Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

KIẾN TRÚC HY LẠP CỔ ĐẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (10.43 MB, 37 trang )

Kiến trúc Hy Lạp cổ đại
Kiến trúc Hy Lạp cổ đại ra đời và hình thành trên một vùng đất đai rộng lớn, bao gồm miền
Nam bán đảo Balkans, các đảo nhỏ ở vùng biển Aegaeum (Αιγαίον, Aigaion), khu vực Tiểu
Á, vùng ven Hắc Hải, Ý, Sicilia, Pháp, Tây Ban Nha và Ai Cập.


Các quần thể kiến trúc thánh địa và kiến trúc dân dụng
Hy Lạp cổ đại
Ở nơi đây, người ta thường tổ chức các lễ hội, tiến hành thi đấu thể dục thể thao, bình luận
văn chương, diễn thuyết, ngâm thơ và biểu diễn kịch, ngoài ra còn có thể trao đổi, mua bán.
Do đó, về sau người ta đã xây thêm xung quanh các quần thể này những sân bãi thi đấu, quán
trọ, hội trường, các hành lang cột và các loại đền đài.
Hai quần thể kiến trúc công cộng phổ biến trong đô thị cổ đại lúc bấy giờ là agora (quảng
trường công cộng, mang tính dân dụng) và acropol (là những quần thể kiến trúc với nhiều
đền đài, được xây dựng trên những khu đồi cao). Diện tích các agora khoảng 5% diện tích đất
thành phố. Những agora tiền kỳ có hình dạng bất quy tắc nhưng từ cuối thế kỷ 4 TCN trở đi,
nó có dạng hình học nhất định và được bao vây bởi các hàng cột thức hai tầng. Ở giữa agora
có đặt bàn thờ và tượng thần. Các agora quan trọng có thể kể ra là agora ở Miletos (Μίλητος),
Megalopolis (Μεγαλοπολη), ở Asoss và Knid.
Vào thời kỳ cổ điển thịnh kỳ, các acropol được xây dựng thêm các nhà hát ngoài trời có thềm
dốc bậc ở các khu vực chân núi. Các acropol nổi tiếng nhất là acropol ở Athena (Acropolis),
ở Bergama (hay Πέργαμος, Pergamos) và ở Paestum.

Quá trình phát triển đền đài Hy Lạp cổ đại
Đền thờ Hy Lạp cổ đại có đặc điểm là nhiều cột chạy vòng phía bên ngoài. Các loại hình đền
đài được phân theo mức độ phức tạp của cách thiết kế những cột đó như sau:


Loại đền cổ nhất có dạng hình chữ nhật, lối vào chính ở cạnh ngắn và có hai cột ở
chính cạnh ngắn này, gọi là dạng cột đôi ở hiên (Distyle); ví dụ như ngôi đền thờ thần
Themis ở Rhamnus.





Loại đền cổ thứ hai có dạng như trên, nhưng có thêm hai cột ở cạnh ngắn phía sau
nữa, gọi là dạng cột đôi ở hiên cả hai đầu ; ví dụ đền thờ Artemis ở Eleusina
(Ελεύσινα).



Loại đền giống loại đền thứ nhất, nhưng thay vì hai cột mà là bốn cột ở phía trước, gọi
là dạng hàng cột mặt trước hay hàng cột hiên (Prostyle); ví dụ ngôi đền ở Selinus
(Σελινοΰς).




Loại đền giống loại đền thứ hai, nhưng có bốn cột ở cạnh ngắn phía trước và bốn cột
ở cạnh ngắn phía sau, gọi là loại hàng cột cả hai đầu (Amphi-Prostyle) (tiền tố
"amphi" có nghĩa là "cả hai phía").



Loại đền hình tròn, vành ngoài có hàng cột vòng quanh gọi là nhà tròn có hàng cột
bao quanh (Tholos); ví dụ Tholos ở Epidaurus (Ἐπίδαυρος).



Loại đền hình chữ nhật có tường chịu lực là chính, nhưng mặt ngoài tường ghép thêm
các cột, gọi là loại đền có các hàng cột giả bao quanh hay bổ trụ bao quanh (PseudoPeripteral); ví dụ đền thờ thần Zeus ở Olympia (Ολυμπία).




Loại đền hình chữ nhật có một hàng cột chạy ở vành ngoài chu vi công trình, gọi là
loại đền có các hàng cột bao quanh (Peripteral); ví dụ đền Hephaestos (hay Theseio Θησείο) và đền Parthenon (Παρθενώνας) ở Athena (Αθήνα, Athína), đền Paestum...



Loại đền hình chữ nhật, có hai hàng cột chạy bao xung quanh công trình, có tên gọi là
đền Dipteral; ví dụ đền Olympeion ở Athena, đền thờ Apollo ở Miletos (Μίλητος)...

Mặt bằng đền thờ dạng Distyle

Mặt bằng đền thờ dạng Peripteral
Mặt bằng đền thờ Hy Lạp cổ đại được tạo thành bởi ba thành phần chính: pronaos (tiền
sảnh), naos (gian thờ) và pathenon (phòng để châu báu). Ngoài ra, trong một số đền còn có
thêm opisthodomos (hậu sảnh).
Vẻ đẹp của đền đài Hy Lạp cổ đại gắn liền với sự ra đời và phát triển của các loại thức cột.

Sự hình thành và phát triển của các loại thức cột


Thức cột là hệ thống tỷ lệ và hình thức trang trí cột, là cách người Hy Lạp cổ đại tìm kiếm
đến cái đẹp lý tưởng. Có 3 loại thức cột cơ bản trong kiến trúc Hy Lạp: cột Doric, cột Ionic
và cột Corinth. Những thức cột Hy Lạp đã mang đến cho kiến trúc một hình thức, một sức
sống, chịu đựng được thử thách của thời gian, biểu trưng cho vẻ đẹp trong sáng, khỏe mạnh
và tinh tế của kiến trúc cổ điển. Thức cột Hy Lạp được xem như biểu tượng của kiến trúc cổ
điển.


