Tuần 15-Bài 14-15 (Tiết 71-72)
CHIẾC LƯC NGÀ
(Trích)
*Nguyễn Quang Sáng
TÓM TẮT CỐT TRUYỆN CỦA ĐOẠN TRÍCH:
Anh Sáu xa nhà đi kháng chiến lúc bé Thu chưa đầy một tuổi. Mãi khi con gái lên tám tuổi, anh mới có dòp về
thăm nhà, thăm con. Bé Thu không nhận ra cha chỉ vì vết thẹo làm cho anh Sáu không giống với người cha mà nó
đã thấy trong ảnh. Bé đối xử với cha như người xa lạ, nhất đònh không chòu gọi anh Sáu bằng “ba”. Đến lúc Thu
nhận ra cha, tình cha con thức dậy mãnh liệt trong bé thì cũng là lúc anh Sáu phải ra đi. Ở khu căn cứ trong rừng,
người cha dồn hết tình cảm yêu quý, nhớ thương đứa con gái yêu của mình vào việc làm một chiếc lược bằng ngà
voi để tặng nó. Nhưng trong một trận càn, anh đã hy sinh. Trước lúc nhắm mắt, anh kòp trao lại chiếc lược cho một
người bạn.
ĐỀ VĂN:
Cảm nhận của anh (chò) về tình cha con trong chiến tranh của anh Sáu và bé Thu ở truyện ngắn “Chiếc
lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng.
Yêu cầu:
-Nội dung: Thể hiện sự cảm nhận riêng về tình cha con thắm thiết, sâu nặng của cha con anh Sáu và bé Thu trong
hoàn cảnh éo le của chiến tranh qua ngòi bút truyện ngắn của Nguyễn Quang Sáng.
-Hình thức: Phân tích tác phẩm văn học (thể loại truyện).
Gợi ý làm bài:
1.Khái quát về tác giả và tác phẩm:
-Nguyễn Quang Sáng là nhà văn của Nam Bộ. Vốn rất am hiểu và gắn bó với mảnh đất quê hương, ông hầu như
chỉ viết cuộc sống và con người Nam Bộ trong chiến tranh và sau hòa bình. Truyện của ông thường có cốt truyện
hấp dẫn, xoay quanh những tình huống khá bất ngờ và cách kể chuyện thoải mái, tự nhiên bằng giọng thân mật,
dân dã. “Chiếc lược ngà” là truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách đó của ông.
-Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” được Nguyễn Quang Sáng viết năm 1966, tại chiến trường Nam Bộ, trong thời kỳ
cuộc kháng chiến chống Mỹ đang hồi quyết liệt. Truyện tuy viết về đề tài chiến tranh, nhưng lại tập trung nói lên
tình người – tình cảm cha con của ông Sáu và bé Thu trong hoàn cảnh thật là éo le, xúc động.
2. Phân tích tình cha con trong chiến tranh của anh Sáu và bé Thu ở truyện :
2.1 Tổng:
Truyện“Chiếc lược ngà” có cốt truyện khá chặt chẽ với những yếu tố bất ngờ nhưng hợp lý, do một người bạn
thân của anh Sáu-nhân vật “tôi” chứng kiến và kể lại. Tình cha con của anh Sáu và bé Thu trong truyện được thể
hiện thật éo le và cảm động qua hai tình huống khá bất ngờ nhưng thật hợp lý :
-Một là, cuộc gặp gỡ của hai cha con sau tám năm xa cách, nhưng thật trớ trêu là bé Thu không nhận cha. Đến lúc
em nhận ra và biểu lộ tình cảm thắm thiết thì anh Sáu lại phải ra đi. Đây là tình huống cơ bản, làm bộc lộ tình
cảm mãnh liệt của bé Thu đối với cha.
-Hai là, ở khu căn cứ, ông Sáu dồn tất cả tình yêu thương và mong nhớ đứa con vào việc làm chiếc lược ngà để
tặng con, nhưng chưa gửi đến tay con thì ông đã hy sinh. Tình huống này làm bộc lộ tình cảm sâu sắc của người
cha đối với đứa con.
