Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

nâng cao hiệu quả hoạt động của báo chí, truyền thông ở hậu giang hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 74 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
----------

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA
BÁO CHÍ, TRUYỀN THƠNG Ở HẬU GIANG
HIỆN NAY
Chun ngành: Sư phạm Giáo dục công dân
Mã ngành: 52140204

Giảng viên hướng dẫn:
Th.S-GVC. Trần Thị Tuyết Hà

Sinh viên thực hiện:
Nguyễn Thị Hường
MSSV: 6106617
Lớp: SP.GDCD K36- 01

Cần Thơ, 12/2013


LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và rèn luyện tại trường Đại học Cần Thơ,
em đã tiếp thu được nhiều kiến thức từ thầy cô và bạn bè để làm hành trang
chuẩn bị bước vào tương lai. Luận văn tốt nghiệp là một trong những hành
trang tri thức, là bài nghiên cứu khoa học để giúp em kết thúc khóa đạo tạo
tại trường Đại học Cần Thơ. Được làm luận văn tốt nghiệp là mong muốn
của rất nhiều bạn sinh viên trong đó có bản thân em, bởi vì hồn thành luận
văn tốt nghiệp sẽ tích lũy cho em nhiều kiến thức và kinh nghiệm để có thể


áp dụng vào cơng tác giảng dạy sau này.
Để hồn thành luận văn tơt nghiệp là cả một q trình phấn đấu gặp
nhiều khó khăn về thời gian và cơng sức nhưng nhờ vào sự giúp đỡ tận tình
của quý thầy cô trong Khoa Mác- Lê và đặc biệt là cô Trần Thị Tuyết Hà
người hướng dẫn luận văn của em, đã hết lịng hướng dẫn, chỉ bảo tận tình
tạo điều kiện để em hoàn thành tốt luận văn.
Đồng thời, em xin gửi lời cám ơn đến thư viện Khoa khoa Học Chính
trị, Trung tâm học liệu trường Đại học Cần Thơ, Sở Thông tin và Truyền
thông Hậu Giang, Báo Hậu Giang và Đài Phát thanh và Truyền hình Hậu
Giang đã hỗ trợ tài liệu để em có thể hồn thành luận văn.
Tuy nhiên, do thời gian có hạn và trình độ cịn hạn chế nên em khơng
tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của quý
thầy cô và các bạn để luận văn được tốt hơn.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn !.
Cần Thơ, Ngày 03 tháng 12 năm 2013
Sinh viên thực hiện

Nguyễn Thị Hường


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................... 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.......................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài .......................................... 3
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài ........................................................ 3
5. Kết cấu luận văn ...................................................................................... 3
PHẦN NỘI DUNG .................................................................................... 4
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ BÁO
CHÍ, TRUYỀN THƠNG .......................................................................... 4

1.1 Khái niệm báo chí, truyền thơng ........................................................... 4
1.2 Quan điểm của Đảng, Nhà nước về vai trị của báo chí, truyền
thơng ............................................................................................................ 9
1.3 Báo chí, truyền thơng đối với đời sống xã hội hiện nay ....................... 13
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG CỦA BÁO CHÍ, TRUYỀNTHƠNG
Ở HẬU GIANG THỜI GIAN VỪA QUA .............................................. 27
2.1 Những thành tựu và nguyên nhân thành tựu của báo chí, truyền
thơng ở Hậu Giang ...................................................................................... 27
2.2 Những hạn chế và ngun nhân hạn chế của báo chí, truyền
thơng ở Hậu Giang ...................................................................................... 39
CHƯƠNG 3. NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG
CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA BÁO CHÍ, TRUYỀN
THƠNG Ở HẬU GIANG HỆN NAY ...................................................... 46
3.1 Tăng cường công tác bồi dưỡng trình độ nghiệp vụ, đạo đức nghề
nghiệp cho cán bộ báo chí, truyền thơng..................................................... 46
3.2 Nâng cao chất lượng nội dung báo chí, hoạt động truyền thơng .......... 52
3.3 Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước đối
với hoạt động báo chí, truyền thơng ............................................................ 59
3.4 Đầu tư kinh phí cho hoạt động báo chí, truyền thơng ........................... 62


PHẦN KẾT LUẬN .................................................................................... 64
PHỤ LỤC ................................................................................................... 66
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 69


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chúng ta đang sống trong thời đại khi mà cuộc cách mạng khoa học
ngày càng phát triển. Chính vì thế mà nhu cầu về tin tức để phục vụ đời

sống ngày càng cao, hãy tưởng tượng mỗi ngày thức giấc đón chào ngày
mới hầu như ai cũng có chung một câu hỏi: “hơm nay có gì mới ?”, mọi
người đều muốn trả lời nhanh nhất thì chính báo chí, truyền thơng sẽ là
người làm thỏa mãn nhu cầu ấy. Tin tức không chỉ để phục vụ cho việc
giải trí mà cịn phục vụ cho lĩnh vực kinh tế, chính trị,…Chính vì những
nhu cầu bức thiết ấy đã làm cho báo chí, truyền thơng ngày càng phát triển,
càng khẳng định hơn nữa vai trò của mình đối với xã hội.
Hịa vào bước chuyển mạnh mẽ của sự nghiệp đổi mới đất nước theo
con đường Xã Hội Chủ Nghĩa do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo báo chí,
truyền thơng nước ta ngày càng phát triển chiếm một vị trí quan trọng và là
kênh thơng tin, truyền tải những định hướng to lớn vì mục tiêu xây dựng
đất nước mà Đảng và nhân dân đề ra: “dân giàu nước mạnh, xã hội dân
chủ, công bằng, văn minh”. Báo chí, truyền thơng đang là lực lượng đắc
lực hoạt động phục vụ công tác tuyên truyền quan điểm, đường lối, chủ
trương của Đảng và Nhà nước đến các tầng lớp nhân dân, là lực lượng
xung kích có nhiệm vụ cổ vũ sự nghiệp đổi mới của đất nước, phát huy
những giá trị cao đẹp của chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa, đề cao các giá trị bản
sắc văn hóa dân tộc, đấu tranh vạch trần những luận điệu xuyên tạc của các
thế lực phản động và thù địch. Từ đó báo chí, kênh trun thơng đã trở
thành cầu nối giữa Đảng với nhân dân, kết nối Trung ương và địa phương,
giữa trong nước và quốc tế.
Việc nghiên cứu một cách có hệ thống nâng cao hiệu quả hoạt động của
báo chí, truyền thơng trong việc tun truyền những đường lối, chính sách
của Đảng, phổ biến pháp luật, thơng tin nhanh chóng những vấn đề thời sự
xung quanh đời sống xã hội ở Hậu Giang là vấn đề có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn sâu sắc, vừa mang thiết thực, vừa cấp bách và lâu dài.
1


