Tải bản đầy đủ (.doc) (45 trang)

TAO ĐÀN CHIÊU ANH CÁC TRONG SỰ PHÁT TRIỂN CỦA VĂN HỌC NAM BỘ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (264.7 KB, 45 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA VĂN HỌC
------
BÁO CÁO KHOA HỌC SINH VIÊN
TAO ĐÀN CHIÊU ANH CÁC
TRONG SỰ PHÁT TRIỂN CỦA VĂN HỌC NAM BỘ
Giáo viên hướng dẫn : PGS.TS Trần Ngọc Vương
Sinh viên thực hiện : Vũ Hoàng Hiếu
Lớp : Văn K46 – CLC
Hà Nội, 3- 2004
1
LỜI MỞ ĐẦU
Nền văn học Việt Nam là một chỉnh thể được tạo nên từ hai bộ phận: văn
học miền Bắc và văn học miền Nam. Thiếu một trong hai bộ phận ấy, văn học
Việt Nam không còn là chính mình. Văn học mỗi miền có những đặc trưng
riêng, bản sắc riêng nhưng đều không quên đóng góp làm giàu cho nền văn học
nước nhà. Thế mà trong khi văn học miền Bắc luôn giành được sự ưu ái, quan
tâm thì văn học miền Nam ít được để ý tới. Nó buộc phải chấp nhận sự thiệt thòi
cho dù ngay từ buổi đầu, Nam Bộ đã là đất văn chương, đã nỗ lực hết mình, đã
cống hiến hết mình, để lại những đóng góp đáng tự hào cho nền văn học dân tộc.
Mặt khác, nhắc đến văn học miền Nam, chẳng chần chừ, ngần ngại, mọi
người sẽ nghĩ ngay tới Nguyễn Đình Chiểu. Cố nhiên, điều đó có cái lý của nó.
Nhưng Nguyễn Đình Chiểu không tự nhiên được sinh ra và cũng chẳng từ trên
trời rơi xuống. Nguyễn Đình Chiểu là kết quả tất yếu của cả một quá trình hình
thành, vận động, phát triển của dòng văn học phía Nam giữa nguồn chung là nền
văn học nước nhà. Không nên quên rằng, trước Nguyễn Đình Chiểu còn có
những tác giả khác, những người đã góp công vun trồng mảnh đất văn học Nam
Bộ , trong đó không thể không kể đến Tao đàn Chiêu Anh Các. Chiêu Anh Các
là một trong những cái mốc hiếm hoi tạo ra sự phát triển đột biến trong nền văn
học Nam Bộ.
Phải thừa nhận rằng, có không ít công trình nghiên cứu về Chiêu Anh Các


nhưng chưa được phổ biến rộng rãi trên khắp mọi miền đất nước. Việc tìm kiếm,
sưu tầm tài liệu về Chiêu Anh Các cũng không phải dễ dàng. Chiêu Anh Các có
một vị trí vô cùng quan trọng trong tiến trình phát triển văn học dân tộc, nhưng
ngay cả với không ít sinh viên văn khoa ngoài Bắc ( trong đó có tôi), Chiêu
Anh Các vẫn là một cái tên xa lạ, thậm chí có lúc từng bị hiểu oan là một bộ
truyện chưởng mới của Kim Dung (! ). Nữ sĩ Mộng Tuyết một con người mà cả
cuộc đời gắn bó máu thịt với mảnh đất Hà Tiên, đã từng ngậm ngùi trong một
bài thơ lấy tên là Chiêu Anh Các:
Đất Việt Nam ta chữ S liền
2
Hải Ninh, Trà Cổ chấm đầu tiên.
Hà Tiên điểm cuối cô em út
Ngủ giấc hằng nga trong lãng quên.
Từ những lý do trên, chúng tôi quyết định chọn Chiêu Anh Các là đối
tượng tìm hiểu của bài viết này. Đây là một vấn đề thuộc về văn học sử, cho
nên, chúng tôi sẽ nhìn nhận nó từ nhiều góc độ : Lịch sử - Văn hoá - Văn học.
Các thao tác nghiên cứu được sử dụng là tập hợp, hệ thống hoá tài liệu, thống kê
dựa trên văn bản, đối chiếu so sánh, phân tích - tổng hợp… . Trong bài báo cáo
này, chúng tôi sẽ giới thiệu một cách tổng quan về Chiêu Anh Các - Tao đàn. Từ
đó, chúng tôi muốn góp tiếng nói khẳng định chỗ đứng của Chiêu Anh Các và
đặt Chiêu Anh Các ở vị trí xứng đáng hơn, đúng với tầm vóc của nó.
Nội dung đề tài “Tao đàn Chiêu Anh Các trong sự phát triển của văn
học Nam Bộ” của chúng tôi được chia làm 3 chương :
Chương I : Hà Tiên trong bối cảnh của văn hoá Nam Bộ : chúng tôi trình
bày vài nét về lịch sử và tình hình văn học Nam Hà trong một thế kỷ rưỡi mở đất
và dựng nước ; giới thiệu đôi điều về lịch sử - văn hoá Hà Tiên, quê hương của
Tao đàn Chiêu Anh Các.
Chương II : Tổng quan về Chiêu Anh Các: chúng tôi giới thiệu một cách
khái quát nhất về Chiêu Anh Các : sự thành lập, tổ chức, hoạt động, đặc điểm
lực lượng sáng tác, các tác phẩm của Chiêu Anh Các và vài nét về Mạc Thiên

