hội lần thứ VII ghi rõ: “ Ở nông thôn trên cơ sở tăng cường vai trò
kinh tế tự chủ cuả hộ xã viên, các hợp tác xã hướng hoạt động vào những khâu và
lónh vực mà hộ xã viên không có điều kiện tự làm hoặc làm không có hiệu quả”.
“ Các hộ nông dân được nhà nước giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài và cấp
giấy chứng nhận. Luật pháp quy định quyền thưà kế và chuyển quyền quyền sử
dụng ruộng ñaát”
9
- Như vậy sau 30 năm tổ chức phong trào hợp tác hoá, đến nay chúng ta
mới có quan niệm đứng đắn về kinh tế hộ và kinh tế hợp tác trong nông nghiệp.
Từ việc coi hộ gia đình là đơn vị kinh tế tự chủ , nên các hộ được giao quyền sử
dụng đất- tư liệu sản xuất chủ yếu một cách ổn định, lâu dài và có quyền sở hữu
các tư liệu sản xuất khác. Các hộ gia đình hoạt động theo cơ chế thị trường, tự
hạch toán, tự trang trải, lấy thu bù chi và làm ăn có lãi. Đây là nguồn gốc động
lực mới, tạo điều kiện để các hộ gia đình hoạt động theo phưong thức sản xuất
hàng hoá, trở thành các trang trại gia đình. Bên cạnh đóù chính phủ thực hiện
chương trình 327 về phủ xanh đất trống, đồi trọc, chủ trương giao đất, giao rừng
nhiều hộ gia đình miền Đông Nam bộ đã mượn đất trồng rừng, trồng cây công
nghiệp dài ngày như cây cao su, điều.... đã hình thành những hộ có diện tích canh
tác lớn, kinh tế trang trại phát triển nhanh chóng. Cho đến nay có trên 100 ngàn
trang trại hình thành, thu hút hàng chục vạn lao động, tạo ra một khối lượng nông
sản hàng hoá ngày càng cao.
V. KHÁI NIỆM VỀ KINH TẾ TRANG TRẠI
1. Định nghiã cuả một số tác giả về kinh tế trang trại
Ở nước ta kinh tế trang trại có từ lâu đời , tuy nhiên qua các thời kỳ lịch sử
kinh tế trang trại cũng có lúc thăng, lúc trầm.Trong những năm gần đây với đường
lối mới của Đảng chủ trương phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận
động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng XHCN
,hộ nông dân được khẳng định là đơn vị kinh tế tự chủ thì kinh tế trang trại được
phát triển nhanh chóng ở khắp mọi miền đất nước. Song cho đến nay xung quanh
vấn đề kinh tế trang trại có rất nhiều ý kiến khác nhau. Sau đây là một số định
nghóa của một số tác giả về kinh tế trang trại.
Có tác giả cho rằng :” Kinh tế trang trại là loại hình tổ chức sản xuất hàng
hóa lớn trong nông lâm ngư nghiệp của một chủ hộ có sức đầu tư lớn; có năng lực
quản lý trực tiếp quá trình sản xuất kinh doanh; có cái đầu giám nghó cái mà
người khác chưa nghó tới; có cách làm mà người khác không giám làm; có phương
pháp tạo ra sức sinh lợi cao hơn bình thường trên đồng vốn bỏ ra; Có trình độ đưa
những thànhtựu khoa học công nghệ mới kết tinh trong hàng hóa tạo ra sức cạnh
tranh cao hơn trên thị trường xã hội, mang lại hiệu quả kinh tế rất nhiều lần bình
quân kinh tế hộ trong vùng”.
Từø tổng kết thực tiễn kinh tế trang trại tỉnh Bình Dương, Ban Kinh tế Tỉnh
uỷ Bình Dương đưa ra khái niệm:" Kinh tế trang trại là đơn vị sản xuất nông-lâmngư nghiệp, lấy diện tích đất đai là tư liệu chủ yếu để tạo ra sản phẩm hàng hóa,
có thuê mướn lao động, có quy mô diện tíchvà thu nhập lớn hơn mức bình quân
chung của địa phương từ 3 lần trở lên”.
10
Cũng bàn về kinh tế trang trại,ban kinh tế tỉnh ủy Bình Thuận quan niệm:
" Trang trại là hình thức tổ chức sản xuất của các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình tùy
theo từng loại hình có sử dụng diện tích đất đai hơn mức bình quân chung của
vùng từ 7-10 lần trở lên,có thuê mướn lao động, tạo ra tỷ suất hàng hóa cao hơn
nhiều lần so với mức bình quân chung trong vùng”.
Ban kinh tế tỉnh ủy Lâm Đồng cho rằng:"Kinh tế trang trại là hình thức tổ
chức sản xuất có hiệu quả trong nông nghiệp với đặc trưng cơ bản là sản xuất ra
hàng hóa có tỷ suất giá trị cao”.
Ở một tỉnh miền núi phía Bắc, ban kinh tế tỉnh ủy Yên Bái quan niệm kinh
tế trang trại như sau: “Kinh tế trang trại là hình thức kinh tế nông –lâm-ngư
nghiệp, hình thành chủ yếu từ kinh tế hộ gia đình với sự tập trung, tích tụ cao hơn
về đất đai, tiền vốn, lao động chuyên môn hóa với tỷ suất cao hơn. Chủ trang trại
là người có ý chí, có vốn và có kinh nghiệm trong quản lý sản xuất”.
Theo báo cáo số 258/KTTW, ngày 22/08/98 cuả Ban Kinh tế Trung ương
về kết quả hội nghị nghiên cứu kinh tế trang trại đã sơ bộ xác định các đặc trưng
chủ yếu cuả kinh tế trang trại nước ta hiện nay:
- “ Trang trại là một hình thức tổ chức kinh tế trong nông, lâm, ngư nghiệp,
phổ biến được hình thành trên cơ sở kinh tế hộ, nhưng mang tính sản xuất hàng
hoá rõ rệt.
