1. Cuộc hành hương vềềVĩ Dạ
a) Trong các nhà thơ mới, Hàn Mặc Tử phải là người bấấ
t hạnh nhấấ
t, l ạ nhấất và ph ức t ạp nhấất. Vì thếấcũng bí
ẩn nhấất. Có ai định tranh chấấp với Tử những cái "nhấất" ấấy không? Ví Tử với ngôi sao ch ổi, ChếấLan Viến đã
thật có lí.
Và cũng như thái độ dành cho một ngôi sao chổi quá lạ, bao ôấng kính thiến văn đã đua nhau chĩa vếềHàn M ặc
Tử. Tiếấ
c thay, cái vừng sáng vừa trong trẻo, vừa chói lói, vừa ma quái phát ra t ừ ngôi sao có s ức cuôấ
n hút bao
nhiếu cũng có sức xô đẩy bấấy nhiếu. Đếấ
n nay đã có bao cu ộc thăm dò, thám hi ểm. V ới m ột hi ện t ượng "bấấ
n
loạn" nhường này, ướm đi ướm lại, người ta thấấy tiện nhấấ
t là xếấp vào loại siếu: nào siếu th ực, siếu th ức, nào
siếu thoát v.v… Vậy mà, nào đã thoát! Rôất cuộc, lơ lửng treo phía trước vẫn cứ còn đó cấu h ỏi: Hàn M ặc T ử,
anh là ai?
Ngày trước, cuộc xung đột "bách gia bách ý" chỉ xảy ra với Hàn Mặc Tử, nói chung. "Đấy thôn Vĩ D ạ" v ẫn
hưởng riếng một không khí thái bình. Phải đếấ
n khi được mạnh dạn tuyển vào chương trình ph ổ thông c ải
cách, sóng gió mới ập đếấ
n cái thôn Vĩ bé bỏng của Tử. Thếấmới biếấ
t, ch ả hôề
ng nhan nào thoát kh ỏi truấn
chuyến! Có người hạ bệ băềng cách chụp xuôấ
ng một lí lịch đen tôấi. Người khác đã đem t ới m ột cái bóng đè.
Không ít người thẳng tay khai trừ "Đấy thôn Vĩ Dạ" khỏi danh sách nh ững kiệt tác thuộc phấề
n tinh chấấ
t c ủa
hôề
n thơ Tử… Ngay những ý kiếấ
n đôề
ng lòng tôn vinh thi ph ẩm này cũng rấấ
t phấn hoá. Ng ười si mế thấấ
y đó ch ỉ
là tỏ tình (với Hoàng Cúc). Người vội vàng bảo răề
ng tả cảnh (cảnh Huếấvà người Huếấ). Người khôn ngoan thì
làm một gạch nôấ
i: tình yếu – tình quế. Kẻ bảo hướng ngoại. Người khăng khăng hướng nội. Lăấm người dựa
hẳn vào môấ
i tình Hoàng Cúc như một bảo bôấ
i để tham chiếấn. Người khác l ại dẹp béng m ảng ti ểu s ử v ới cái
xuấất xứ không ít quan trọng ấấy sang bến để chỉ đột phá vào văn bản không thôi. Người khác n ữa l ại hoàn
toàn "dùng ngoài hiểu trong, dùng chung hiểu riếng", ví như dùng lí sự chung chung vếềcái tôi lãng m ạn và
tấm trạng lãng mạn để áp đặt vào một trường hợp rấấ
t riếng này v.v… Tôi tin Hàn Mặc Tử không bác b ỏ h ẳn
những cực đoan ấấy. Nếấ
u sôấ
ng lại, thi nhấn sẽ mỉm cười độ lượng với mọi ý kiếấn vì quá yếu Vĩ D ạ băềng nh ững
cách riếng tấy mà nghiếng lệch thôi. Ở toàn thể là thếấ.Mà ở chi tiếất cũng không ph ải là ít chuy ện. Ngay m ột
cấu "Lá trúc che ngang mặt chữ điếền" cũng gấy tranh cãi. Cái màn "sương khói" làm "m ờ nhấn ảnh" là ở Vĩ
Dạ hay thuộc chôấ
n người thi sĩ đang chịu bấất hạnh, cũng gấy bấất đôề
ng… Hèn chi, hai t ờ báo nhiếề
u liến quan
đếấn nhà trường và văn chương là Giáo dục & Thời đại và Văn ngh ệ được phen chịu tr ận. Dù muôấ
n hay
không, nó cũng đã thành một "vụ" thực sự thời bấấy giờ. Đếấ
n nay, khó mà nói các ý kiếấ
n đã ch ịu nhau. Tình
hình xem ra khá mệt mỏi, khó đặt được dấấu chấấm hếất. Hai báo đành th ổi còi thu quấn v ới vài l ời ti ểu kếấ
t
nghiếng vếề"điểm danh". Một độ sau, nhà giáo-nhà nghiến cứu Văn Tấm khi so ạn cuôấn Gi ảng văn văn h ọc
lãng mạn (NXB Giáo Dục, 1991) đã điểm sấu hơn.
Rôề
i nhà biến soạn này cũng nhanh chóng trở thành một ý kiếấ
n thếm vào cái danh sách dài dài đó. Cu ộc hành
hương vếềVĩ Dạ lại tiếấp tục đua chen. Khói hương và cả khói lửa, vì thếấ
, tràn lan ra nhiếều báo khác, sang t ận
tờ Tập văn thành đạo của Giáo hội Phật giáo Việt Nam [1], động đếấn cả những người ở Hoa Kỳ, Canada…
Chăấ
c là hiếấm có bài thơ nào trong trẻo thếấmà cũng bí ẩn đếấn thếấ
. Xem ra, cái chúng ta "g ỡ g ạc" đ ược m ới
thuộc phấền "dễ dãi" nhấấ
t ở đó thôi!
b) Phải nói ngay răềng: coi một tác phẩm đã găấ
n làm m ột với cái tến Hàn Mặc Tử l ại không tiếu bi ểu cho tinh
chấất của hôề
n thơ Tử, thì kì thật. Mỗi bài thơ hay, nhấấ
t là nh ững tuyệt tác, bao gi ờ cũng có "m ạng vi m ạch"
nôấ
i với tinh hoa tinh huyếấ
t của hôề
n thơ ấấy. Có điếề
u nó đã đ ược dò tìm ra hay ch ưa thôi. Th ậm chí, m ột h ệ
thôấng kiếấn giải mới vếềhiện tượng Hàn Mặc Tử sẽ khó được coi là thuyếất phục, một khi ch ưa th ử sức ở "Đấy
thôn Vĩ Dạ". Đã đếấn lúc phải lấền ra "mạng vi mạch" của thi phẩm cùng tinh hoa tinh huyếất của thi sĩ.
Trong cảm thụ nghệ thuật, mọi việc khác không thể thay thếấviệc dùng trực cảm thấm nhập vào b ản thấn
tác phẩm. Nhưng việc độc tôn một chiếều với nguyến tăấc ấấy ở đấy đã t ỏ ra không mấấ
y hi vọng, nếấ
u không nói
là trở nến kém thiếng. Thôn Vĩ Dạ dường vẫn "trơ gan cùng tuếấnguyệt", cự tuyệt ngay c ả những linh khiếấ
u
vôấ
n cả tin vào một trực giác đơn thuấề
n. Vĩ Dạ vẫn điếềm nhiến giấấu kín ngay trong s ự trong tr ẻo kia bao bí ẩn
của nó. Muôấn đếấ
n đúng chỗ giấấu vàng của Thôn Vĩ, trực cảm nhấấ
t thiếấ
t ph ải được trang b ị thếm m ột "s ơ đôề
chỉ dẫn", một chìa khoá. Những thứ này, tiếấ
c răề
ng, cũng giấấ
u mình khăấp trong th ơ Hàn M ặc Tử. Nói cách
khác, mỗi tác phẩm sôấng trong đời như một sinh mệnh riếng, tự lập. Có một thấn phận riếng, một giá trị
riếng, tự thấn. Đọc văn, căn cứ tin cậy nhấấ
t, trước sau, vẫn là văn bản tác ph ẩm. Đó là m ột nguyến tăấ
c. Và
nhiếề
u khi không biếất gì vếềtác giả, vẫn có thể cảm nh ận được tác ph ẩm. Nh ưng hiểu và hiểu thấấ
u đáo là hai
cấấp độ. Không am tường tác giả thì khó mà thấấu đáo tác phẩm. Trường hợp trong trẻo mà đấềy bí ẩn nh ư
"Đấy thôn Vĩ Dạ", với một vị thấn sinh đấềy phức tạp nh ư Hàn Mặc Tử càng cấền ph ải thếấ.Nghĩa là: thiếấu cái
nhìn liến văn bản, cùng những khám phá vếềthấn phận, tư tưởng và thi pháp của tác gi ả sẽ khó giúp ta soi
sáng được thi phẩm này.
