TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
BỘ MÔN PPDH - KHOA VẬT LÍ
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Tên đề tài:
XÂY DỰNG THIẾT BỊ THÍ NGHIỆM SÓNG ÂM ĐỂ SỬ DỤNG
TRONG DẠY HỌC VẬT LÍ LỚP 12 THPT CHUYÊN
Chuyên ngành
: Lí luận và phương pháp dạy học bộ môn Vật lí
Giảng viên hướng dẫn
: TS. Nguyễn Anh Thuấn
Sinh viên thực hiện
: Nguyễn Mạnh Hải
Hà Nội - 23/04/2014
1
LỜI CÁM ƠN
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Nguyễn Anh Thuấn, người đã tận
tình chỉ bảo, hướng dẫn, giúp đỡ em trong quá trình nghiên cứu để hoàn thành khóa
luận này.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô và cán bộ tổ phương pháp giảng dạy,
khoa Vật Lí, trường đại học sư phạm Hà Nội đã tạo điều kiện, giúp đỡ em trong suốt
quá trình nghiên cứu và thực hiện khóa luận.
Hà Nội, tháng 4 năm 2014
Sinh viên
Nguyễn Mạnh Hải
2
DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
STT
Tên viết tắt
Nội dung
1
ĐHSP
Đại học sư phạm
2
GV
Giáo viên
3
HS
Học sinh
4
NXB
Nhà xuất bản
5
PGS. TS
Phó giáo sư, tiến sĩ
6
TBTN
Thiết bị thí nghiệm
7
TN
Thí nghiệm
8
TS
Tiến sỉ
9
THPT
Trung học phổ thông
3
DANH MỤC HÌNH VẼ
Hình 1. Thiết bị thí nghiệm về sóng âm
Hình 2. Sơ đồ nguyên tắc hoạt động của TBTN
Hình 3. Sơ đồ bố trí thí nghiệm kháo sát dao động âm với các nguồn âm khác nhau
Hình 4. Dạng đồ thị đường biểu diễn dao động âm ứng với các nguồn âm khác nhau
Hình 5. Sơ đồ bố trí thí nghiệm khảo sát dải tần nghe được của tai người
Hình 6. Đồ thị dao động âm ứng với âm có tần số khác nhau
Hình 7. Đồ thị dao động âm ứng với các trường hợp nguồn âm phát ra sóng âm có
dạng khác nhau.
Hình 8. Mô hình bố trí thí nghiệm khảo sát hiện tượng giao thoa sóng âm
Hình 9. Sơ đồ thí nghiệm khảo sát hiện tượng giao thoa sóng âm
Hình 10. Đồ thị dao động âm ứng với vị trí mà tại đó dao động tổng hợp âm đạt biên
độ cực đại
Hình 11. Đồ thị dao động âm ứng với vị trí mà tại đó dao động tổng hợp âm đạt biên
độ cực tiểu
Hình 12. Đồ thị dao động của hai sóng cùng pha trên dao động kí
Hình 13. Mô hình bố trí thí nghiệm kháo sát tính tuần hoàn về pha của quá trình
truyền sóng âm
Hình 14. Sơ đồ bố trí thí nghiệm khảo sát tính tuần hoàn pha của quá trình truyền
sóng âm
Hình 15. Đồ thị biểu diễn dao động âm ứng với vị trí của micro mà dao động tại đó
đồng pha với nguồn.