- Các trang trại có sự tập trung, tích tụ cao hơn rõ rệt so với mức bình quân
cuả các hộ kinh tế gia đình trong xã hội ở từng vùngvề các điều kiện sản xuất (
đất đai, vốn, lao động) ; đạt khối lượng và tỷ lệ sản phẩm hàng hoá lớn hơn và thu
được lợi nhuận nhiều hơn.
- Nhìn chung chủ trang trại là những người có ý chí làm giàu, có điều kiện
làm giàu và biết làm giàu, có vốn, trình độ kỹ thuật có khả năng quản lý, có hiểu
biết nhất định về thị trường, bản thân và gia đình thường trực tiếp tham gia lao
động quản lý, sản xuất cuả trang trại đồng thời có thuê mướn thêm lao động để
sản xuất kinh doanh.
- Kinh tế trang trại mang tính chất sản xuất hàng hoá, gắn liền với thị
trường, chính vì vậy có nhu cầu cao hơn hẳn kinh tế hộ, mang nặng tính tự cấp và
tự túc về tiếp thị, về sự tác động cuả khoa học- công nghệ vào sản xuất nông
nghiệp, về sự phát triển cuả công nghiệp, trực tiếp là công nghiệp bảo quản, chế
biến nông lâm thuỷ sản, chế tạo nông cụ nhằm tăng năng suất lao động, hạ giá
thành sản xuất và đáp ứng được đòi hỏi cuả khách hàng về quy cách chất lượng
sản phẩm."
Quy mô sử dụng ( cũng là mức độ tích tụ), các điều kiện sản xuất ( đất, lao động,
vốn) là những yếu tố cơ bản quyết định tính chất sản xuất hàng hoá cuả trang
11
trại.Vì vậy, tiêu chí để xem xét một hộ sản xuất nông lâm ngư nghiệp có phải là
trang trại hay không phải còn căn cứ vào: quy mô sử dụng đất, lao động và tiền
vốn”.
Về định lượng, quy mô cụ thể của các yếu tố này phải phù hợp với từng
loại hình kinh doanh, nhưng nói chung phải đủ để phân biệt một cách rõ rệt so với
mức bình quân của kinh tế hộ trong vùng : có sự khác nhau theo vùng và thay đổi
theo thời gian.
Hiện nay, các trang trại ở nước ta phần lớn có quy mô ruộng đất ở dưới
mức hạn điền: sử dụng dưới 10 lao động thuê mướn thường xuyên . Có thể xem đó
là những trang trại gia đình và thực chất đó là kinh tế tiểu chủ trong nông – lâm –
ngư nghiệp.
Tóm lại:
" Kinh tế trang trại là một loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh nông nghiệp hàng
hoá ( bao gồm cả nông -lâm-ngư nghiệp, công nghiệp chế biến hoạt động dịch vụ)
trên một điạ bàn tương đối tập trung, có tỷ suất về khối lượng hàng hoá lớn; có quy
mô về tích tụ vốn, đất đai, lao động ở một mức độ nhất định phù hợp với từng loại
cây trồng vật nuôi, nghành nghề và địa bàn sản xuất ở một thời điểm xác định. Chủ
trang trại là người có năng lực và trình độ tổ chức quản lý, biết tiếp thu và ứng
dụng các tiến bộ khoa học -công nghệ vào sản xuất kinh doanh làm cho năng suất
cây trồng, vật nuôi, nghành nghề và năng suất lao động không ngừng tăng lên đem
lại hiệu quả kinh tế lớn”
2. Phân loại kinh tế trang trại: Kinh tế trang trại là một loại hình tổ chức
sản xuất kinh doanh nông nghiệp hàng hoá rất phong phú và đa dạng cả về quy
mô cũng như cấp độ phát triển, cả về phương hướng sản xuất kinh doanh cũng như
các hình thức sở hữu và chủ thể quản lý. Do đó cần phải có sự phân loại. Việc
phân loại không phải để phân biệt đối xử , hoặc hạn chế cấm đoán mà chủ yếu là
để hiểu rõ hơn bản chất quy luật vận động riêng cuả từng loại, từ đó đề ra đưộc
một hệ thống các chính sách tác động phù hợp nhằm thúc đẩy kinh tế trang trại
phát triển theo định hướng XHCN.
2..1 Phân theo hình thức tổ chức quản lý
- Trang trại gia đình cuả các hộ kinh tế độc lập sản xuất , kinh doanh
do người chủ quản lý , cón các thành viên khác trong gia đình tham gia sản xuất,
kinh doanh. Đây là hình thức phổ biến nhất ở nước ta và nhiều nước trên thế giới.
- Trang trại hợp tác liên doanh là kiểu trang trại thông thường do 2 ,3
trang trại gia đình tự nguyện hợp nhất lại thành 1 trang trại lớn để đủ sức cạnh
12
tranh với các trang trại có quy mô lớn khác , nhưng vẫn giữ quyền tự chủ sản xuất,
kinh doanh cuả từng trang trại gia đình. Đối tượng liên doanh thường là bà con
thân thuộc hoặc bạn bè thân thiết.
- Trang trại hợp doanh theo cổ phần, tổ chức theo nguyên tắc cuả
công ty cổ phần , chủ yếu là trong dịch vụ cho sản xuất chế biến, tiêu thụ sản
phẩm kinh doanh chuyên môn hoá sử dụng lao động theo chế độ trả công, hợp
đồng.
