I - TÌM HIỂU CHUNG
1. Tác giả:
Nhà thơ Huy Cận (1919-2005), tên đầy đủ là Cù Huy Cận, quê ở làng Ân Phú, huyện Vũ Quang (trước
đây thuộc huyện Hương Sơn, nay là Đức Thọ), tỉnh Hà Tĩnh. Huy Cận nổi tiếng trong phong trào Thơ
mới với tập thơ Lửa thiêng. Ông tham gia cách mạng từ trước năm 1945 và sau Cách mạng tháng Tám
từng giữ nhiều trọng trách trong chính quyền cách mạng, đồng thời là một trong những nhà thơ tiêu biểu
của nền thơ ca hiện đại Việt Nam. Huy Cận được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn
học nghệ thuật (năm 1996).
Hơn 60 năm hoạt động văn học nói chung và làm thơ nói riêng, với gần 20 thi phẩm thơ đi từ nỗi buồn
"từ ngàn xưa" đến niềm vui lớn hôm nay, Huy Cận luôn gắn liền với mạch đời chung của dân tộc. Thơ
Huy Cận vừa bám lấy cuộc đời, vừa hướng tới những khoảng rộng xa của tạo vật và thời gian, vừa trăn
trở với cái chết, vừa nâng niu sự sống trước qui luật tử sinh, vừa triết lí suy tư, vừa hồn nhiên thơ trẻ, vừa
bay bổng lãng mạn, vừa hiện thực đời thường trong cái khoảnh khắc hữu hạn của đời người vẫn muốn
hoá thân vào cái vĩnh cửu, trường sinh (Trời mỗi ngày lại sáng, Đất nở hoa, Bài thơ cuộc đời, Những năm
sáu mươi, Chiến trường gần đến chiến trường xa, Ngày hằng sống, ngày hằng thơ, Ngôi nhà giữa nắng,
Ta về với biển, Lời tâm nguyện cùng hai thế kỷ). Với ý thức vận động và sự chuyển hoá giữa nhiều yếu tố
trong hình tượng cái tôi trữ tình, Huy Cận đã tạo cho mình một phong cách đặc sắc, độc đáo. Huy Cận đã
tỏ ra sở trường về thể thơ lục bát và có đóng góp đáng kể trong sự mở rộng hình thức và nâng cao chất trí
tuệ cho thơ theo hướng suy tưởng, vươn tới những khái quát rộng xa, giàu liên tưởng trong những bài thơ
mở rộng khuôn khổ, kích thước.
2. Tác phẩm:
- Nhà thơ đã xuất bản: Lửa thiêng (thơ, 1940); Vũ trụ ca (thơ, 1942); Kinh cầu tự (văn xuôi, 1942); Tính
chất dân tộc trong văn nghệ (nghiên cứu, 1958); Trời mỗi ngày lại sáng (thơ, 1958); Đất nở hoa (thơ,
1960); Bài ca cuộc đời (thơ, 1963); Hai bàn tay em (thơ, 1967); Phù Đổng Thiên vương (thơ, 1968);
Những năm sáu mươi (thơ, 1968); Cô gái Mèo (thơ, 1972); Thiếu niên anh hùng họp mặt (thơ, 1973);
Chiến trường gần đến chiến trường xa (thơ, 1973); Những người mẹ, những người vợ (thơ, 1974); Ngày
hằng sống, ngày hằng thơ (thơ, 1975); Sơn Tinh, Thủy Tinh (thơ, 1976); Ngôi nhà giữa nắng (thơ, 1978);
Hạt lại gieo (thơ, 1984); Văn hóa và chính sách Văn hóa ở Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (viết
bằng tiếng Pháp, xuất bản ở Pari 1985); Tuyển tập (thơ, 1986); Nước thủy triều Đông (thơ, song ngữ, xuất
bản ở Paris, 1944); Hồi ký song đôi (1997).
- Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá thể hiện sự kết hợp giữa cảm hứng lãng mạn và cảm hứng thiên nhiên, vũ
trụ của nhà thơ Huy Cận.
Bài thơ được bố cục theo hành trình một chuyến ra khơi của đoàn thuyền đánh cá. Hai khổ đầu là cảnh
lên đường và tâm trạng náo nức của con người, bốn khổ tiếp theo là hoạt động của đoàn thuyền đánh cá
và khổ cuối là cảnh đoàn thuyền trở về trong buổi bình minh của một ngày mới.