Trong nhiếều điếề
u cấền cho sự soi sáng thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử, không th ể không nói đếấ
n m ột tình yếu
tuyệt vọng, lôấ
i Thơ Điến và lớp trấề
m tích những biểu t ượng và ngôn ngữ thu ộc hệ thôấ
ng thi pháp c ủa thi sĩ
này. Nếấ
u tình yếu tuyệt vọng quyếấ
t định đếấn điệu tình cảm chung, thì lôấiTh ơ Điến quyếấ
t định trình t ự cấấ
u
tứ, cơ cấấ
u không gian. Trong khi lớp biểu tượng và ngôn ngữ ở tấềng trấề
m tích lại quyếấ
t đ ịnh đếấn h ệ thôấ
ng
hình tượng, hình ảnh của thi phẩm đặc săấc này.
2. Vĩ Dạ trong Đau thương và Thơ điền
a) Ai đã đọc Hàn Mặc Tử hẳn phải thấấy răề
ng tập thơ quan trọng nhấất của thi sĩ chính là Đau th ương. Th ực ra
ban đấều Hàn Mặc Tử đã đặt cho nó một tến khác, dễ sợ hơn: Thơ điến. Hai cái tến có th ể hoán c ải cho nhau,
là một điếề
u đáng để cho ta lưu ý. Nó nói răề
ng Tử ý thức rấấ
t sấu săấc vếềmình. Thì Đau th ương và Điến chính là
Hàn Mặc Tử vậy. Đau thương là cội nguôề
n sáng tạo, còn Điến là hình thức của sáng tạo ấấy. Đọc ra điếề
u này
không khó, nhưng nhận diện bản chấất của Đau thương lại không dễ. Chả thếấmà người ta cứ đánh đôềng
"đau đớn thấn xác" với "đau khổ tinh thấền", và cứ coi Điến chỉ giản đơn là một trạng thái b ệnh lí.
Ngẫm tới cùng Đau thương chính là một tình yếu tuyệt vọng. Ta thường tự cấềm tù trong định kiếấ
n vếềtuyệt
vọng. Thực ra, tuyệt vọng chả như ta vẫn tưởng. Không phải nỗi tuyệt vọng nào cũng làm cho con người gục
ngã. Còn có nỗi tuyệt vọng làm tình yếu thăng hoa. Tuyệt vọng có thể chấấm dứt hi vọng, nh ưng không chấấ
m
dứt tình yếu. Càng mãnh liệt càng tuyệt vọng, càng tuyệt vọng càng mãnh liệt. Con người ta đi đếấn tuyệt
vọng có thể vì những nguyến uỷ rấất riếng tấy kín khuấất, đôi khi ta bấấ
t kh ả tri (m ột thiếấu h ụt, t ổn th ương,
một mấất mát nào đó trong tấm thể, chẳng hạn!). Hàn Mặc Tử có l ẽ thuộc sôấđó. Ai cũng biếất chếấ
t là m ột
cuộc chia lìa tấấ
t yếấ
u và đáng sợ. Sôấ
ng có nghĩa là đang chia lìa. Nh ưng, may thay, hếất th ảy chúng ta đếề
u có
khả năng quến đi mà vui sôấ
ng. Còn ở những người như Tử lại không được trời phú cho cái kh ả năng quến.
Càng măấc những bệnh trấề
m trọng lại càng ám ảnh. Sôấ
ng trong dự cảm khôn nguôi vếềth ời khăấc chia lìa, T ử
thường tự đẩy mình (giời xô đẩy thì đúng hơn) đếấ
n điểm chót cùng của tuyệt vọng để nuôấ
i đời, níu đ ời. Nói
khác đi, Tử làm thơ bến miệng vực của nỗi chếấ
t. Không ai yếu sôấ
ng, yếu đời hơn một người săấp ph ải lìa bỏ
cuộc sôấ
ng! Thơ Tử là tiếấng nói của niếề
m yếu ấấy. Và trong lăng kính lạ lùng c ủa niếềm yếu ấấ
y, c ảnh săấc trấền
gian này thường ánh lến những vẻ khác thường: lộng lẫy, rạng rỡ, thanh khiếấ
t hơn bao gi ờ hếất. Mà càng đ ẹp,
càng tuyệt vọng ; càng tuyệt vọng, lại càng đẹp! Thếấlà Đau thương chứ sao! Đau thương không ch ỉ là cung
bậc mà còn chính là dạng thức cảm xúc đặc thù của Hàn Mặc Tử. Mỗi lấền cấề
m bút khác nào m ột lấền nói l ời
tuyệt mệnh, lời nguyện cuôấ
i. Cho nến mỗi lời thơ Tử thực là một l ời bày t ỏ da diếất đếấ
n đau đ ớn c ủa m ột tình
yếu tuyệt vọng. Và như thếấ,điếề
u oái oăm đã hình thành: Tuyệt vọng đã tr ở thành m ột c ảm quan, m ột cách
thếấyếu đời đặc biệt của Hàn Mặc Tử.
Có thể nói, đó là nghịch lí đau xót của một thấn phận. Và nghịch lí này lại cũng là cấấu trúc của tiếấng nói trữ
tình Hàn Mặc Tử: niếềm yếu là một nỗi đau, mỗi vẻ đẹp là một sự tuyệt vọng, cảnh săấc lộng lẫy chỉ là phía
sáng của tấấm tình tuyệt vọng. Ý thức rõ vếềđiếều này, nến trong bài thơ viếấ
t cho Thanh Huy – m ột ng ười tình
trong mộng – Tử đã tự họa băề
ng cặp hình ảnh nghịch lí trớ trếu: Măất m ờ lệ ở sau hàng ch ữ gấấm. Th ơ Tử là
thếấ! Hàng chữ gấấm (trong trẻo, tươi sáng) chỉ là phía thấấ
y được của đôi măấ
t m ờ l ệ (u ám, đau th ương) khuấấ
t
chìm phía sau mà thôi.
Kếấ
t tinh từ nguôề
n thơ lạ lùng oan trái đó, "Đấy thôn Vĩ D ạ" là l ời t ỏ tình v ới cu ộc đ ời c ủa m ột niếề
m đau
thương, một tình yếu tuyệt vọng.
Nói đếấn một thi phẩm chấn chính là phải nói đếấ
n điệu cảm xúc riếng của nó. Mà ấm đi ệu chính là cái đi ệu
tấm hôề
n, điệu cảm xúc của thi sĩ được hình thức hoá. Đọc thơ, năấ
m được ấm điệu c ủa nó xem nh ư đã năấm
được hôề
n vía của thơ rôề
i. Không cấền phải côấgăấ
ng lăấm người ta cũng thấấ
y ngay m ỗi kh ổ c ủa "Đấy thôn Vĩ D ạ"
đếều vang lến trong ấm hưởng của một cấu hỏi. Ba khổ là những cấu hỏi kếấtiếấ
p, càng vếềsau càng da diếất,
khăấc khoải:
Sao anh không vềềchơi thôn Vĩ?
Nhìn nắắng hàng cau nắắng mới lền
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điềền
…
Thuyềề
n ai đậu bềắn sông trắng đó
Có chở trắng vềềkịp tôắi nay?
…
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biềắt tình ai có đậm đà?
Âm điệu của những cấu hỏi ấấ
y được cấất lến từ một niếề
m thiếất tha với cuộc đời đếấn mức th ương tấm của m ột
hôề
n đau. Ở bài thơ vôấ
n được xem là kiệt tác này, niếề
m yếu đau đáu đếấ
n tuy ệt v ọng còn hoá thấn thành m ột
mặc cảm sấu xa, thấấm đẫm vào toàn thể thi phẩm: mặc cảm chia lìa. Trước tiến, nó quyếất định đếấ
n hình ảnh
cái Tôi của thi sĩ, đôề
ng thời nó đổ bóng xuôấ
ng cảm quan không gian c ủa Hàn M ặc T ử, nó dàn d ựng nến các
tương quan không gian của "Đấy thôn Vĩ Dạ". Đặt bài thơ vào hoàn c ảnh sáng tác và tấm thếấsáng t ạo bấấy gi ờ
của thi sĩ, ta có thể thấấy những điếều ấấ
y rõ hơn.