Hình 16. Mô hình bố trí thí nghiệm kháo sát hiện tượng sóng dừng trong ống không
khí
Hình 17. Sơ đồ minh họa các nút và bụng sóng khi xảy ra hiện tượng sóng dừng trong
ống không khí
Hình 18. Sơ đồ bố trí thí nghiệm khảo sát hiện tượng sóng dừng trong ống không khí
Hình 19. Đồ thị biểu diễn dao động âm ứng với vị bụng và nút sóng khi xảy ra hiện
tượng sóng dừng trong ống không khí
4
MỤC LỤC
1. Mục đích nghiên cứu của đề tài............................................................................. 8
3. Đối tượng nghiên cứu của đề tài............................................................................ 8
4. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài ............................................................................ 8
5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài ...................................................................... 9
6. Đóng góp của đề tài................................................................................................ 9
7. Cấu trúc của khóa luận ......................................................................................... 9
PHẦN NỘI DUNG................................................................................................... 10
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VIỆC XÂY DỰNG VÀ SỬ DỤNG THIẾT
BỊ THÍ NGHIỆM TRONG DẠY HỌC VẬT LÍ Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG ..... 10
1.1. DẠY HỌC VẬT LÍ THEO HƯỚNG TÍCH CỰC HÓA HOẠT ĐỘNG NHẬN
THỨC CỦA HỌC SINH ......................................................................................... 10
1.1.1. Hoạt động nhận thức vật lí...................................................................... 10
1.1.2. Tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh .................................... 11
1.1.3. Dạy học vật lí theo hướng tích cực hóa hoạt động nhận thức ............... 12
1.2. SỬ DỤNG THÍ NGHIỆM TRONG DẠY HỌC VẬT LÍ NHẰM TÍCH CỰC
HÓA HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC CỦA HỌC SINH .......................................... 16
1.2.1. Vai trò của thí nghiệm trong dạy học vật lí ............................................ 16
1.2.2. Hệ thống thí nghiệm vật lí ở trường phổ thông...................................... 21
1.2.3. Các biện pháp sử dụng thí nghiệm nhằm tích cực hoá hoạt động nhận
thức của học sinh ............................................................................................... 23
KẾT LUẬN CHƯƠNG I ......................................................................................... 26
CHƯƠNG II: XÂY DỰNG THIẾT BỊ THÍ NGHIỆM VỀ SÓNG ÂM ĐỂ SỬ
DỤNG TRONG DẠY HỌC VẬT LÍ 12 THPT CHUYÊN .................................... 26
2.1. NỘI DUNG KIẾN THỨC, KĨ NĂNG VÀ CÁC THÍ NGHIỆM VỀ SÓNG
ÂM ............................................................................................................................ 26
2.1.1. Nội dung kiến thức, kĩ năng về sóng âm ................................................. 26
2.1.2. Các thí nghiệm cần tiến hành khi dạy học nội dung này ....................... 28
2.2. XÂY DỰNG THIẾT BỊ THÍ NGHIỆM ĐỂ SỬ DỤNG TRONG DẠY HỌC
VỀ SÓNG ÂM ......................................................................................................... 29
2.2.1. Sự cần thiết phải xây dựng thiết bị thí nghiệm về sóng âm ................... 29
2.2.2. Cấu tạo và nguyên tắc hoạt động của thiết bị thí nghiệm ...................... 30
2.2.3. Các thí nghiệm có thể tiến hành với thiết bị thí nghiệm ........................ 32
5
KẾT LUẬN CHƯƠNG II ....................................................................................... 47
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ................................................................................. 48
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................... 49
6
MỞ ĐẦU
Nước ta đang bước vào giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa với mục tiêu
đến năm 2020 Việt Nam sẽ cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Nhân tố quyết
định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế là con
người, việc này cần được bắt đầu từ giáo dục phổ thông mà trước hết đó là một hệ
thống phẩm chất và năng lực được hình thành trên một nền tảng kiến thức kĩ năng đầy
đủ và vững chắc. Trong nên giáo dục đó, quá trình dạy học phải phát huy được tính
tích cực, chủ động của người học để đào tạo ra những người lao động có khả năng
sáng tạo, thích ứng nhanh với những yêu cầu, những đòi hỏi của thời kỳ mới. Do vậy,
đổi mới nội dung và phương pháp dạy học là vấn đề mang tính thời sự. Từ nghị quyết
Trung ương 4 khóa VII (tháng 1 năm 1993), nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII
(tháng 12 năm 1996) đến Nghị quyết Hội nghị lần thứ II Ban chấp hành Trung ương
Đảng Cộng Sản Việt Nam khóa VIII năm 1997 đều khẳng định: “Phải đổi mới phương
pháp đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo
của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại
vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học
sinh” . Điều đó đã được thể chế hóa trong điều 28 Luật Giáo Dục năm 2005 và được
cụ thể hóa trong các chỉ thị của Bộ Giáo Dục và Đào Tạo, đặc biệt là chỉ thị số 14
(tháng 4 năm 1999).
Có thể nói cốt lõi của đổi mới dạy và học là hướng tới hoạt động học tập chủ
động, phát huy tính tích cực của học sinh. Vì vậy, hiện nay toàn ngành giáo dục đã và
đang từng bước đổi mới mạnh mẽ về nội dung và phương pháp dạy học như thiết kế
lại chương trình và nội dung sách giáo khoa, đổi mới phương pháp dạy học, tăng
cường thiết bị và phương tiện dạy học….Bộ môn Vật lí cũng không nằm ngoài những
bước đổi mới đó. Vật lí là môn khoa học thực nghiệm, con đường tìm ra kiến thức vật
lí cũng có những điểm khác biệt so với những môn học khác. Muốn quá trình dạy học
vật lí diễn ra vừa khoa học, vừa phát huy tính tích cực, tự chủ, sáng tạo của học sinh
thì bài học không thể thiếu các bài thí nghiệm thực hành.