2.2 Phân theo phương thức sản xuất kinh doanh
- Có trang trại sản xuất thuần nông . Loại này có 2 cấp độ phát triển:
+ Trang trại sản xuất kinh doanh theo hướng chuyên môn hoá,
+ Trang trại sản xuất kinh doanh nhiều cây con nhằm khai thác hợp
lý không gian và thời gian, hệ sinh thái lấy ngắn nuôi dài với nhiều loại hình đa
dạng : VAC (Vườn- Ao- Chuồng) VACR ( Vườn- Ao- Chuồng- Trồng rừng )
- Trang trại kinh doanh tổng hợp cả trồng trọt , chăn nuôi công nghiệp chế
biến , hoạt động dịch vụ. Đây là loại loại trang trại có trình độ phát triển cao nó
làm thay đồi một các cơ bản cơ cấu sản xuất, cơ cấu lao động, cơ cấu thu nhập cuả
kinh tế nông nghiệp, nông thôn.
2.3 Phân loại theo cơ cấu sản xuất: cơ cấu này được xác định căn cứ
vào điều kiện tự nhiên , trình độ sản xuất và thị trường cuả từng vùng
- Trang trại trồng rừng
- Trang trại trồng cây công nghiệp dài ngày: cao su, cà phê, tiêu
điều, chè….
- Trang trại trồng cây công nghiệp ngắn ngày: miá, bông, đậu phộng,
đậu nành….
- Trạng trại trồng cây ăn trái: mít, chôm chôm, sầu riêng, cam quýt,
mãng cầu....
- Trang trại chăn nuôi bò sưã, bò đàn, heo nái, heo thịt gà công
nghiệp, vịt đàn, chim cú, trăn, cá sấu, nuôi cá lồng, nuôi tôm, nuôi ba ba, ếch trai,
lấy ngọc....
- Trang trại kinh doanh sinh vật cảnh: trồng hoa, cây cá cảnh.
3. Tiêu thức để nhận dạng trang trại
Hiện nay, mỗi tỉnh có một tiêu thức riêng để nhận dạng kinh tế trang trại
trên điạ bàn cuả mình. Sắp tới có lẽ cũng cần có sự thống nhất để nhận dạng kinh
13
tế trang trại trên phạm vi cả nước. Tuy vậy , chúng tôi cho rằng tiêu thức để nhận
dạng kinh tế trang trại chỉ mang tính chất quy ước và theo thời gian có thể điều
chỉnh cho phù hợp với tình hình.
Theo suy nghó cuả chúng tôi để nhận dạng trang trại trong thực tế cần phải
lượng hoá môt số chỉ tiêu sau:
- Vốn (Cố định+ Lưu động) được chủ trang trại đưa vào quá trình sản xuất
kinh doanh
- Giá trị tổng sản lượng hàng hoá và thu nhập do trang trại tạo lập ra trong
một năm:có thể có một con số bằng cách so sánh với mức bình quân hộ nông dân
trong vùng hoặc trong phạm vi toàn quốc.
- Số lao động thuê mùn
- Diện tích ruộng đất: có quy mô tuỳ theo đặc điểm ngành nghề sản xuất
kinh doanh và trình độ thâm canh.
Ngoài ra còn còn có thể có một số chỉ tiêu định tính: ứng dụng khoa học kỹ
thuật, công nghệ, trang bị máy móc, thiết bị…. Trong trường hợp trang trại gia đình
thì chủ trang trại phải là người trực tiếp quản lý, điều hành toàn bộ quá trình sản
xuất kinh doanh cuả trang trại.
Từ nhận thức trên, khi tiến hành điều tra thực trạng kinh tế trang trại, Ban
kinh tế Tỉnh Uỷ tỉnh Bà Riạ Vũng tàu lưạ chọn đối tượng điều tra bao gồm những
trang trại có vốn (cố định + lưu động- không kể giá trị quyền sử dụng đất) được
chủ trang trại đưa vào quá trình sản xuất kinh doanh khoảng từ 100 triệu đồng trở
lên. Theo chúng tôi chỉ tiêu về vốn là chỉ tiêu có thể phản ánh khái quát mức độ
tập trung, tích tụ các điều kiện sản xuất kinh doanh , xu hướng sản xuất hàng hoá
và do đó có thể là dấu hiệu ban đầu để nhận dạng kinh tế trang trại.
14
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI
GIA ĐÌNH Ở TỈNH BÀ RIẠ VŨNG TÀU
I. VỊ TRÍ ĐIẠ LÝ VÀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN-KINH TẾ- XÃ HỘI NÔNG
NGHIỆP NÔNG THÔN BÀ RIẠ-VŨNG TÀU
1. Vị trí điạ lý
Tỉnh Bà Riạ - Vũng tàu nằm trong điạ bàn trọng điểm kinh tế phía Nam,
gồm Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương và Bà Riạ Vũng Tàu, với
đơn vị hành chánh: 5 huyện: Xuyên Mộc, Long Đất, Châu Đức, Tân Thành và
Côn Đảo, thị xã Bà Rịa và Thành phố Vũng tàu.
Tổng diên tích tự nhiên 2.006,7 km; chiều dài điạ giới 162,10 km2, chiều
dài bờ biển 305,4 km, trong đó có hơn 70km bãi biển đẹp và thoải.
2. Đặc điểm tự nhiên
Khí tượng
Bà Rịa - Vũng Tàu nằm trong chế độ nhiệt đới gio ùmuà, chịu ảnh hưởng
cua biểûn. Chế độ nhiệt ở Bà Rịa - Vũng Tàu thích hợp cho việc phát triển cây và
con nhiệt đới. Bà Rịa - Vũng Tàu thuộc vùng nắng dồi dào thuận lợi cho sự sinh
trưởng và phát triển cuả cây trồng vật nuôi.