Thức cột Doric:

Thức cột Doric, có hậu thân là thức cột Toscan, là thức cột cổ nhất và đơn giản nhất
trong hệ thống các thức cột cổ điển. Thức này được hình thành từ một trụ thẳng đứng
phình to ở đáy. Nói chung, thức cột này không có phần đế cột (base) lẫn không có
phần đầu cột (capital). Vẻ đẹp thức cột này thường được so sánh với vẻ đẹp khỏe
mạnh của người đàn ông cường tráng, do nó được sử dụng ở tầng dưới cùng của đấu
trường Coliseum và có khả năng chịu lực cao nhất. Tỷ lệ đường kính cột trên chiều
cao cột khoảng 1:4.



Thức cột Ionic:
Thức cột Ionic mang dáng dấp nữ tính, mảnh dẻ và giàu tính trang trí hơn cột Doric.
Nguồn gốc cột Ionic là Ionia, thuộc địa của Hy Lạp. Cột Ionic có 24 gờ sống đứng
trong khi cột Doric chỉ có 20 gờ, tỷ lệ đường kính cột trên chiều cao cột là 1:9. Ngoài
ra, cột này có thêm đế cột (base) ở phía dưới và đầu cột có hình đệm nhỏ, phía trên có
hình xoắn ốc loe ra rồi cuộn vào trong (volute). Các dầm ngang của cột Ionic được


phân vị theo chiều ngang thành ba dải. Các ngôi đền có cột này là đền Artemis ở
Ephesus (Έφεσος), đền thờ Apollo Epikourios ở Bassae (Βασσές, Bassaes), đền
Erecteyon ở Athena.


Thức cột Corinth:
Thức cột Corinth ra đời sau hai cột trên, vào khoảng thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên,
có đường nét mảnh mai, giàu trang trí, đầu cột có nhiều chi tiết hoa lệ, giống như một
lẵng hoa kết hợp cùng với mấy tầng là phiên thảo diệp (acanthe). Thức cột này do
kiến trúc sư Callimachus sáng tạo ra. Cột này có ưu điểm hơn hai cột trên là đối xứng
nhiều chiều và có thể cảm nhận được trong không gian. Có thể thấy công trình sử
dụng loại cột này tại đền Olympeion ở Athena và đền Apollo ở Bassae.


Các loại cột trên sau này được người La Mã cổ đại kế thừa và phát triển, đồng thời sáng tạo
thêm hai loại thức cột mới là Toscan và Composite.

Các công trình tiêu biểu cho kiến trúc thời kỳ này


Acropolis (Ακρόπολη) ở Athena



Propylaia (Προπυλαια) - Sơn môn



Đền Athena Nike (Đền thờ thần Athena Chiến thắng)



Đền Parthenon



Đền Erecteyon

Những loại hình kiến trúc khác trong thế giới Hy Lạp cổ
đại


Hội trường và kịch trường ở Megalopolis (Μεγαλοπολη, Megalopoli) và ở Epidaurus.




Điện thờ ở Bergama (hay Πέργαμος, Pergamos).



Lăng mộ ở Halicarnassus (Ἁλικαρνασσός).



Agora ở Assos và ở Miletos (Μίλητος).



Các phố và nhà ở Olynthus (Ολυνθος).

Liên kết ngoài
Lấy từ “ />%A1p_c%E1%BB%95_%C4%91%E1%BA%A1i”
Thể loại: Kiến trúc Hy Lạp | Lịch sử kiến trúc | Hy Lạp | Trường phái kiến trúc


Nền văn minh Hy Lạp

Bán đảo Hy Lạp và đảo lân cận

Parthenon ở Athena
Địa điểm xuất phát phát triển của nền văn minh Hy Lạp là đồng bằng Thessalia (Θεσσαλία)
màu mỡ, rộng lớn ở vùng bắc Hy Lạp cùng với các đồng bằng Attike (Αττική), Beotia
(Βοιωτια) ở trung Hy Lạp và bán đảo Peloponnese (Πελοπόννησος) ở phía nam Hy Lạp. Tại

đây nghề trồng trọt và chăn nuôi phát triển rất sớm. Địa hình Hy Lạp có nhiều đồi núi xen kẽ,
chia cắt các đồng bằng, tạo thành các tiểu vùng. Các bờ biển phía đông Hy Lạp là nơi tấp nập
tàu thuyền.
Lãnh thổ nền văn minh Hy Lạp thời kỳ đầu bao gồm Hy Lạp ngày nay và các đảo thuộc biển
Aegaeum và vùng Tây Tiểu Á.
Địa lý Hy Lạp đa dạng kết hợp với khí hậu tốt, cận nhiệt đới, vào mùa đông ít tuyết. Khí hậu
Hy Lạp mưa nhiều vào mùa đông sang mùa xuân rất thuận lợi cho trồng trọt.
Hy Lạp có nhiều khoáng sản như sắt (ở Sparte - Σπάρτη), đồng (ở đảo Kypros - Κύπρος),
vàng (ở Thrace - Θράκη) và bạc (ở Attike - Αττική). Đó là điều kiện thuận lợi cho thủ công
nghiệp phát triển khá sớm.
Những điều kiện địa lý, tự nhiên rất thuận lợi cho các ngành nghề như thương mại, thủ công
nghiệp và một nền nông nghiệp tuy không giàu có nhưng đủ đảm bảo các nhu cầu của cư dân
trong vùng.
Hy Lạp nằm ở vị trí thuận lợi, án ngữ trên con đường giao lưu của các dòng di cư trong lịch
sủ cổ đại của các dòng người từ châu Phi lên, từ Trung Á sang, từ châu Âu xuống.


Cư dân Hy Lạp gọi vùng đất của mình là Acaios rồi Ddanaos, đến khi La Mã xuất hiện thì
gọi là Henlat và người Hy Lạp được gọi là Hellen.
Tuy nền văn minh Hy Lạp xuất hiện muộn hơn nền văn minh Ai Cập cổ đại nhưng nhờ tiếp
thu được nhiều giá trị từ Ai Cập và Lưỡng Hà cổ đại và phát triển lên, nâng lên tầm khái quát,
nên nền văn minh Hy Lạp cổ đại đã có rất nhiều đóng góp giá trị.