Tích - vị chủ soái của Tao đàn.
Chương III : Những đóng góp về văn học của Chiêu Anh Các : chúng tôi
tìm hiểu các giá trị về nội dung, giá trị nghệ thuật của văn chương chữ Hán và
văn chương chữ Nôm của Tao đàn Chiêu Anh Các. Từ đó, chúng tôi nhận xét,
đánh giá về vị trí của Tao đàn Chiêu Anh Các trong tiến trình văn hoá dân tộc và
trong sự phát triển của văn học Nam Bộ.
3
I- HÀ TIÊN TRONG BỐI CẢNH VĂN HOÁ NAM BỘ
1- Vài nét về lịch sử và tình hình văn học Nam Hà trong một thế kỷ rưỡi
mở đất và dựng nước ( từ khi Nguyễn Hoàng vượt Hoành Sơn lập
nghiệp ở Thuận Hoá đến khi họ Nguyễn hoàn thành xong cuộc Nam
tiến 1600-1759).
a- Nguyễn Hoàng vào trấn đất Thuận Hoá từ 1558. Lúc đầu, ông vẫn phục
tùng họ Trịnh và vua Lê ở Tây Đô. Thậm chí, khi Trịnh Tùng lấy được Thăng
Long năm 1593, ông đã đưa cả quân lính, súng ống ra giúp, laị ở lại 8 năm bên
vua Lê, giúp Trịnh đánh Mạc. Mãi đến tháng 5 (ta) năm 1600, Nguyễn Hoàng
do bất bình, mới nhân một lần lấy cớ đi đánh giặc, đem cả bản bộ, tướng sĩ về
Thuận Hoá, lo kế lâu dài, muốn tự gây dựng một giang sơn, làm chủ một cõi trời
riêng. Ước mơ, hoài bão cả đời của ông, khát vọng " gây dựng cơ nghiệp muôn
đời" của " người anh hùng dựng võ" đã được truyền lại cho cháu con họ
Nguyễn. Và, bước đầu tất nhiên của ý chí xưng hùng ấy là phải đối kháng đến
cùng với họ Trịnh. Hai bên giao binh trong hơn nửa thế kỷ ( 1627-1672) quanh
bờ sông Gianh, họ Nguyễn quyết giữ vững phòng tuyến của mình. Không biết
bao nhiêu máu xương đã đổ xuống từ cuộc nội chiến đầy xót đau ấy. Tuy nhiên,
cái được của nó là: bị họ Trịnh bít lối phương Bắc, họ Nguyễn sẽ mang tất cả
sinh lực, chí khí, hùng tâm mà kinh dinh một cuộc Nam tiến tốt đẹp. Quân Chúa
Nguyễn - và đằng sau là dòng Việt ngữ - sẽ lần theo dải đất chữ S mà mở rộng
biên cương. Năm 1653, Nguyễn Phúc Tấn đặt phủ Diên Khánh. Năm 1697,
Nguyễn Phúc Chu đặt phủ Bình Thuận. Năm sau, Nguyễn Hữu Cảnh được cử
vào kinh lược đất Chân Lạp coi Trấn biên, phiên trấn mới thu phục. Năm 1708,

Mạc Cửu dâng đất Hà Tiên. Năm 1759 nhận đất Tầm Phong Long, Chúa
Nguyễn Phúc Khoát kiểm soát tất cả miền Hậu Giang. Đến đây, sau 7 đời chúa,
giang sơn của họ Nguyễn đã mở rộng mênh mông về phương Nam. Miền Nam
đến Võ Vương ( ông chúa thứ tám ) đã trở thành một nước "Đàng Trong" có
triều đình bá quan văn võ, có tổ chức chính trị vững vàng, có những địa điểm
kinh tế thương mại phát đạt ( Phú Xuân, Quảng Nam, Phú Yên…) chẳng hề thua
kém nước "Đàng Ngoài" của chúa Trịnh.
4
b- Trong suốt một thế kỷ rưỡi mở đất và dựng nước ấy, tình hình văn học
Nam Hà ra sao?
Trước hết, họ Nguyễn cũng lấy Hán tự làm văn tự, dùng Hán học để giáo
dục dân chúng và trị nước. Tuy nhiên, học thuật chữ Hán ở đây chẳng thể tiến
bộ đến độ thịnh đạt như đất Bắc. Và việc truyền bá Hán học, nhìn chung kém
chất lượng, bởi những lý do dễ thấy:
- Đất Nam Hà từ quá Thuận Quảng trở vào là đất mới khai thác, những
phần tử đi tiên phong trong cuộc Nam Tiến là gia đình binh sĩ, cùng đinh vô sinh
kế có khi là tù nhân hay trộm cướp, đào vong nữa, đến đất mới, tất nhiên không
thể không nhọc lòng tính kế mưu sinh. Bởi vậy, trong những năm tháng này văn
chương ít được để ý đến là điều dễ hiểu.
- Công cuộc của các chúa Nguyễn trong một thế kỷ rưỡi ấy chủ yếu diễn
ra trên phương diện quân sự. Dốc hết sức lực vào cuộc phòng thủ chống họ
Trịnh, chăm lo binh bị và luyện sĩ tốt để gây dựng cơ nghiệp muôn đời, các chúa
Nguyễn chẳng thể dành nhiều chú ý cho học thuật, văn chương.
- Đàng Trong cách xa nước Tàu vời vợi. Mặt khác, quay lưng lại dãy
Hoành Sơn, miền Nam phải lo đối phó với lân chủng trong những mối bang giao
mà Hán học không thật sự cần thiết. Ít tiếp xúc, va chạm với Hán học thì làm
sao văn chương học thuật phát triển được.
Do đó, Hán học ở Nam Hà có phần sơ sài, không đạt tới được một trình
độ tinh tế, một phạm vi phổ biến đầy đủ. Cho nên, ở thời điểm đó sáng tác văn
chương bằng chữ Hán chưa thể nảy nở và phát triển được. Hệ luỵ của nó là,