Về hoàn cảnh sáng tác, nhà thơ Huy Cận nhớ lại:
Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của tôi được viết ra trong những tháng năm đất nước bắt đầu xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Không khí lúc này thật vui, cuộc đời phấn khởi, nhà thơ cũng rất phấn khởi. Cả tác phẩm
vùng than, vùng biển đang hăng say lao động từ bình minh cho đến hoàng hôn và cả từ hoàng hôn cho
đến bình minh. Đoàn thuyến đánh cá lấy thời điểm xuất phát khác với lệ thường, lúc mặt trời lặn và trở về
trong ánh bình minh chói lọi. Khung cảnh trên biển khi mặt trời tắt không nặng nề tăm tối mà mang vẻ
đẹp của thiên nhiên tạo vật trong qui luật vận động tự nhiên của nó. ở đây tôi đã miêu tả khung cảnh tạo
vật với cảm hứng vũ trụ. Nếu trước cách mạng vũ trụ ca còn buồn thì bây giờ vui, trước là tách biệt xa
cách với cuộc đời thì hôm nay lại gần gũi với con người. Bài thơ của tôi là một cuộc chạy đua giữa con
người và thiên nhiên, và con người đã chiến thắng. Tôi coi đây là khúc tráng ca, ca ngợi con người trong
lao động với tinh thần làm chủ, với niềm vui. Bài thơ cũng là sự kết hợp giữa hiện thực và lãng mạn. Chất
hiện thực của khung cảnh lao động trên biển cả khi vùng biển đã về ta. Và chất lãng mạn thì cũng không
cần phải tưởng tượng nhiều. ở giữa cảnh biển cao rộng đó, với gió, với trăng, rồi bình minh và nắng hồng,
và đặc biệt là sức người trong lao động đều thực sự mang tính chất lãng mạn bay bổng "Thuyền ta lái gió
với buồm trăng". "Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời". Cảm hứng và hình ảnh ấy rất thích hợp với lao
động trên biển. Tôi nghĩ rằng trong khung cảnh đó cũng không thể viết khác đi. Bài thơ kết thúc bằng
hình ảnh đẹp của một ngày mới khi đoàn thuyền đang trở về, các khoang thuyền đầy ắp cá. Mở đầu bài
thơ là hình ảnh "mặt trời xuống biển" và kết thúc là hình ảnh "mặt trời đội biển" nhô lên giữa sông nước.
Thiên nhiên đã vận động theo một vòng quay của mặt trời và con người đã hoàn thành trách nhiệm của
mình trong lao động. Không có gì vui bằng lao động có hiệu quả.
Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá nằm trong cảm hứng chung của thơ tôi trong những năm xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Tôi viết bài thơ tương đối nhanh, chỉ vài giờ của một buổi chiều trên vùng biển Hạ Long.
Bài thơ được viết liền mạch và ít phải sửa chữa. Tôi nghĩ rằng đó cũng không phải là chuyện ngẫu nhiên
mà thực sự là cảm hứng đã được tích tụ trên một đề tài quen thuộc của tôi và được viết ra trong không khí
rất vui của những năm tháng đầu xây dựng của chủ nghĩa xã hội (Huy Cận, Tác phẩm văn học, NXB Văn
học, 2001).
II - GIÁ TRỊ TÁC PHẨM
Nhà thơ Huy Cận đã từng gọi bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (1958) của mình là "khúc tráng ca". Quả đúng
như¬ vậy, bài thơ là khúc tráng ca ca ngợi vẻ đẹp khoẻ khoắn của con ngư¬ời lao động trong sự hài hoà
với vẻ đẹp tráng lệ của thiên nhiên kì vĩ. Không còn thấy dấu vết của một "nỗi buồn thế hệ" cô đơn, li tán
đã từng dằng dặc, triền miên trong thơ ông hồi tr¬ớc Cách mạng tháng Tám. Đây là cảnh sông nước trong
Tràng giang - một trong những bài thơ tiêu biểu của Huy Cận giai đoạn ấy:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Còn đây:
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi
Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!
Đó là sự khác nhau của hai nguồn sống, ở hai giai đoạn sống của một tâm hồn. Đoàn thuyền đánh cá là
hình ảnh của cuộc sống mới, cuộc sống mà ngư¬ời ta tìm thấy niềm tin vui bất diệt trong lao động.