Là một tỉnh nằm ở Đồng Bằng Sông Cửu Long, Hậu Giang là một

tỉnh cịn nghèo khó vì mới được thành lập trong thời gian gần đây. Tuy
nhiên, bộ mặt phát triển chung của tỉnh ngày nay đã đạt được nhiều thành
tựu nổi bật về kinh tế - xã hội đáng kích lệ đó cũng là nhờ vào sự định
hướng được con đường đi đúng đắn trên các lĩnh vực, sự quan tâm và chỉ
đạo sâu sát của Đảng và Nhà nước đối với Hậu Giang. Gặt hái được thành
công đó có phần đóng góp xứng đáng của bộ phận báo chí đã khơng ngừng
bám sát đời sống xã hội, thông tin nhanh những sự kiện, phản ánh tâm tư,
nguyện vọng của quần chúng đề đạt lên cấp trên, khắc họa mọi hoạt động
của xã hội một cách toàn diện đến với người dân. Tuy nhiên, báo chí cũng
cịn những hạn chế lượng thông tin chưa phong phú, chất lượng tờ báo
chưa thu hút được nhiều thành phần trong xã hội. Bộ phận truyền thơng
cũng đã tích tun truyền những quan điểm, đường lối, chủ trương chính
sách của Đảng, Nhà nước đến với người dân bằng cả hình thức trực tiếp và
gián tiếp. Bên cạnh đó, vẫn cịn bộc lộ những hạn chế như việc tuyên
truyền chưa đạt hiệu quả cao, truyền thông thực hiện chưa đồng bộ, kịp
thời ở những vùng điều kiện cịn khó khăn, nơi các đồng bào dân tộc thiểu
số sinh sống, vùng xâu vùng xa trên địa bàn tỉnh.
Xuất phát từ những thực trạng nêu trên với mong muốn làm cho báo
chí, truyền thơng phát huy hết hiệu quả hoạt động của mình để tiếp tục
cống hiến vào sự nghiệp đổi mới và phát triển chung của tỉnh nhà. Trước
một thực tế như vậy đã thu hút tác giả chọn đề tài: “Nâng cao hiệu quả
hoạt động của báo chí, truyền thơng ở Hậu Giang hiện nay” để làm
luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
2.1 Mục đích
Luận văn tập trung đánh giá thực trạng hoạt động của báo chí, truyền
thơng ở Hậu Giang trong thời gian qua. Trên cơ sở đó đưa ra một số giải
pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của báo chí, truyền thơng
trên địa bàn tỉnh Hậu Giang hiện nay.
2



2.2 Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau:
Một là, phân tích, khái qt cơ sở lý luận liên quan đến báo chí,
truyền thơng; đồng thời làm rõ vai trò và chức năng của báo chí, truyền
thơng đối với xã hội hiện nay.
Hai là, làm rõ thực trạng hoạt động của báo chí, truyền thông ở Hậu
Giang thời gian qua.
Ba là, đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động của báo chí, truyền thơng ở Hậu Giang hiện nay.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1 Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài
Đề tài nghiên cứu về hiệu quả hoạt động của báo chí, truyền thông ở
tỉnh Hậu Giang hiện nay.
3.2 Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài nghiên cứu hiệu quả hoạt động của báo chí, truyền thơng ở Hậu
Giang trong thời gian từ năm 2004 đến nay.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài
Tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như sau: Phương
pháp phân tích và tổng hợp, logic và lịch sử hệ thống, thống kê so sánh
trong nghiên cứu và trình bày.
5. Kết cấu luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn bao gồm 3 chương và 9 tiết.

3


PHẦN NỘI DUNG

CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
VỀ BÁO CHÍ, TRUYỀN THƠNG
1.1. Khái niệm về báo chí, truyền thơng.
1.1.1 Khái niệm báo chí
Trong xu thế tồn cầu hóa đang diễn ra một cách mạnh mẽ trên thế
giới như hiện nay, hoạt động thơng tin nói chung và báo chí nói riêng ngày
càng đóng vai trị quan trọng trong xã hội. Trải qua hơn 20 năm thực hiện
đường lối đổi mới do Đảng lãnh đạo, các phương tiện truyền thông đại
chúng đóng vai trị hết sức quan trọng trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội và đấu tranh về mặt tư tưởng chống âm mưu diễn biến hịa
bình, phịng chống tội phạm.
Báo chí thực sự đã trở thành một trong những kênh thực hiện nhiệm
vụ tuyên truyền những quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng; chính
sách, pháp luật của Nhà nước; phát hiện và phản ánh những tâm tư, nguyện
vọng của quần chúng, những vấn đề bức xúc trong đời sống xã hội, kiên
quyết đấu tranh chống tiêu cực, suy thoái đạo đức, lối sống,…Báo chí cũng
đã góp phần nâng cao dân trí, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao, phong phú
và đa dạng về đời sống tinh thần của nhân dân,…Bên cạnh những vấn đề
trên báo chí nói chung trong q trình đổi mới và hội nhập đã góp phần
nâng cao chất lượng thơng tin đối ngoại, góp phần quan trọng giới thiệu
đất nước, văn hóa con người Việt Nam với bạn bè quốc tế.
Theo các nhà nghiên cứu nói chung, báo chí bắt đầu từ hai chữ: báo
(thơng tin), chí (giấy) tên gọi có gốc thuần việt. Báo chí là một mặt của đời
sống xã hội, từ khi ra đời đến nay đã tồn tại song hành cùng q trình phát
triển của lồi người. Trong q trình đó báo chí đã có những tác động to
lớn đối với xã hội loài người được thể hiện trên nhiều phương diện về kinh
tế, chính trị, văn hóa.

4



Từ các phân tích trên có thể khái qt về báo chí là một loại ấn phẩm
truyền tải tin tức, một dạng truyền thông tri thức thiết yếu đối với đời sống
xã hội, nội dung thơng tin mang tính tổng hợp, đa dạng, phản ánh toàn diện
đời sống xã hội. Báo chí là tên gọi chung của các thể loại thơng tin đại
chúng thơng qua các loại hình truyền tải khác nhau như: Báo in (gọi là báo
viết), Báo nói (phát thanh), Báo hình (truyền hình) và Báo điện tử (báo trên
mạng Internet).
“Báo in”, là thể loại báo chí xuất hiện lâu đời nhất, hình thức thể hiện
trên giấy, có hình ảnh minh họa, được thực hiện bằng phương tiện in: báo,
tạp chí, bản tin thời sự, bản tin thơng tấn. Ưu điểm: tính phổ cập cao, có
nội dung sâu, người đọc có thể nghiên cứu. Nhược điểm: thơng tin chậm,
khả năng tương tác hai chiều giữa người đọc và người viết cịn kém.
“Báo nói”, là tên loại hình báo chí thực hiện trên sóng phát thanh, đài
FM,…bằng ngơn ngữ. Ưu điểm: thơng tin nhanh. Nhược điểm: khơng
trình bày được các thơng tin bằng hình ảnh (phóng sự ảnh) hoặc các thơng
tin có hình ảnh minh họa.
“Báo hình”, là tên gọi loại chương trình truyền hình, chương trình
nghe - nhìn thời sự, tin tức,…được thực hiện trên nhiều phương tiện kỹ
thuật, bằng tiếng việt, tiếng các dân tộc thiểu số Việt Nam, tiếng nước
ngồi. Ưu điểm: thơng tin nhanh, phong phú hình ảnh. Nhược điểm: khả
năng tương tác hai chiều chưa cao.
“Báo điện tử”, là tên gọi loại hình báo chí được thực hiện trên mạng
thơng tin máy tính sử dụng giao diện website trên Internet để truyền tải
thông tin bằng bài viết, âm thanh, hình ảnh, các đoạn Video, clip. Ưu
điểm: thơng tin cập nhật nhanh, tính tương tác hai chiều cao. Nhược điểm:
khơng kiểm sốt được nguồn thơng tin, thơng tin chính xác chưa cao.
Truyền thơng đại chúng (TTĐC) được hiểu là những phương tiện,
cách thức, phương pháp truyền thơng để chuyển tải thơng điệp đến những