thiếu sự đào luyện lâu đời của Hán học, thiếu phong vị văn chương, phần Việt
văn cũng không có gì kiệt xuất ( như Chinh Phụ Ngâm, Truyện Kiều ở Đàng
Ngoài) vì chỉ mới đi những bước đầu tiên.
Duyệt qua văn Nôm trong một thế kỷ rưỡi ở Nam Hà, ta thấy mấy đặc
tính sau:
- Về nội dung: Văn ấy thường vụ đạo lý rõ rệt. Nhà nho miền Nam phải
hành động nhiều, sống với bổn phận ràng buộc hơn là với những xúc cảm, rung
động. Cho nên, văn chương cá nhân ít có nét trữ tình. Thay vì quan tâm đến tình
5
cảm hồn nhiên, họ, những trí thức hiếm hoi được chúa Nguyễn quý chuộng, tin
dùng phải lo việc quốc kế dân sinh. Thảng hoặc, có tâm sự thì đó lại là và không
thể khác là tiếng nói đắc thời, lạc quan, phụng sự, tin tưởng vào chúa sáng.
- Về hình thức: Thơ văn Nôm miền Nam cũng có đủ các thể thi phú quen
thuộc, song thường quảng dụng câu lục bát và bắt đầu làm quen với thể song
thất. Văn chương thường nghiêng về khuynh hướng bình dân, đưa lục bát vào
các bài vãn dài, đề cao thể vè. Ở những câu vè, bắt gặp cả những thuyết lý cao
xa. Về văn từ, các tác phẩm sử dụng những thành ngữ nôm na, những giọng điệu
thổ ngơi miền Nam khác hẳn với văn Nôm miền Bắc.
- Các tác phẩm còn lưu lại:
+ Đào Duy Từ: hai bài vãn
+ Nguyễn Hữu Hào: truyện Song tinh bất dạ
+ Nguyễn Cư Trinh: có nhiều bài thơ Nôm và vè sãi vãi
+ Các tác phẩm thơ văn của Tao đàn Chiêu Anh Các.
Để hiểu rõ vùng văn học Hà Tiên, ngoài việc đặt nó lên bản đồ Văn học
Nam Bộ, thì sẽ là một thiếu sót lớn nếu vô tình hay cố ý bỏ rơi việc tìm hiểu dù
chỉ là vài nét sơ bộ về Hà Tiên, quê hương của Tao đàn Chiêu Anh Các.
2- Trấn Hà Tiên - Vùng đất mới trên bản đồ Nam Hà - quê hương của Tao
đàn Chiêu Anh Các.
Hai ngàn năm trước, người Malayopôlynesia, chủ nhân dũng mãnh và tài
ba của những hòn đảo ngoài khơi Đông Nam Á đã đặt chân lên xứ sở mà ngày

nay có tên là đồng bằng Sông Cửu Long. Suốt 600 năm sống chung với lũ, cư
dân đầu tiên của Châu Thổ đã tạo dựng nền văn hoá Óc Eo mà lịch sử sau này
không thôi chiêm ngưỡng và ngợi ca là nền văn hoá phát triển sớm nhất và rực
rỡ nhất Đông Nam Á. Nhưng sau trận biển tiến ( xảy ra vào thế kỷ thứ VI ) toàn
bộ châu thổ chìm trong biển nước và thiếp ngủ trong 6 thế kỷ. Phải đến thế kỷ
XIII, tộc người Khmer của nước Chân Lạp mới có mặt ở đây. Cùng thời gian đó
hay muộn hơn một chút, người Việt từ Thuận Quảng cũng giong thuyền tới đây
và quần tụ cùng người Khmer, người Ấn, người Đồ Bà ( Java )…
6
Giữa thế kỷ XVII, tộc người Mãn từ Mãn Châu tràn vào chiếm toàn bộ
Trung Quốc, diệt nhà Minh, lập nên triều đình Mãn Thanh. Nhiều mưu toan
phục Minh chống Thanh không thành lớp sĩ phu người Hán thất vọng. Không
chịu cạo tóc, gióc bím theo phong tục Mãn, nhiều người đã bỏ nước ra đi. Trong
số những vong thần nhà Minh di cư đến nước ta thời đó có Mạc Cửu.
Mạc Cửu sinh năm 1655 tại xã Lê Quách, huyện Hải Khang, phủ Lôi
Châu tỉnh Quảng Đông. Năm 16 tuổi ( 1671) ông cùng gia nhân lên thuyền vượt
biển xuống phía Nam vừa để thoát khỏi ách thống trị của ngoại tộc, vừa tìm nơi
lập nghiệp dung thân lâu dài. Đặt chân đến đất Mang Khảm ( vốn là đất của vua
nước Chân Lạp), trong chí hướng tu- tề- trị- bình của kẻ sĩ phương đông, như
bất cứ ai khác, Mạc Cửu cũng muốn tạo dựng cho mình trời riêng một cõi. Và
Mạc Cửu trên thực tế đã kiến tạo Hà Tiên theo mô hình một tiểu quốc.
Nhưng Mạc Cửu cũng không thôi ý thức rằng một vùng đất mới mở mang
ăn nên làm ra như vậy thật khó giữ được vẹn toàn. Mạc Cửu, không thể khác
phải đứng trước sự lựa chọn. Chân Lạp vừa hèn yếu, vừa hẹp hòi không thể quy
thuận. Xiêm thì xa và ít nhiều bộc lộ những hành động bạo tàn. Như kẻ sĩ chọn
chủ, cô gái chọn chồng, Mạc Cửu nhìn về hướng đông, hoàn toàn không phải là
sự ngẫu nhiên, hành vi lựa chọn của Mạc Cửu hẳn là kết quả của một quá trình
trăn trở suy tư. Một mặt, những đồng bang của ông được chúa Nguyễn tin dùng.
Nhưng quan trọng hơn là trong cộng đồng cư dân Hà Tiên, người Việt là chủ
công không chỉ về số lượng mà cả về vai trò hàng đầu trong kinh tế, chính trị, xã

hội. Cuối cùng, Mạc Cửu đã đưa ra quyết định sáng suốt mang ý nghĩa lịch sử:
thần phục Đại Việt. Đó là vào tháng 8 mùa thu năm Mậu Tí 1708. Chúa Nguyễn
Phúc Chu đã sẵn sàng đón nhận vùng đất mới, thần dân mới của mình với tấm
lòng bao dung và tin cậy. Nguyễn Phúc Chu đã cho lập trấn Hà Tiên của Đại
Việt, phong Mạc Cửu tước Cửu Ngọc Hầu, chức tổng binh.
Từ đó trở đi, Mạc Cửu và sau này là Mạc Thiên Tích, con ông, ra sức xây
dựng và phát triển trấn Hà Tiên hùng mạnh. Với tư cách là người đứng đầu một
trấn ngoài biên thuỳ có nhiều quyền hành, hai cha con họ Mạc đã dốc lòng xây
dựng Hà Tiên như một quốc gia không chỉ về chính trị mà còn về quân sự quốc
7
phòng. Bên cạnh đó, họ còn mở mang kinh tế, khuyến khích nông nghiệp đặc
biệt là phát triển thương nghiệp, đưa miền đất này trở thành trung tâm thương
mại khu vực. Về văn hoá, hai cha con họ Mạc còn trù hoạch kế sách phát triển
văn hoá một cách căn cơ.
Như vậy Hà Tiên sau khi về với Đại Việt đã phát triển như một " tiểu
quốc gia" phong kiến hoàn chỉnh.
Nhưng, là một vùng đất mới khai phá, ăn nên làm ra, lại ở một vị trí thuận
lợi nhiều mặt, Hà Tiên khó tránh khỏi sự nhòm ngó của ngoại bang. Sau cuộc
xâm lăng của Xiêm La ( 1771- 1773) Hà Tiên bị chiếm, đốt phá nặng nề và
không còn đủ sức gượng dậy được nữa. Dù sao thì, Hà Tiên cũng hoàn thành vai
trò lịch sử của mình trong việc bước đầu mở mang đồng bằng sông Cửu Long.
Nói đến Hà Tiên, nói đến văn hoá Hà Tiên, có một vấn đề quan trọng
không thể không bàn tới. Đó là việc có không ít người có mặc cảm rằng các
thành quả văn hoá Hà Tiên, đặc biệt thơ văn Chiêu Anh Các là một thứ sản
phẩm "ngoại nhập". Mặc cảm đó xuất phát từ quan niệm tổng binh trấn Hà Tiên
là người gốc Minh Hương, nước Tàu. Là " ông vua nhỏ" của một "tiểu quốc" thờ
" nước lớn", Mạc Cửu đã xây dựng một quốc gia phong kiến với phong tục và
chế độ phảng phất giống nhà Minh, ít thấy bản sắc văn hoá Việt. Cách nghĩ
khắc kỷ, thiếu công bằng và ấu trĩ ấy cần phải được xét lại, cho dù việc xác định
bản sắc văn hoá của một dân tộc về mặt lý thuyết cũng như vận dụng vào thực