1 Các thời kỳ của văn minh Hy Lạp



2 Những thành tựu của văn hóa Hy Lạp
o


2.1 Văn học Hy Lạp

o

2.2 Sử học Hy Lạp

o

2.3 Nghệ thuật

o

2.4 Triết học Hy Lạp cổ

o

2.5 Ẩm thực Hy Lạp cổ

o

2.6 Các hoạt động thể thao Hy Lạp cổ

o

2.7 Thành tựu y học Hy Lạp cổ

o

2.8 Xã hội và lối sống của Hy Lạp cổ đại


o

2.9 Toán, lý học Hy Lạp cổ



3 Luật pháp và tổ chức nhà nước



4 Chú thích



5 Xem thêm



6 Tham khảo

Các thời kỳ của văn minh Hy Lạp


Phụ nữ thời văn minh Mycenaean
Văn minh Hy Lạp trải qua các thời kỳ phát triển rực rỡ, người ta chia làm hai thời kỳ lớn:
thời kỳ Tiền Hy Lạp (kéo dài từ 3000 năm đến 1200 năm TCN) và thời kỳ Hy Lạp chính
thống (từ thế kỷ 12 TCN đến thế kỷ 1 TCN).
Thời kỳ Tiền Hy Lạp (còn gọi là thời kỳ văn minh vùng biển Aegaeum) bao gồm ba giai
đoạn:



Giai đoạn văn hóa đồ đồng, thiên niên kỷ 3, gần như còn rất ít dấu vết.



Giai đoạn văn minh Aegean (đảo Crete - Mycenae) (năm 2000 - 1600 TCN)



Giai đoạn văn minh Mycenaean (năm 1600 TCN - 1200 TCN).

Thời kỳ Hy Lạp chính thống được phân ra ba thời kỳ nhỏ:


Thời kỳ Viễn cổ (còn gọi là Thời kỳ Đen tối của Hy Lạp), (thế kỷ 12 đến thế kỷ 9
TCN)



Thời kỳ Cổ điển (Hy Lạp cổ đại), (năm 776 TCN đến 323 TCN)



Thời kỳ Hy Lạp hóa, (năm 323 TCN đến 146 TCN)

Thời kỳ hậu Hy Lạp chính thống:


Thời kỳ Roma (năm 146 TCN đến 330)




Thời kỳ Đế chế Byzantine (330 đến 1453)

Những thành tựu của văn hóa Hy Lạp
Văn học Hy Lạp


Ngôn ngữ và chữ viết Hy Lạp


Xem bài chính: tiếng Hy Lạp


Văn học kinh điển Hy Lạp cổ

Văn học cổ điển được viết dưới thời Hy Lạp cổ xưa từ thế kỷ thứ 4 và phát triển lên trong
thời Đế chế Byzantine. Vào thời kỳ đầu, Hy lạp có 2 tác phẩm đồ sộ của Homer, Iliad và
Odyssey. Một nhà thơ vĩ đại của thời kỳ này là Hesiodos (Ησίοδος). Ông có hai tác phẩm
trường tồn là Works and Days (Έργα και ημέραι) và Theogonia (Θεογονία).
Chiếm vị trí quan trọng trong văn học Hy Lạp cổ đại phải kể đến thần thoại Hy Lạp. Thần
thoại Hy Lạp khá phong phú và thể hiện trong đó cách giải thích của người Hy Lạp về tự
nhiên, nguồn gốc loài người đồng thời nêu lên những kinh nghiệm của cuộc sống lao động và
ước vọng của mình. Các nhân vật trong thần thoại từ vũ trụ, thần thánh tới các bậc anh hùng
dũng sĩ. Từ khối hỗn mang (gọi là Chaos), xuất hiện nữ thần đất Gaia rồi thần ái tình Eros
nhờ đó Chaos và Gaia lấy nhau sinh ra đêm tối, ánh sáng, sao trời, biển cả, núi non, sông
ngòi, sấm chớp... Bàn tay khéo léo của Prometheus đã nặn ra loài người từ đất sét và lấy trộm
lửa mang đến cho loài người. Dưới sự điều khiển của thần Zeus, vị thần tối cao của các thần
ngự trị trên đỉnh Olympus quanh năm tuyết phủ đã can thiệp vào mọi lĩnh vực đời sống con

người. Thần thánh vừa thể hiện sức mạnh của trần gian vừa thể hiện sự lao động sáng tạo của
con người như: thần trồng nho Dionysus, nữ thần nông nghiệp Demeter, thần thợ rèn
Hephaistos, nữ thần anh hùng Calios, nữ thần múa Ternexiso...
Nhiều bài thơ trữ tình cũng được sáng tác ở thời kỳ này là của Sappho (Σαπφώ) và Pindarus
(Πίνδαρος). Những người Hy Lạp còn nổi tiếng với các tác phẩm kịch sân khấu và các trường
ca bất hủ. Có khoảng 100 vở bi kịch được trình diễn trong suốt thời gian dài[1], về sau chỉ còn
ba kịch gia được xem là tồn tại lâu hơn cả: Aeschylus (Αἰσχύλος), Sophocles (Σοφοκλης) và
Euripides (Ευριπίδης). Trên cơ sở truyện dân gian, ra đời truyền thuyết về thành Troia.
Giống như các vở bi kịch, thể loại kịch nói cũng được thể hiện trong các dịp trang trọng tại
nhà hát Dionysus tại Athena, nhưng ở đây vở diễn bao hàm đầy đủ các yếu tố như tục tĩu,
chửi bới và lăng nhục. Một tác phẩm kịch trường tồn của Aristophanes (΄Αριστοφανης) là
một kho tàng của thể loại hài hước. Menanderus (Μένανδρος) là nhà văn đã đề xuất thể loại
kịch Hy Lạp theo trào lưu mới.
Tác phẩm văn xuôi vĩ đại của thế kỷ thứ 4 là viết về triết học. Thời kỳ này xuất hiện rất nhiều
triết gia Hy Lạp, nhưng có ba triết gia nổi tiếng: Socrates, Platon và Aristotle. Trong suốt
chiều dài lịch sử của nhân loại, Platon là người hầu như không có đối thủ.

Sử học Hy Lạp
Hai trong rất nhiều nhà sử học của thời kỳ Hy Lạp cổ điển là Herodotus (Ἡρόδοτος) và
Thukydides (Θουκυδίδης). Nhà sử học thứ ba, Xenophon (Ξενοφῶν), viết Hellenica khi
Thucydides kết thúc công việc vào năm 411 TCN và được tiếp tục công việc cho đến năm
362 TCN.
Vào thời kỳ Roma, Hy Lạp có các sử gia quan trọng sau thời Alexander Đại đế là Timaeus,
Polybius (Πολυβιος), Diodorus Siculus, Dionysius của Halicarnassus, Appian của
Alexandria, Lucius Flavius Arrianus và Plutarch. Thời kỳ của các tác phẩm sử học được họ
viết từ thế kỷ thứ 4 TCN cho đến thế kỷ thứ 2.