2.2 Phân:
a. Diễn biến tâm trạng của bé Thu trong lần gặp cha về thăm nhà:
-Thái độ và hành động của bé Thu trước khi nhận ra anh Sáu là cha:
+ Gặp lại con sau nhiều năm xa cách với bao nỗi nhớ thương nên anh Sáu không kìm được nỗi vui mừng trong
những phút đầu nhìn thấy đứa con. Nhưng thật trớ trêu, đáp lại sự vồ vập của người cha, bé Thu lại nhìn anh Sáu
với cặp mắt xa lạ và cảnh giác. Anh Sáu càng muốn gần con, thì bé Thu lại càng tỏ ra lạnh nhạt, xa cách.
+ Tâm lí và thái độ ấy của bé Thu được biểu hiện qua hàng loạt chi tiết mà người kể chuyện quan sát và thuật lại
rất sinh động: Nghe tiếng gọi, của anh Sáu “con bé giật mình, tròn mắt nhìn. Nó ngơ ngác, lạ lùng”. / Khi mới gặp
anh Sáu,“mặt nó bỗng tái đi, rồi vụt chạy và kêu thét lên”./ Trước sự vỗ về của anh Sáu, “con bé càng đẩy ra”. /
Mặc cho người mẹ khuyên nhủ và tạo tình thế bắt buộc để bé Thu phải nhận cha nhưng đều thất bại: nó chỉ gọi
trống không mà không chòu gọi anh Sáu bằng cha, nó vẫn không chòu nhờ anh Sáu chắt nước nồi cơm to đang sôi./
Thậm chí, bé Thu từ chối cả sự quan tâm của anh Sáu, nó hất cái trứng cá mà anh Sáu gắp cho./ Cuối cùng, khi bò
anh Sáu tức giận đánh một cái, nó bỏ về nhà bà ngoại, khi xuống xuồng còn cố ý khua dây buộc xuồng kêu rổn
rảng thật to.
Tính cách gan lì và sự phản ứng của bé Thu phát triển theo chiều hướng tăng cấp, ngày càng quyết liệt, nhưng
hoàn toàn không đáng trách. Nó không tin anh Sáu là ba nó cũng chỉ vì trên mặt anh có thêm vết sẹo, khác với
hình ba mà nó đã được biết. Phản ứng tâm lý của bé Thu là hoàn toàn tự nhiên, nó còn chứng tỏ một cá tính mạnh
mẽ, một tình cảm chân thật, sâu sắc : bé chỉ yêu ba khi tin chắc đó đúng là ba của mình. Trong cái cứng đầu của bé
Thu như còn ẩn chứa cả sự kiêu hãnh trẻ thơ về một tình yêu dành cho người cha.
-Thái độ và hành động của bé Thu khi nhận ra anh Sáu là cha:
+Trong buổi sáng cuối cùng, trước phút anh Sáu phải lên đường, thái độ và hành động của bé Thu đột ngột thay
đổi hoàn toàn: Lúc anh Sáu phải lo tiếp khách, chò Sáu lo chuẩn bò đồ đạc cho chồng, con bé muốn nhận ba,
nhưng không dám lại “lúc đứng vào góc nhà, lúc đứng tựa cửa”, vì trót làm ba giận “vẻ mặt nó sầm lại buồn rầu”,
“nó nhìn với vẻ nghó ngợi sâu xa”./ Đột biến đẩy tới cao trào đầy bất ngờ là sau lời chào từ biệt của anh Sáu, lần
đầu tiên bé Thu cất tiếng gọi “ba” và “tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người,
nghe thật xót xa”, rồi “nó vừa kêu vừa chạy xô tới, nhanh nư một con sóc, nó chạy thót lên và dang hai tay ôm
chặt lấy cổ ba nó”, “Nó hôn ba nó cùng khắp. Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả cái thẹo dài bên má của ba
nó nữa”, “hai tay nó siết chặt lấy cổ, chắc nó nghó hai tay không thể giữ được ba nó, nó dang cả hai chân rồi câu
chặt lấy ba nó, và đôi vai bé nhỏ của nó run run”.