Điều kiện tự nhiên ở Bà Rịa - Vũng Tàu cho phép phát triển nuôi trồng
thuỷ sản ở cả 3 vùng sinh thái (mặn,lợ, ngọt) từ phục vụ yêu cầu nội điạ cho đến
xuất khẩu,cho phép sản xuất các loại tôm giống nước ngọt và tôm biển phục vụ
cho các tỉnh khác.
Đất đai:
“ Tài nguyên đất và khả năng sử dụng đất đai ở Bà Rịa - Vũng Tàu ” của Phân
viện quy hoạch và thiết kế nông nghiệp thì toàn tỉnh có 24 loại đất và được xếp
thành 9 nhóm (xem bảng 1- phần phụ lục)
Trong tổng số 190.742 ha được điều tra khảo sát thì đất có độ dốc 0-8độ là
156.449 ha ( chiếm 82%). Điều đó cho thấy đất đai Bà Rịa Vũng tàu tương đối
bằng phẳng thuận lợi cho cơ giới hoá sản xuất nông nghiệp và giao thông vận tải.
Xét về quy mô diện tích, hiện trạng sử dụng và khả năng thích ứng cuả các
nhóm cây thì bốn nhóm đất có ý nghiã hơn cả trong sản xuất nông nghiệp là các
nhóm: đất đỏ vàng, đất xám, đất đen và đất phù sa.
15
Nếu xét trên độ phì canh tác nông nghiệp, đất đai Bà Rịa - Vũng Tàu chia
thành 6 loại như sau:
Bảng 1: Tính chất đất đai của BRVT
Loại đất
Diện tích (ha)
Tỷ lệ (%)
1.
2.
3.
4.
5.
6.
37.437
50.504
27.030
19.620
16.740
39.556
19,6
26,4
14,0
10,0
9,3
20,7
Đất rất tốt
Đất tốt
Đất trung bình
Đất kém
Đất có khả năng cải tạo
Đất khó cải tạo
Nguồn: Sở địa chính tỉnh BRVT
- Có 37.437 ha đất rất tốt chiếm 19,6% gồm đất tầng dày, đất đỏ bazan. Thích hợp
trồng cây công nghiệp dài ngày như :cao su, hồ tiêu, cây ăn quả.
- Có 50.504 ha đất tốt chiếm 26,4% bao gồm đất màu vàng trên bazan, đất đen,
màu vàng trên phù sa cổ, các loại đất phù sa. Ưu tiên đất phù sa cho canh tác lúa.
Các loại đất còn lại dành cho cây nông nghiệp và hoa màu.
- Có 27.030 ha đất trung bình chiếm 14% gồm đất xám trên phù sa cổ, đất mặn ít
và trung bình, đất dốc tụ. Hướng sử dụng đất xám cho cây công nghiệp dài ngày,
đất mặn để nuôi trồng, đất dốc tụ để trồng lúa.
- Có 19.620 ha chiếm 10% đất kém bao gồm đất cát trắng , đất cát vàng, đất cát
gley và đất đỏ , vàng trên đá phiến sét. Loại đất này thiếu hụt hoặc mất cân đối
về chất din h dưỡng. Hướng sử dụng là chổ nào giải quyết được nước tưới sẽ trồng
rau xanh, thực phẩm; thiếu nước sẽ trồng điều, mãng cầu.
- Có 16.740 ha đất xấu có khả năng cải tạo bao gồm cồn đất, đụn cát, đất xám
trên grant. Tuy hạn chế về độ phì nhưng có khả năng cải tạo cho nông nghiệp.
Nếu không có vốn cải tạo thì cải tạo để trồng rừng có tán che giữ đất.
- Có 39.556 ha chiếm 20,7% đất khó cải tạo như đất phèn, đất sói mòn, trơ sỏi đá,
đất vàng trên grant. Đất ở đây có tầng đất quá mỏng, thiếu độ phì lại ở địa hình
cao, chủ yếu để trồng rừng.
2.3 Nguồn nước và môi trường sinh thái:
- Nguồn nước ở BRVT có 3 lưu vực chính: sông Thị Vải, sông Dinh, sông Ray.
- Sông Thị Vải chảy dọc theo quốc lộ 51,dài 30km, rộng 200- 400m do gần cửa
biển bị thủy triều xâm lấn nên bị mặn quanh năm không dùng cho sinh hoạt và
tưới cây trồng được, chỉ có thể lợi dụng nuôi trồng thủy sản mặn, lợ.
16
- Sông Dinh thượng lưu là sông Xoài, phía Tây quốc lộ 56, dài 58km, lưu vực rộng
504 km2. Các suối Châu Pha, Đá đen, suối son ,suối cầu, suối Nghệ chảy vào
sông Dinh là nguồn nước ngọt chủ yếu của tỉnh. Có hồ Kim Long tưới cho 500 ha
cafê; có 2 đập dâng lớn ( sông Dinh và sông Xoài) và một số đập dâng nhỏ tưới
cho 1.000 ha lúa và cung cấp 30.000 m3 / ngày đêm sinh hoạt
- Hệ thống sông Ray: thượng lưu bắt nguồn từ địa phận tỉnh Đồng nai, dài 120 km
với 1.300km2 lưu vực. Đi qua phía đông tỉnh dài 49km, trên sông đã có 1 trạm
thủy điện và hồ nước nhỏ, đập dâng để tưới cho cây trồng, cũng là một nguồn
nước ngọt quan trọng của tỉnh.
- Nguồn nước ngầm của tỉnh có độ sâu 60 – 90m. Ở khu vực xa sông, suối, đồi cao
từ 15 – 20m là mức có ít nước. Khai thác mực nước ngầm hiện nay có nhà máy
nước ngầm Bà Rịa và Phú Mỹ có công suất 20.000m3 / ngày đêm / nhà máy.