Tuy nhiên thực tiễn giảng dạy trong nhà trường phổ thông hiện nay cho thấy,
các thí nghiệm được cung cấp không đủ về cả chủng loại và số lượng, chất lượng thiết
bị không cao, việc sử dụng thiết bị thí nghiệm trong các bài giảng còn hạn chế do
nhiều nguyên nhân trong đó có một nguyên nhân là giới hạn về mặt nghiên cứu của thí
nghiệm….Điều này dẫn tới những khó khăn nhất định cho giáo viên và học sinh trong
quá trình dạy và học, làm giảm tính hấp dẫn của bộ môn Vật Lí đối với học sinh,
không phát huy được tính tích cực, tự lực và sáng tạo của học sinh.
7
Như vậy, lí luận và thực tiễn đã chỉ ra rằng các thí nghiệm thực hành vật lí đóng
vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình giảng dạy.
Trong chương trình vật lí phổ thông, kiến thức liên quan đến sóng âm là một
phần kiến thức cơ bản của cơ học. Tuy nhiên khi dạy học các kiến thức về âm ở trường
phổ thông thì lại gặp rất nhiều khó khăn vì sóng âm là hiện tượng không thể trực tiếp
quan sát bằng mắt thường và chưa có TBTN để có thể tiến hành đầy đủ các thí nghiệm
vật lí cần thiết khi dạy học học các kiến thức này. Hiện tại ở trường phổ thông chỉ có
duy nhất một bộ thíết bị thí nghiệm xác định vận tốc truyền âm trong không khí nhờ
hiện tượng sóng dừng song độ chính xác của kết quả thu được còn chưa cao, đồng thời
chưa có thiết bị thí nghiệm nào nghiên cứu các tính chất các của sóng âm, cũng như
mối liên hệ giữa các đặc trưng sinh lí (độ cao, độ to, âm sắc) với các đặc trưng vật lí
của âm (tần số, mức cường độ âm, dạng đồ thị dao động âm).
Để giải quyết những khó khăn trên, được sự hướng dẫn của TS. Nguyễn Anh
Thuấn, tôi đã thực hiện đề tài “Xây dựng thiết bị thí nghiệm sóng âm để sử dụng
trong dạy học vật lí lớp 12 THPT chuyên”
1. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Thiết kế chế tạo thiết bị thí nghiệm sóng âm để sử dụng trong dạy học các kiến
thức liên quan đến sóng âm.
2. Giả thuyết khoa học của đề tài
Nếu xây dựng được bộ thiết bị thí nghiệm sóng âm và sử dụng bộ thí nghiệm
này trên quan điểm lý luận dạy học hiện đại thì sẽ phát huy được tính tích cực, chủ
động của học sinh trong học tập.
3. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
- Quá trình dạy và học các kiến thức về sóng âm trong chương trình Vật Lí 12
trung học phổ thông.
- Các thiết bị thí nghiệm được sử dụng trong quá trình dạy và học các kiến thức
về sóng âm.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Để đạt được mục tiêu đề ra, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài bao gồm:
- Nghiên cứu lí luận dạy học hiện đại về việc tổ chức hoạt động nhận thức tích
cực của học sinh trong dạy học vật lí, nhất là lí luận về dạy học giải quyết vấn đề và
qui trình xây dựng, sử dụng các thiết bị thí nghiệm trong quá trình dạy học các kiến
thức vật lí theo quan điểm lí luận dạy học hiện đại.
- Xác định nội dung kiến thức, kĩ năng mà học sinh cần nắm vững khi học các
kiến thức về sóng âm. Từ đó, xác định những thí nghiệm cần tiến hành trong dạy học
các kiến thức này.
8
- Thiết kế và chế tạo hoàn chỉnh bộ thiết bị thí nghiệm để sử dụng trong dạy học
các kiến thức về sóng âm, đáp ứng các yêu cầu về mặt khoa học – kĩ thuật và về mặt
sư phạm đối với thiết bị thí nghiệm.
5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
- Phương pháp nghiên cứu lý luận dạy học: Nghiên cứu các tài liệu về lí luận dạy
học hiện đại, chương trình, sách giáo khoa và sách giáo viên và các tài liệu chuyên
khảo về sóng âm, các tài liệu về thiết bị thí nghiệm có thể sử dụng được trong dạy học
các kiến thức về sóng âm ở lớp 12 THPT chuyên.
- Phương pháp nghiên cứu trong phòng thí nghiệm về việc thiết kế, chế tạo và
hoàn thiện bộ thí nghiệm về sóng âm.
- Phương pháp thống kê toán học được sử dụng trong quá trình xử lí các số liệu
thực nghiệm.