+Có được sự thay đổi đó, bởi trong đêm bỏ về nhà bà ngoại, bé Thu đã được bà ngoại giải thích về vết thẹo làm
thay đổi khuôn mặt của ba nó. Sự nghi ngờ bấy lâu đã được giải toả và ở bé Thu nảy sinh một trạng thái như là sự
ân hận, hối tiếc “Nghe bà kể, nó nằm im, lăn lộn và thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn” . Vì thế, trong giờ
phút chia tay với người cha, tình yêu và nỗi mong nhớ đối với người cha xa cách đã bò dồn nén bấy lâu, nay bùng
ra thật mạnh mẽ và hối hả, cuống quýt, có xem lẫn cả sự hối hận. Tình cảm đó của bé tạo sự xúc động cho mọi
người, có người không cầm được nước mắt, có người thì cảm thấy khó thở như “có bàn tay ai nắm lấy trái tim”.
Đến đây, chúng ta đã cảm nhận được vẻ đẹp tính cách và tâm hồn của bé Thu: tình cảm thật sâu sắc, mạnh mẽ,
nhưng cũng thật dứt khoát, rạch ròi; còn cá tính là sự cứng cỏi đến mức tưởng như ương ngạnh, nhưng bé vẫn là
một đứa trẻ với tất cả nét hồn nhiên, ngây thơ của trẻ con. Thực chất hai thái độ và hành động trái ngược nhau ở
bé Thu chỉ là sự thống nhất trong một tính cách, tâm hồn của nhân vật. Qua đó, ta thấy tác giả rất am hiểu tâm lý
trẻ con và diễn tả thật sinh động bằng tấm lòng yêu mến, trân trọng đối với trẻ thơ.
b.Diễn biến tình cảm cha con sâu nặng của anh Sáu đối với bé Thu:
-Nỗi khát khao của người cha mong được gặp lại con:
+Hai cha con xa nhau đã tám năm, anh Sáu chỉ biết mặt con qua tấm ảnh. Khi gặp lại đứa bé độ tám tuổi đang
chơi dưới bóng cây xoài trước nhà, linh tính đoán biết đó là con gái của mình, không chờ xuồng cập bến, anh đã
“nhún chân nhảy thót lên, xô chiếc xuồng tạt ra”, “bước vội vàng với những bước dài, rồi dừng lại kêu to: Thu!
Con”. Anh “vừa bước, vừa khom người đưa tay đón chờ con… Anh không ghìm nổi xúc động”.
+Bé Thu sợ hãi và bỏ chạy, anh không giấu được nỗi đáu đớn của mình “anh đứng sững lại đó, nhìn theo con, nỗi
đau đớn khiến mặt anh sầm lại trông thật đáng thương và hai tay buông xuống như bò gãy”.
-Người cha với nỗi khổ và niềm vui trong ba ngày về thăm nhà:
+ Trong ba ngày về phép thăm nhà, “suốt ngày anh chẳng đi đâu xa, lúc nào cũng vỗ về con. Nhưng càng vỗ về
con bé càng đẩy ra”. Anh “mong được nghe một tiếng “ba” của con bé, nhưng con bé chẳng bao giờ chòu gọi”.
Anh đau khổ, nhưng chỉ “ nhìn con khe khẽ lắc đầu vừa cười”, cười vì “khổ tâm đến nỗi không khóc được”.
+Anh yêu thương chăm sóc con từng li từng tí. Trong bữa ăn, anh “gắp một cái trứng cá to vàng để vào chén nó”.
Bé Thu hất cái trứng, cơm văng tung toé cả mâm; giận quá, không kòp suy nghó, anh đánh vào mông nó một cái.
+ Hôm chia tay. Nhìn thấy con đứng trong góc nhà, anh “muốn ôm con, hôn con” nhưng sợ nó giẫy lên rồi bỏ
chạy, nên “chỉ đứng nhìn nó với đôi mắt trìu mến lẫn buồn rầu”. Cho đến khi nó cất tiếng gọi “ba”, anh xúc động
đến phát khóc và “không muốn cho con thấy mình khóc”, anh Sáu môït tay ôm con, một tay rút khăn lau nước
mắt, rồi hôn lên mái tóc con”.