tế không phải là điều dễ dàng.
Khi Mạc Cửu đặt chân lên mảnh đất Hà Tiên thì trên mảnh đất ấy đã thấy
những người dân sinh sống quần tụ. Công bằng mà nói, người Minh Hương sở
hữu một nền văn hoá lâu đời có bề dầy truyền thống và một nền văn minh phát
triển ở một trình độ hơn hẳn so với người bản địa. Bởi thế, tất yếu vào thời điểm
ấy, đã diễn ra quá trình " di thực" văn hoá. Với phông văn hoá cao hơn, trình độ
văn minh phát triển hơn, khi xuất hiện ở mảnh đất này, văn hoá của những người
gốc Minh Hương đã lấn át văn hoá bản địa và vươn lên giữ vị trí, vai trò chủ
đạo, buộc văn hoá bản địa đứng xuống hàng thứ yếu. Tuy nhiên, khi quy phục
chúa Nguyễn về với Đại Việt, khi cái tên Hà Tiên được gắn lên bản đồ Việt
8
Nam thì sự "di thực" phải dành một phần đường để nhường chỗ cho qúa trình "
bản địa hoá". Là những vong thần nhà Minh, cha con họ Mạc không thôi mang
trong mình một nỗi niềm hoài cảm ngoái về nước cũ; nhưng hàng chục năm
ròng sống dưới bầu trời Việt, ăn cơm người Việt, đủ để cuộc sống Việt, tinh thần
Việt ăn sâu, bén rễ trong tâm hồn họ một cách tự nhiên như hơi thở, như nhịp
đập con tim và Hà Tiên đã trở thành quê hương thứ hai gắn bó máu thịt với họ.
Nói như thế, không có nghĩa là chúng tôi phủ nhận sự tác động trở lại của văn
hoá Minh Hương với văn hoá Đại Việt.
Như vậy, văn hoá Hà Tiên, nói tóm lại là sự cộng sinh của văn hoá Đại
Việt, văn hoá Minh Hương và văn hoá của những cư dân bản địa mà dòng chủ
lưu vẫn là văn hoá Đại Việt, nền văn hoá đó là kết quả của các quá trình " di
thực", " bứng trồng", " bản địa hoá". Bởi thế sự ngộ nhận văn hoá Hà Tiên là
một thứ sản phẩm "ngoại lai" phải được gạt bỏ. Và sẽ chẳng sợ bị coi là "vơ
vào" khi khẳng định rằng những thành quả văn hoá mà Hà Tiên đạt được cũng là
thành quả chung của nền văn hoá Đại Việt và văn học Hà Tiên - Chiêu Anh Các
là bộ phận hữu cơ của văn học Việt Nam.
II- TỔNG QUAN VỀ CHIÊU ANH CÁC
1- Sự thành lập Chiêu Anh Các
Ngay những buổi đầu dựng nghiệp, Mạc Cửu đã dành nhiều ưu ái cho

việc phát triển văn hoá và giáo dục. Chẳng những thế, ông còn trù hoạch kế sách
phát triển văn hoá một cách căn cơ: mở trường dạy học. Trong điều kiện của
mình, ông lập nhà nghĩa học thu hút con em thân hào, chức sắc và cả con em
bình dân hiếu học. Trường không chỉ dạy chữ mà còn là nơi chiêu tập nhân tài.
Đó vừa là câu lạc bộ văn chương vừa là viện hàn lâm thu nhỏ. Hình thức nhà
trường như vậy quả đã tác động tích cực đến sự phát triển của Hà Tiên. Và thành
qủa kiệt xuất là từ nghĩa học đã sản sinh ra Mạc Thiên Tích. Sau khi kế tập cha
được 1 năm, năm 1736, chàng trai 30 tuổi Mạc Thiên Tích đã dựng Tao đàn
Chiêu Anh Các.
Không có những cứ liệu thực sự rõ ràng, nhưng theo chúng tôi có thể hình
dung ra khả năng này: Mạc Thiên Tích lớn lên trong giang sơn của cha, được
9
học với các thầy người Hoa, người Việt trong nghĩa học. Đến tuổi thành niên,
ông đã đọc thông hiểu thạo chữ nghĩa thánh hiền, tư tưởng của bách gia chư tử,
và cũng minh tường quân cơ mưu lược. Kế tục cha chèo lái giang sơn, do thiên
chức riêng, Mạc Thiên Tích đã học và nắm vững nghệ thuật làm thơ viết phú.
Rồi nhằm dịp tết nguyên tiêu năm Bính Thân 1736, Thiên Tích mở hội thơ,
dựng cờ Tao đàn. Đó là ngày tết lịch sử của đất Hà Tiên vì nó chứng kiến sự ra
đời của Tao đàn đầu tiên ở phía Nam và cũng là Tao đàn thứ hai trong lịch sử
văn hoá dân tộc, đánh dấu bước phát triển rất quan trọng của đời sống văn hoá
và văn học xứ Đàng Trong.
Trong bài tựa tập thơ Hà Tiên thập vịnh, Mạc Thiên Tích viết:
"… Mùa hè năm Ất Mão, tiên quân mất đi, tôi nối theo mối trước,
trong khi chính trị thư rỗi, hàng ngày cùng với văn nhân bàn việc vịnh thơ. Mùa
xuân năm Bính Thìn, Trần Tử Hoài ở Việt Đông cưỡi thuyền tới đây, tôi tiếp đãi
làm thượng khách, mỗi buổi hoa sớm, trăng hôm ngâm vịnh không dứt.
Nhân đem 10 bài vịnh cảnh Hà Tiên để xin nhau hoạ vần,Trần Tử dựng
cờ Tao đàn, thủ xướng phong nhã. Kịp khi trở về Châu Giang, chia đề trong
Bạch xã, vâng được các ông không bỏ, theo đề vịnh tiếp, đóng thành một quyển,
xa gửi cho tôi, nhân đem khắc in.