nhóm đơng người một vấn đề mang tính phổ qt. Có nhiều phương tiện
truyền thông đại chúng khác nhau phổ biến nhất là Phát thanh, Truyền
5


hình, Báo chí và Internet,…Thế nên trong thời đại bùng nổ công nghệ
thông tin như hiện nay truyền thông đại chúng ngày càng chiếm một vị thế
nhất định trong xã hội.
Báo chí là một bộ phận của truyền thơng đại chúng, nhưng là bộ phận
chiếm vị trí trung tâm, có vai trị nền tảng và có khả năng quyết định tính
chất, khuynh hướng, chi phối năng lực và hiệu quả hoạt động của truyền
thơng đại chúng. Do đó, trong nhiều trường hợp có thể dùng báo chí để chỉ
truyền thơng đại chúng (TTĐC) và ngược lại, nói đến TTĐC - trước hết
phải nói đến báo chí.
Hiện nay báo chí được xem là phương tiện thông tin đại chúng nhanh
nhất, hiệu quả và có nhiều cơng chúng nhất. Báo chí đã tác động mạnh mẽ
đến mọi mặt của đời sống, trở thành những động lực quan trọng cho sự
phát triển của xã hội. Báo chí có những cách thức riêng mục đích nhằm
hướng tới nhiều tầng lớp xã hội để từ đó phân chia theo từng đối tượng
phục vụ như: theo lứa tuổi, nghề nghiệp, tổ chức xã hội. Vì trong xã hội
mối quan tâm, sở thích và nhu cầu của mỗi người là khơng giống nhau.
Thơng tin trên báo chí đề cập tới mọi mặt của đời sống xã hội một
cách xác thực, cụ thể, tỉ mỉ. Đặc biệt, chú ý đến những cái mới, những vấn
đề mang tính thời sự và việc phản ánh những cái mới đó dưới một góc nhìn
thể hiện lập trường của tác giả. Nói cách khác, đặc trưng cơ bản của báo
chí thể hiện ở 3 điểm cơ bản nhất: Tính xác thực, tiêu biểu - Tính thời sự Tính định hướng trực tiếp.
1.1.2 Khái niệm truyền thơng
Truyền thơng từ tiếng Anh: Communication có nghĩa là sự truyền đạt,
thông tin, thông báo, giao tiếp, trao đổi liên lạc giao thơng,…Thuật ngữ
truyền thơng có nguồn gốc từ tiếng Latinh “Commune” có nghĩa là chung

hay cộng đồng. Nội hàm của nó là nội dung, cách thức, con đường,
phương tiện để đạt đến sự hiểu biết lẫn nhau, giữa cá nhân với cá nhân, cá
nhân với cộng đồng, xã hội nhờ truyền thông giao tiếp mà con người tự
nhiên trở thành con người xã hội.
6


Truyền thông là một hoạt động gắn liền với lịch sử phát triển của loài
người. Những thành viên trong bộ lạc sử dụng truyền thông để thông báo
cho nhau nơi săn bắt, cách thức săn bắt. Đó là điều kiện để tạo nên những
mối quan hệ xã hội giữa người với người. Thiếu truyền thông - giao tiếp,
con người và xã hội lồi người khó hình thành và phát triển. Con người từ
xa xưa cho đến nay khi sống chung trong một cộng đồng cần phải hiểu
nhau và thông cảm cho nhau. Khi con người biết sống chung với nhau và
có tổ chức thì họ cần phải có truyền thơng để hiểu và bảo vệ nhau. Từ
những hình thức truyền thơng đơn giản, người ta đi đến những hình thức
hiện đại và phức tạp của truyền thơng như truyền hình, vệ tinh nhân tạo,
Internet,…Các phương tiện thông tin liên lạc hiện đại trở thành những cái
không thể thiếu được để đảm bảo sự hoạt động ổn định của mỗi nền kinh tế
cũng như mỗi chế độ xã hội.
Mặt khác, truyền thơng cịn nhằm thỏa mãn nhu cầu nhận thức của
con người. Mỗi cá nhân trong xã hội đều cần có sự bộc lộ những khía cạnh
khác nhau của đời sống tinh thần, cần hiểu biết tâm tư, tình cảm thái độ
của mọi người trước mỗi sự kiện để tự điều chỉnh hành động của mình sao
cho hợp lý. Chính q trình truyền thơng đã giúp con người hiểu mình đầy
đủ, nắm bắt được những gì liên quan giữa mình và cuộc sống phong phú
xung quanh, đánh giá được khả năng, xác định đúng cách thức, phương
hướng cho những hành vi và hoạt động tiếp theo.
Truyền thơng có hiệu quả sẽ làm con người hiểu nhau: những mệnh
lệnh, chỉ thị, thông tin được truyền đạt một cách nhanh chóng, chính xác,

lấp được khoảng cách giữa con người với con người, khoảng cách giữa
kinh tế, kỹ thuật và cơ chế quản lý xã hội. Vịng trịn khép kín và mối quan
hệ qua lại bởi thông tin nhiều chiều giữa Nhà nước, các phương tiện thơng
tin và các tầng lớp xã hội có tác dụng thúc đẩy xã hội tiến lên, đó chính là
q trình vận động tất yếu của truyền thơng.
Có thể nói rằng, truyền thơng là nhu cầu tất yếu đồng thời cũng là
động lực cho sự phát triển xã hội lồi người. Bởi vì nhờ truyền thơng, sự
7


giao tiếp, trao đổi thông tin mà tri thức hiểu biết của mỗi cá nhân trở thành
tri thức chung của cả cộng đồng, của toàn nhân loại. Sức mạnh của lồi
người nhờ truyền thơng mà nhân lên gấp bội.
Có nhiều định nghĩa về truyền thơng, tùy thuộc vào góc nhìn của mỗi
ngành khoa học. Từ những phân tích trên có thể hình thành khái niệm
chung về truyền thơng một cách ngắn gọn: “Truyền thơng là một q trình
liên tục trao đổi hoặc chia sẻ thơng tin, tình cảm, kĩ năng nhằm tạo sự liên
kết lẫn nhau để dẫn tới sự thay đổi trong hành vi và nhận thức”[3, tr 13]. Ở
định nghĩa này cần lưu ý đến những khía cạnh: Thứ nhất, truyền thơng là
một q trình - có nghĩa nó khơng phải là một việc làm nhất thời hay xảy
ra trong một khuôn khổ thời gian hẹp, mà là diễn ra trong một thời gian
lớn. Thứ hai, truyền thông phải dẫn đến sự hiểu biết lẫn nhau, yếu tố này
cực kỳ quan trọng đối với mục đích và hiệu quả của truyền thông. Và cuối
cùng, truyền thông phải đem lại sự thay đổi trong nhận thức và hành vi,
nếu khơng mỗi việc làm sẽ trở nên vơ nghĩa.
Có thể hiểu truyền thơng theo hình thức đơn giản nhất nghĩa là sự đối
thoại, nói năng giao tiếp, cịn hình thức hiện đại nhất là sự truyền bá một
thông điệp, một tun ngơn, một cảnh cáo nào đó,…trên mạng mở rộng
tồn cầu WWW.
Tiếp cận từ kênh truyền dẫn, có thể hiểu Truyền thông đại chúng