-Niềm yêu quý và thương nhớ con:
+Sau khi chia tay với gia đình trở lại căn cứ, anh Sáu nhớ con không nguôi. Nỗi day dứt, ân hận ám ảnh anh suốt
nhiều ngày là việc mình đã lỡ tay đánh con. Anh nhớ lời dặn của bé Thu trong tiếng khóc mếu máo hôm chia tay
“Ba về! Ba mua cho con một cây lược nghe ba!”. Tình cảm yêu quý và thương nhớ con đã thúc đẩy anh tìm một
khúc ngà voi làm chiếc lược cho con. Tác giả tập trung diễn tả tình cảm anh Sáu xung quanh việc làm chiếc lược
cho con: Khi kiếm được khúc ngà, anh vô cùng vui mừng, sung sướng, dành hết công sức, tâm trí vào việc làm cây
lược “Những lúc rỗi, anh cưa từng chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ và cố công như người thợ bạc”; trên sống
lưng chiếc lược anh gò lưng khắc một hàng chữ nhỏ “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”. Chiếc lược ngà đã thành một
vật quý giá làm dòu đi nỗi ân hận và chứa đựng bao nhiêu tình cảm yêu mến, nhớ thương mong đợi của người cha
đối với con ca xách. Nhưng rồi , một tình cảnh đau thương lại đến với cha con anh Sáu: anh Sáu hy sinh khi chưa
kòp trao vào tay đứa con gái chiếc lược ngà.
3. Đánh giá chung:
- “Chiếc lược ngà” là một truyện ngắn tạo ấn tượng sâu sắc và xúc động trong lòng người đọc.
- Bằng việc sáng tạo tình huống thật bất ngờ mà hợp lý, ngòi bút miêu tả tâm lý và xây dựng tính cách nhân vật
rất thành công, nhà văn đã diễn tả thật xúc động tình cảm thắm thiết, sâu nặng của anh Sáu và bé Thu trong hoàn
cảnh éo le của chiến tranh; qua đó, khẳng đònh và ngợi ca tình cảm cha con thiêng liêng như một giá trò nhân bản
sâu sắc, nó càng cao đẹp hơn trong những cảnh ngộ khó khăn.
LÀM VĂN:
Bài 5: VIẾT PHẦN THÂN BÀI
1.Vò trí của phần thân bài:
Thân bài là phần chính, phần quan trọng nhất, dài nhất của bài văn nghò luận.
2.Nhiệm vụ của phần thân bài:
Thân bài có nhiệm vụ triển khai và làm sáng tỏ vấn đề(luận đề) đã nêu ở mở bài bằng các luận điểm(ý lớn) và
mỗi luận điểm có thể được phát triển bằng các luận cư ù(ý nhỏ). Luận cứ được xây dựng bằng lý lẽ và dẫn chứng.
3.Kết cấu của phần thân bài:
- Thân bài bao gồm nhiều đoạn văn. Tùy vào mức độ nội dung của luận điểm hoặc luận cứ mà người viết xây
dựng các đoạn thân bài. Nếu luận điểm có nội dung lớn, phong phú, thì mỗi luận cứ trong luận điểm đó có thể
được coi là một đoạn văn của thân bài.
- Mỗi đoạn văn tập trung làm nổi bật một ý. Mỗi ý thường được nêu bằng câu chủ đề. Nếu câu chủ đề dặt ở đầu
đoạn văn, ta có đoạn văn diễn dòch. Nếu câu chủ đề đặt ở cuối đoạn văn, ta có đoạn văn quy nạp. Khi phối hợp cả
diễn dòch và quy nạp, ta có đoạn văn tổng -phân-hợp.
-Giữa các đoạn văn thường có câu hoặc từ (cụm từ) chuyển tiếp nhằm nối đoạn văn này với đoạn văn khác, tạo
cho ý của bài văn được liền mạch.