Bài thơ miêu tả trọn vẹn một đêm lao động trên biển của đoàn thuyền đánh cá. Hai khổ thơ đầu là cảnh ra
khơi. Khung cảnh thiên nhiên được phác hoạ ít nét mà vẫn cho ta cảm nhận được vẻ chắc nịch, thấm đậm
không khí khẩn trương của một buổi xuất bến ra khơi. Hai câu thơ đầu gợi tả sự vận động của thời gian,
mặt trời xuống biển, những con sóng gợn những nét ngang luân chuyển qua lại như then cửa và mặt trời
xuống đến đâu, cánh cửa đêm như được kéo xuống đến đó. Khi những ánh sáng mặt trời tắt hẳn cũng là
lúc "sóng đã cài then", "đêm sập cửa". Đúng thời điểm ấy, trong không gian của một đêm đã bắt đầu ấy,
thênh thênh vút lên, bừng sáng tiếng hát của người dân. Không phải ánh sáng toát lên từ cánh buồm trắng
trong một buổi mai như ở Quê hương của Tế Hanh:
Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá
(...)
Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió...
Mà là ánh sáng của thanh âm, của khúc hát lãng mạn cất lên từ lòng tin, tình yêu lao động, của sắc cá bạc
đan dệt thành. Những vần trắc trong khổ thơ đầu (lửa, cửa, khơi, khơi) hoà điệu cùng khúc hát, rất có giá
trị trong việc gợi tả vẻ thoáng đạt, sáng láng ấy. Một cách tự nhiên, những vần thơ mở đầu hút ng¬ười
đọc vào không khí lao động của người¬ dân lúc nào không hay.
Bốn khổ thơ tiếp theo là cảnh lao động trên biển đêm. Những khổ thơ này tập trung nhiều hình ảnh tráng
lệ, vẻ tráng lệ đã đ¬ược gợi ra từ đầu bài thơ với hình ảnh "Mặt trời... như¬ hòn lửa". Đến đây, cảnh đánh
cá đêm trên biển đ¬ợc miêu tả hết sức sinh động. Đó là những động từ mạnh mẽ (lái gió, lướt, dàn đan,
quẫy, kéo xoăn tay,...), là những hình ảnh gợi tả cái kì vĩ, lớn lao (mây cao, biển bằng, dặm xa, bụng biển,
thế trận, vây giăng, đêm thở), là những sắc màu lộng lẫy, rực rỡ như¬ trẩy hội, và cả những nét thơ mộng,
bay bổng (buồm trăng, lấp lánh đuốc đen hồng, trăng vàng choé, sao lùa, vẩy bạc đuôi vàng loé rạng
đông, nắng hồng,...). Vẻ đẹp của biển trời hoà quyện với vẻ đẹp của con người lao động dệt lên bức tranh
tráng lệ, rạo rực sức sống, rạng rỡ vẻ đẹp giàu say lòng ng¬ời. Có lẽ không ở đâu lại có được cái nguồn
sống bất tận diệu kì của biển Đông hơn ở những câu thơ này:
Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé,
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.
Chỉ một hình ảnh "Đêm thở" mà ta như thấy cả màn đêm phập phồng, thấy cả gió, cả sóng nư¬ớc. Theo
nhịp thở của vũ trụ, ngàn con sóng dồn đuổi ánh lên những đợt vàng sáng lấp lánh của vẩy cá phản chiếu
ánh trăng, của sao... Thật huyền diệu!
Cá đã đầy khoang, lấp loá trong ánh rạng đông cũng là lúc đoàn thuyền kết thúc một đêm lao động. Buồm
lại căng lên đón ánh nắng sớm. Khổ thơ cuối là cảnh trở về của đoàn thuyền đánh cá:
Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới,
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi
Lại một sự hoà quyện tuyệt vời giữa thiên nhiên và con người. Vẻ đẹp của bài thơ bừng lên trong ánh
sáng huy hoàng, ánh sáng của mặt trời, ánh sáng của sức lao động đã thành thành quả, của niềm vui lao
động chân chính.