(TTĐC) là hệ thống các kênh truyền thông hướng thông điệp tác động vào
đông đảo công chúng xã hội, nhằm lôi kéo và tập hợp, giáo dục thuyết
phục và tổ chức đông đảo nhân dân tham gia giải quyết các nhiệm vụ
chính trị - kinh tế - xã hội - văn hóa đã và đang đặt ra.
Một q trình truyền thơng bao gồm đầy đủ các yếu tố: người gửi,
người nhận, thông điệp, kênh truyền thông và sự phản hồi. Trong truyền
thơng có sự trao đổi thơng tin hai chiều, có sự chuyển đổi vai trị, nghĩa là
người gửi cũng là người nhận, sự phản hồi trong truyền thơng giúp thơng
tin trao đổi được chính xác hơn.
Về mặt hình thức có hai kiểu truyền thơng:
8


+ Truyền thông trực tiếp: được thực hiện giữa người với người, mặt
đối mặt.
+ truyền thông gián tiếp: được thực hiện thông qua các phương tiện
truyền thông xã hội rộng rãi như sách, báo, phát thanh truyền hình,
Internet,…
Về mặt phân loại truyền thông người ta chia ra:
+ Truyền thông cho cá nhân.
+ Truyền thơng cho nhóm.
+ Truyền thơng đại chúng.
1.2 Quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc về vai trò của báo chí, truyền
thơng
Đất nước ta đang tiến hành tồn diện và đồng bộ công cuộc đổi mới,
huy động mọi nguồn lực đẩy mạnh cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa; tiếp tục
xây dựng, hồn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; coi
trọng phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và cơng bằng xã hội; tích cực
chủ động hội nhập quốc tế.
Trong sự nghiệp vĩ đại đó do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, báo chí

và các phương tiện truyền thơng là một bộ phận quan trọng trong lĩnh vực
tư tưởng - văn hóa của Đảng, vừa hịa theo dịng chảy của tiến trình đổi
mới và hội nhập. Có thể nói, trong xu thế tồn cầu hóa báo chí, truyền
thơng là một trong những lĩnh vực đi đầu, đã và đang tạo ra những dấu ấn
đậm nét trong xã hội ngày nay. Đối với nước ta báo chí, truyền thơng được
xem là cơ quan ngơn luận của các tổ chức trong hệ thống chính trị. Mỗi tờ
báo, tạp chí, đài phát thanh, truyền hình là do một cơ quan, tổ chức Đảng,
Nhà nước hoặc đoàn thể nhân dân thành lập và lãnh đạo, quản lý hoạt
động. Luật báo chí nước ta ghi rõ: Báo chí nước CHXHCN Việt Nam là
phương tiện thiết yếu đối với xã hội; là cơ quan ngôn luận của các tổ chức
đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, là diễn đàn của nhân dân. Vì vậy
mà trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam Đảng ta luôn coi báo chí,

9


truyền thông là công cụ đắc lực để tuyên truyền vận động nhân dân, là vũ
khí sắc bén để tấn cơng kẻ thù.
Nhận thấy được tầm quan trọng đó, khơng chỉ là trong chiến tranh
cách mạng mà trong xây dựng hịa bình Đảng ta đều coi trọng thơng tin
báo chí và nhấn mạnh sự cần thiết phát triển hệ thống thơng tin báo chí tiên
tiến, tự do, phục vụ rộng rãi nhân dân lao động. Báo cáo chính trị của Ban
chấp hành Trung ương khóa VII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII
của Đảng yêu cầu: “phát triển đi đôi với quản lý tốt mạng lưới thông tin,
báo chí, xuất bản, phát thanh, truyền hình, điện ảnh và các hình thức nghệ
thuật khác. Sớm hoạch định một chiến lược quốc gia về thông tin; coi
trọng việc nâng cao chất lượng thơng tin đại chúng, tính chân thực, tính
chiến đấu và tính đa đa dạng của thơng tin; coi trọng việc phát hiện và đề
cao các nhân tố mới đồng thời với việc phát hiện và phê phán các hiện
tượng tiêu cực; tăng cường công tác thông tin đối ngoại”. Qua đó, cho thấy

được Đảng và Nhà nước ta luôn dành sự quan tâm sâu sắc, sự lãnh đạo,
quản lý ngày càng khoa học tạo điều kiện để báo chí, truyền thơng phát
triển đúng hướng, mạnh mẽ, vững chắc.
Chính báo chí, truyền thơng là phương tiện đưa những chủ trương,
chính sách của Đảng, Nhà nước đến với các tầng lớp các giai cấp trong xã
hội, cổ vũ, động viên góp phần làm cho chủ trương, chính sách đi vào lối
sống, thành những phong trào hành động. Bên cạnh đó, báo chí đã kịp thời
chỉ ra những khuyết điểm, tồn tại của các nghị quyết, chính sách ban hành;
đề xuất, kiến nghị với Đảng và Nhà nước cần phải sửa đổi, bổ sung để đáp
ứng nhu cầu cuộc sống, nguyện vọng của nhân dân, góp phần làm cho “ý
Đảng, lịng dân” hịa làm một. Báo chí cũng thật sự là diễn đàn tiếng nói
của mọi tầng lớp nhân dân, là “tai mắt” của Đảng, Nhà nước trong quá
trình lãnh đạo, điều hành đất nước.
Thực tế cho thấy, khơng có một chủ trương chính sách nào của Đảng,
Nhà nước, các cấp, các ngành lại khơng thơng qua báo chí để truyền bá,
phổ biến cho nhân dân biết, hiểu và thực hiện vào cuộc sống. Từ thực tế
10