− Môi trường sinh thái: Bà Rịa -Vũng Tàu có hệ sinh thái biển rất điển hình gồm
3 loại chính: hệ sinh thái vùng biển cửa sông, hệ sinh thái nội địa trên đất liền, hệ
sinh thái Côn Đảo. Sinh thái môi trường ở Bà Rịa -Vũng Tàu vấn đề chính là sự
khôi phục cho được thảm thực vật nhiệt đới là sự cân bằng sinh thái ven biển bền
vững.
3. Đặc điểm kinh tế-xã hội:
3.1 Tình hình sử dụng đất đai
Tổng diện tích đất tự nhiên của toàn tỉnh là 200.670 ha, trong đó
diện tích đất nông nghiệp toàn tỉnh không có sự thay đổi lớn, trong giai đoạn năm
1992 – 1995, là 81.968,2 ha chiếm tỷ lệ 40,84% tổng diện tích toàn tỉnh. Cơ cấu
sử dụng đất nông nghiệp cho thấy thế mạnh của tỉnh là cây công nghiệp lâu năm,
cây ăn quả, cây công nghiệp ngắn ngày và các loại màu. Đất chưa sử dụng chiếm
4,92% tổng diện tích đất tự nhiên chủ yếu là đất của nông lâm trường chưa có kế
hoạch đầu tư, một phần là đất của người dân. Họ ngần ngại chưa đầu tư do thiếu
vốn ,xa nhà, xa đường xá và trung tâm.
Theo số liệu của Cục thống kê năm 1994, quy mô đất nông nghiệp bình
quân một hộ nông nghiệp ở Tỉnh Bà Riạ Vũng tàu 8.724m2 (Đông Nam Bộ
9.169m2) ; diện tích đất nông nghiệp bình quân 1 nhân khẩu là 1.626m2 ; 1 lao
động nông nghiệp là: 3.005m2 ( tương ứng với Đông Nam Bộ là 1757m2 và
3184m2) .
Quy mô sản xuất như trên là nhỏ manh mún trong nông nghiệp, là trở ngại
lớn cho việc đối với yêu cầu cơ giới hóa hiện đại hóa theo hướng sản xuất hàng
hoá, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh tế trong sản xuất nông nghiệp.
Tiềm năng về nuôi trồng thuỷ sản còn lớn, chưa khai thác hết (xem bảng 8 - phần
phụ lục).
17
Bảng 2: Tình hình sử dụng đất
Hạng mục
Tổng diện tích tự nhiên
1. Đất nông nghiệp
- Đất trồng cây hàng năm
- Đất trồng cây lâu năm
- Đồng cỏ
2. Đất lâm nghiệp
3. Diện tích mặt nước
4. Đất ở
5. Đất chuyên dùng
6. Đất chưa sử dụng
Diện tích (ha)
200.670,00
81.968,20
34.464,00
47.038,00
192,00
54.282,57
4.316,77
50.017,00
226,74
9.858,72
Tỷ lệ (%)
100,00
40,84
17,17
23,57
0,09
27,05
2,15
24,92
0,12
4,92
Nguồn: Sở địa chính tỉnh BRVT
3.2 Tình hình sản xuất nông nghiệp.
Bảng 3 : Sản Xuất Nông Nghiệp Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
CÁC CHỈ TIÊU
ĐVT
1992
1993
1994
1995
1996
1997
Tốc độ
PHÁT
TRIỂN.
BQ
92/96
Tổng giá trị sản lượng
1- Theo giá hiện hành
- Trồng trọt
- Chăn nuôi
511,275 595,490 690,275 793,148
907
970
tỷ
391,591 433,523 526,076 577,591
đồng
nt
119,684 161,967 164,649 215,557
629
657
278
313
639,698 669,275 690,725 752,760
798
834
106,05
tỷ
484,604 508,118 526,076 569,620 590,5
đồng
nt
155,094 161,157 164,649 183,140 207,5
617
105,14
217
108,78
2- Theo giá CĐ4
- Trồng trọt
- Chăn nuôi
A. TRỒNG TRỌT
1- DTGT cây hàng năm
Ha
58.155
59.801
61.831
64.962 63.080 65.184
102,05
- DT cây lương thực
Ha
40.297
41.387
43.203
46.602 45.792 45.755
103,25
- DT cây thực phẩm
Ha
12.455
13.030
13.148
12.357 12.912 13.000
100,90
- DT cây CN ngắn
Ha
ngày
2. Tổng DT cây lâu năm Ha
5.153
5.255
5.142
5.557 4.116 6.200
94,54
33.473
33.493
41.938
45.291 47.000 47.000
108,86
Nguồn : Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
18
Sản xuất nông nghiệp có sự tăng trưởng khá ổn định với nhịp độ bình quân
hằng năm là 5.18% trong giai đoạn 1991-1997. Cơ cấu cây trồng vật nuôi đã
chuyển đổi theo hướng tăng tỷ trọng các sản phẩm có giá trị kinh tế cao. Diện tích
cây công công nghiệp lâu năm, rau, cây ăn quả tăng nhanh. Đã hình thành một số
vùng tập trung chuyên canh như :
- Cây cao su :19.165ha ( Châu Đức : 9.882ha, Xuyên Mộc: 8.915ha),
- Cây cà phê : 7072ha ( Châu Đức: 4.426ha; Tân Thành: 1.324ha, Xuyên Mộc:
1.161ha), Cây hồ tiêu ( Châu Đức, Xuyên Mộc)
- Cây Điều: 14.800ha ( Xuyên Mộc:6.136ha ,Tân Thành:4.256ha, Châu Đức:
3.475ha),
- Cây bắp: 15.020ha (Châu Đức: 10.053ha, Xuyên Mộc: 3.461ha),
- Cây luá: 21.603ha ( Long Đất: 9.360ha - Châu Đức: 4.072ha - Bà Rịa:3.209hạ), - Cây ăn quả ( Tân Thành Châu Đức, Bà Rịạ).... Chăn nuôi phát triển tương đối
toàn diện.