Nhìn lại toàn bộ bức tranh mà tác giả đã miêu tả trong bài thơ, ta càng thấy rõ hình ảnh con người vừa
làm chủ tự nhiên (Ra đậu dặm xa dò bụng biển - Dàn đan thế trận lưới vây giăng), vừa phô vẻ đẹp hoà
quyện cùng thiên nhiên (Thuyền ta lái gió với buồm trăng - Lướt giữa mây cao với biển bằng; Câu hát
căng buồm với gió khơi, Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời). Trong sự hài hoà ấy, vũ trụ cũng được
cảm nhận với sự vận động theo nhịp sống của con người: Ta hát bài ca gọi cá vào, Gõ thuyền đã có nhịp
trăng cao. Đúng như nhà thơ Huy Cận đã bày tỏ:
"Khung cảnh trên biển khi mặt trời tắt không nặng nề tăm tối mà mang vẻ đẹp của thiên nhiên tạo vật
trong qui luật vận động tự nhiên của nó. ở đây, tôi đã miêu tả khung cảnh tạo vật với cảm hứng vũ trụ.
Nếu trư¬ớc cách mạng, Vũ trụ ca còn buồn thì bây giờ vui, trước là tách biệt, xa cách với cuộc đời thì
hôm nay, lại gần gũi với con ngư¬ời. Bài thơ của tôi là cuộc chạy đua giữa con người và thiên nhiên, và
con người đã chiến thắng. Tôi coi đây là một khúc tráng ca, ca ngợi con người trong lao động với tinh
thần làm chủ, với niềm vui".
Bài khác:
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Nhà thơ Huy Cận đã từng gọi bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (1958) của mình là "khúc tráng ca". Quả
đúng như vậy, bài thơ là khúc tráng ca ca ngợi vẻ đẹp khoẻ khoắn của con người lao động trong sự hài
hoà với vẻ đẹp tráng lệ của thiên nhiên kì vĩ. Không còn thấy dấu vết của một "nỗi buồn thế hệ" cô đơn, li
tán đã từng dằng dặc, triền miên trong thơ ông hồi trước Cách mạng tháng Tám, mà tràn đầy sức sống của
niềm vui lao động:
Mặt trời xuống biển như hòn lửa,
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Hát rằng : cá bạc biển Đông lặng
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn màu sáng
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi !
Đó là sự khác nhau của hai nguồn sống, ở hai giai đoạn sống của một tâm hồn. Đoàn thuyền đánh cá là
hình ảnh của cuộc sống mới, cuộc sống mà người ta tìm thấy niềm tin vui bất diệt trong lao động.
2. Bài thơ miêu tả trọn vẹn một đêm lao động trên biển của đoàn thuyền đánh cá. Hai khổ thơ đầu là cảnh
ra khơi. Khung cảnh thiên nhiên dẫu chỉ phác hoạ ít nét mà vẫn cho ta cảm nhận được vẻ chắc nịch, thấm
đậm không khí khẩn trơng của một buổi xuất bến ra khơi. Hai câu thơ đầu gợi tả sự vận động của thời
gian, mặt trời xuống biển, từng đợt sóng gợn những nét ngang luân chuyển qua lại như then cửa và mặt
trời xuống đến đâu, cánh cửa đêm như đợc kéo xuống đến đó. Khi những ánh sáng mặt trời tắt hẳn cũng
là lúc "sóng đã cài then", "đêm sập cửa". Đúng thời điểm ấy, trong không gian của một đêm đã bắt đầu
ấy, thênh thênh vút lên, bừng sáng tiếng hát của ngư dân. Không phải ánh sáng toát lên từ cánh buồm
trắng trong một buổi mai như ở Quê hương của Tế Hanh :
Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá
(...)
Cánh buồm giương to nh mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió ...
Mà là ánh sáng của thanh âm, của khúc hát lãng mạn cất lên từ lòng tin, từ tình yêu lao động, của sắc cá
bạc đan dệt thành. Những vần trắc trong khổ thơ đầu (lửa, cửa, khơi, khơi) hoà điệu cùng khúc hát, rất có
giá trị trong việc gợi tả vẻ thoáng đạt, sáng láng ấy. Một cách tự nhiên, những vần thơ mở đầu hút ngời
đọc vào không khí lao động của ngư dân lúc nào không hay.