đó, Đảng, Nhà nước, chính phủ và các cấp, các ngành đã nhiều lần khẳng
định báo chí, truyền thơng là một kênh thông tin quan trọng để giúp Đảng,
Nhà nước, chính phủ, các cấp tổ chức quản lý và điều hành đất nước có
hiệu quả. Quần chúng lao động cũng coi báo chí, là một kênh quan trọng,
gần gũi để phản ánh tâm tư, nguyện vọng và quyền lợi của mình lên cấp
trên là cầu nối tin cậy giữa Đảng và nhân dân, giữa cấp trên và cấp dưới,
giữa văn bản chính sách và thực tế cuộc sống.
Nhận thấy được tầm quan trọng về vai trị của báo chí trước yêu cầu
đổi mới Nghị quyết Trung ương 5 khóa X của Đảng với nội dung: “Nghị
quyết công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu đổi mới”. Hội
nghị đánh giá những thành tựu và hạn chế về cơng tác tư tưởng, lý luận,

báo chí: cơng tác tư tưởng, lý luận, báo chí là một bộ phận quan trọng
trong toàn bộ hoạt động của Đảng để xây dựng, cũng cố nền tảng tư tưởng
chính trị của Đảng, tuyên truyền, tập hợp nhân dân, xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ cách mạng của đất
nước. Trải qua hơn 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới công tác, tư
tưởng, lý luận, báo chí, đã tích cực tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật
của Nhà nước, làm sáng tỏa hơn nhiều vấn đề lý luận về chủ nghĩa xã hội
và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; cổ vũ, động viên phong
trào thi đua trên mọi lĩnh vực, góp phần tạo nên những thành tựu to lớn, có
ý nghĩa lịch sử của đất nước. Tuy nhiên, cơng tác tư tưởng cịn thiếu sắc
bén, thiếu tính thuyết phục, tính chiến đấu cịn hạn chế. Cơng tác nghiên
cứu lý luận trên một số mặt còn lạc hậu, chưa đáp ứng được đòi hỏi thực
tiễn. Một số yếu kém, khuyết điểm của báo chí chậm khắc phục.
Hội nghị dự báo các nhân tố quốc tế và trong nước đã tác động đến
công tác tư tưởng, lý luận báo chí, trong những năm sắp tới. Hội nghị làm
rõ “yêu cầu mới” là từ nay đến năm 2020, đất nước có hai sứ mệnh quan
trọng: trước năm 2010, đất nước phải thốt khỏi tình trạng kém phát triển
và đến năm 2020, nước ta phải trở thành một nước công nghiệp theo
11


hướng hiện đại. Vì vậy, Hội nghị xác định: “cơng tác tư tưởng, lý luận, báo
chí, phải đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương pháp, không ngừng nâng cao
chất lượng, hiệu quả hoạt động” [6, tr.40].
Đối với công tác báo chí Đảng thể hiện sự quan tâm sâu sát, Nghị
quyết xác định rõ: một mặt, báo chí có trách nhiệm thực hiện các yêu cầu,
nhiệm vụ của công tác tư tưởng; mặt khác, xuất phát từ tính đặc thù và
thực tiễn của báo chí, Nghị quyết nhấn mạnh 5 nội dung đối với báo chí,
trong đó vừa khẳng định lại nhiệm vụ, vừa làm rõ các giải pháp để báo chí

khắc phục yếu kém, khuyết điểm, phát huy ưu điểm và tiềm lực, nâng cao
chất lượng tư tưởng, tính hấp dẫn, vươn lên hiện đại về mơ hình tổ chức,
về cơ sở vật chất, kỹ thuật và công nghệ.
Trong những năm tới, bối cảnh tình hình trong nước và quốc tế đang
xen cả thời cơ và thách thức to lớn, cơng tác tư tưởng, lý luận báo chí cần
phải chủ động tích cực, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ hơn nữa cả nội dung và
phương thức hoạt động, nâng cao tính định hướng chính trị, tính thuyết
phục, tính hiệu quả, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội X
của Đảng. Tuyên truyền sâu rộng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước, những thành tựu của cơng cuộc đổi mới, những điển hình tiên tiến,
bồi dưỡng lòng yêu nước, lý tưởng độc lập gắn liền với chủ nghĩa xã hội;
củng cố tăng cường thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận chính trị trong
nhân dân; tăng cường giáo dục đạo đức cách mạng, thực hiện thắng lợi của
cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”
trong tồn Đảng, tồn dân, đặc biệt trong đội ngũ cán bộ, đảng viên và thế
hệ trẻ. Đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện suy thối chính trị, tư
tưởng đạo đức, lối sống, các tệ nạn quan liêu, tham nhũng, lãng phí; phản
bác kịp thời các thông tin, quan điểm sai trái, phản động, làm thất bại âm
mưu “diễn biến hịa bình” của các thế lực thù địch. Để thực hiện thắng lợi
những nhiệm vụ đặt ra cần phải nâng cao nhận thức hơn nữa cho đội ngũ
báo chí, tăng cường sự lãnh đạo, quản lý của Nhà nước đối với báo chí. Có
12


cơ chế gắn kết chặt chẽ các hoạt động tư tưởng, lý luận, báo chí với các
hoạt động phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Đề cao trách nhiệm của cán
bộ, đảng viên, nhất là tập thể lãnh đạo và đứng đầu cơ quan báo chí khơng
ngừng nâng cao chất lượng hoạt đông để đáp ứng với yêu cầu của đất
nước, xứng đáng là cơ quan ngôn luận của Đảng góp phần to lớn vào sự

nghiệp phát triển chung của đất nước.
1.3 Báo chí, truyền thơng đối với đời sống xã hội hiện nay
1.3.1. Vai trị của báo chí, truyền thơng
Ở nước ta, báo chí, truyền thơng là cơng cụ chính trị của Đảng, của
Nhà nước, của các tổ chức, đoàn thể xã hội và là diễn đàn của nhân. Vai
trị của báo chí, truyền thơng trong đời sống chính trị - xã hội thể hiện rõ
trong hai cuộc kháng chiến của nhân dân ta chống thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ để giải phóng đất nước. Ngay khi chưa có Đảng lãnh đạo các lực
lượng xã hội đã có những tờ báo hoạt động rất tích cực và gây được sự chú
ý của dư luận xã hội về các vấn đề chính trị. Báo chí, truyền thơng đã trở
thành vũ khí quan trọng của nhân dân ta trong các cuộc đấu tranh chính trị
và trở thành vũ khí sắc bén trên mặt trận tư tưởng - văn hóa, mặt khác nó
cũng tạo những điều kiện cần thiết để cho mọi người dân tham gia vào đời
sống chính trị của đất nước. Vì vậy, ý nghĩa của thơng tin báo chí, truyền
thơng rất quan trọng. Với nội dung thơng tin có định hướng đúng đắn, chân
thực, có sức thuyết phục, báo chí, truyền thơng có khả năng hình thành dư
luận xã hội, dẫn đến hành động xã hội, phù hợp với sự vận động của hiện
thực theo những chiều hướng có chủ định.
Báo chí, truyền thơng khơng chỉ là vũ khí tư tưởng sắc bén, lợi hại mà
cịn là người tuyên truyền tập thể, cổ động tập thể, tổ chức tập thể,...điều
này càng phù hợp với thời đại bùng nổ thơng tin như hiện nay. Báo chí,
truyền thơng đóng vai trò quan trọng trong xã hội bởi lẽ:
Thứ nhất, là kênh tạo lập, định hướng và hướng dẫn dư luận.
Thứ hai, là kênh chủ yếu cung cấp kiến thức thơng tin về tình hình
thời sự trong nước và quốc tế cho mọi người dân.
13