Qua số liệu trên huyện Châu Đức, Xuyên Mộc có thế mạnh về cây công
nghiệp dài ngày:cao su điều, cà phê, cây bắp và cây mì. Huyện Long đất và thị
xã Bà Riạ nên tập trung cây luá và rau. Huyện Tân thành cây điều và cà phê
3.3 Dân số và lao động nông nghiệp nông thôn
Bà Rịa- Vũng Tàu là một tỉnh công nghiệp và kinh tế dịch vụ trên địa bàn
tương đối phát triển so với một số điạ phương khác nhưng có một bộ phận lớn
nông dân sống bằng nông nghiệp.
Bảng 4: Cơ cấu hộ nông nghiệp phân theo ngành nghề
Tổng số hộ
1. Hộ nông nghiệp
2. Hộ lâm nghiệp
3. Hộ thuỷsản
4. Hộ CN,tiểu thủ CN
5. Hộ xây dựng
6. Hộ thương nghiệp
7. Hộ dịch vụ
8. Hộ khác
Số hộ (hộ)
88.678
50.520
134
9.535
1.010
800
6.884
1.719
18.085
Tỷ lệ (%)
100
54,35
0,15
10,75
1,14
0,90
7,76
1,94
23,03
Nguồn: Cục thống kê tỉnh BRVT
Dân số năm 1997 là 735.377 người. Dân số thành thị là 278.284 chiếm
37,84%, dân số ở nông thôn tập trung khá nhiều 457.093 người chiếm 62,16%
đây là một lợi thế cho nền nông nghiệp của Bà Rịa - Vũng Tàu .
Dân số nông nghiệp là 311.493 người chiếm 42,36%, dân số phi nông
nghiệp là 432.884 người chiếm 57,64%. Lao động nông – lâm nghiệp ( không kể
19
nuôi trồng thủy sản) có 161.320 người chiếm 35,29% dân số nông thôn. Theo số
liệu điều tra nông nghiệp – nông thôn năm 1994 của cục thống kê. Toàn tỉnh có
88.687 hộ nông thôn. Trong đó có 50.520 hộ nông nghiệp chiếm tỷ lệ 54,35%,
134 hộ lâm nghiệp, 9.535 hộ thủy sản, còn lại là các ngành nghề khác.
Lao động nông nghiệp năm 1992 là 167.345 người, đến năm 1995 185.950 người ,
tốc độ tăng bình quân hàng năm là 3,75%.
Kết luận: Nông thôn tỉnh Bà Riạ Vũng Tàu cơ bản vẫn là thuần nông. Lực lượng
lao động nông nghiệp dồi dào và có chiều hướng phát triển
3.4 Cơ sở hạ tầng
* Giao thông: toàn tỉnh có 2.195 km đường bộ gồm 495 km đường nhựa,
158 km đường rải đá, 255 km đường cấp phối và 1.287km đường đất. Quốc lộ 51
nối liền BRVT với khu trọng điểm phát triển kinh tế phía nam. Nhìn chung hệ
thống đường sá, giao thông thủy bộ khá phát triển đây là điều kiện thuận lợi cơ
bản để mở rộng và phát triển sản xuất.
* Thủy lợi: cuối năm 1997, tỉnh BRVT về hồ chứa có 24 cái với dung tích
thiết kế 80.340.000m3, năng lực huy động tưới 4.839 / 9.370; tiêu 12.890 ha /
13.020 ha ( Trong đó nhà nước quản lý 14 hồ chứa với dung tích 52.350.000 m3,
tưới được 2.570 / 7.120 ha). Đa phần hồ chứa thuộc kh vực sông Ray, các đập
dâng nước nằm ở hệ thống sông Dinh. Ngoài ra còn hệ thống đê ngăn mặn dài
86.200m phục vụ được 4.470 ha; đê bao chống lũ dài 6.134m phục vụ cho 600
ha; Có 364.501m kênh mương nội đồng.
* Mạng lưới điện: điện lưới giao thông ngày càng được mở rộng. Cuối năm
1997 đường điện trung thế với 392,63km gồm 668 trạm biến áp với công suất
33,786kw. 100 số xã ( 43 / 43 xã) ở nông thôn có lưới điện quốc gia; 63% số hộ
nông thôn được dùng điện ( Long Đất 72%, Tân Thành 62%, Xuyên Mộc 55%,
Châu Đức 52%).
* Y tế – Giáo dục :
- Cơ sở y tế đã có ở hầu hết các xã bảo đảm sức khỏe cho người lao động.
- Trường lớp giáo dục ở các xã nông thôn ngày một mở rộng bảo đảm việc học
hành cho các em.
- Bên cạnh đó còn có hệ thống thông tin liên lạc phát triển đáp ứng nhu cầu giao
lưu thông tin nhanh nhất phục vụ sinh hoạt và phát triển kinh tế ttrên đại bàn
tỉnh
- Mức sống của những người lao động cũng được nâng lên, số hộ giàu chiếm
15,19%; số hộ khá 48,58%; số hộ trung bình 32,2%; số hộ nghèo 3,99%.
20
3. Đánh giá khái quát những tiềm năng những hạn chế đối với phát
triển nông nghiệp, nông thôn tỉnh Bà Riạ- Vũng tàu.