Sau khi măấ
c bệnh nan y, Hàn Mặc Tử đã coi mình như một cung nữ xấấu sôấbị sôấph ận oan nghiệt đày vào
lãnh cung. Âấy là lãnh cung của sự chia lìa (tôi không nhăềm nói đếấ
n Gò Bôề
i hay Qui Hoà, b ởi đó ch ỉ là hai đ ịa
chỉ hạn hẹp trong cái lãnh-cung-định-mệnh ấấy thôi). Cơ hội vếềl ại cuộc đời cơ hôềkhông còn n ữa. Vô cùng
yếu đời, thiếấ
t tha bao luyếấ
n mọi người, vậy mà Tử đã chủ động cách li, quyếất định tuyệt giao v ới tấất c ả.
Nhưng tuyệt giao chứ không phải tuyệt tình. Thậm chí, càng tuyệt giao, tình nhớ th ương càng mãnh li ệt h ơn
bao giờ hếất. Hăề
ng ngày ở trong cái lãnh cung ấấy, Tử thèm khát thếấgi ới ngoài kia: Ngoài kia xuấn đã thăấ
m hay
chưa? / Trời ở trong đấy chẳng có mùa / Không có niếềm trăng và ý nh ạc / Có nàng cung n ữ nh ớ th ương vua.
Chủ động tuyệt giao chỉ là biểu hiện lộn ngược của lòng thiếấ
t tha găấ
n bó. Hễ tiễn m ột ai đếấn thăm mình vếề
lại Ngoài kia thì chẳng khác nào tiễn người từ chôấ
n lưu đày vĩnh viễn vếềlại cuộc đời, th ậm chí nh ư ti ễn
người từ cõi này vếềcõi khác. Một nửa hôề
n mình coi nh ư đã chếất theo: Họ đã đi rôềi khôn níu l ại / Lòng
thương chưa đã mếấn chưa bưa / Người đi một nửa hôề
n tôi mấấ
t / Một n ửa hôề
n tôi b ỗng dại kh ờ. T ừ bấấ
y trong
thơ Tử hình thành hai không gian với sự phấn định nghiệt ngã: Ngoài kia và Trong này. Nó là s ự cách nhau
của hai cõi, mà khoảng cách băề
ng cả một tấề
m tuyệt vọng – Anh đứng cách xa nghìn thếấgi ới / L ặng nhìn
trong mộng miệng em cười / Em cười anh cũng cười theo nữa / Để nhăấn lòng anh đã t ới nơi. Đ ọc th ơ Hàn,
dễ thấấ
y Ngoài kia và Trong này (hay ở đấy) là hai thếấgi ới hoàn toàn t ương ph ản. Ngoài kia: mùa xuấn, thăấ
m
tươi, đấềy niếề
m trăng, đấề
y ý nhạc, tràn trếềánh sáng, là cuộc đời, trấề
n gian, là s ự sôấng, hi vọng, h ạnh phúc…
Trong này: chẳng có mùa, không ánh sáng, không trăng, không nhạc, ấm u, mờ mờ nhấn ảnh, là lãnh cung, là
trời sấu, là địa ngục, bấất hạnh… Trong này chỉ vếềlại được Ngoài kia băề
ng ước ao thấềm lén, băề
ng khăấ
c kho ải
tuyệt vọng mà thôi.
Tấấm thiếấp phong cảnh của Hoàng Cúc gửi vào lập tức đánh động khát vọng vếềNgoài kia trong hôề
n T ử. Thôn
Vĩ Dạ hiện lến như một địa danh khởi đấều, một địa chỉ cụ thể của Ngoài kia. Nói khác đi, Ngoài kia trong cái
giờ khăấc ấấy đã hiện lến băề
ng gương mặt Vĩ Dạ. Thèm vếềthăm Vĩ Dạ cũng là thèm khát vếềvới Ngoài kia, vếề
với cuộc đời, với hạnh phúc trấền gian. Nghĩa là trong ý thức sáng tạo của Hàn Mặc Tử, Vĩ Dạ vừa là m ột đ ịa
danh cụ thể vừa được tượng trưng hoá [2]. Trong văn bản của thi phẩm này, có th ể thấấ
y t ương quan không
gian như thếấở hai nơi chôấn: "thôn Vĩ" (Ngoài kia) và "ở đấy" (Trong này). Hình t ượng cái Tôi thi sĩ hi ện ra
như một người đang "ở đấy", ở Trong này mà khăấ
c khoải ngóng trông hoài vọng vếề"thôn Vĩ", vếềNgoài kia.
Đó là hình ảnh một cá thể nhỏ nhoi tha thiếất với đời mà đang phải lìa bỏ cu ộc đời, đang bị sôấph ận b ỏ r ơi
bến trời quến lãng, đang chới với trong cô đơn, đang níu đời, nuôấiđời. Đấy thôn Vĩ D ạ ch ẳng ph ải là l ời t ỏ
tình với thếấgiới Ngoài kia của kẻ đang bị lưu đày ở Trong này hay sao? Ch ẳng ph ải l ời t ỏ tình ấấy càng vô
vọng lại càng mãnh liệt, càng mãnh liệt lại càng thếm vô vọng hay sao?
b) Đau thương đã tìm đếấ
n "thơ điến" như một hình thức đặc thù đôấi với Hàn Mặc Tử, nhấất là ở giai đo ạn sau
[2]. Sẽ không quá lời khi nói răềng Tử đã buộc chúng ta phải xét l ại cái quan ni ệm h ẹp hòi lấu nay vếề"điến"
và "thơ điến". Ta quen thấấy điến chỉ như một trạng thái bệnh lí mà quến h ẳn răềng còn có điến nh ư m ột tr ạng
thái sáng tạo. Có không ít người làm thơ côấhọc đòi thơ điến như ch ạy theo một th ứ môấ
t tấn kì, nến ch ỉ là
cách làm ra điến của những người tỉnh queo. Còn điến ở Hàn Mặc Tử là tr ạng thái đau th ương bến trong
đang chuyển hoá thành sáng tạo. Cảm xúc tuyệt vọng, oái oăm thay, lại trở thành hưng phấấ
n sáng t ạo. M ột
hưng phấấn cực điểm, thái quá, khiếấ
n tấm tư xé rào vượt ra kh ỏi những lôấi đi, những biến gi ới thông th ường.
Thi hứng đếấn như một cơn sôấc, sáng tạo như lến đôềng. Chính Hàn cũng tự ý th ức rõ vếềtrạng thái này: "Nàng
đánh tôi đau quá, tôi bật ra tiếấng khóc, tiếấng gào, tiếấ
ng rú(…) Nghĩa là tôi yếấu đuôấi quá! Tôi b ị cám d ỗ, tôi
phản lại tấất cả những gì mà lòng tôi, máu tôi hếấ
t sức giữ bí mật. Và cũng có nghĩa là tôi đã mấất trí, tôi phát
điến…" (Tựa "Thơ điến"). Ra đời như vậy "Thơ điến" thường có những đặc trưng: a) là tiếấng nói của đau
thương với nhiếều biểu hiện phản trái nhau; b) chủ thể nh ư một cái Tôi li-h ợp bấấ
t đ ịnh; c) m ột kếnh hình
ảnh kì dị kinh dị; d) mạch liến kếấ
t siếu logic; e) lớp ngôn từ cực t ả. Với nh ững đặc trưng ấấ
y (đ ặc bi ệt là đi ểm
d) đã khiếấn cho mỗi bài thơ khác nào những xao động tấm linh được tôấc kí trọn vẹn. Nh ững vẻ "điến" này
hiện ra trong các bài thơ thành dòng tấm tư bấất định. Đặc tính này không khó nh ận ra, nếấu tác gi ả viếấ
t th ơ t ự
do. Nhưng ở những bài được viếấ
t thành những khổ tếềchỉnh, vuông vức, tròn trịa, thì vi ệc nh ận biếất khó h ơn
nhiếề
u.
Có hình dung như vậy mới thấấy "Đấy thôn Vĩ Dạ" vẫn cứ là "thơ điến" theo đúng nghĩa. Không có nh ững hình
ảnh kì dị ma quái, những tiếấng kếu kinh dị, nhưng mạch liến kếất toàn bài thì rõ ra là "đ ứt đo ạn", "cóc nh ảy"
[3]. Mạch thơ như một dòng tấm tư bấấ
t định, khước từ vai trò tổ chức chặt chẽ của lí trí.