Thứ ba, là công cụ hữu hiệu để quản lý, điều hành và cải cách xã hội.
Thứ tư, là một chế định với những nguyên tắc và chuẩn mực riêng của

mình và có những quan hệ mật thiết với các chế định khác của xã hội.
Thứ năm, chúng đã trở thành bộ phận hữu cơ không thể thiếu trong
đời sống hằng ngày của mọi cá nhân, là phương tiện cung cấp thơng tin,
kiến thức và giải trí cho người dân.
Có thể thấy rằng, những biểu hiện cụ thể về vai trị của báo chí,
truyền thơng trong đời sống xã hội trên nhiều lĩnh vưc như:
* Về chính trị
Báo chí là cơng cụ, vũ khí quan trong trên mặt trận tư tưởng – văn
hóa. Vai trị của báo chí, truyền thơng trong lĩnh vực chính trị là hướng dẫn
nhận thức và hành động cho mọi người. Ở nước ta, báo chí cách mạng vừa
là người tuyên truyền, phổ biến chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, vừa là người phát hiện,
khẳng định, nhân rộng cái hay cái đẹp, cái điển hình và những nhân tố
mới; đồng thời tích cực phê phán cái xấu, cái tiêu cực, những hành vi sai
trái, lệch lạc trong xã hội. Báo chí, truyền thơng là lực lượng xung kích
trên mặt trận tư tưởng - văn hóa của Đảng, là cơng cụ tham gia quản lý xã
hội; công cụ giám sát cán bộ, Đảng viên về đạo đức, lối sống. Do vậy, báo
chí, truyền thơng ngày càng đóng vai trị quan trọng trong đời sống xã hội.
Trong xã hội hiện đại, người nào nắm bắt được các PTTTĐC có thể
“điều khiển” con người theo ý muốn, có nghĩa là hằng ngày dùng báo chí
phát đi những thơng điệp chính trị nhằm giáo dục ý thức, tư tưởng, thuyết
phục quần chúng làm theo ý muốn của mình. Những thông điệp này được
lặp đi lặp lại nhiều lần, dần dần hình thành trong đầu người dân những
thơng điệp, ý thức mới những tư tưởng mới. Nói cách khác, để có ý thức
giác ngộ chính trị trong quần chúng là nhờ các PTTTĐC tác động đến hộ
những thông tin có chủ đích.
Ở xã hội ta, báo chí là cơng cụ thông tin sắc bén của Đảng, Nhà nước
và các tổ chức xã hội để giáo dục, thuyết phục nhân dân xây dựng một xã
14



hội công bằng, dân chủ, văn minh. Muốn vậy, báo chí phải bám sát chủ
trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, biến đường lối đó thành “ý Đảng
lịng dân”, phục vụ nhu cầu, lợi ích của nhân dân và sự tiến bộ xã hội.
Thơng qua các sản phẩm báo chí để truyền đạt, hướng dẫn quần
chúng trong cả nước và quốc tế nhận thức đầy đủ, đúng đắn và thực hiện
nghiêm chỉnh mọi chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước ban hành.
Đồng thời, báo chí tham gia chống lại các luận điệu phản tuyên truyền, âm
mưu diễn biến hịa bình của các thế lực thù địch. Hoạt động của các
phương tiện thông tin đại chúng (PTTTĐC) trong lĩnh vực chính trị rất
phong phú, đa dạng. Muốn vậy, người làm báo ln phải nắm vững hoạt
động chính trị - xã hội, coi trọng nâng cao “tính chân thực, tính giáo dục và
tính chiến đấu của thơng tin”, cũng như các phương pháp, nguyên tắc,
chức năng của báo chí, truyền thơng để hoạt động có hiệu quả.
* Về lĩnh vực kinh tế
Trong q trình phát triển, lồi người đã trải qua nhiều nấc thang lịch
sử, cơ sở của việc chuyển từ nấc thang này sang nấc thang khác của tiến bộ
xã hội là sản xuất của cải vật chất nhằm phục vụ đời sống con người.
Sản xuất của cải vật chất dù ở trình độ thơ sơ hay hiện đại cũng đều
có thuộc tính chung: đó là q trình tác động lẫn nhau giữa con người với
tự nhiên, trong đó con người biến đổi vật thể tự nhiên và làm cho chúng
thích ứng với việc thỏa mãn nhu cầu của mình. Khi sức sản xuất phát triển,
nhu cầu của con người tăng lên, sản phẩm làm ra nhiều do sản xuất gia
tăng, thậm chí cịn dư thừa nhưng chưa hẳn đã thỏa mãn nhu cầu tiêu thụ
đa dạng của xã hội. Từ đó tất yếu sẽ dẫn đến sự xuất hiện nhu cầu trao đổi:
bán đi những mặt hàng mà mình sản xuất được, đồng thời mua những mặt
hàng khác mà mình khơng có. Địa bàn trao đổi hàng hóa ngày càng tăng
Giới thương gia xuất hiện và nhu cầu thông tin thương mại phát triển cùng
với sự tăng trưởng của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần.
Ngày nay, ở những nước cơng nghiệp phát triển với máy móc hiện đại

có thể làm ra bất cứ mặt hàng nào đáp ứng nhu cầu tiêu thụ của xã hội.
15


Trong điều kiện đó, vẫn cần thiết cho một nền kinh tế đứng vững và tiếp
tục phát triển là do khả năng tiêu thụ sản phẩm làm ra của các cơng ty, xí
nghiệp. Vấn đề này, các phương tiện thơng tin đại chúng (PTTTĐC) đóng
vai trị quan trọng trong việc quảng cáo các mặt hàng đến người tiêu dùng.
Trong nền kinh tế thị trường, thơng tin chính xác, kịp thời là sức
mạnh tạo nên thắng lợi trong cạnh tranh. Các PTTTĐC có vai trị to lớn
trong việc cung cấp những thơng tin có giá trị đó. Các lĩnh vực thơng tin
kinh tế cần thiết như: thông tin thị trường, hàng hóa (bao gồm giá cả, sức
tiêu thụ, thị hiếu và xu hướng biến đổi thị hiếu tiêu dùng). Thông tin thị
trường tài chính (tiền tệ, vốn, giá cả,..) thị trường lao động, vật tư, thiết bị,
đặc biệt là thị trường cơng nghệ (chuyển giao cơng nghệ…). Báo chí
khơng chỉ dừng lại trong việc cung cấp thông tin thuần túy, mà cịn có thể
hướng dẫn thị trường, hướng dẫn việc áp dụng khoa học, kỹ thuật và công
nghệ mới, giới thiệu những mơ hình, điển hình tiên tiến trong sản xuất và
kinh doanh. Với việc phổ biến các kinh nghiệm thành công hay thất bại
trong quản lý, kinh doanh và áp dụng cơng nghệ mới, tiết kiệm chi phí
trong sản xuất, báo chí góp phần tạo nên hiệu quả kinh tế lớn cho xã hội.
* Về lĩnh vực văn hóa - xã hội
Văn hóa là một lĩnh vực quan trọng khơng thể thiếu được trong đời
sống tinh thần của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Trên thế giới dù ở hình thái
kinh tế xã hội nào, mỗi dân tộc đều có nền văn hóa riêng trong q trình
hình thành và phát triển. Vì lẽ đó, mà mỗi dân tộc đều có dấu ấn văn hóa
riêng của mình. Nhiều bản sắc văn hóa riêng hợp thành, tạo nên sự đa dạng
phong phú của nền văn hóa nhân loại. Nếu nền văn hóa đó bị triệt tiêu
hoặc mất dần bản sắc thì nền văn hóa chung của nhân loại dần dần bị khơ
cứng, đơn điệu. Từ đó, văn hóa đã trở thành đối tượng được phản ánh và