6. Đóng góp của đề tài
Xây dựng được bộ thí nghiệm để sử dụng trong dạy học các kiến thức về sóng
âm ở trường trung học phổ thông chuyên
7. Cấu trúc của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, kiến nghị và tài liệu tham khảo, khóa luận có nội
dung gồm hai chương:
- Chương I: Cơ sở lí luận của việc xây dựng và sử dụng thiết bị thí nghiệm
trong dạy học vật lí ở trường phổ thông.
- Chương II: Xây dựng thiết bị thí nghiệm về sóng âm để sử dụng trong dạy học
vật lí lớp 12 THPT chuyên.
9
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VIỆC XÂY DỰNG VÀ SỬ DỤNG THIẾT
BỊ THÍ NGHIỆM TRONG DẠY HỌC VẬT LÍ Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG
1.1. DẠY HỌC VẬT LÍ THEO HƯỚNG TÍCH CỰC HÓA HOẠT ĐỘNG NHẬN
THỨC CỦA HỌC SINH
Hoạt động là một khái niệm triết học, đó là một trong những phạm trù quan trọng
của tâm lý học, hoạt động được xem như là sự đáp ứng của chủ thể trước tác động của
những tác động bên ngoài. Tích cực là một nét của tính cách, được thể hiện qua hành
động, thái độ hăng hái của chủ thể, khi thực hiện công việc một cách khoa học, nhằm
đạt được mục đích cuối cùng và qua đó, bản thân chủ thể có một bước chuyển mình.
Tích cực hoá hoạt động học tập là sự phát triển ở mức độ cao hơn trong tư duy, đòi
hỏi một quá trình hoạt động "bên trong" hết sức căng thẳng với một nghị lực cao của
bản thân, nhằm đạt được mục đích là giải quyết vấn đề cụ thể nêu ra. Tính tích cực
trong hoạt động nhận thức của học sinh thể hiện ở những hoạt động trí tuệ là tập trung
suy nghĩ để trả lời câu hỏi nêu ra, kiên trì tìm cho được lời giải hay của một bài toán
khó cũng như hoạt động chân tay là say sưa lắp ráp tiến hành thí nghiệm. Trong học
tập hai hình thức biểu hiện này thường đi kèm nhau tuy có lúc biểu hiện riêng lẻ.
Đối với bộ môn vật lý, việc tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh gắn liền
với việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng kết hợp các phương pháp dạy học
theo hướng tích cực hóa hoạt động nhận thức; khai thác thí nghiệm trong dạy học vật
lý theo hướng tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh và đổi mới việc kiểm tra,
đánh giá kết quả học tập của học sinh trong dạy học hiện nay.
1.1.1. Hoạt động nhận thức vật lí
1.1.1.1. Hoạt động nhận thức vật lí
Vật lý học là bộ môn khoa học nghiên cứu về cấu trúc, tính chất và các hình thức
biến đổi cơ bản nhất của vật chất. Quá trình nhận thức vật lý khá phức tạp, cùng một
lúc phải vận dụng nhiều phương pháp của riêng bộ môn vật lý cũng như phương pháp
của các khoa học khác. Muốn hoạt động nhận thức vật lý có kết quả trước hết phải
quan tâm đến việc hình thành kỹ năng, kỹ xảo thực hiện các thao tác trên. Bên cạnh đó
phải có phương pháp suy luận, có khả năng tư duy trừu tượng, tư duy logic, tư duy
sáng tạo.
1.1.1.2. Những hành động chính của hoạt động nhận thức vật lí
Hoạt động nhận thức thức vật lý là khá phức tạp. Tuy nhiên có thể kể đến các hành
động chính của hoạt động nhận thức vật lý sau:
-
Quan sát hiện tượng tự nhiên, nhận biết đặc tính bên ngoài của sự vật, hiện
tượng.
10
-
Tác động vào tự nhiên, làm bộc lộ những mối quan hệ, những thuộc tính của sự
-
Xác định mối quan hệ hàm số giữa các đại lượng.
-
vật, hiện tượng. Xác định mối quan hệ nhân quả giữa các hiện tượng.
Xây dựng những giả thiết hay mô hình để lý giải nguyên nhân của hiện tượng
quan sát được. Từ giả thiết, mô hình suy ra những hệ quả.
Xây dựng các phương án thí nghiệm để kiểm tra các hệ quả.
Đánh giá kết quả thu được từ thí nghiệm.
Khái quát hóa kết quả, rút ra tính chất, quy luật hình thành các khái niệm, định
luật và thuyết vật lý.
Vận dụng kiến thức khái quát vào thực tiễn.