Nghệ thuật
Xem bài chính: Nghệ thuật Hy Lạp


Một bức tranh dưới thời Mycenae - "Dame de Mycènes"

Người đánh xe ngựa của Delphi, bảo tàng khảo cổ học Delphi, một trong những tác phẩm
điêu khác vĩ đại có niên đại 470 TCN
Kiến trúc Hy Lạp cổ đại và điêu khắc của nền văn minh Hy Lạp phát triển rực rỡ và để lại
dấu ấn sâu sắc hơn cả.
Những công trình điêu khắc Hy Lạp cổ thời gian đầu chịu ảnh hưởng của trường phái nghệ
thuật phương Đông. Nhưng nghệ thuật tạo hình và điêu khắc đạt đến đỉnh cao là ở thời kỳ Hy
Lạp hóa (thế kỷ 5 đến thế kỷ 4 TCN). Nhiều công trình được sáng tạo bởi Polygnotus,
Myron, Phidias. Tác phẩm Tượng thần Athena và Marsyas (tại Vườn Bách thảo của
Copenhagen) được sáng tác bởi Myron.
Kiến trúc và điêu khắc Hy Lạp cổ thường đi song hành bên nhau. Những giá trị lớn tập trung
tại các công trình kiến trúc lớn, những bức tranh tường, những bức tượng lớn trong một đại
sảnh là hình ảnh thường gặp ở Athena.
Nghệ thuật điêu khắc và kiến trúc của Hy Lạp cổ đại đã có tác dụng kinh điển và ảnh hưởng
mạnh mẽ đến các nền nghệ thuật của nhiều quốc gia từ cổ đại cho đến ngày nay.
Đồ gốm của Hy Lạp cổ đại có thể xem như những tác phẩm tuyệt đẹp và sức lan tỏa, thắm
đượm tinh chất huyền


Krater (bát lớn), thế kỷ 12 TCN
thoại và thơ ca Hy Lạp cổ. Đồ gốm được sản xuất cho các công việc và sử dụng chúng hàng
ngày mà không phải để trưng bày. Rất nhiều đồ gốm Hy Lạp cổ đại vẫn còn cho đến ngày
nay, như các loại bình đựng rượu, bình đựng nước, các bình tế lễ, các loại bình có tay cầm,
các loại chén bát.
Phong cách làm gốm của Hy Lạp cũng thay đổi theo các thời kỳ khác nhau, mỗi thời kỳ lại có
những đặc sắc riêng, càng về sau càng tinh xảo và thẩm mỹ hơn.
Các bức tượng cổ Hy Lạp là cả một nền nghệ thuật mẫu mực, ảnh hưởng đến trường phái
nhiều quốc gia châu Âu sau này, đặc biệt ảnh hưởng trực tiếp đến phong cách Roma cho đến

thời kỳ Phục Hưng.
Kiến trúc Hy Lạp cổ là những công trình đồ sộ và nghệ thuật cho cả châu Âu sau này.
Xem bài chính: Kiến trúc Hy Lạp cổ đại

Triết học Hy Lạp cổ
Xem bài chính: Triết học Hy Lạp cổ đại
Hy Lạp cổ đại là quê hương của triết học phương Tây, ở đây có cả hai trường phái triết học
duy vật và duy tâm.


Đại diện cho trường phái duy vật là các nhà triết học nổi tiếng như: Thales,
Heracleitus, Democritus...



Đại diện cho trường phái duy tâm là các nhà triết học: Platon, Aristotle...

Ẩm thực Hy Lạp cổ


Bức tượng miêu tả một người đàn bà nhào bột làm bánh mì có niên đại 500-475 TCN
Xem bài chính: Ẩm thực Hy Lạp cổ đại
Bức tranh ẩm thực Hy Lạp cổ đại phản ánh như là đặc tính tiết kiệm, chính là đặc trưng của
vùng Địa Trung Hải, bởi vì nông nghiệp thực sự không thuận lợi cho khu vực này. Các món
ăn truyền thống như, bánh mì, dầu ôliu và rượu.
Ngoài những thực phẩm chính trên, người Hy Lạp cổ đại còn các thực phẩm như: trái cây và
các loại rau, thịt và cá, sữa dê, mật ong...
Những dụng cụ dùng để chế biến và sử dụng thức ăn hàng ngày cũng như cất giữ thục phẩm
của người Hy Lạp cổ đại được xem là tuyệt đẹp và có tầm ảnh hưởng đến nghệ thuật châu Âu
nhiều thế kỷ sau này và cho đến tận ngày nay.

Ẩm thực thường ngày của cư dân Hy Lạp cổ đại thường có các bữa như sau:


Điểm tâm (ἀκρατισμός / akratismós) là bánh mì cùng với rượu, đôi khi có thêm
trái sung và một ít quả ôliu.



Ăn nhẹ (ἄριστον / ariston)[2].



Bữa chính (δεῖπνον / deĩpnon), là bữa ăn quan trọng nhất trong ngày, thường vào

Các hoạt động thể thao Hy Lạp cổ
Xem bài chính: Olympia Hy Lạp cổ đại
Thể thao Olympia của Hy Lạp cổ đại thể hiện tinh thần thượng võ và tín ngưỡng của các
thành phố Hy Lạp. Hình thức thể thao này được ra đời từ năm 776 TCN và kéo dài tới năm
393. Được tổ chức mỗi 4 năm tại Olympia, Hy Lạp, số môn tham gia thi đấu chính thức có
lúc lên đến 292 bộ môn khác nhau.
Lịch sử xa xưa về các cuộc thi đấu Olympia của người Hy Lạp cổ đại bị phai mờ theo thời
gian, tuy vậy nó vẫn sống lâu dài trong các câu chuyện truyền thuyết và thần thoại Hy Lạp.