Do đó, biết núi sông nhờ được phong hoá của tiên quân mà thêm phần
tráng lệ, lại được các danh sĩ phẩm đề mà thêm vẻ linh tú. Thơ này chẳng
những chỉ làm cho chốn ven biển thêm phần tươi đẹp, mà cũng là một trang sử
của Hà Tiên vậy…"
Đó là những dòng văn xuôi duy nhất còn lại của thi sĩ họ Mạc, và cũng là
một chứng cớ thuyết phục cho ta biết hoàn cảnh và cách thức ra đời của Tao đàn
Chiêu Anh Các. Từ lâu Mạc Thiên Thích đã làm thơ, xướng hoạ với các văn
nhân thi sĩ gần gũi. Nhưng phải đợi đến khi Trần Tử Hoài từ Trung Quốc sang
thì đó mới là cơ duyên để thơ Mạc Thiên Tích cất cánh. Có thể là, khi làm
thượng khách của đất Hà Tiên, Trần Tử Hoài với con mắt tinh đời của một văn
nhân có tiếng Trung Quốc đã phát hiện ra một Mạc Thiên Tích- thi nhân. Và
ông đã dựng cờ Tao đàn, mở hội thơ xướng hoạ. Trở về nước, Tử Hoài chia thơ
10
Thiên Tích để các danh sĩ Trung Hoa phẩm đề. Thế là từ 10 bài thơ ban đầu của
Mạc Thiên Tích, nay đã được nhân lên thành 320 bài của 32 nhà thơ Việt - Hoa.
Chính vì có khối lượng lớn và giá trị như thế nên các tác phẩm đó được đem
khắc in thành Hà Tiên thập vịnh - thi tập đầu tiên của Chiêu Anh Các.
2- Tổ chức và hoạt động của Chiêu Anh Các.
Chiêu Anh Các vẫn được nhìn nhận như một Tao đàn. Nhưng trên thực tế
không chỉ có vậy, hoạt động của Chiêu Anh Các là rất rộng: đề cao, quảng bá
Nho giáo, mở trường dạy học và sáng tác văn chương.
Khi đã xây dựng một giang sơn riêng, họ Mạc cũng muốn xây dựng trật tự
cho giang sơn của mình. Họ Mạc tìm đến Nho giáo, coi Nho giáo như một chỗ
dựa. Một trong những biểu hiện chứng tỏ Mạc rất đề cao Nho giáo chính là việc
quan tâm, phát triển giáo dục. Mạc Cửu đã cho lập nghĩa học. Và đến 1736, khi
Chiêu Anh Các ra đời thì nhà nghĩa học đã trở thành một trong những hoạt động
của Chiêu Anh Các. Hoạt động của nghĩa học này vừa có ý nghĩa khơi dậy
không khí học tập, vừa có giá trị cung cấp đội ngũ những người giúp việc có học
cho họ Mạc. Bên cạnh đó, Chiêu Anh Các còn là một Văn Miếu thờ Ông Thánh
vạn thế sư biểu Khổng Phu Tử, tứ phối và nhị thập hiên, y như các Văn Miếu mà

chúng ta thường biết.
Với tư cách là một trung tâm truyền bá Nho học, Chiêu Anh Các còn góp
phần quan trọng trong việc dung hoà Nho giáo với các hệ tư tưởng khác, đặc
biệt là Phật giáo và Đạo giáo. Chính sự dung hoà này đã làm cho Hà Tiên vừa có
những nét bản sắc riêng, lại vừa phản ánh được đặc trưng chung của văn hoá dân
tộc lúc bấy giờ. Ngay trong Chiêu Anh Các, bên cạnh đa số là Nho sĩ, còn thấy
thấp thoáng có cả đạo sĩ ( Tô Dần đạo sĩ) có cả nhà sư ( Hoàng Long hoà
thượng). Và, ở Hà Tiên cũng có không ít chùa chiền, đặc biệt lý thú là khi viếng
thăm bất kỳ chùa nào, chúng ta cũng sẽ được đọc thơ của Chiêu Anh Các chép
đầy các bức tường chùa. Bằng những hoạt động ấy, Chiêu Anh Các đã góp phần
làm cho đội ngũ kẻ sĩ ở Hà Tiên ngày càng lớn mạnh.
Nhưng Chiêu Anh Các vẫn chủ yếu được biết đến như là một Tao đàn,
Thi xã. Hoạt động nổi bật nhất, được nhiều người quan tâm nhất là xướng hoạ,
11
ngâm vịnh của các tác giả Chiêu Anh Các. Sẽ chẳng mấy khó khăn để lý giải
điều này, bởi lẽ đây là hoạt động để lại nhiều thành quả có giá trị nhất. Như tên
của nó, Chiêu Anh Các là nơi chiêu tập những kẻ sĩ, những bậc anh tuấn, anh tài
trong thiên hạ ( Chiêu: gọi, cầu; Anh: anh tài; Các: gác) Tao đàn này cũng đã tổ
chức làm thơ xướng hoạ ngâm vịnh, giảng đàm thao lược và thậm chí còn cho in
khắc, lưu hành trong địa phương và sang cả Hoa Nam - Trung Quốc. Những
đóng góp của Chiêu Anh Các- Tao đàn sẽ được làm rõ, cụ thể hoá ở phần viết
sau.
3- Đặc điểm của lực lượng sáng tác ở Chiêu Anh Các.
Ở những tài liệu khác nhau, thì số lượng các tác giả Chiêu Anh Các là
không giống nhau. Theo Đông Hồ, trong văn học miền Nam - Văn học Hà Tiên,
thời bấy giờ người ta có truyền tụng câu thơ rằng:
Tài hoa lâm lập Trúc Phương Thành.
Nam Bắc hàm vân thập bát anh
( Người tài hoa ở Trúc Phương Thành san sát như cây rừng, song được
khắp nơi xưng tụng hơn cả vẫn là mười tám người tài giỏi).