3.1 Tiềm năng:
- Nằm trong vùng phát triển kinh tế trọng điểm phiá Nam, tiếp giáp Nam Trung
Bộ và Nam Tây Nguyên có hệ thống cảng biển là đầu mối tiếp cận , giao lưu với
các tỉnh trong nước với nước ngoài. Bà Riạ Vũng Tàu có vị trí thuận lới cho việc
phát triển kinh tế giao lưu hàng hoá, thu hút trong và ngoài nước. Tiềm năng phát
triển công nghiệp, kinh tế dịch vụ trên điạ bàn là rất lớn, 2 ngành chiếm tỷ trọng
ưu thế trong cơ cấu GDP trên địa bàn tạo điều kiện phát triển thị trường tiêu thụ
sản phẩm nông nghiệp và thuận lợi cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
thôn.
- Nguồn lao động dồi dào, trong đó lao động nông nghiệp còn chiếm tỷ trọng
đáng kể , có thể đáp ứng nhu cầu lao động cho phát triển kinh tế và chuyển dịch
lao động từ ngành nông nghiệp sang ngành kinh tế khác.
- Có nhiều vùng sinh thái nông nghiệp đa dạng thích nghi với nhiều loại cây trồng
vật nuôi. Có nhiều khả năng mở rộng thêm diện tích cây công nghiệp, cây ăn quả
màu và các cây trồng lâm nghiệp. Tiềm năng về nuôi trồng thuỷ hải sản còn lớn.
Năng suất một số cây trồng vật nuôi ở tỉnh còn ở mức thấp nên có nhiều khả năng
thâm canh, tăng năng suất và chuyển dịch sang các cây trồng vật nuôi có hiệu quả
kinh tế cao hơn trong thời gian tới.
3.2 Hạn chế:
Nhìn chung cơ cấu kinh tế vẫn là thuần nông , manh mún, mức bình quân ruộng
đất trên đầu người ít, số lao động dư thưà, thiếu việc làm còn nhiều năng suất lao
động còn thấp.
II. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI
Ở TỈNH BÀ-RIẠ VŨNG TÀU
Quá trình hình thành kinh tế trang trại ở BRVT có những nét tương đồng với
những tỉnh khác trong vùng Đông Nam Bộ, về đại thể có thể chia làm 3 giai đoạn:
trước 1975, 1975 – 1986, 1986 đến nay.
- Trước năm 1975: Sau khi thiết lập chế độ thuộc địa ở Việt Nam, người Pháp
chủ trương tập trung ruộng đất để thiết lập đồn điền cao su với quy mô diện tích
hàng trăm, hàng ngàn ha. Bên cạnh đó, ở nông thôn vẫn tồn tại tầng lớp địa chủ,
phú nông và số đông nông dân do không có hoặc thiếu ruộng đất phải đi làm
thuê hoặc lónh canh ruộng đất.
21
Sau cách mạng tháng tám và trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ đã
cùng tồn tại hai loại chính sách ruộng đất khác nhau. Vùng do cách mạng kiểm
soát đã thực hiện chính sách người cày có ruộng với việc giảm tô thuế, chia cấp
ruộng đất cho nông dân. Để đối phó với chính sách của cách mạng, chính quyền
Bảo Đại và Ngô Đình Diệm đã ban hành chính sách như quy định mức tối đa của
tô thuế, quy chế tá điền, chế độ tái phân ruộng đất, hạn chế tập trung ruộng đất,
…đã điều chỉnh lại ruộng đất địa chủ từ 100 ha xuống 15 ha, đất hương quả từ 15
ha xuống 5ha.
- Giai đoạn 1975 –1986:
Sau ngày đất nước thống nhất, cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH, thực
hiện chủ trương cải tạo ruộng đất, phần lớn đồn điền được quốc hữu hóa thành
các nông trường quốc doanh bên cạnh đẩy mạnh phong trào hợp tác hóa nông
nghiệp, tập thể hóa ruộng đất, đưa nông dân vào hợp tác xã, tập đoàn sản xuất.
Trong giai đoạn này kinh tế hộ bị lu mờ, hầu hết các trang trại cũ bị mất đi. Tuy
vậy ở thời kỳ phát triển cao, phong trào hợp tác xã hoặc tập đoàn sản xuất
nhưng vẫn còn một bộ phận rất nhỏ kinh tế hộ gia đình sản xuất hàng hóa hoạt
động với phạm vi quy mô sản xuất bị hạn chế rất nhiều. Trong giai đoạn này,chỉ
thị 100 CT/TW của ban bí thư về khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động
trong hợp tác xã nông nghiệp. Chủ trương khoán sản phẩm cuối cùng và người
lao động là một chủ trương có ý nghóa rất quyết định trong việc xác định quyền
tự chủ về sức lao động của nông dân. Như vậy, song song với kinh tế quốc
doanh, kinh tế tập thể, kinh tế tiểu nông, thì tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu vẫn còn tồn
tại một bộ phận nhỏ kinh tế hộ gia đình sản xuất hàng hóa.
- Giai đoạn năm 1986 đến nay:
Kinh tế trang trại phát triển chủ yếu trong giai đoạn này. Có thể nói kinh tế
trang trại ở tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu chính là sản phẩm của đường lối, chính sách,
luật pháp của Đảng và nhà nước của công cuộc đổi mới. Sự hình thành lúc đầu
mang tính tự phát do chưa được chú ý đầy đủ nhưng về sau này được cấp uỷ chính
quyền có sự quan tâm chỉ đạo hơn . Theo kết quả điều tra 30/06/1998 trên địa bàn
tỉnh BRVT có 373 trang trại, trong đó Xuyên Mộc có 93 trang trại, Tân Thành có
162 trang trại, Châu Đức 54 trang trại, Long Đất 18 trang trại , Thị Xã Bà Rịa 12
trang trại, Thành phố Vũng Tàu 33 trang trại.