quan tâm trong việc sản xuất các chương trình, ấn phẩm của các PTTTĐC.
Vai trị của báo chí, truyền thơng trong lĩnh vực văn hóa được thể hiện qua
các mặt:

16


Thứ nhất, báo chí làm giàu, làm đẹp cho vốn văn hóa dân tộc, nhất là
ngơn ngữ (tiếng nói, chữ viết), báo chí là nơi vừa giữ gìn và sáng tạo ra
nhiều từ mới, thuật ngữ mới cả trong cách viết và cách thể hiện, trong việc
chuẩn ngơn ngữ nói và viết.
Thứ hai, báo chí đăng tải các tác phẩm văn học nghệ thuật, khoa học,
âm nhạc và các lĩnh vực khác, từ các tác phẩm kinh điển đến các tác phẩm
vừa mới sáng tạo.
Thứ ba, thông qua các kênh truyền thơng cơng chúng có thể tiếp nhận
nhiều tri thức văn hóa của các dân tộc trên thế giới như quan niệm, truyền
thống, lối sống, cách ăn mặc, ở, đi lại sinh hoạt từ nhiều phong cách, bản
sắc khác nhau.
Thứ tư, báo chí, truyền thơng góp phần nâng cao văn hóa, giải trí, làm
cho mọi người ngày càng hiểu nhau, xích lại gần nhau hơn, chia sẻ tâm tư,
tình cảm, đồng thời cùng học tập, tiếp thu được nền văn hóa đa dạng,
phong phú của các dân tộc để làm giàu cho văn hóa dân tộc mình.
Do vậy, vấn đề bảo tồn, khai thác và phát huy giá trị văn hóa (vật thể
và phi vật thể) của mỗi dân tộc là một trong những nhiệm vụ chủ yếu và
chiến lược của mỗi nước. Vấn đề này ngày càng trở nên cấp thiết hơn
trong nền kinh tế thị trường, với xu thế hội nhập tồn cầu, giao lưu văn hóa
phát triển với đầy đủ những mặt tích cực và tiêu cực của nó. Đó là lối sống
sống thực dụng có nguy cơ lấn át các giá trị tinh thần, coi trọng đồng tiền,
coi nhẹ nhân phẩm, đạo đức, luân lý, thuần phong mỹ tục với sự du nhập
của văn hóa ngoại lai, coi nhẹ văn hóa truyền thống. Do vậy, báo chí có

nhiệm vụ và vai trị to lớn trong việc nâng cao nhận thức, thẩm mỹ, giáo
dục và giải trí đối với nhân dân; một mặt tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại, mặt khác giữ gìn và phát huy bản sắc, truyền thống văn hóa tốt đẹp
của dân tộc. Thơng qua các sản phẩm của mình, các truyền thơng đại
chúng có vai trị truyền bá những tiêu chuẩn và các giá trị tinh thần được
xã hội công nhận; xây dựng ý thức công dân, chống lại những quan niệm

17


và hành động lệch lạc với chuẩn mực, định hướng công chúng đến với
Chân – Thiện – Mỹ.
Trong giai đoạn mới, để thực hiện tốt vai trị của mình báo chí, truyền
thơng ở nước ta phải thực hiện tốt hơn nữa nhiệm vụ đấu tranh chống tham
nhũng, tiêu cực và các tệ nạn xã hội; tăng cường truyền bá văn hóa dân tộc
và tinh hoa văn hóa nhân loại; xây dựng nền đạo đức mới trên nền tảng đạo
lý dân tộc; vun đắp, hồn thiện hình mẫu con người Việt Nam hiện đại, kế
thừa nét đẹp truyền thống của cha ông; nâng tầm trí tuệ, tri thức khoa học,
công nghệ của mỗi cơng dân. Muốn vậy, báo chí và những người làm báo
cần nâng cao nhận thức chính trị, trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ công dân,
đồng thời nhanh chóng đổi mới nghiệp vụ để thơng tin khơng chỉ đúng mà
cịn hay, sinh động, hấp dẫn đối với cơng chúng.
1.3.2 Chức năng của báo chí, truyền thơng
Trong xã hội báo chí, truyền thơng được xem là loại hình hoạt động
thơng tin mang tính chính trị - xã hội, ra đời do nhu cầu khách quan của xã
hội phát triển đến một trình độ nhất định. Báo chí, truyền thơng mang
trong mình những tiềm năng to lớn đối với đời sống xã hội. Bản thân sự ra
đời, tồn tại và phát triển của báo chí đã khẳng định vai trị, tác dụng và ý
nghĩa quan trọng của nó trong xã hội.
Thơng qua thực tiễn hoạt động của báo chí, các phương tiện truyền

thông đại chúng kết hợp với những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, quan điểm của Đảng ta cho thấy báo
chí, truyền thơng có các chức năng cơ bản sau:
* Chức năng thông tin
Quyền được thông tin là quyền cơ bản của con người, được hiến pháp
và pháp luật bảo vệ. Trong các kênh thông tin được bảo vệ đó, thơng tin
báo chí, truyền thơng đóng một vai trị không thể thay thế.
Chức năng thông tin là chức năng quan trọng hàng đầu của báo chí,
truyền thơng. Báo chí ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin giao tiếp của
cơng chúng và sự phát triển của báo chí dựa trên sự gia tăng nhu cầu thông
18