Nhìn từ văn bản hình tượng, có thể thấấy thi phẩm được dệt băề
ng một chuỗi hình ảnh liến kếất với nhau rấấ
t
bấất định. Vừa mới ngoại cảnh (phấền đấều) thoăất đã tấm cảnh (phấề
n sau); hãy còn t ươi sáng (V ườn thôn Vĩ)
chợt đã ấm u (cảnh sông trăng và sương khói)… Những mảng thơ ph ản trái nhau c ứ dính kếất vào nhau ng ỡ
như rấất thiếấ
u trật tự, "vô kỉ luật". Nhưng nhìn kĩ sẽ thấấ
y đó chỉ là sự chuyển kếnh quá mau l ẹ t ừ "hàng ch ữ
gấấm" sang "đôi măất mờ lệ" đó thôi. Nhìn từ mạch cảm xúc, cũng thấấy có những gấấp khúc, khuấất khúc v ới
những phía chợt sáng chợt tôấinhư vậy. Khổ đấều: một ước ao thấề
m kín ngấấ
m ngấềm bến trong lại cấấ
t lến nh ư
một mời mọc từ bến ngoài, nỗi hoài niệm vôấn ấm u lại mang gương mặt của khát khao r ực r ỡ; kh ổ hai: m ột
ước mong khẩn thiếấ
t dấng lến thoăấ
t hoá thành một hoài vọng ch ới với; kh ổ ba: m ột niếềm mong ngóng vừa ló
rạng đã vội hoá thành một môấi hoài nghi. Nhìn từ cấấu trúc không gian, cũng thấấy bài th ơ có s ự chuy ển tiếấp
không gian rấấ
t tinh vi, kín mạch, không dễ nhận ra. Trong phấền sấu của n ội dung, có th ể thấấy ba c ảnh chính:
vườn xa, thuyếền xa, khách đường xa. Chúng hợp thành cái thếấgiới Ngoài kia để đôấi l ập v ới Ở đấy. Nh ư s ự đôấi
lập quái ác giữa cuộc đời và lãnh cung, trấền gian tươi đẹp và trời sấu ảm đạm, sôấng và không sôấng, găấ
n bó và
chia lìa… Khổ một còn ở thôn Vĩ Ngoài kia, khổ hai rôềi phấề
n đấều kh ổ ba n ữa vẫn là Ngoài kia, đếấn cuôấ
i kh ổ ba
thì đã bay vụt vào Trong này, đã Ở đấy rôềi. Nó là chôấn nào vậy? Còn chôấn nào khác, ngoài cái n ơi T ử đang b ị
căn bệnh tàn ác ấấ
y hành hạ? Chẳng phải đó là sự chuyển tiếấ
p lôấi"cóc nh ảy" rấấ
t đặc thù của "liến t ưởng th ơ
điến" đó sao? Điếều đáng nói là: nếấ
u lôấiliến tưởng đứt đoạn bấấ
t định của "th ơ điến" tạo ra sự chuy ển làn các
cảnh săấc, các miếền không gian một cách đột ngột đếấn tưởng nh ư phi lí, thì ấm đi ệu tự nhiến nhuấề
n nhuy ễn
của cùng một môấi u hoài, trong cùng một lôấithơ chia thành các kh ổ vuông vức tếềch ỉnh l ại đã san lấấ
p, ph ủ
kín hoàn toàn những quãng đứt nôấ
i, khiếấ
n người đọc cứ mặc nhiến coi răề
ng bài th ơ là s ự n ới r ộng cùng m ột
không gian Vĩ Dạ, mà không thấấ
y răềng đó là sự ghép nôấirấất bấấ
t chợt, xuấất thấền gi ữa các vùng không gian vôấ
n
góc biển chấn trời ("thôn Vĩ" là Ngoài kia, còn "ở đấy" là Trong này). Theo tài li ệu đáng tin c ậy m ới đấy c ủa
Phạm Xuấn Tuyển, trong cuôấn Đi tìm chấn dung Hàn Mạc Tử, Nxb. Văn học 1997, thì bài th ơ vôấn có tến đấềy
đủ là "Ở đấy thôn Vĩ Dạ". Bấấ
y giờ, Tử đang tuyệt giao với tấấ
t c ả, đếấ
n ở m ột chôấn hoang liếu m ạn Gò Bôề
i, cách
li hoàn toàn với bến ngoài để chữa bệnh. Theo đó thì, cái n ơi chôấ
n " Ở đấy s ương khói m ờ nhấn ảnh" l ại càng
là sự biểu hiện trực tiếấ
p của chôấn "trời sấu" bấấ
t hạnh mà Tử đang bị l ưu đày – "Tôi đang còn đấy hay ở
đấu? / Ai đem tôi bỏ dưới trời sấu? / Sao bông phượng nở trong màu huyếất / Nhỏ xuôấng lòng tôi nh ững gi ọt
chấu?". Có hiểu như thếấta mới thấấy lôấ
i biểu hiện phức tạp của "th ơ điến" và tình yếu tuyệt v ọng đấềy u ẩn
khúc của Hàn Mặc Tử.
Tóm lại, nếấ
u mạch "liến tưởng điến" tạo ra một văn bản hình tượng có vẻ "đấề
u Ngô mình S ở", thì dòng tấm
tư bấất định lại chuyển lưu thành một ấm điệu liếề
n hơi. Hệ quả là: dòng hình ảnh thì tán l ạc, nh ưng dòng
cảm xúc lại liếề
n mạch. Bởi thếấĐấy thôn Vĩ Dạ vẫn là một ph ẩm "th ơ điến". Đó là phi logic ở bếềm ặt nh ưng
lại nguyến phiếấn, nguyến điệu ở bếềsấu. Tấấ
t cả vẫn khiếấ
n cho thi ph ẩm là một nguyến khôấ
i. Vì thếấ,vào cõi
thơ Hàn Mặc Tử, không chỉ cấền chú mục vào phấề
n "lộ thiến", mà cấền đào rấấ
t sấu vào tấề
ng "trấề
m tích" n ữa!
Chú thích:
[1] Ở sôấPL 2535, tác giả Võ Đình Cường đã công bôấmột tư liệu quan trọng liến quan đếấ
n cách hi ểu bài th ơ
này: Bức thiếấ
p phong cảnh Tử nhận được không phải là ảnh Hoàng Cúc trong tà áo dài trăấ
ng n ữ sinh Đôề
ng
Khánh… Điếề
u này cho thấấy việc trói chặt nội dung bài thơ vào sự kiện Hoàng Cúc là vô lôấi.
[2] Có thể các nhà thơ thuộc Trường Thơ Loạn ít nhiếề
u ảnh hưởng quan niệm "thơ điến" thuộc ch ặng cuôấ
i
của thi phái Tượng trưng Pháp, mà người đại diện là Mallarme… Riếng Hàn Mặc Tử đếấ
n v ới "th ơ điến" ch ủ
yếấ
u là do logic nội tại.
[3] Các ý kiếấ
n của Vũ Quấền Phương (trong Thơ với lời bình), Lế Quang Hưng (trong Tác ph ẩm Văn h ọc) và
Nguyễn Hữu Tuyển (trong Nỗi oan cấền được giải) đếều nhận xét răềng: "bếềngoài cấu ch ữ tưởng nh ư rấấ
t l ỏng
lẻo chẳng ăn nhập gì" (Văn nghệ phụ san sôấ5.1990)
3. Bước vào thi phẩm
a) Dù là "thơ điến" hay thơ gì chăng nữa, một khi đã là một thi ph ẩm dành được ch ỗ đứng trang trọng trong
kí ức của người đọc nhiếề
u thếấhệ, thì dứt khoát phải nhờ vào vẻ đẹp tư t ưởng của nó. Mà lõi côấ
t c ủa t ư t ưởng
ấấy không thể là gì khác hơn một quan niệm nào đó vếềcái đẹp. Sự tương ph ản giữa hai miếề
n không gian v ừa
nói trến đấy ở Đấy thôn Vĩ Dạ, không chỉ là mặc cảm của một con người đang ph ải chia lìa v ới cu ộc đ ời. Sấu
săấc hơn, thấấ
m thía hơn, đó còn là mặc cảm của một thi sĩ đang ph ải ngày m ột lìa xa cái đẹp mà mình hăề
ng
khao khát, tôn thờ. Ai đã đọc Hàn Mặc Tử hẳn phải thấấ
y răềng chu ẩn m ực quan tr ọng nhấất c ủa cái đ ẹp theo
quan niệm của Tử chính là sự thanh khiếất. Điếề
u này vừa có nguôền gôấc từ trong nh ỡn quan c ủa m ột thi sĩ tr ước
cuộc đời, vừa từ tín niệm tôn giáo của một kẻ mộ đạo. Ở cảnh vật, nó hiện ra thành v ẻ thanh tú (thiến nhiến
lí tưởng theo Tử phải là "chôấ
n nước non thanh tú"). Ở con người, nó hiện ra trong vẻ trinh khiếất (đấềy đ ủ là
"trinh khiếấ
t mà xuấn tình"). Quan niệm vếềcái đẹp như thếấđã chi phôấi ngòi bút Hàn M ặc T ử khi th ể hi ện con
người và thiến nhiến. Trong thi phẩm này có sự hiện diện của những hình t ượng c ơ bản Vườn thôn Vĩ, Sông
trăng – thuyếền trăng, Khách đường xa đếề
u là những biểu hiện sôấng động của c ủa vẻ đẹp thanh khiếất đó.