Những cuộc thi đấu được diễn ra ở Olympia, một địa điểm thiêng liêng cho các thần Hy Lạp,
trong quận Elis của vùng Tây Hy Lạp. Đền thờ ở Olympia có chứa một bức tượng của thần
Zeus cao đến 12 mét bằng ngà voi và vàng do Phidias điêu khắc. Bức tượng này chính là một

Thành tựu y học Hy Lạp cổ


Hippocrates: bức chạm khắc điển hình
Về y học, Hy Lạp cổ có một thiên tài lỗi lạc, đó là Hippocrates, một trong những danh y giỏi
nhất của mọi thời và thường được xem là cha đẻ của y học. Sinh năm 460 TCN tại đảo Cos
vùng biển Aegeum, Hippocrates là con trai một người làm thuốc, được cha truyền cho những
kiến thức về y tế, sau đó tiếp tục học ở Athena và nhiều thành phố khác trong vùng. Ông
hành nghề trên đảo Cos và nổi tiếng từ đó. Vào thời trước Hippocrates, người Hy Lạp rất mê
tín dị đoan. Họ tin rằng bệnh tật do ma lực huyền bí gây nên và chỉ có thể được chữa khỏi
nhờ các thầy phù thuỷ.
Hippocrates đã mở ra một kỷ nguyên mới cho y học, xem bệnh tật như một hiện tượng thiên
nhiên, có thể chữa trị dựa vào quan sát lâm sàng tỉ mỉ cũng như căn cứ vào các triệu chứng
của bênh. Cụ thể là ông nhìn nước da, quan sát mắt bệnh nhân, chú ý họ có bị sốt hoặc lạnh
hay không.
Hippocrates cũng khuyến khích học trò làm việc hết sức mình vì lợi ích của bệnh nhân. Lời
thề nổi tiếng mà các bác sĩ tuyên đọc trước khi ra trường trước đây, về sau được đặt tên là lời
thề Hippocrates. Lời thề này chủ yếu nhấn mạnh, cấm bác sĩ giúp nữ bệnh nhân phá thai, trao
thuốc độc theo yêu cầu, gợi ý của bệnh nhân, làm phẫu thuật không cần thiết. Ngoài ra, lời
thề còn đòi hỏi bác sĩ tránh quan hệ tình dục với bệnh nhân, không tiết lộ những chuyện liên

Xã hội và lối sống của Hy Lạp cổ đại


Nô lệ dưới thời Hy Lạp cổ



Mại dâm dưới thời Hy Lạp cổ



Đồng tính nam dưới thời Hy Lạp cổ


Toán, lý học Hy Lạp cổ


Xem bài chính: Toán học Hy Lạp cổ đại
Thế giới Hy Lạp cổ đại còn cống hiến cho nhân loại nhiều nhà bác học mà đóng góp của họ
tới nay vẫn còn giá trị như: Euclides, người đưa ra các tiên đề hình học và đặt cơ sở cho môn
hình học sơ cấp; Pythagoras, người đã chứng minh định lí mang tên ông và ngay từ thế kỉ thứ
5 TCN đã đưa ra giả thuyết Trái Đất hình cầu; Thales, người đã đưa ra định lí Thales; và, đặc
biệt nhất, Archimedes, người đã đề ra nguyên lí đòn bẩy, chế ra gương cầu lõm, máy bắn đá
và phát hiện ra lực đẩy tác động lên một vật nếu vật đó trong lòng chất lỏng (lực đẩy
Archimedes).

Luật pháp và tổ chức nhà nước
Các quốc gia ở phương Tây chịu ảnh hưởng nhiều về hệ thống pháp luật và cách tổ chức nhà
nước từ Hy Lạp cổ đại.
Nhà nước ở Hy Lạp cổ đại hình thành trên cơ sở sự tan rã của xã hội thị tộc. Nhà nước dân
chủ chủ nô ở Hy Lạp ngày càng được hoàn thiện qua những cải cách của Solon, Cleisthenes
và Pericles.
Về luật pháp, bộ luật cổ nhất của Hy Lạp là bộ luật Draco, bộ luật này có những hình phạt rất
khắc nghiệt, có khi chỉ ăn cắp cũng bị xử tử. Sau này, nhờ những cải cách của Solon,
Cleisthenes... luật pháp Hy Lạp ngày càng mang tính dân chủ hơn (nhưng cũng chỉ công dân
tự do mới được hưởng, nô lệ thì không).

Chú thích
1.

^ Những nhà hát lớn có tới 44.000 chỗ ngồi ở Megalopolis, 17.000 chỗ ngồi như ở
trong Athena chứng tỏ vai trò và ý nghĩa của kịch trong đời sống


2.

^ Thường ăn vào buổi trưa hoặc bất kỳ khi nào trong ngày

Tham khảo


Nhiều tác giả, Almanach những nền văn minh thế giới, Nhà xuất bản VH-TH, Hà
Nội, 1999.



Ngôi đền của các thần linh



Hào Nguyên, Nguyễn Hóa, Triết học cổ Hy Lạp giản yếu, Nhà xuất bản Thanh niên,
2004



Văn Sinh Nguyễn, Hy Lạp và Italy, Nhà xuất bản Trẻ, 2004


KIẾN TRÚC HY LẠP CỔ ĐẠI
(Kiến trúc AEGEA 3000 - 1100 Tr.CN)
(Kiến trúc HY LẠP CHÍNH THỐNG 650 - 30 Tr.CN)
I. ẢNH HƯỞNG TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI:
1. ĐIẠ LÝ:


− Nằm bên bờ Điïa Trung Hải và biển Aegea, gồm trung tâm là chính quốc Hy Lạp và đảo Crete, các

hòn đảo nhỏ trong vònh Aegea. Ngoài ra đòa giới còn bao gồm cả toàn miền Nam bán đảo Balkan,
khu vực Tiểu Á, vùng ven biển Hắc Hải, xứ Italia, Sicily, Pháp, Tây Ban Nha và cả Ai cập.

− Với phạm vi xứ sở nói trên, đất nước cổ Hy lạp đã tiếp thu cả các tinh hoa của văn minh Ai Cập,
Lưỡng Hà, Ba Tư.

− Điạ hình: có phong cảnh phong phú, các núi đá cho hình khối sắc sảo, bờ biển lại quanh co khúc
khuỷu đã ảnh hưởng đến một phong cách kiến trúc có đường nét dứt khoát và chính xác.

− Mặt khác, đất nước với nhiều núi non hiểm trở, ở biển khúc khuỷu đã chia cắt các bộ tộc. Hình
thành các thành bang riêng lẻ. Nổi bật là Athena và Sparta.