1.1.2. Tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh
1.1.2.1. Tính tích cực trong hoạt động nhận thức của học sinh
Tính tích cực trong hoạt động nhận thức của học sinh là một hiện tượng sư phạm
biểu hiện ở sự cố gắng hết sức cao về nhiều mặt trong hoạt động nhận thức của trẻ nói
chung. Tính tích cực hoạt động học tập là sự phát triển ở mức độ cao hơn trong tư duy,
đòi hỏi một quá trình hoạt động "bên trong" hết sức căng thẳng với một nghị lực cao
của bản thân, nhằm đạt được mục đích là giải quyết vấn đề cụ thể nêu ra.
Tính tích cực trong hoạt động nhận thức của học sinh thể hiện ở những hoạt động
trí tuệ là tập trung suy nghĩ để trả lời câu hỏi nêu ra, kiên trì tìm cho được lời giải hay
của một bài toán khó cũng như hoạt động chân tay là say sưa lắp ráp tiến hành thí
nghiệm. Trong học tập hai hình thức biểu hiện này thường đi kèm nhau tuy có lúc biểu
hiện riêng lẻ. Các dấu hiệu về tính tích cực trong hoạt động nhận thức của học sinh
thường được biểu hiện:
-
Học sinh khao khát tự nguyện tham gia trả lời các câu hỏi của giáo viên, bổ
sung các câu trả lời của bạn và thích được phát biểu ý kiến của mình trước vấn
đề nêu ra.
Học sinh hay thắc mắc và đòi hỏi giải thích cặn kẽ những vấn đề các em chưa
rõ.
Học sinh chủ động vận dụng linh hoạt những kiến thức, kỹ năng đã có để nhận
thức các vấn đề mới.
Học sinh mong muốn được đóng góp với thầy, với bạn những thông tin mới
nhận từ các nguồn kiến thức khác nhau có thể vượt ra ngoài phạm vi bài học,
môn học.
Tính tích cực trong hoạt động nhận thức của học sinh phổ thông có thể phân biệt
theo 3 cấp độ sau:
11
-
Sao chép, bắt chước: Kinh nghiệm hoạt động bản thân học sinh được tích luỹ
dần thông qua việc tích cực bắt chước hoạt động của giáo viên và bạn bè. Trong
hoạt động bắt chước cũng có sự gắng sức của thần kinh và cơ bắp.
Tìm tòi, thực hiện: Học sinh tìm cách độc lập suy nghĩ để giải quyết các bài tập
nêu ra, mò mẫm những cách giải khác nhau và từ đó tìm ra lời giải hợp lý nhất
cho vấn đề nêu ra.
Sáng tạo: Học sinh nghĩ ra cách giải mới, độc đáo, hoặc cấu tạo những bài tập
mới cũng như cố gắng tự lắp đặt những thí nghiệm để chứng minh cho bài học.
Lẽ đương nhiên là mức độ sáng tạo của học sinh có hạn nhưng đó là mầm móng
để phát triển tính sáng tạo về sau.
1.1.2.2. Những đặc trưng của tích cực hoá hoạt động nhận thức
Tích cực hóa hoạt động nhận thức trong học tập của học sinh thực chất là tập hợp
các hoạt động nhằm chuyển biến vị trí từ học bị động sang chủ động, tự bản thân đi
tìm kiếm tri thức để nâng cao hiệu quả học tập.
Đặc trưng cơ bản của tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh trong quá
trình học tập là sự linh hoạt của học sinh dưới sự định hướng, đạo diễn của người tự từ
bỏ vai trò chủ thể (giáo viên) với mục đích cuối cùng là học sinh tự mình khám phá ra
kiến thức cùng với cách tìm ra kiến thức. Trong quá trình dạy học, để phát huy tính
tích cực trong hoạt động nhận thức của học sinh thì quá trình dạy học đó phải diễn
biến sao cho:
-
Học sinh được đặt ở vị trí chủ thể, tự giác, tích cực, sáng tạo trong hoạt động
-
Giáo viên tự từ bỏ vị trí của chủ thể nhưng lại là người đạo diễn, định hướng
-
nhận thức của bản thân.
trong hoạt động dạy học.
Quá trình dạy học phải dựa trên sự nghiên cứu những quan niệm, kiến thức sẵn
có của người học, khai thác những thuận lợi đồng thời nghiên cứu kỹ những
chướng ngại có khả năng xuất hiện trong quá trình dạy học.
Mục đích dạy học không chỉ dừng lại ở việc cung cấp tri thức, kỹ năng, kỹ xảo
mà còn phải dạy cho học sinh cách học, cách tự học, tự hoạt động nhận thức
nhằm đáp ứng các nhu cầu của bản thân và xã hội.
1.1.3. Dạy học vật lí theo hướng tích cực hóa hoạt động nhận thức
1.1.3.1. Quan niệm về phương pháp dạy học theo hướng tích cực
Khi nói tới phương pháp tích cực, thực tế là nói tới một nhóm các phương pháp dạy
học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh.