Trong mặc cảm chia lìa, tấấ
t cả những vẻ đẹp kia đếề
u khiếấn Tử lấm vào tuy ệt vọng. Và đ ương nhiến, T ử đã
cảm nhận chúng qua lăng kính của niếềm tuyệt vọng. Có thể trường hợp Tử là một minh ch ứng đáng sợ cho
định nghĩa vếềcái đẹp của Pôn Valeri: Cái đẹp là cái làm ta tuyệt vọng. Mặc c ảm chia lìa ở đấy, d ường nh ư, đã
hiện ra trong cảm giác vếềmột thực tại xa vời, một hiện tại quá ngăấ
n ngủi và sự tôền t ại mong manh c ủa
mình. Không chỉ thấấm vào hơi thơ, giọng thơ khiếấ
n cho cả mạch thơ được phổ một ấm điệu da diếất khăấ
c
khoải thật ám ảnh, mà trước tiến, mặc cảm chia lìa với các cảm giác éo le kia đã hoá thấn vào t ừng hình ảnh,
từng cảnh săấc của thi phẩm này.
b) Hãy đi vào từng khổ.
Cấu mở đấều: Sao anh không vếềchơi thôn Vĩ? là một cấu h ỏi nhiếều săấc thái: vừa h ỏi, v ừa nhăấc nh ớ, v ừa trách,
vừa mời mọc. Giờ đấy chẳng ai còn ấấu trĩ gán cho nó là cấu h ỏi của Hoàng Cúc hay c ủa m ột cô gái nào ở thôn
Vĩ nữa. Bởi, là đăềng này thì vô lí – không đúng sự thực, là đăềng kia thì vô tình – viếấ
t đ ể t ạ lòng Hoàng Cúc mà
lại nghĩ đếấn cô khác ư? [5] Vả chăng, đấu chỉ có một cấu hỏi này. Toàn bài có tới ba cấu h ỏi. C ả ba đếều cùng
một chủ thể. Trến kia đã phấề
n nào nói đếấ
n việc bài thơ được viếất thành ba kh ổ trến ấm đi ệu ch ủ đ ạo c ủa
những cấu hỏi buông ra, buột lến, không lời đáp. Thực ra, cấu hỏi chỉ là hình thức bày t ỏ. Nó không đ ợi tr ả
lời để thành đôấ
i thoại. Nó cứ buông ra thếấđể thành dòng độc tho ại bộc b ạch tấm tình. Ng ữ đi ệu h ỏi càng vếề
sau càng khăấ
c khoải hơn, u hoài hơn. Và, nhờ ngữ điệu nhấất quán ấấ
y, mà ba c ảnh săấc ở ba kh ổ th ơ vôấ
n đ ứt
đoạn, "cóc nhảy" đã được xấu chuỗi lại tự nhiến khăng khít. Đó là Tử đang phấn thấn đ ể t ự h ỏi chính mình.
Hỏi mà như nhăấ
c đếấn một việc cấề
n làm, đáng phải làm, mà ch ẳng biếấ
t gi ờ đấy có còn c ơ h ội đ ể th ực hi ện
nữa không. Âấy là vếềlại thôn Vĩ, thăm lại chôấn cũ, cảnh xưa. Ta đếề
u biếấ
t tuổi nh ỏ Tử đã t ừng h ọc trường
Pellerin ở Huếấ,và khi in xong tập "Gái quế", Tử đã từng đếấ
n tìm Hoàng Cúc tại thôn Vĩ mà rôềi ch ỉ nấấ
p nom
ngoài rào trúc chứ không dám vào. Giờ đấy, nh ận được bức thiếấ
p phong c ảnh này, niếềm khát khao đã cấấ
t lến
thành lời tự vấấ
n oái oăm vậy. Còn ba cấu sau vẽ ra hình t ượng m ảnh vườn thôn Vĩ:
Nhìn nắắng hàng cau nắắng mới lền
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điềền
Mỗi cấu là một chi tiếấ
t vườn. Tấất cả đếều hoà hợp và ánh lến một vẻ đẹp thanh tú. Đọc th ơ Tử, qua các t ập,
thấấy vườn thực sự là một mô-típ ám ảnh. Nào vườn trấền, vườn tiến, vườn chiếm bao… Dù mỗi n ơi một khác,
nhưng vườn của Tử đếề
u mang chung một diện mạo mà Tử muôấn gọi là "chôấn n ước non thanh tú". Ph ải,
thiến nhiến mà Tử say đăấm dứt khoát phải có vẻ đẹp thanh tú! Không thếấ
, Tử khó mà động bút. D ường nh ư
các mảnh vườn kia đã hò hẹn nhau đấều thai thành mảnh vườn Vĩ Dạ này. Ch ả thếấmà chi tiếất nào c ủa nó dù
đơn sơ cũng toát lến vẻ tinh khôi, dù bình dị cũng toát lến vẻ thanh khiếấ
t cao sang. Nghĩa là m ột "chôấn n ước
non thanh tú" hoàn toàn.
Trong thơ Tử, năấng cũng là mô-típ ám ảnh. Ta thường gặp những thứ năấ
ng l ạ đấềy ấấn t ượng với nh ững năấ
ng
tươi, năấng ửng, năấ
ng chang chang, năấ
ng loạn… Trong mảnh vườn này, Tử ch ỉ nói gi ản dị Năấng hàng cau
năấ
ng mới lến, cớ sao mà gợi thếấ! Có lẽ một cấu thơ hay không ch ỉ hay bởi những gì nó mang sẵn, mà còn vì
những gì nó có thể gợi ra để người đọc đôề
ng sáng tạo. Ai đã từng sôấng với cau, dễ thấấ
y cau là một th ứ cấy
cao, thậm chí ở mảnh vườn nào đó, có thể là cao nhấấ
t. Nó là cấy đấều tiến nh ận đ ược nh ững tia năấ
ng đấều tiến
của một ngày. Bởi thếấmà tinh khôi. Trong đếm, lá cau được tăấ
m gội trến cao, săấc xanh nh ư m ới được hôềi
sinh trong bóng tôấ
i, dưới năấ
ng mai lại rời rợi thanh tấn. Năấ
ng trến lá cau thành năấ
ng ướt, năấng long lanh,
năấ
ng thiếấ
u nữ. Bởi thếấmà thanh khiếấ
t. Lại nữa, cau có dáng m ảnh dẻ, trong năấng s ớm, bóng đ ổ xuôấ
ng v ườn,
in xuôấng lôấ
i đi những nét mảnh thật thanh thoát. Thấn cau chia thành nhiếề
u đôất đếề
u đ ặn, khác nào nh ư m ột
cấy thước mà thiến nhiến dựng sẵn trong vườn dùng để đo mực năấ
ng. Năấ
ng mai rót vào v ườn cứ đấềy dấề
n lến
theo từng đôấ
t, từng đôất. Đếấ
n khi tràn trếềthì nó biếấn cả khu vườn xanh thành viến ngọc l ớn… Ch ẳng ph ải cấu
thơ hay còn phải đánh thức dậy bao ấấ
n tượng vôấ
n ngủ quến trong kí ức con người? Song, tr ọng tấm c ủa hình
tượng vườn dường như thuộc vếềnhững nét vẽ ở hai cấu sau. Mà ấấn tượng nhấấ
t là cấu thơ có vẻ đẹp long
lanh này: Vườn ai mướt quá xanh như ngọc. Vì nó có săấc "mướt" chăng? Vì được sánh với "ngọc" chăng? Qu ả
là hai chữ ấấy đã đập ngay vào trực cảm người đọc. "Mướt" ánh lến vẻ mượt mà óng ả đấềy xuấn săấc. Còn
"ngọc" là tinh thể trong suôất nến vừa có màu vừa có ánh. Nhờ đó, vườn thôn Vĩ như một viến ngọc không ch ỉ
rời rợi săấc xanh, mà còn đang tỏa vào ban mai cả những ánh xanh nữa. Thiếấu đi nh ững ánh săấ
c ấấ
y, m ảnh v ườn
đơn sơ bình dị này khó mà hiện ra vẻ thanh tú cao sang. Tuy nhiến, nếấ
u ch ỉ dừng ở đó không thôi, ta m ới ch ỉ
thấấy tấềng lộ thiến của chữ "ngọc". Ẩn bến dưới, vẫn còn tấề
ng trấề
m tích n ữa. Kh ảo sát phong cách ngôn ng ữ
Hàn Mặc Tử, thấấy thi sĩ này rấất ưa dùng những vật liệu cao sang, nhấất là ở giai đo ạn cuôấ
i. Từ "Th ơ điến" tr ở
đi, các trang đếề
u tràn ngập những vàng, gấấm, lụa, trấn chấu, thấất bảo, nhũ hương, m ộc dược… đ ặc biệt là
ngọc. "Ngọc" vừa được dùng lôấi ước lệ cổ điển như tay ngọc, măấ
t ngọc, đũa ngọc… vừa được dùng lôấitrực
quan. Mà dù theo lôấi nào nó cũng là so sánh ở mức tuyệt đôấi: "Đức tin th ơm h ơn ngọc / Th ơ bay rôềi th ơ bay",
"Xác cô thơm quá thơm hơn ngọc / Cả một mùa xuấn đã hiện hình"… Thi sĩ đang muôấ
n tuyệt đôấi hoá, t ột
cùng hoá vẻ đẹp đẽ, quí giá, cao sang của đôấi tượng. Nhu cấều tuyệt đôấ
i hoá này th ường xuấấ
t hi ện khi niếề
m
thiếấ
t tha với cuộc đời trấề
n thếấdấng trào đếấn mức đau đớn. Càng đẹp l ại càng đau. Cho nến, trong so sánh v ới
"ngọc" luôn thấấy chấất chôề
ng một cách oái oăm cả hai tấm thái: c ảm giác càng tinh tếấ,c ảm xúc càng đau
thương. Ở đấy cũng thếấ
, Vườn ai mướt quá xanh như ngọc chứa đựng trong đó m ột cảm nh ận vếềv ẻ đ ẹp ở
mức tột bậc và cả niếềm thiếấ
t tha ở mức đau thương. Cũng phải thôi, l ộng l ẫy đếấ
n thếấ,ngay tr ước măất thếấ
, mà
đang vuột ra ngoài tấề
m tay của mình, thì làm sao tránh kh ỏi đau th ương!