tin - giao tiếp trong xã hội. Truyền thông là phương thức dùng để truyền
đạt, chia sẻ thông tin một cách rộng rãi. Xã hội từ thời nguyên thủy cũng
đã có nhu cầu thơng tin, kết nối xã hội, hợp tác lao động, chống lại các mối
nguy hiểm. Sự ra đời của báo chí, truyền thơng là một cột mốc quan trọng
đánh dấu nhu cầu thông tin - giao tiếp đã ở một mức độ nóng bỏng, cấp
thiết hơn rất nhiều và khả năng đáp ứng của các phương tiện truyền thơng
tin cũng đạt đến một trình độ cao hơn hẳn trước đó.
Báo chí thực hiện chức năng thơng tin - giao tiếp là nhằm thực hiện
các chức năng khác. Mọi chức năng của báo chí đều được thực hiện thơng
qua con đường truyền thơng tin. Báo chí thực hiện chức năng giáo dục,
thơng tin để thực hiện vai trị giám sát, quản lý xã hội, thông tin để thực
hiện chức năng văn hóa, giải trí.
Thực hiện chức năng thơng tin, báo chí phải đảm bảo tính chân thực,
xác đáng, tính nhanh nhạy, kịp thời. Thơng tin báo chí phải thể hiện được
tính thời sự, diễn tả những điểm nóng nhất, những vấn đề nổi cộm nhất
trong đời sống. Bên cạnh đó, thơng tin báo chí cũng có tính chun đề
hoặc nghiên cứu khoa học,... ẩn chứa tầng sâu tri thức. Điều này thể hiện

rõ mục tiêu phục vụ xã hội, đáp ứng mọi nhu cầu thơng tin chính đáng của
cơng chúng, với nhiều nhóm đối tượng khác nhau.
Từ nhiệm vụ đó, báo chí, truyền thơng đã góp phần quan trọng đáp
ứng quyền được thông tin của công chúng. Đây là một nội dung cơ bản
được hiến pháp và pháp luật thừa nhận và được thực tiễn chứng minh một
cách sinh động. Các văn bản pháp luật như Hiến pháp, Luật Báo chí, Luật
Phịng chống tham nhũng,…đều nêu cao vai trị của báo chí, truyền thơng
trong việc thực hiện chức năng thông tin tuyên truyền đến cho người dân.
Quy chế người phát ngôn, các quy định về cung cấp thông tin cho báo chí
đang được quan tâm và hồn thiện nhằm giúp báo chí, tiếp cận thơng tin
nhanh, chính xác và hiệu quả để báo chí, truyền thơng thực hiện tốt hơn
nữa chức năng thơng tin của mình.
* Chức năng giáo dục tƣ tƣởng
19


Cơng tác tư tưởng có vai trị đặc biệt quan trọng đối với các chính
Đảng, các tổ chức xã hội cũng như các giai cấp cầm quyền lãnh đạo. Mục
đích của công tác tư tưởng là nhằm tác động vào ý thức xã hội, hình thành
một hệ tư tưởng chính thống với những định hướng nhất định. Để có được
sự chi phối tồn bộ của đời sống xã hội thì ngồi những quyền lực về kinh
tế, chính trị, qn sự cịn cần có sự chi phối trong lĩnh vực tinh thần. Việc
tác động vào tinh thần của con người, hình thành một hệ ý thức xã hội tiến
bộ và khoa học khơng chỉ có ý nghĩa to lớn trong lĩnh vực tinh thần của xã
hội mà còn là một trong những điều kiện quan trọng để phát huy quyền lực
trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, tập hợp quần chúng, phát huy những
tiềm năng to lớn của nhân dân nhằm xây dựng xã hội theo con đường đã
định. Mục đích của cơng tác tư tưởng là liên kết những thành viên riêng lẻ
của xã hội thành khối thống nhất trên cơ sở một lập trường chính trị chung,
thái độ trách nhiệm tích cực để xây dựng và bảo vệ đất nước.

Với khả năng tác động một cách rộng lớn, nhanh chóng và mạnh mẽ
vào xã hội, hoạt động của báo chí, truyền thơng có vai trị hết sức to lớn
trong công tác tư tưởng. Việc giáo dục lý tưởng, chính trị, xây dựng lối
sống lành mạnh ln gắn liền với việc kế thừa và phát huy những giá trị
tích cực trong đời sống văn hóa, tinh thần của nhân loại.
Việc nâng cao trình độ và mở rộng nhận thức nhằm hình thành tính tự
giác trong nhân dân địi hỏi báo chí, truyền thơng phải thơng tin một cách
đầy đủ, sinh động các sự kiện, hiện tượng, quá trình hết sức phong phú của
tự nhiên và xã hội, phân tích các mối quan hệ bên trong với nhau. Như
vậy, thông tin báo chí, truyền thơng mang đến cho cơng chúng bức tranh
toàn cảnh về hiện thực đời sống xã hội. Hơn thế nữa, báo chí, truyền thơng
cũng giúp cho cơng chúng nhìn nhận, đánh giá bức tranh ấy, xác định được
tính chất hoạt động và định hướng các hành vi ý thức của mình. Ở đây, yêu
cầu và sự định hướng tồn diện cho quần chúng trở thành mục đích cuối
cùng trong toàn bộ hoạt động tư tưởng của các phương tiện thông tin đại
chúng.
20


Với những đặc trưng của mình, báo chí, truyền thơng có năng lực to
lớn trong việc phản ánh sự vận động của đời sống hiện thực, tác động vào
đông đảo quần chúng nhằm tạo nên định hướng xã hội tích cực. Cơ sở nền
tảng của năng lực đó chính là tính khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh; là những lợi ích của nhân dân lao động, của chế độ
xã hội mà nó bảo vệ, phù hợp với quy luật vận động của lịch sử. Tiếng nói
của báo chí vừa là tiếng nói của Đảng, Nhà nước và đoàn thể xã hội, vừa là
tiếng nói của nhân dân. Sức mạnh định hướng của báo chí, truyền thơng
thể hiện ở khả năng trở thành diễn đàn cho toàn Đảng, toàn dân tham gia
thảo luận và giải quyết những vấn đề quan trọng của đất nước, phê bình và
đấu tranh chống những hiện tượng tiêu cực cản trở sự phát triển của xã hội.

Nội dung của tính định hướng xã hội tồn diện trước hết là khả năng
nhìn nhận và thẩm định đời sống hiện thực một cách hệ thống. Hiện thực
xã hội vô cùng phong phú, phức tạp và đa dạng. Bởi vì sự kiện, hiện
tượng, quá trình xảy ra trong những điều kiện lịch sử cụ thể với những
hình thức, tính chất, nội dung, phương thức và kết cục khác nhau. Yêu cầu
đặt ra cho báo chí, truyền thơng là mơ tả, phản ánh những sự kiện, hiện
tượng mà phát hiện trong chúng những mối quan hệ, chỉ ra những vấn đề
có tính bản chất, chiều hướng vận động chính của hiện thực cuộc sống.
Báo chí, truyền thơng có vai trị hết sức to lớn đối với nội dung và
tính chất của dư luận xã hội. Nói cách khác, báo chí cùng với truyền thông
là phương tiện để tạo dư luận xã hội và định hướng dư luận xã hội. Bằng
khả năng thông tin, tuyên truyền kịp thời, sinh động và phong phú các sự
kiện, hiện tượng tới đơng đảo cơng chúng, báo chí tác động trực tiếp đến
sự hình thành và định hướng dư luận xã hội một cách nhanh chóng, rộng
rãi và hiệu quả nhất.
Dư luận xã hội phản ánh tính chất sinh động, phong phú, đa dạng của
đời sống hiện thực và biến đổi phù hợp với sự vận động của lịch sử hiện
đại. Đối với dư luận xã hội, tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa,

21


×