Còn bản thân Đông Hồ thì cho rằng, số lượng tác giả xướng hoạ ở Chiêu
Anh Các là 32. Lý Thị Mai trong công trình gần đây của mình: Tao đàn Chiêu
Anh Các - Nhà xuất bản Văn hoá - Thông tin 2003, đã lập bảng thống kê danh
sách tác giả Chiêu Anh Các trên cơ sở những thư tịch cổ, những ghi chép của Lê
Quý Đôn, Trịnh Hoài Đức. Theo đó, tổng số những người tài hoa tham gia
xướng hoạ ở Chiêu Anh Các lên đến 75 người. Sự sai số lớn đến như vậy buộc
chúng ta không thể loại trừ khả năng có sự trùng lặp do trường hợp một người
dùng nhiều bút hiệu, hoặc giả là khi dùng tên hiệu, khi dùng tên thật, lại có khi
dùng tên tự…Tuy nhiên, dẫu cho có sự trùng lặp đi chăng nữa thì con số 75 vẫn
là một con số biết nói và sự vượt quá xa so với con số 32 người của Đông Hồ, tự
nó, đã nói lên được phần nào quy mô của Chiêu Anh Các. Bởi thế, chẳng phải là
vô cớ khi khẳng định rằng Chiêu Anh Các là một thi xã lớn.
Không chỉ lớn bởi số lượng tác giả, Chiêu Anh Các là một thi xã lớn còn
bởi vì và chủ yếu bởi vì Chiêu Anh Các đã quy tụ đông đảo lực lượng sáng tác
12
gồm nhiều thành phần khác nhau, nhiều địa phương khác nhau và tín ngưỡng
khác nhau. Trong điều kiện thế kỷ XVIII, một sự thu hút, quy tụ như thế thật là
điều hiếm và không thể không trân trọng.
Trong Tao đàn Chiêu Anh Các, đa số là những người Minh Hương, một
số người Hoa Trung Quốc, chỉ có 8 người là người Việt. Đó là:
1. Phan Đại Quảng
2. Nguyễn Nghi Quê ở phủ Triệu Phong ( Thuận Hoá )
3. Trần Ngoan
4.Đặng Minh Bản
5.Trịnh Liên Sơn
6.Lê Bá Binh
7. Hoàng Long hoà thượng
8. Tô Dần đạo sĩ
Theo ghi chép của Trịnh Hoài Đức trong Gia Định thành thông chí thì có
đến 8 vị trong Chiêu Anh Các tuy không có thơ hoạ nhưng vẫn có tên trong Tao

đàn.
1- Tạ Chương 5- Lư Triều Huynh
2- Vương Đắc Lộ 6- Lê Bá Binh
3- Lương Kim Phong 7- Hoàng Long hoà thượng
4- Dư Tích Thuần 8- Tô Dần đạo sĩ
Trong đội ngũ những người tham gia xướng hoạ ở Chiêu Anh Các, có
người chưa hề đặt chân đến Hà Tiên. Họ hoạ thơ Mạc Thiên Tích thông qua
nhân vật Trần Tử Hoài ( điều này được ghi nhận trong bài tựa mà Mạc Thiên
Tích viết cho tập Hà Tiên thập vịnh).
Trên đây là một vài nhận định sơ lược về đặc điểm của lực lượng sáng tác
ở Chiêu Anh Các.
4.Tác phẩm và tình trạng văn bản.
Dựa trên cơ sở các tài liệu gốc là những ghi chép của Lê Quý Đôn
( Phủ biên tạp lục, Kiến văn tiểu lục), Trịnh Hoài Đức ( Gia Định thành thông
chí ) bên cạnh đó là các cuốn sách Văn học Hà Tiên ( Đông Hồ Lâm Tấn Phác),
13
Quê ở Gia Định
Quê ở phủ Quy Nhơn
Hợp tuyển văn học Việt Nam, Tổng tập văn học Việt Nam …, chúng tôi đã
thống kê được các tác phẩm sau của Chiêu Anh Các.
- Hà Tiên thập vịnh ( Hán )
- Thụ Đức hiên tứ cảnh ( Hán)
- Minh bột di ngư ( Hán)
- Hà Tiên quốc âm thập vịnh ( Nôm)
- Hà Tiên vịnh vật thi tuyển
- Châu Thị trinh liệt tặng ngôn
- Thi truyện tặng Lưu tiết phụ
- Thi thảo vịnh ngôn dị tập
- Lư khê vãn
Chiêu Anh Các để lại một khối lượng tác phẩm tương đối lớn gồm cả hai