II. THỰC TRẠNG KINH TẾ TRANG TRẠI GIA ĐÌNH Ở TỈNH BÀ RIẠVŨNG TÀU
1. Hiện trạng kinh tế trang trại nói chung và trang trại gia đình nói
riêng ở tỉnh Bà rịa- Vũng Tàu
22
1.1 Cơ cấu sản xuất kinh doanh
Cơ cấu sản xuất kinh doanh ở tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu rất đa dạng, nó phụ
thuộc vào điều kiện tự nhiên, tập quán và trình độ sản xuất và đặc điểm thị
trường mà hình thành một cách tự phát. Hiện nay, trang trại ở tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu bao gồm một số loại hình sau đây:
Bảng 5: Tình hình phân tổ theo loại hình trang trại
Địa bàn
Tổng Trồng Trồng
trọt
trọt kết
số hộ
hợp CN
trang
trại
Chăn
nuôi
Lâm
Nông
lâm kết nghiệp
lâm kết
hợp
hợp
nuôi
TTS
Nông
Nuôi
trồng
thủy
sản
Làm
muối
Nông
lâm với
TTCN
và dịch
vụ
Tỷ lệ (%)
100
56,56
24,12
1,34
5,63
1,87
1,87
4,55
3,75
0,26
Tổng số
373
211
90
5
21
7
7
17
14
1
1.TP.V.Tàu
33
31
0
0
2
0
0
0
0
0
2.TX.B.Rịa
13
9
1
2
0
0
0
1
0
0
3. Huyện 162
T.Thành
64
75
1
1
3
1
2
14
1
4. Huyện
Châu Đức
54
44
0
1
9
0
0
0
0
0
5. Huyện
Long Đất
18
2
6
0
7
1
0
2
0
0
6. Huyện
Xuyên
Mộc
93
61
8
1
2
3
6
12
0
0
Nguồn: Cục thống kê tỉnh BRVT
* Trang trại trồng trọt:
Từ số liệu thu nhập được ( qua bảng 5) ta nhận thấy toàn tỉnh có 211 trang
trại trồng trọt đây là loại hình trang trại chiếm số lượng lớn nhất (56,83%) .Trong
số 211 trang trại trồng trọt có 112 trang trại đa canh chiếm 53,1% trong tổng số
trang trại trồng trọt các trang trại trồng trọt theo hướng đa canh thường là những
trang trại có diện tích nhỏ, cây trồng chính chưa đến thời kỳ cho sản phẩm và
trang trại thường xen canh cây ngắn ngày như mì, sắn, bắp,... để tận dụng được
thời gian nhàn rỗi của lao động.
Năng suất cây trồng của các trang trại trồng trọt theo phương thức đa canh
thường thấp hơn 0,5 đến 1% so với các trang trại trồng trọt chuyên canh cùng loại
23
cây trồng. Tuy nhiên xét về hiệu quả kinh tế thì trang trại đa canh cao hơn và mức
độ rủi ro của vốn đầu tư vào sản xuất thấp hơn trang trại chuyên canh.
Trang trại chuyên canh có 99 trang trại (chiếm 46,9% trang trại trồng trọt), thường
là những trang trại có diện tích lớn, nhiều vốn có kinh nghiệm và truyền thống lâu
dài về cây trồng chuyên canh. Hiện có 64 trang trại chuyên canh càfê, 31 trang
trại chuyên canh cây ăn quả, trong đó chuyên canh cây nhãn chiếm 60% phần lớn
ở TP. Vũng Tàu (15 trang trại). Ngoài ra còn có 1 số trang trại trồng nhãn ở huyện
Tân Thành.
* Trang trại trồng trọt kết hợp với chăn nuôi:
Hiện nay có 90 trang trại chiếm 24,12% trong số trang trại toàn tỉnh. Tập
trung ở Tân Thành 75 trang trại, Long Đất 6 trang trại, Xuyên Mộc có 8 trang trại,
thị xã Bà Rịa 1 trang trại. Trên 90% doanh thu từ sản phẩm trồng trọt khoảng 10%
còn lại là sản phẩm chăn nuôi. Việc kết hợp chăn nuôi trong mô hình này chưa
thực sự mang tính chất sản xuất hàng hóa, mà nhằm giải quyết việc làm cho các
lao động phụ trong gia đình và kiếm theo thu nhập.
* Trang trại chăn nuôi:
Toàn tỉnh có 5 trang trại, trong đó có 4 trang trại chăn nuôi tổng hợp và 1
trang trại chuyên chăn nuôi bò, các trang trại chăn nuôi thường không có hoặc có
ít diện tích canh tác.
Ngoài sản phẩm chính là thịt và trứng đối với gia cầm. Trang trại chăn nuôi
còn thu phần sản phẩm phụ như phân heo, trâu, bò, để bán cho các hộ sản xuất
nông nghiệp. Bên cạnh đó, các trang trại chăn nuôi còn là nơi sản xuất ra các
giống vật nuôi như heo, gà, vịt,... Năng suất vật nuôi thường cao hơn so với các
trang trại trồng trọt kết hợp với chăn nuôi.
* Trang trại nông lâm kết hợp: có 21 trang trại chiếm 5,6% trong tổng số
Trang trại nông lâm kết hợp là loại mô hình trang trại chuyên môn hóa sản
xuất đi đôi với phát triển tổng hợp. Điểm xuất phát của trang trại này là trang trại
lâm nghiệp. Phần nông nghiệp kết hợp chính chủ yếu là chăn nuôi bò, và 1 số gia
cầm khác, bên cạnh đó còn trồng xen xanh 1 số loại cây trồng ngắn ngày.
* Trang trại nông lâm kết hợp với nuôi trồng thủy sản:
Loại mô hình trang trại này có 7 trang trại chiếm 1,87% tổng số trang trại
toàn tỉnh. Đây là loại hình phát triển tổng hợp và hoàn thiện nhất nhưng trong số 7
trang trại chỉ có 1 trang trại ở Huyện Tân Thành là hội đủ yếu tố: Nông – Lâm –
24