− Về điïa lý kinh tế cổ Hy Lạp có ít đất trồng trọt, đã phải phát triển hàng hải giao lưu. Tiếp thu
thành tựu của các nền văn minh lân cận.

2. KHÍ HẬU:
Ôn đới Đòa Trung Hải, Á nhiệt đới, ấm áp dễ chòu, trời trong xanh ánh sáng chan hòa, thuận lợi cho
khả năng biểu hiện hình khối kiến trúc.
Mặt khác, với khí hậu ấm áp. Dân chúng thường cảm thấy gắn bó với thiên nhiên và ưa các sinh hoạt
ngoài trời: tế lễ, diễn thuyết hội họp nơi công cộng, xem hát, kòch, thi đấu thể dục thể thao… đã làm
cho các Portic hành lang trống, đền thờ, nhà hát, sân vận động… mọc lên rất nhiều.


3. XÃ HỘI:



Là chế độ chiếm hữu nô lệ, với hình thức tổ chức khác nhau tại mỗi thành bang:

+ Thành Athena với chính thể “dân chủ chủ nô”.
+ Thành Sparta với chế độ “cộng hòa quý tộc” của các q tộc quân sự.



Không có vua với những đặc quyền “Thần quyền và vương quyền bao trùm toàn dân kiểu
Pharaon Ai Cập”.
Engels đã cho rằng: “Không có chế độ nô lệ thì không có quốc gia Hy Lạp, không có nghệ thuật
và khoa học Hy Lạp”. Nhưng về sau cũng chính chế độ nô lệ làm cho quốc gia Hy Lạp suy vong
khi sức lao động nô lệ đã trở nên lỗi thời.

4. TÔN GIÁO:



Đa thần giáo, không xem có một thần độc đoán làm chúa tể vũ trụ. Thần thoại chỉ là một
sự nhân cách hóa các hiện tượng xã hội và tự nhiên, mang tính chất nhân văn trong xã hội dân
chủ chủ nô của họ.
Prometheé đã cho rằng: “Con người không phải là một vật thể của trời tạo để làm rạng danh chúa
trời mà sinh ra có trí khôn kiềm chế được thiên nhiên”.



Thần thoại Hy Lạp: là sự phối hợp lý trí và hồn thơ, không phải chỉ do sự khiếp đảm tự
nhiên mà có. Theo tưởng tượng của người Hy Lạp (người La Mã lặp lại tương tự), các vò thần gồm:
THẦN THOẠI HI LẠP

THẦN THOẠI LA MÃ

ZEUS


: Thần tối cao (con của Cronus và Rhea)

JUPITER

HERA

: Vợ Zeus, thần cưới xin

JUNO

AROLLO

: Thần pháp luật, nghệ thuật

APOLLO

ATHENA

: Thần kiến thức, hiểu biết

MINERVA

POSEIDON

: Thần biển

NEPTUNE

DIONYSOS


: Thần rượu tiệc

BACCHUS

DIMETER

: Thần đất và nông nghiệp

CERES

ARTEMIS

: Thần mặt trăng, săn bắn

DIANA

HERNES

: Thần thương mại, giao liên

MERCURY

APHRODITE

: Thần sắc đẹp, tình yêu

VENUS

HEPHAETUS


: Thần lửa, nghề rèn, thủ công

VULCAN

ARES

: Thần chiến tranh

MARS

HELIOS

: Thần mặt trời

SOL

SELENE

: Thần mặt trăng

LUNA

………………
Thần thoại Hy Lạp rất phát triển và là đất nuôi dưỡng nghệ thuật Hy Lạp phát triển: Các bài hát ca
ngợi Apollon, Archilles… các đền thờ thần xuất hiện rất nhiều.



Tầng lớp tăng lữ Hy Lạp: không phải là một tầng lớp có đặc quyền, họ cũng sống một cuộc

sống bình thường.

5. NGHỆ THUẬT:
Cư dân tại đây có năng khiếu thẩm mỹ bẩm sinh, đặc biệt là trình độ thật cao. Họ đã đặt nền tảng
cho sự phát triển của nhiều ngành nghệ thuật Châu Âu sau này.




Điêu khắc: ban đầu sao chép Ai Cập cổ, hình người có dạng công thức, về sau sáng tạo tự
do và sinh động trên cơ sở nghiên cứu kỹ lưỡng giải phẫu và thiên nhiên. Đã xuất hiện nhiều tác
giả và tác phẩm bất hủ:
+ Pythagoras với tượng Aphrodite (Venus).
+ Phidias với đền Parthenon cùng các tác phẩm tượng Athena cao 12m, các phù điêu cao, trang
trí.
+ Miron với tượng người ném đóa.





Văn học: xuất hiện nhiều thần thoại, anh hùng ca, thơ ca trữ tình như Iliad và Odyssey (La
tin: Odyssea, Hy Lạp: Odysseia). Các vở bi kòch với các tác giả là Eschyle, Sophocle, Euripide… rất
phát triển kéo theo sự phát triển của các kòch trường ngoài trường. Hài kòch nổi tiếng là
Aristophane.
Triết học: đặt nền móng cho 2 trường phái Duy vật, Duy tâm ở châu Âu:
+ Duy vật với Heraclite (Hy Lạp: Heraclitus, 5 Tr.CN)
+ Duy tâm với Socrates (470 – 399 Tr.CN)