Nhưng, bến cạnh những chữ phô ngay ra vẻ quyếấ
n rũ ấấ
y, còn có những ch ữ khác, khép nép bến c ạnh, khiếm
nhường kín đáo thôi, nhưng dường như lại được Tử yếu tin mà kí thác vào đó những u ẩn khúc c ủa lòng
mình. Tôi muôấ
n nói đếấn chữ "ai". Nếấu cả bài chỉ có một chữ này thôi thì ch ưa có gì th ật đáng nói. B ởi ch ữ "ai"
thường mang ý phiếấm chỉ hoá, ỡm ờ hoá mà thơ truyếền thôấ
ng, nhấấ
t là ca dao đã khai thác đếấn nhàm. Đáng
nói vì cả bài có tới bôấ
n chữ "ai" năề
m ở cả ba khổ. Chúng găấn với nhau băềng c ả săấc thái l ẫn gi ọng đi ệu t ạo
thành một "hệ vi mạch" ẩn sấu trong lòng bài thơ, chuyển tải một cảm giác se xót – cảm giác vếềth ực t ại xa
vời: Vườn ai…, Thuyếề
n ai…, Ai biếấ
t tình ai. Thếấgiới này, cuộc đời này đ ẹp đ ẽ là thếấ
, hi ện ngay tr ước măấ
t thếấ,
vậy mà đã hoá xa vời, vậy mà đã thuộc vếềNgoài kia, thuộc vếềcõi trấền ai kia. Săấc thái phiếấ
m ch ỉ b ỗng chôấc đã
làm tấấ
t cả như lùi xa, bỗng như diệu vợi hoá, mông lung hoá. Cũng trong cấu này, không th ể không dành
quan tấm ít nhiếều đếấn chữ "quá", bởi hiệu quả nghệ thuật riếng của nó. Cũng là từ ch ỉ m ức độ, nh ưng xem ra
chỉ có nó mới đem đếấ
n cho cấu thơ ấm hưởng của một tiếấng kếu ngỡ ngàng, trấề
m trôềnh ư ch ợt nh ận ra v ẻ
đẹp bấất ngờ của khu vườn, mà có lẽ ở khoảnh khăấc trước chưa thấấy, khoảnh khăấ
c sau cũng ch ưa h ẳn đã
thấấy. Ta sẽ còn gặp ở khổ cuôấ
i tiếấ
ng kếu như thếấnữa – áo em trăấng quá nhìn không ra. Nó cũng là tiếấng kếu
muôấn tuyệt đôấ
i hoá vẻ đẹp của đôấi tượng. Nghĩa là những tiếấ
ng kếu hàm ch ứa nỗi đau th ương.
Trong khổ này, cấu thứ tư đã gấy nhiếều tranh luận: Lá trúc che ngang m ặt ch ữ điếề
n. Gương m ặt kia là ph ụ
nữ hay đàn ông? Lôấ
i tạo hình của nó là cách điệu hay tả thực? Ý kiếấ
n xem ra ch ưa ngã ngũ. Th ực ra, làm sao
lại có một chi tiếất cách điệu lạc vào giữa một bức tranh trực quan thuấền t ả thực như thếấnày. V ả chăng, nó
diễn tả một khuôn mặt chữ điếền ẩn sau những lá trúc loà xoà kia mà. Có người đã cấấ
t công đ ể ch ứng minh
dứt khoát đấấy là gương mặt phụ nữ. [6] Thiếấ
t tưởng muôấn xác định là đàn ông hay ph ụ n ữ, tr ước tiến cấề
n
phải trả lời một cấu hỏi khác: đó là mặt người thôn Vĩ hay người trở vếềthôn Vĩ? Nếấu xét thuấền tuý vếềcú
pháp cấu thơ, người đọc có quyếền hiểu theo cả hai cách. Nhưng xét trong t ương quan với toàn c ảnh và trong
hệ thôấng mô-típ phổ biếấ
n ở thơ Tử, thì có thể loại trừ được cách không phù hợp. Nếấ
u là người thôn Vĩ (ch ủ
nhấn khu vườn), thì hẳn phải là khuôn mặt phụ nữ. Một người đàn ông vếềthôn Vĩ chăấc không ph ải đ ể ngăấm
khuôn mặt đàn ông! Còn là người trở vếềthôn Vĩ, thì người ấấy chính là Tử, nói chu ẩn h ơn là hình t ượng c ủa
chính Cái Tôi thi sĩ. Tìm trong thơ Hàn, sẽ thấấy đấy là lôấi tạo hình khá ph ổ biếấn, và cái nhấn v ật nép mình khi
thì sau cành lá, khóm lau, khi thì sau rào thưa, bờ liễu… như thếấnày th ường là hình bóng t ự h ọa c ủa T ử. Mà
Tử vẫn có cái "thói" tự vẽ mình một cách rấấ
t kiếu hãnh và có phấền… vơ vào n ữa ("Người th ơ phong vận nh ư
thơ ấấy", "Có chàng trai mới in như ngọc? Gió căng hơi và nhạc lến tr ời", "Xin m ời chàng tài hoa thi sĩ đó /
Ngôềi xuôấ
ng đấy bến thảm ngọc vườn chấu"…). Thực ra, cũng chả riếng gì Tử v ơ vào. Nguy ễn Bính chấn quế
cũng "vơ vào" chả kém khi tự hoạ một cách bóng gió trong một khuôn hình gấền giôấng thếấ: "Bóng ai thấấ
p
thoáng sau rào trúc / Chẳng Tôấ
ng Trấn ư cũng Nguyễn Hiếền". Nghĩa là khuôn m ặt và hình dáng văn nhấn c ả
thôi. Tuy nhiến, khuôn mặt chữ điếề
n sau lá trúc, không ch ỉ là sản ph ẩm của "tấm lí v ơ vào" d ễ th ương thếấ
thôi đấu. Sấu xa hơn, nó còn là sản phẩm của mặc cảm chia lìa. Mặc cảm này th ường khiếấn Tử vẽ mình
trong các trang thơ như một "kẻ đứng ngoài", "kẻ đi ngang qua cuộc đời", k ẻ "đứng cách xa hàng thếấgi ới", là
vị "khách xa", kẻ đứng ngoài mọi cuộc vui, mọi cảnh đẹp trấền thếấ.Kẻ ấấy thường làm những chuyếấ
n tr ở vếề
với cuộc đời Ngoài kia một cách thấềm lén, vụng trộm. Tử hình dung mình trở vếềthôn Vĩ (hay tái hi ện l ại cái
lấề
n mình đã trở vếềmà không vào, chỉ nép ngoài rào trúc, thì cũng thếấ!), vin m ột cành lá trúc, che ngang khuôn
mặt mình để mà nhìn vào, say ngăấ
m vẻ đẹp thấề
n tiến của khu vườn. Hiểu thếấm ới thấấ
y cấu th ơ kia, hoá ra là
sản phẩm nhấấ
t quán của một tình yếu mãnh liệt mà cũng là sản ph ẩm của m ột tấm hôề
n đấềy m ặc c ảm vếề
thấn phận mình. Trong đó chẳng phải giấấu kín một niếề
m u ẩn khúc đáng trấn tr ọng mà cũng th ật đáng
thương sao? Song, hẳn sẽ có ý thăấc măấc răềng: mạch thơ đang vẽ đôấi tượng (c ảnh n ơi thôn Vĩ) sao thoăấ
t l ại
chuyển sang vẽ chủ thể (cái tôi thi sĩ), liệu có cóc nhảy, phi logic không? Đúng thếấ
. Nh ưng, nh ư b ạn biếất đấấy,
cóc nhảy và phi logic trến bếềmặt chính là một đặc trưng c ủa mạch liến tưởng "th ơ điến". S ự chuy ển kếnh
đột ngột ấấ
y, trước sau, vẫn chỉ xoay quanh một niếềm thiếấ
t tha vô b ờ mà cũng đấề
y u ẩn khúc c ủa T ử mà thôi.