Cơ sở của phương pháp luận là lý luận, trong quá trình dạy học cần kích thích sự
hứng thú trong học tập cho học sinh, cần phát huy tính tích cực, tính tự lực sáng tạo
12
trong học tập của học sinh. Để làm điều đó đòi hỏi người thầy giáo phải lựa chọn, tìm
tòi những phương pháp dạy học phù hợp với nội dung bài học, đặc điểm của đối
tượng, điều kiện vật chất, và đây là một hoạt động sáng tạo của người thầy trong hoạt
động dạy. Phương pháp dạy học theo hướng tích cực cần thể hiện được sự phản ánh
quá trình hoạt động nhận thức của học sinh nhằm đạt được mục đích đã đề ra trong đó
giáo viên tổ chức cho học sinh hoạt động theo hướng tích cực, giúp học sinh tự giác
tiếp nhận kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo nhằm đạt được mục đích đề ra với kết quả cao.
1.1.3.2. Những đặc trưng của phương pháp dạy học theo hướng tích cực
Phương pháp dạy học theo hướng tích cực có những điểm mạnh riêng của nó mà
các phương pháp khác không thể có được đó là học sinh lĩnh hội kiến thức bằng chính
sự hoạt động tích cực và cao độ của bản thân, tự họ chủ động sáng tạo nên các vấn đề,
các tình huống để nghiên cứu... Phương pháp dạy học theo hướng tích cực thể hiện bởi
các đặc trưng cơ bản sau:
a. Dạy học hướng vào học sinh
Dạy học hướng vào học sinh là lối dạy học do người học chủ động điều khiển, cá
nhân của người học vừa là mục đích vừa là chủ thể của quá trình học tập để cho tiềm
năng của mỗi cá nhân được phát triển đầy đủ.
Phương pháp dạy học tích cực đề cao vai trò chủ thể của người học, xem học sinh
vừa là chủ thể, vừa là đối tượng của quá trình dạy học. Dĩ nhiên việc đề cao vai trò của
chủ thể tích cực chủ động của người học không phủ nhận vai trò chủ đạo của người
dạy.
b. Dạy học bằng tổ chức các hoạt động cho học sinh
Theo lý thuyết hoạt động được Vưgôtxki khởi xướng và A.N.Lêônchip phát triển:
bằng hoạt động và thông qua hoạt động, mỗi người tự sinh thành ra mình, tạo dựng và
phát triển ý thức cũng như nhân cách cho bản thân.
Vận dụng vào dạy học, việc học tập của học sinh có bản chất hoạt động: Bằng hoạt
động và thông qua hoạt động của bản thân mà chiếm lĩnh kiến thức, hình thành và phát
triển năng lực trí tuệ cũng như quan điểm đạo đức, thái độ. Kết quả của việc học tập
phụ thuộc chủ yếu vào hoạt động học của học sinh.
Nhiệm vụ chính của giáo viên là tổ chức, hướng dẫn hoạt động học của học sinh để
thông qua hoạt động đó mà học sinh lĩnh hội được nền văn hoá xã hội, tạo ra sự phát
triển những phẩm chất, tâm lý và hình thành nhân cách cho chính bản thân. Muốn tổ
chức, hướng dẫn tốt hoạt động học tập vật lý của học sinh mà thực chất là hoạt động
nhận thức vật lý, người giáo viên cần nắm vững quy luật chung nhất của quá trình
nhận thức khoa học, lôgic hình thành các kiến thức vật lý, những hành động thường
gặp trong quá trình nhận thức vật lý, những phương pháp nhận thức vật lý phổ biến để
13
hoạch định những hành động, thao tác cần thiết của học sinh trong quá trình chiếm
lĩnh một kiến thức hay một kỹ năng xác định và cuối cùng là nắm được những biện
pháp để động viên khuyến khích học sinh tích cực, tự lực thực hiện các hành động đó,
đánh giá kết quả hành động.
c. Dạy học chú trọng đến việc rèn luyện phương pháp tự học, tư nghiên cứu
Muốn phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học thì cần xem việc
rèn luyện phương pháp học tập cho học sinh không chỉ là một phương tiện nâng cao
hiệu quả dạy học mà phải xem đó là một mục tiêu dạy học. Trong một xã hội hiện đại
đang biến đổi nhanh với sự bùng nổ thông tin, khoa học và công nghệ phát triển như
vũ bão thì việc dạy học không thể hạn chế ở chức năng dạy kiến thức mà phải chuyển
mạnh sang dạy cả phương pháp học.