6. LỊCH SỬ VÀ CÁC GIAI ĐOẠN KIẾN TRÚC:

a) Thời kỳ Tiền Hy Lạp (PreHellenic 3000 – 1100 Tr.CN):
Còn gọi là thời kỳ Homer với các sự kiện:
+ Dân Aegea từ Tiểu Á tràn xuống dựng nước tại đảo Crete từ 3000 Tr.CN lấy Knossos làm thủ đô.
Đến năm 1600 – 1400 Tr.CN đã phát triển tuyệt đỉnh.
+ Dân Achaean (Dorius) đến xâm lược và tàn phá. Hy Lạp lui vào thời kỳ Trung cổ.
Kiến trúc thời kỳ này gọi chung là thời kỳ Aegea với 3 giai đoạn: Aegea, Crete và Mycenes.
b) Thời kỳ Hy Lạp chính thống (650 – 30 Tr.CN):
+ Khi bò dân Dorian tàn phá, Hi Lạp trải qua một thời kỳ đen tối mà lòch sử gọi là đêm dài Trung
cổ. Sau đó là sự hưng thònh trở lại với thời kỳ Hellen.
+ Dân Achean bò Dorian tấn công đã chạy sang Tiểu Á xây dựng các thành phố của mình với
thành Ionia nổi tiếng.
Ionia bò Ba Tư xâm lược. Chiến tranh Hi – Ba diễn ra với sự thất bại của Ba Tư. Các trận
Marathon, hải chiến Salamis (480 Tr.CN), trận Platea (479 Tr.CN) đánh thắng quân Ba tư đã
thúc đẩy sự phát triển của nhiều công trình kỷ niệm.
+ Pericles trò vì Hy Lạp (444 – 429 Tr.CN) với thời kỳ hoàng kim cho thành Athenai (Athens),
cũng là thời kỳ nghệ thuật đạt đỉnh cao với Phidias và đền Parthenon (447 – 432 Tr.CN).
+ Chiến tranh Peloponae (431 – 404 Tr.CN) giữa Sparta và Athena. Đất nước Hy Lạp kiệt quệ, sau
bò Macedonia xâm lược và thống nhất quốc gia năm 338 Tr.CN.
+ Macedonia suy tàn, Hy Lạp thành một tỉnh của La Mã (301 Tr.CN) song ảnh hưởng của văn hóa
Hy Lạp còn mãi mãi, có thể nói: “Không có Hy Lạp, không có châu Âu ngày nay”.


Các giai đoạn kiến trúc của thời kỳ Hy Lạp chính thống gồm:
+ Giai đoạn viễn cổ Archaic (thế kỷ VIII, VII, VI Tr.CN) với việc dân Dorian tràn xuống và đốt phá
đưa tới thời kỳ Trung cổ.
+ Giai đoạn cổ điển (thế kỷ V, IV Tr.CN) gọi là Hellenic.
+ Giai đoạn Hy Lạp hóa (thế kỷ III, II, I) còn gọi là Hellenistic với sự xâm lăng của Macedonia.
Quan trọng nhất là thời kỳ Hellenic, sau là Hellenistic.

II. ĐẶC ĐIỂM KIẾN TRÚC:

1. THỜI KỲ TIỀN HI-LẠP:
a) Giai đoạn Aegea:
Phát triển vào thiên niên kỷ thứ 3, gồm các đảo
vùng biển, đang ở thời kỳ đồ đồng, không để lại dấu
tích cho đến ngày nay.
b) Giai đoạn Creta (hay còn gọi là giai đoạn vua
Minos)
Hiện còn tồn tại dấu tích các cung điện với đặc
điểm:
+ Xây cất có chiều sâu, có lầu với các cầu thang.
+ Mái bằng (mặc dầu lớp trên vì kèo gỗ), điều này
làm cho dễ phối hợp không gian, các phòng kế
tiếp nhau với một số sân nhỏ, giếng lấy ánh sáng.
+ Có hệ thống cấp thoát nước bằng kênh.
+ Trang trí: tương đối nhiều, chủ yếu là sơn, các cánh cửa cung điện đều 2 cánh.
+ Kiến tạo: cột vi kèo gỗ mái bằng, lanh tô gỗ hay xây bằng đá tảng lớn không gọt đẽo (đá lớn
3m x 1m), ít dùng hồ liên kết. Nếu có là hồ đất sét. Tường dày có chỗ 18m, đục làm kho.

CÁC CÔNG TRÌNH TIÊU BIỂU:
+ Cung vua Minos ở Knossos: xây năm (3000 – 1890 Tr.CN), sụp năm 1400 Tr.CN. Diện tích mỗi
bề khoảng 130m, ban đầu gồm nhiều công trình lẻ. Sau xây liền nhau, bao quanh một trung tâm
(55m x 30m). Phần lớn các công trình là 2 tầng, tầng trệt nhà thấp khoảng 2,7m. Cạnh sân trung
tâm là phòng ngai vua. Phía Tây dọc theo 1 hành lang dài là chợ, cửa tiệm buôn. Phía Đông Bắc là
nơi sinh hoạt công cộng. Cổng vào (propylae) được canh gác cẩn thận (phía Bắc), Phía Nam cũng
có propylae. Trong công trình còn có các kho chứa nhiều bình lọ lớn. Có khu vệ sinh, tắm, ống dẫn
nước bằng đất nung.


MẶT BẰNG CUNG VUA MINOS TẠI KNOSSOS, ĐẢO CRETA.


TRONG CUNG SỬ DỤNG NHIỀU SƠN MÀU RỰC RỢ ( ĐIỆN TRIỀU KIẾN APANADA ).


PHỐI CẢNH LỐI LÊN ĐIỆN TRIỀU KIẾN CHO THẤY CÔNG TRÌNH CÓ LẦU

CỘT ĐẦU TO CHÂN NHỎ

PHỐI CẢNH TOÀN KHU CUNG VUA MINOS

+ Cung Phaestos nhỏ hơn, nhưng cùng thời với Knossos. Các cung này có những đặc điểm chung
như chia làm 2 phần rõ rệt:

• Phần tiếp khách, đối ngoại: Megaron.
• Phần sinh hoạt nội bộ hoàng gia.
c) Giai đoạn Mycenae:

+ Lâu thành Tiryns (1300 Tr.CN): là công trình tiêu biểu, đó là cung điện có công trình quân sự,
tường kiên cố bao quanh. Nền văn minh được chuyển lên bờ luôn bò hiểm họa xâm lược đe dọa nên
công trình mang tính phòng thủ .
Công trình được xây dựng trên đỉnh núi, tường dày 13m, những nơi có khoét kho hay điếm canh
dày tới 19m. Phần cung điện nằm nơi cao nhất cũng có Megaron và nơi triều kiến, có sân trong
lớn, từ đó phân phối về các phòng, các kho và khu tắm vệ sinh.


Ngoài ra, còn có các hiên (terrace) thấp hơn với các công trình chính dành cho dân chúng tỵ nạn
khi có giao tranh.
Nói chung, kỹ thuật xây dựng và không gian có nhiều điểm giống ở Creta, nhưng đặc điểm nổi bật
là tính chất phòng thủ của các cung điện tại Mycenae nằm trên đất liền do luôn luôn phải đối phó
với sự xâm lăng từ phương Bắc.