Như vậy, trong khổ thơ thứ nhấấ
t này, cảnh săấc là thôn Vĩ mà cũng là Ngoài kia, vườn Vĩ D ạ mà cũng là v ườn
trấề
n gian. Qua lăng kính của mặc cảm chia lìa, cả những cảnh vật đơn sơ cũng trở nến vô cùng l ộng l ẫy. V ới
Tử đó là thiến đường trấền gian – một thiến đường giờ đấy dường như không thuộc vếềmình nữa, đang tu ột
khỏi tấềm mình. Vếềthôn Vĩ vôấn là việc bình thường, với Tử giờ đấy l ại thành m ột ước ao – ước ao quá tấề
m
với, thành một hạnh phúc – hạnh phúc quá tấềm tay.
Khổ thứ hai chuyển sang một cảnh khác: cảnh dòng sông. Hiểu là sông Hương cũng được mà dòng sông nào
đó của cuộc đời Ngoài kia cũng được.[7] Mặc cảm chia lìa ở đấy hiện ra cả trong cấu chữ, hình ảnh và nh ạc
điệu:
Gió theo lôắi gió mây đường mây
Dòng nước buôền thiu hoa bắắp lay
Thuyềền ai đậu bềắn sông trắng đó
Có chở trắng vềềkịp tôắi nay?
Hai cấu trến nói đếấn một thực tại phiếu tán. Tấấ
t cả dường nh ư đang bỏ đi: gió bay đi, mấy trôi đi, dòng n ước
cũng buôền bã ra đi… Có phải cảnh tượng kia là một cái gì thật ngang trái tr ớ trếu? Đúng thếấ.Tr ước tiến, gió
mấy làm sao có thể tách rời – mấy không tự di chuyển, gió thổi mấy m ới bay, chúng không th ể chia tách. Rõ
ràng, đấy không còn đơn thuấề
n là hình ảnh của th ị giác, mà là hình ảnh c ủa mặc c ảm. M ặc c ảm chia lìa đã
chia lìa cả những thứ tưởng không thể chia lìa! "Dòng nước buôề
n thiu" vì mang sẵn trong lòng m ột tấm tr ạng
buôền hay nỗi buôề
n li tán chia phôi từ mấy gió đã bỏ buôề
n vào lòng sông? Khó mà đoán chăấ
c. L ạ nhấấ
t là ch ữ
"lay". Động thái "lay" tự nó không vui không buôền. Sao trong cảnh này nó l ại buôền hiu hăấ
t v ậy? Nó là nét
buôền phụ họa với gió mấy sông nước? Hay nỗi buôề
n sông nước đã lấy nhiễm, đã xấm chiếấ
m vào hôền hoa băấp
phấất phơ này? Thật khó mà tách bạch. Có phải có một chữ "lay" buôề
n như thếấtừ bông s ậy của dấn ca đã xuôi
theo ngọn gió thời gian mà đậu vào thơ Tử: Ai vếềgiôề
ng dứa qua truông / Gió lay bông s ậy b ỏ buôền cho em?
Có phải chữ "lay" ấấy lại trôi nổi thếm nữa để đếấn với hiện đại nhập vào lá ngô c ủa th ơ Trúc Thông: Lá ngô
lay ở bờ sông – Bờ sông vẫn gió người không thấấy vếề? Và tấấ
t cả những chữ "lay" kia có ph ải đếề
u dấy m ơ rễ
má với chữ "hiu hiu" đấềy ám ảnh của thơ Nguyễn Du: Trông ra ngọn cỏ lá cấy / Thấấy hiu hiu gió thì hay ch ị
vếề"? Hiu hiu, lay động đếều là tín hiệu báo sự hiện hữu. Cứ nhìn thấấy thếấlà người ngóng trông nh ận ra s ự tr ở
vếềnào đó từ cõi vô hình. Còn Tử nhìn hoa băấp lay để nh ận ra sự phiếu tán, s ự ra đi. C ả mấy, gió, c ả dòng
nước cứ lìa bỏ nhau và đếề
u lìa bỏ chôấ
n này mà đi hếất cả. Chỉ riếng hoa băấp là cái tĩnh t ại, không th ể t ự nhấấc
mình lến mà lưu chuyển. Bị bỏ rơi lại bến bờ, động thái "lay" kia có ph ải là một níu gi ữ vu v ơ, m ột l ưu luyếấn
vô vọng của kẻ bị chia lìa? Có phải Tử đã thấấ
y hoa băấp côi cút bến sông nh ư v ận vào mình? Có ph ải m ặc c ảm
chia lìa đã khiếấn Tử nhìn ra cái thấn phận bị bỏ rơi bến trời quến lãng của mình trong dáng "lay" sấều t ủi c ủa
hoa băấp?
Đôấ
i mặt với cái xu thếấtấất cả đang chảy đi, bỏ đi, trôi đi càng lúc càng vu ột xa ngoài tấề
m sôấ
ng c ủa mình ấấy, T ử
chợt ao ước một thứ có thể ngược dòng vếềvới mình, ấấy là trăng. Ph ải, mấy đã đi, gió đã đi, dòng n ước cũng
đi… may ra chỉ còn trăng thôi:
Thuyềền ai đậu bềắn sông trắng đó
Có chở trắng vềềkịp tôắi nay?
Trong bài thơ này có hai chữ "vếề". Nếấu chữ thứ nhấất là vếềvới Vĩ Dạ, với Ngoài kia (Sao anh không vếềch ơi
thôn Vĩ?), thì chữ thứ hai đấy đã đổi hướng, là vếềphía Tử, vếềvới Trong này. Cũng ph ải thôi, trong "lãnh
cung" của sự chia lìa, vôấn "không có niếềm trăng và ý nh ạc", nến Tử đã đặt vào trăng kì v ọng c ủa mình: Có ch ở
trăng vếềkịp tôấ
i nay? Trăng giờ đấy như một bám víu duy nhấất, m ột tri ấm, m ột c ứu tinh, m ột c ứu chu ộc! Tìm
kiếấm vẻ đẹp của những cấu này, người phấn tích thường chỉ chú mục vào hình ảnh "sông trăng", "thuyếề
n
trăng" với thủ pháp huyếền ảo hoá. Thực ra đó chỉ là những vẻ đẹp thuộc cái duyến phô ra c ủa th ơ mà thôi.
Tôi muôấ
n nói đếấn chữ khác lấu nay bị bỏ quến, bởi nó l ặng l ẽ khiếm nhường chứ không bóng b ảy ôền ào.