d. Dạy học chú trọng đến việc trau dồi kiến thức và bồi dưỡng kĩ năng, kĩ xảo
Quá trình dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động nhận thức, học sinh phải tự
nỗ lực, tích cực cao trong hoạt động nhận thức của bản thân. Tính tích cực thể hiện ở
nhiều mức độ và dưới nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, việc bồi dưỡng kỹ năng, kỹ
xảo thể hiện rõ trong việc tích cực hoá hoạt động nhận thức, kỹ năng bao gồm các kỹ
năng thu nhập và xử lý thông tin như: quan sát, thực nghiệm, lấy số liệu, tra cứu, lập
bảng biểu, vẽ đồ thị, rút ra kết luận, xây dựng các dự đoán, các giả thuyết khoa học...
Các kỹ năng này sẽ được trau dồi thông qua hoạt động tích cực của bản thân trong quá
trình lĩnh hội kiến thức. Cũng thông qua hoạt động này ta đã rèn luyện cho học sinh
tác phong làm việc khoa học, thể hiện tính kiên nhẫn, tỉ mỉ, chính xác, trung thực và có
kế hoạch cụ thể trong học tập cũng như trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học theo
hướng tích cực hoá.
1.1.3.3. Các biện pháp sư phạm nhằm tích cực hoá hoạt động nhận thức của
học sinh trong dạy học vật lí
Để tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh, ngoài việc tạo ra không khí học
tập tốt, về mặt phương pháp dạy học, cần thực hiện tốt các vấn đề sau:
a. Trong quá trình dạy học cần phối hợp tốt các phương pháp dạy học theo
hướng tích cực hoá hoạt động nhận thức
Trong thực tiễn, có nhiều phương pháp dạy học khác nhau như phương pháp dạy
học, phương pháp trực quan, phương pháp thí nghiệm biểu diễn...
Trong quá trình dạy học để cần kích thích được sự hứng thú trong học tập của học
sinh, phát huy tính tích cực, tính tự lực sáng tạo trong học tập của học sinh, đòi hỏi
người giáo viên phải lựa chọn, tìm tòi những phương pháp dạy học phù hợp với nội
dung bài học, đặc điểm của đối tượng, điều kiện vật chất, và đây là một hoạt động sáng
tạo của giáo viên trong hoạt động dạy.
14
Các phương pháp dạy học mà giáo viên đã lựa chọn phối hợp cùng với những biện
pháp thích hợp trong từng bài học là điều quan trọng trong việc duy trì hứng thú, tích
cực thường xuyên của học sinh trong giờ học. Như vậy, sự lựa chọn và phối hợp các
phương pháp dạy học trong từng bài, từng chương là vấn đề quan trọng cần xem xét
đến những đặc trưng cơ bản của từng phương pháp dạy học để phát huy vai trò tích
cực của học sinh. Bên cạnh đó cần quan tâm đến kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo và năng
lực tư duy về vấn đề cần nghiên cứu, thái độ của học sinh đối với bộ môn mà học sinh
tham gia nghiên cứu.
b. Khai thác thí nghiệm vật lí trong dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động
nhận thức của học sinh
Vật lý học là môn khoa học thực nghiệm, vì vậy, sử dụng rộng rãi các thí nghiệm
vật lý ở nhà trường trung học phổ thông hiện nay là một trong những biện pháp quan
trọng nhằm nâng cao chất lượng dạy học, góp phần tích cực hoá hoạt động nhận thức
của học sinh.
Mặc khác, sự cần thiết của thí nghiệm vật lý trong các nhà trường còn được quy
định bởi tính chất của quá trình nhận thức của học sinh dưới sự hướng dẫn của giáo
viên vì thí nghiệm vật lý có tác dụng tạo ra trực quan sinh động trước mắt học sinh.
Thí nghiệm vật lý có tác dụng rất to lớn trong việc phát triển năng lực và nhận thức
khoa học cho học sinh, đồng thời giúp cho họ quen dần với phương pháp nghiên cứu
khoa học.Vì qua đó, học sinh sẽ học được cách quan sát các hiện tượng, cách đo đạt
các thí nghiệm nhằm rèn luyện tính cẩn thận, kiên trì trong nghiên cứu khoa học. Đây
là điều rất cần cho việc giáo dục kỹ thuật tổng hợp, chuẩn bị cho học sinh tham quan
thực tế. Do được tận mắt quan sát sự vận động của các hiện tượng, tự tay tiến hành lắp
ráp, đo đạt các thí nghiệm nên các em đã quen dần với các dụng cụ trong đời sống.