+ Cổng sư tử tại Mycenae (1325 Tr.CN): là công trình tiêu biểu của lối xây đá tiền Hy Lạp. Cũng
như các trường hợp khác, cổng được xây cao hơn mặt đất một chút. Hai bên là 2 tảng đá dựng
thẳng đứng. Đôi một lanh tô nhòp khoảng 3,5m. chiều cao lanh tô chỗ cao nhất là 1m, dày 2,5m.
Phía trên các cổng ở đây thường chừa ra một mạng tam giác do kết quả của lối xây đá nhô dần ra
(cuốn giả). Mảng tam giác ở đây được trang trí bằng 2 con sư tử và một cột kiểu Mycenae có đầu
cột lớn và chân nhỏ.


+

Kho báu của Atreus tại Mycenae (1325 Tr.CN): còn gọi là lăng của Agamenon.
Kiến trúc gồm một vòm xây bởi 34 vòng đá xây rất khéo và tinh tế. Chiều cao vòm là 16m, đường
kính 14,5m có một ngách mở sang bên cạnh chính là phòng chôn cất.
Một con đường lộ thiên dẫn vào cửa lăng rộng 7m, dài 38m (tiếng Hi lạp gọi tên đường dẫn là
Dromos).


2. THỜI KỲ HY LẠP CHÍNH THỐNG:
Trong thời kỳ này nổi bật nhất là giai đoạn “cổ điển” hay còn gọi là giai đoạn Hellenic, ta nghiên cứu
chủ yếu giai đoạn này.
a. Giai đoạn cổ điển Hellenic (V, IV Tr.CN)
Các tài liệu nghiên cứu đi sâu còn chia ra:
• Cổ điển tiên kỳ (đầu thế kỷ V Tr.CN).
• Cổ điển thònh kỳ (nửa sau thế kỷ V Tr.CN).
• Cổ điển hậu kỳ (thế kỷ V Tr.CN).
Đặc điểm kiến trúc giai đoạn cổ điển Hellenic:
Xuất hiện loại hình kiến trúc công cộng: quảng trường tôn giáo (Acropole), quảng trường thương mại
(Agora), đền thờ, nhà hát, kòch trường, phòng nghò sự, sân vận động...
• Xử lý hình thức bên ngoài công trình đạt trình độ nghệ thuật cao:



Phân vò, đường nét, gờ chỉ hài hòa duyên dáng. Đó là thời kỳ của “cái đẹp và hài hòa”.



Biết vận dụng biện pháp hiệu chỉnh thò sai (optical correction), màu sắc, sáng tối.


• Sử dụng các hình thức cột: Doric, Ionic, Corinthien, về sau còn xuất hiện thức Cariathide hình cô
gái dâng hoa.
+ Thức Doric:
• Xuất hiện tại thành bang người Dorian, sau đó thònh hành tại bán đảo Peloponae, đảo
Sicilia.
• Vật liệu xây dựng là đá cẩm thạch vàng.
• Đặc điểm: thấp, nặng, vững chắc (đặt trực tiếp lên nền, không chân đế).
Nhà lý luận kiến trúc Pollio Marcus Vitruvius (thế kỷ I Tr.CN) cho rằng thức Doric tượng
trưng cho cái đẹp của đàn ông.
+ Thức Ionic:
• Thònh hành tại Ionia đầu tiên, sau sử dụng rộng rãi ở vùng AEGEA.
• Vật liệu xây dựng: cẩm thạch trắng lấy từ đảo Palos.
• Đặc điểm: thanh thoát, mảnh dẻ, giàu trang trí hơn thức Doric, không đặt trực tiếp lên
nền nhà mà đặt trên đế cột.


Vitruvius cho rằng thức Doric tượng trưng cho cái đẹp của phụ nữ.
+ Thức Corinthien:
Mảnh mai như Ionic nhưng trang trí lại còn nhiều hơn. Đầu cột được trang trí bởi lá cây
Acanthus (phiên thảo) cách điệu. Theo truyền thuyết, một kiến trúc sư thăm mộ người yêu bò
chết yểu, để lại bó hoa và lá trên mộ và nghó ra ý đồ đầu cột có lá cây.


SO SÁNH THỨC CỘT HI LẠP VÀ THỨC CỘT LA MÃ (THEO TÁC GỈA SIR W. CHAMBERS)

• Kiến tạo: Chủ yếu sử dụng hệ dầm, tường cột với vật liệu xây dựng là tường cột bằng đá, vì kèo
gỗ, ngói đá. Nói chung đá thiên nhiên là vật liệu chủ yếu, có thể tìm thấy tại nhiều nơi trên đất
nước Hy Lạp.
Dạng kết cấu đá này có nguồn gốc từ cấu trúc gỗ thời xưa và có nhiều chi tiết này chỉ đóng vai
trò trang trí đã nhắc lại các bộ phận chức năng của kết cấu gỗ.
Vật liệu đá thiên nhiên đã cho kiến trúc cổ Hy Lạp một phong cách đẹp tựa điêu khắc. Tuy
nhiên về phát triển số lượng có hạn chế. Kiến trúc La Mã tiếp sau với sự xuất hiện của bê tông
núi lửa đã phát triển với qui mô rộng và lớn hơn nhiều.


HỆ KIẾN TẠO KIẾN TRÚC HI LẠP VẪN LÀ: HỆ DẦM - CỘT

THỨC CỘT CARIATHIDE CÔ GÁI DÂNG HOA

LOẠI HÌNH KIẾN TRÚC TIÊU BIỂU:
a) Đền thờ: là nơi sinh hoạt công cộng ngoài chức năng thờ cúng. Đặc điểm:
Có nấc thang (tam cấp) bao bọc xung quanh.




Chính điện quay về hướng Đông, mặt trời chiếu vào tán bàn thờ trong nhà (thể hiện tính
chất sinh hoạt ngoài trời).



Thường xây dựng thành quần thể ở vò trí cao nhất trong thành phố thành quảng trường tôn
giáo (gọi là Acropole) khác với quảng trường thương mại (gọi là Agora).

Thành phần chính trên mặt bằng gồm:





+

Pronaos (hiên vào).

+

Naos (chánh điện).

+

Opisthodomos (kho để đồ thờ cúng).

Phân loại: Thành 5 loại:


×