Nhưng nó vẫn đẹp trong quến lãng. Âấy là chữ "kịp". Chữ "kịp" mới mang bi kịch của tấm hôền ấấ
y, thấn ph ận
ấấy. Ta và cả người đọc sau ta nữa chăấ
c chăấn không thể biếất "tôấi nay" kia là tôấinào c ụ th ể. Nh ưng qua gi ọng
khăấc khoải và qua chữ "kịp" này ta nhận ra một lời cấề
u khẩn. Dường như, nếấu trăng không vếề"k ịp" thì k ẻ b ị
sôấphận bỏ rơi bến rìa cuộc đời này, bỏ dưới trời sấu này sẽ hoàn toàn lấm vào tuyệt vọng, vĩnh vi ễn đau
thương. Như thếấ,chữ "kịp" đã hé mở cho ta một cách thếấsôấ
ng: sôấng là ch ạy đua với thời gian. Một so sánh
với Xuấn Diệu có thể thấấ
y rõ Tử hơn. Cũng chạy đua với thời gian, nh ưng ở Xuấn Diệu là đ ể đ ược h ưởng tôấi
đa, sôấng để mà tận hưởng mọi hạnh phúc nơi trấề
n giới, bởi đời người quá ngăấ
n ngủi, cái chếất s ẽ ch ờ đ ợi tấất
cả ở cuôấi con đường, còn Hàn Mặc Tử chỉ mong tôấ
i thiểu, chỉ được sôấng không thôi đã là h ạnh phúc rôềi, b ởi
lưỡi hái của tử thấề
n đã huơ lến lạnh buôấ
t sau lưng. Quĩ thời gian đang v ơi đi t ừng gi ờ t ừng khăấc, cu ộc chia lìa
vĩnh viễn đã sát gấề
n. Trong cảnh ngộ này, trăng dường như là điểm tựa duy nhấất, là bấấ
u víu cuôấ
i cùng c ủa k ẻ
cô đơn đang chới với trong nguy cơ chia lìa đương vấy khôấn. Th ơ là sự lến tiếấng c ủa thấn ph ận, th ật tr ớ trếu,
định nghĩa ấấy hoàn toàn đúng với Hàn Mặc Tử.
Khổ thứ ba, giọng khăấc khoải đã hiển hiện thành nhịp điệu. Khác hẳn các đo ạn trước, nhịp th ơ ở đấy gấấp
gáp hơn, khẩn khoản hơn:
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắắng quá nhìn không ra
Vườn đẹp, trăng đẹp và bấy giờ đếấn hình bóng đẹp của khách đường xa. Tấất cả đếều là những hình ảnh đấềy
mời gọi của thếấgiới Ngoài kia. Ở trến, tôi đã nói đếấ
n vẻ đẹp trinh khiếất như là chu ẩn m ực cho c ảm quan th ẩm
mĩ của Hàn Mặc Tử. Trinh khiếấ
t trở thành vẻ đẹp phổ biếấ
n của thếấgiới và của những Nàng th ơ trong cõi th ơ
Tử. Những người con gái trong thơ Tử bao giờ cũng là hiện thấn sôấng động của vẻ trinh khiếất xuấn tình. Găấ
n
làm một với hình bóng họ là săấ
c áo trăấ
ng tinh khôi. Cho nến ngóng ra thếấgi ới Ngoài kia, thì hình bóng ng ười
khách đường xa (người tình xa) phải là trung tấm, phải thanh khiếấ
t nhấất, lung linh nhấất. Và đăấ
m say t ột b ậc
cái vẻ đẹp này, Tử thường cực tả băềng những săấc trăấ
ng dị kì. Tử dôề
n cả màu cả ánh để diễn đạt cho đ ược
trực cảm của mình: "Chị ấấy năm nay còn gánh thóc / Dọc bờ sông trăấ
ng năấng chang chang". Th ậm chí, có lúc
không theo kịp trực giác, lời thơ trở nến kì quặc: "chếấ
t rôề
i xiếm áo trăấ
ng nh ư tinh"… Nhiếề
u ng ười phấn tích
chưa nhận thấấ
y đặc trưng này của thơ Tử đã giải thích áo trăấng quá nhìn không ra là b ởi l ẫn và s ương khói.
Không phải thếấ."Áo em trăấ
ng quá nhìn không ra" chính là m ột tiếấ
ng kếu, m ột cách c ực t ả săấc trăấ
ng ở săấc đ ộ
tuyệt đôấ
i, tột cùng. Trăấng đếấn mức lạ lùng, không còn tin vào măấ
t mình n ữa (t ựa nh ư tiếấng kếu vườn ai m ướt
quá xanh như ngọc đã phấn tích ở trến). Đừng lấề
m tưởng răề
ng đấy là l ời thú nh ận vếềs ự bấấ
t l ực c ủa th ị giác.
Như thếấ
, cuôấ
i cùng, mơ tưởng da diếất khăấ
c khoải hơn hếấ
t th ảy vẫn là dành cho con ng ười, v ẫn là h ướng t ới
những người tình xa. Bởi phải chia lìa với thếấgiới Ngoài kia, có lẽ mấất mát lớn nhấất, niếềm đau th ương nhấấ
t
vẫn là phải chia lìa với người mình yếu vậy.
Đếấ
n đấấy, Tử quay trở vếềvới thực tại u ám của mình, ấấy là chôấ
n lãnh cung ảm đạm mịt mờ:
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biềắt tình ai có đậm đà?
Được viếất gấề
n như đôề
ng thời với bài "Những giọt lệ", cho nến ta cứ nghe đấu đấy trong nh ững cấu ch ữ kia
tiếấng dội của những giọt lệ đau thương, như hoài nghi, như hi vọng, nh ư tuyệt vọng: "Tôi đang còn đấy hay ở
đấu? / Ai đem tôi bỏ dưới trời sấu?" và "Trời hỡi bao giờ tôi chếất đi ? / Bao gi ờ tôi hếất đ ược yếu vì ?"… T ử yếu
đời đếấ
n đau đớn. Còn cuộc đời, tình đời còn dành cho Tử được bao nhiếu, được bao lấu? Cu ộc đ ời Ngoài kia
vẫn cứ kì diệu thếấ,vẫn "cách xa nghìn thếấgiới" như thếấ
, vẫn cứ cách ở đấy h ẳn m ột tấề
m tuy ệt vọng nh ư thếấ.
Tôề
n tại ở đấy, ở trời sấu này thật quá đỗi mong manh. Ch ỉ có cái tình kia là sợi dấy duy nhấất níu bu ộc T ử v ới
ngoài ấấy. Thếấmà cái tình kia cũng mong manh xa vời làm sao? Cấu h ỏi cuôấ
i cùng khép l ại toàn b ộ dòng tấm
tư bấất định này là tiếấng thở dài hay là lời cấều mong của một kẻ thiếất tha găấ
n bó đếấ
n cháy lòng? Có l ẽ là c ả hai.
Bởi vì uẩn khúc và nghịch lí chính là nét lạ lùng nhấấ
t trong cấấu trúc của tiếấng nói trữ tình Đấy thôn Vĩ D ạ.
Thếấđấấy, tôi đã khá dài dòng khi hành hương vếềVĩ Dạ theo cái đường dấy mong manh và bí m ật c ủa tình yếu
tuyệt vọng vôấ
n chìm khuấất trong thếấgiới của thi phẩm. Những đôấi chiếấ
u gi ữa thi ph ẩm v ới thếấgi ới ngh ệ
thuật của thi sĩ: từ cội nguôề
n của tiếấ
ng nói trữ tình đếấ
n hình th ức đặc thù c ủa "th ơ điến", t ừ l ớp bi ểu t ượng ở
tấề
ng trấề
m tích đếấn phong cách ngôn ngữ Hàn Mặc Tử… chính là những sự chỉ dẫn cấền thiếất. Không có b ản
chỉ dẫn ấấ
y, cuộc hành hương khó tránh khỏi sa vào bếấtăấ
c. Tuy nhiến điếề
u tôi muôấn nói thếm tr ước khi d ừng
là: Thôn Vĩ vẫn còn nhiếề
u bí ẩn sẵn chờ và mời mọc những cuộc hành h ương khác.
***********************
Văn chỉ, 1990-1997
Chu Văn Sơn
(Rút từ Ba đỉnh cao Thơ mới, Nxb. Giáo Dục, 2003)
[4] Nhiếề
u người đã thấấ
y răề
ng: "Trong thơ Tử, cả địa danh c ụ th ể cũng tr ở thành huyếề
n ảo" (Mai Văn Hoan,
Văn Nghệ, sôấ1757/ 11-9-1993)
[5] Cả Võ Đình Cường (Tấp Văn Thành Đạo-tài liệu đã dẫn) và Nguy ễn Bá Tín (Hàn M ặc T ử – anh tôi, Nxb.
TP ****,1991) đếều xác nhận là trong tấấm thiếấp phong cảnh Hoàng Cúc gửi cho Tử, không có cấu nào nh ư thếấ
cả.
[6] Xem sách Làm văn12, Nxb. Giáo Dục, 1992.