bộ phận: sáng tác bằng chữ Hán và sáng tác bằng chữ Nôm nhưng đáng tiếc là
đến nay, hầu hết sách đã thất truyền. Hiện chỉ còn lại một số tác phẩm ở các tập:
Hà Tiên thập vịnh, Thụ Đức hiên tứ cảnh, Minh bột di ngư, Hà Tiên quốc âm
thập vịnh và bài phú Lư Khê vãn. Bốn tập sách Hà Tiên vịnh vật thi tuyển, Châu
Thị trinh liệt tặng ngôn, Thi truyện tặng Lưu tiết phụ, Thi thảo cách ngôn dị
tập- chúng ta chỉ biết đến tên.
Tình trạng văn bản của các tác phẩm còn lại của Chiêu Anh Các như sau:
- Hà Tiên thập vịnh: được khắc in năm 1737 gồm 320 bài thơ viết về 10
cảnh đẹp Hà Tiên, do Mạc Thiên Tích xướng, 6 tác giả người Việt và 25 tác giả
người Hoa hoạ vần; Mạc Thiên Tích đề tựa, Dư Tích Thuần và Trần Trí Khải,
hai văn nhân Trung Quốc viết hai bài bạt. Sau này Nguyễn Cư Trinh vào Hà
Tiên có quan hệ thi hữu với Mạc Thiên Tích hoạ thêm 10 bài nữa. Hiện nay chỉ
còn lại 10 bài xướng của Mạc Thiên Tích, 10 bài hoạ của Nguyễn CưTrinh, 4
bài hoạ của các tác giả Vương Xưởng, Đan Bỉnh Ngư, Nguyễn Nghi, Lý Nhân
Trường.
- Thụ Đức hiên tứ cảnh được 32 người hoạ cộng 88 bài đã khắc in do
Phương Thu Bạch viết bài tựa, nhưng mất mát gần hết. Bốn bài xướng của Mạc
14
Thiên Tích cũng nằm trong số đó. May nhờ Lê Quý Đôn mà ta còn lại 9 bài hoạ
của 9 nhà thơ được chép lại trong Kiến văn tiểu lục.
- Minh bột di ngư - Ông chài còn sót lại trên biển nhà Minh - là tập thơ
phú gồm 30 bài thơ luật và bài phú 100 vần cùng lấy tên Lư Khê nhàn
điếu( Rạch Vược câu nhàn) của Mạc Thiên Tích. Bản in sinh thời của Mạc
Thiên Tích 1771 đã mất. Bản in thứ hai do Trịnh Hoài Đức đứng ra khắc in vào
năm 1821 có tên là Minh bột di ngư trùng bản cũng không còn. Hiện chỉ còn lại
bài phú và 7 bài thơ. Tình hình tài liệu như vậy chưa cho phép tìm hiểu một cách
toàn diện về nội dung tư tưởng và nghệ thuật của Minh bột di ngư, nhưng căn cứ
vào Lư Khê nhàn điếu phú, ta có thể coi đây như một tuyên ngôn Việt hoá của
Mạc Thiên Tích và lớp hậu duệ của các di thần bài Thanh phục Minh từ Hoa
Nam qua tỵ nạn chính trị ở Đàng Trong, khi mới quan hệ với không gian xã hội

này đã thúc đẩy họ chủ động và vĩnh viễn vùi chôn tâm sự di thần.
- Hà Tiên quốc âm thập vịnh gồm hơn 336 câu lục bát gián thất và 88 câu
của mười một bài thơ Đường luật, tổng cộng 424 câu sáng tác bằng tiếng Việt -
chữ Nôm. Hà Tiên quốc âm thập vịnh hiện có 7 văn bản đáng chú ý.
+Bản Nôm trong gia phả Hà Tiên do Trần Đình Quang chép.
+ Bản Nôm của gia đình Nguyễn Đình Chiểu
+ Bản quốc ngữ do Lê Quang Chiểu công bố
+ Bản quốc ngữ do Nguyễn Phương Chánh sao lục
+ Bản quốc ngữ do La Thành Đầm công bố
+ Bản quốc ngữ do Đông Hồ công bố trên tạp chí Nam Phong
(1926)
+ Bản quốc ngữ do Đông Hồ bình giảng trong văn học Hà Tiên
(1970)
-Lư Khê Vãn: Mặc dù không ghi tên tác giả, nhưng căn cứ vào một số đặc
điểm và nội dung, phong cách và thể loại, cố giáo sư Ca Văn Thỉnh đã cho rằng
Lư Khê Vãn có thể là tác phẩm của Tao đàn Chiêu Anh Các. Hiện nay gần như
không còn khả năng văn bản chữ Nôm nào của tác phẩm này chỉ còn bản chép
tay quốc ngữ của Trương Vĩnh Ký .
15
5- Mạc Thiên Tích và vị trí của ông trong Tao đàn Chiêu Anh Các.
Mạc Thiên Tích ( 19/4/1706 - 01/11/1780) tên thật là Mạc Tông sau đổi
thành Mạc Tứ, tự Sĩ Lân là con trưởng của tổng binh Mạc Cửu và bà Bùi Thị
Lẫm, người Việt. Sau khi cha mất ( 1735) Mạc Thiên Tích được chúa Nguyễn
cho kế chân cha tiếp tục coi giữ trấn Hà Tiên, tước Tông Đức hầu. Thừa kế sự
nghiệp của cha, Mạc Thiên Tích đưa Hà Tiên lên bước phát triển mới, thăng hoa
thành vùng văn hiến rực rỡ nơi biên thuỳ phía Tây Nam. Đến thời ông, Tây Nam
đã thực sự thành một vùng đất trù phú, cư dân đông đúc làm phên dậu cho đất
nước. Ông cũng có công xây dựng dân binh, nhiều lần đánh bại các cuộc xâm
lược của bọn phong kiến Xiêm La và Chân Lạp. Vào khoảng 1776, khi quân
Tây Sơn đánh vào Gia Định, truy kích bè đảng chúa Nguyễn, Mạc Thiên Tích đã