3. Bốn khổ thơ tiếp theo là cảnh lao động trên biển đêm. Những khổ thơ này tập trung nhiều hình ảnh
tráng lệ, vẻ tráng lệ đã được gợi ra từ đầu bài thơ với hình ảnh "Mặt trời... như hòn lửa". Đến đây, cảnh
đánh cá đêm trên biển được miêu tả hết sức sinh động. Đó là những động từ mạnh mẽ (lái gió, lớt, dàn
đan, quẫy, kéo xoăn tay,...), là những hình ảnh gợi tả cái kì vĩ, lớn lao (mây cao, biển bằng, dặm xa, bụng
biển, thế trận, vây giăng, đêm thở), là những sắc màu lộng lẫy, rực rỡ như trẩy hội, và cả những nét thơ
mộng, bay bổng (buồm trăng, lấp lánh đuốc đen hồng, trăng vàng choé, sao lùa, vẩy bạc đuôi vàng loé
rạng đông, nắng hồng,...). Vẻ đẹp của biển trời hoà quyện với vẻ đẹp của con ngời lao động dệt lên bức
tranh tráng lệ, rạo rực sức sống, rạng rỡ vẻ đẹp giàu say lòng người. Có lẽ không ở đâu nữa vẻ đẹp và cái
nguồn sống bất tận diệu kì của biển Đông lại đẹp hơn ở những câu thơ này :
Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé,
Đêm thở : sao lùa nước Hạ Long.
Chỉ một hình ảnh "Đêm thở" mà ta như thấy cả màn đêm phập phồng, thấy cả gió, cả sóng nước. Theo
nhịp thở của vũ trụ, ngàn con sóng dồn đuổi ánh lên những đợt vàng sáng lấp lánh của vẩy cá phản chiếu
ánh trăng, của ánh trăng, của sao... Thật huyền diệu !
4. Cá đã đầy khoang, lấp loá trong ánh rạng đông cũng là lúc đoàn thuyền kết thúc một đêm lao động.
Buồm lại căng lên đón ánh nắng sớm. Khổ thơ cuối là cảnh trở về của đoàn thuyền đánh cá :
Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới,
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
Lại một sự hoà quyện tuyệt vời giữa thiên nhiên và con người. Vẻ đẹp của bài thơ bừng lên trong ánh
sáng huy hoàng, ánh sáng của mặt trời, ánh sáng của sức lao động đã thành thành quả, của niềm vui lao
động chân chính.
5. Nhìn lại toàn bộ bức tranh mà tác giả đã miêu tả trong bài thơ, ta càng thấy rõ hình ảnh con người vừa
làm chủ tự nhiên (Ra đậu dặm xa dò bụng biển ; Dàn đan thế trận lới vây giăng), vừa phô vẻ đẹp hoà
quyện cùng thiên nhiên (Câu hát căng buồm cùng gió khơi ; Thuyền ta lái gió với buồm trăng, Lớt giữa
mây cao với biển bằng ; Câu hát căng buồm với gió khơi, Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời). Trong sự
hài hoà ấy, vũ trụ cũng được cảm nhận cùng với sự vận động theo nhịp sống của con ngời : Ta hát bài ca
gọi cá vào, Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao. Đúng nh nhà thơ Huy Cận đã bày tỏ :
"Khung cảnh trên biển khi mặt trời tắt không nặng nề tăm tối mà mang vẻ đẹp của thiên nhiên tạo vật
trong quy luật vận động tự nhiên của nó. Ở đây, tôi đã miêu tả khung cảnh tạo vật với cảm hứng vũ trụ.
Nếu trớc cách mạng, Vũ trụ ca còn buồn thì bây giờ vui, trớc là tách biệt, xa cách với cuộc đời thì hôm
nay, lại gần gũi với con ngời. Bài thơ của tôi là cuộc chạy đua giữa con người và thiên nhiên, và con người đã chiến thắng. Tôi coi đây là một khúc tráng ca, ca ngợi con người trong lao động với tinh thần làm
chủ, với niềm vui."
II. RÈN LUYỆN KỸ NĂNG
“Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận được xem là một khúc tráng ca, một bài ca lao động, dạt dào cảm
hứng về thiên nhiên và đất nước, con người trước cuộc sống mới.
Vì vậy, khi đọc cần chú ý thể hiện chất giọng khoẻ khoắn, sảng khoái, làm nổi bật vẻ đẹp và sức mạnh
của con người lao động làm chủ thiên nhiên và vũ trụ.
(Sưu tầm)