giữ lòng trung với chúa, chạy sang Xiêm xin viện binh về " phục quốc". Nhưng
vua Xiêm ( bấy giờ là một thương nhân Hoa kiều tiếm ngôi) tỏ lòng nghi kị cho
giam lỏng đoàn cầu viện của họ Mạc. Phẫn uất, ông tự tử tại Băng Cốc.
Xuất thân từ một gia đình có truyền thống văn hoá, nho học, Mạc Thiên
Tích là một người học rộng, có tài văn thơ, lại có ý thức mở mang văn hoá trên
mảnh đất do mình gây dựng. Mạc Thiên Tích đã sớm quy tụ được nhiều nhà nho
từ các nơi về Hà Tiên lập nghiệp và vào năm 1736, ông cùng họ lập lên thi xã
Chiêu Anh Các. Điều đó cho thấy, Mạc Thiên Tích rất có uy tín và luôn nhận
được sự kính trọng của các danh sĩ đương thời. Không chỉ sáng lập Chiêu Anh
Các, ông còn là thủ lĩnh của Tao đàn này. Mọi hoạt động của Chiêu Anh Các
đều dưới sự điều khiển, dẫn dắt của ông.
Mạc Thiên Tích luôn là người khởi xướng cho mọi hoạt động của Chiêu
Anh Các. Ông làm thơ, rồi mời các nhà thơ trong và ngoài thi xã cùng hoạ lại,
thậm chí mời cả những nhà thơ quen biết của một thi xã ở Quảng Châu cùng góp
lời ngâm hoạ. Không có xướng hẳn sẽ chẳng thể có hoạ. Không có những bài
thơ hay của Mạc Thiên Tích hẳn sẽ chẳng thể có được những tập thơ để lại cho
đời. Nói như vậy để thấy rằng Mạc Thiên Tích đã đóng một vai trò vô cùng
quan trọng, có một vị trí trụ cột trong Tao đàn Chiêu Anh Các. Bên cạnh đó,
Mạc Thiên Tích cũng là người có công lớn trong việc phổ biến, quảng bá văn
16
chương Chiêu Anh Các trong phạm vi cả trong và ngoài nước. Chính Mạc Thiên
Tích đã cho khắc in các tác phẩm của Chiêu Anh Các ( rất đáng tiếc đến nay
chẳng còn được là bao). Bằng cách ấy, Mạc Thiên Tích đã đưa Chiêu Anh Các
trở thành một hoạt động văn hoá, văn học ít nhiều mang tính chất quốc tế.
Là thủ lĩnh Tao Đàn, những tư tưởng, tình cảm, những trăn trở, suy tư của
Mạc Thiên Tích không thể không ảnh hưởng đến tổng thể thơ văn Chiêu Anh
Các. Tư tưởng của Mạc Thiên Tích đóng vai trò chủ đạo, chi phối các tác phẩm
của Chiêu Anh Các. Do đó, không chỉ ở các tác phẩm của Mạc Thiên Tích, nhìn
vào các sáng tác của những tác giả Chiêu Anh Các khác ta có thể hình dung
phần nào chân dung Mạc Thiên Tích. Vị trí quan trọng của Mạc Thiên Tích đối

với Chiêu Anh Các còn được thể hiện ở chỗ, Mạc Thiên Tích đã đóng góp một
khối lượng tác phẩm lớn và quan trọng vào kho tàng văn học Chiêu Anh Các.
Những tác phẩm còn lại của Mạc Thiên Tích là:
- 10 bài xướng trong Hà Tiên thập vịnh
- Minh bột di ngư ( 1 bài phú và 7 bài thơ)
- Hà Tiên quốc âm thập vịnh
Có thể nói, đây là những tác phẩm quan trọng bậc nhất trong tổng thể văn
chương Chiêu Anh Các. Nhờ có những tác phẩm này và chủ yếu dựa trên những
tác phẩm này, chúng ta mới có thể tìm hiểu và khám phá nhiều cái hay, cái đẹp,
cái lạ trong thơ văn Chiêu Anh Các.
Tóm lại, sẽ chẳng phải quá lời khi khẳng định rằng Mạc Thiên Tích chính
là linh hồn, là trái tim của Chiêu Anh Các. Ông xứng đáng là vị chủ soái, một trụ
cột vững chắc và không thể thiếu của Tao đàn vô cùng độc đáo này.
III- NHỮNG ĐÓNG GÓP VỀ VĂN HỌC CỦA CHIÊU ANH CÁC
1.Nội dung sáng tác của thơ văn Chiêu Anh Các
1.1- Đất nước Hà Tiên tươi đẹp.
Chủ đề xuyên suốt trong các tác phẩm của Mạc Thiên Tích nói riêng và
Chiêu Anh Các nói chung là sự ngợi ca đất nước Hà Tiên, một miền đất tuy mới
nhưng ngày càng đơm hoa kết trái.
17
Các tác giả đã dành cho Hà Tiên một sự ưu ái, một tình cảm trìu mến,
thương yêu.
a- Đến với Hà Tiên, trước hết, chúng ta sẽ chìm đắm ngay vào vẻ đẹp
muôn màu, muôn sắc của thiên nhiên xứ này:
Thiên nhiên là nguồn cảm hứng muôn thưở cho văn chương. Nhưng trong
lịch sử văn học nước nhà, chưa bao giờ chúng ta bắt gặp một số lượng tác phẩm
lớn của một đội ngũ đông đảo các tác giả tập trung ca ngợi thiên nhiên như ở
Chiêu Anh Các. Thơ văn Chiêu Anh Các đầy ắp thiên nhiên, tràn trề thiên
nhiên.Bóng dáng thiên nhiên hiện lên rõ ràng, đậm nét trong những dòng thơ,
dòng văn chứa chan tình cảm. Tất cả các tác phẩm Chiêu Anh Các đều thấp

thoáng bóng dáng thiên nhiên. Đọc thơ văn Chiêu Anh Các, chúng ta bắt gặp
núi, sông, biển, đảo, chúng ta bắt gặp gió, mây, tuyết và không thể thiếu được là
trăng. Đọc Chiêu Anh Các, chúng ta biết và thêm yêu những danh thắng trên đất
Hà Tiên: Kim Dự lan đào, Bình San điệp thúy, Thạch Động thôn vân, Châu
Nham lạc lộ, Đông Hồ ấn nguyệt, Nam Phố trường ba, Lộc Trĩ thôn cư, Lư Khê
ngư bạc, Tiêu tự thần chung, Giang thành dạ cổ. Những Kim Dữ ( đảo vàng),
Bình San ( núi bằng), những Thạch Động ( hang đá), Châu Nham ( nham thạch
đỏ) … vốn chẳng phải tên riêng, nhưng từ khi đi vào thơ chúng đã trở thành
những tên gọi thân thương, gần gũi, quen thuộc với và không chỉ với Hà Tiên.
Ngần ấy địa danh đủ để chúng ta thấy rằng mọi nơi, mọi chốn trên mảnh đất Hà
Tiên đều là những danh thắng quyến rũ, hấp dẫn lòng người.
Thơ Chiêu Anh Các đầy ắp núi, mây, sông, nước; đầy ắp trăng, gió bao la.
Nhưng điều đáng nói núi ấy là núi Hà Tiên, biển ấy là biển Hà Tiên, gió ấy là
gió trời Hà Tiên, không thể lẫn với bất kỳ miền quê nào khác.
Thiên nhiên Hà Tiên đa dạng không chỉ bởi có nhiều thắng cảnh,
không chỉ bởi có nhiều nét đặc sắc mà còn phong phú bởi vẻ đẹp muôn màu,
muôn sắc, đầy biến hoá của nó.
Đó là một thiên nhiên hùng vĩ, tráng lệ.
Nhất đảo thôi ngôi, điện bích liên
Hoành lưu kì thắng tráng Hà Tiên
18

×