Trong dạy học cũng như trong nghiên cứu khoa học, thí nghiệm vật lý có tác dụng
rất lớn trong việc tích cực hoá hoạt động nhận thức. Thí nghiệm vật lý, với tính chất là
một phương pháp dạy học vật lý, thí nghiệm vật lý được thực hiện ở trường phổ thông
bằng những biện pháp khác nhau. Giáo viên trình bày thí nghiệm nhằm đề xuất vấn đề
nghiên cứu để vào bài mới, khảo sát hay minh hoạ một định luật, một quy tắc vật lý
nào đó. Học sinh tự tay làm các thí nghiệm để tìm hiểu hiện tượng, dụng cụ thiết bị,
đào sâu, ôn tập, củng cố kiến thức đã học.
c. Từng bước đổi mới phương thức kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học
sinh cũng là môt biện pháp đẩy mạnh việc tích cực hóa hoạt động nhận thức của học
sinh
Có nhiều cách để tiến hành kiểm tra, đánh giá nhưng phải làm sao để kết quả học
tập của học sinh thể hiện rõ tính toàn diện, thống nhất, hệ thống và khoa học. Kiểm tra,
15
đánh giá có một ý nghĩa xã hội to lớn, nó gắn với nghề nghiệp, lương tâm, ý chí, tình
cảm, tư cách đạo đức và uy tín của người giáo viên. Việc kiểm tra đánh giá ở các
trường phổ thông hiện nay chưa có môt tiêu chuẩn thống nhất để đánh giá chất lượng
tri thức của từng môn học một cách khoa học. Quá trình đánh giá còn đơn giản,
phương pháp và hình thức đánh giá còn tùy tiện và toàn bộ việc đánh giá của giáo viên
chỉ quy về điểm số.
Cùng với những nỗ lực đổi mới phương pháp dạy học, xu hướng sử dụng phiếu học
tập với các bài tập trắc nghiệm để kiểm tra một số kiến thức trong từng buổi học, kiểm
tra một số kĩ năng thực hành như sử dụng các dụng cụ thí nghiệm, kĩ năng làm thí
nghiệm, kĩ năng thu thập và xử lí thông tin ... đang là một hướng đi tốt, có tác động
không nhỏ đến ý thức học tập của học sinh. Đây cũng có thể coi là một trong những
biện pháp thúc đẩy việc tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh trong các giờ
học vật lý.
1.2. SỬ DỤNG THÍ NGHIỆM TRONG DẠY HỌC VẬT LÍ NHẰM TÍCH CỰC
HÓA HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC CỦA HỌC SINH
1.2.1. Vai trò của thí nghiệm trong dạy học vật lí
Vật lí là một môn khoa học thực nghiệm, hầu hết các kiến thức vật lí đều được rút
ra từ quan sát, thí nghiệm. Ngay cả những qui luật được xây dựng bằng con đường lí
thuyết thuần túy cũng chỉ có ý nghĩa là một định luật vật lí thực sự khi được thực
nghiệm kiểm chứng. Vì vậy tiến hành thí nghiệm trong nghiên cứu vật lí học là một
việc quan trọng không thể thiếu được. Vậy thí nghiệm vật lí được hiểu như thế nào?
Thí nghiệm vật lí là sự tác động có chủ đích, có hệ thống của con người vào các đối
tượng của hiện thực khách quan. Thông qua sự phân tích các điều kiện mà trong đó đã
diễn ra sự tác động và các kết quả của sự tác độn, tá có thể thu nhận được tri thức mới.
Hoặc định nghĩa thí nghiệm vật lí trên phương diện là một phương tiện dạy học:
Thí nghiệm vật lí là tất cả các thiết bị, các phương tiện, các đồ vật, các dụng cụ dựa
vào đấy có thể tái tạo được các hiện tượng tự nhiên, chuyển các hiện tượng tự nhiên
vào trong lớp học hoặc phòng thí nghiệm nhưng các hiện tượng sẽ nôt bật nhờ sự đơn
giản hóa các môi trường tác động phụ và qua đó làm rõ được cá đại lượng đặc trưng
của hiện tượng.
Vì vậy thí nghiệm trong dạy học vật lí được xem là có vai trò quan trọng, cụ thể thí
nghiệm có những vai trò căn bản như sau:
1.2.1.1. Vai trò của thí nghiệm vật lí theo quan điểm của lí luận nhận thức
a. Thí nghiệm là phương tiện thu nhận tri thức
TN là một phương tiện quan trọng của hoạt động nhận thức của con người, thông
qua TN con người đã thu nhận được những tri thức khoa học cần thiết nhằm nâng cao
16
năng lực của bản thân để có thể tác động và cải tạo thực tiễn. Trong dạy học, TN là
phương tiện của hoạt động nhận thức của HS, nó giúp người học trong việc tìm kiếm
và thu nhận kiến thức khoa học cần thiết.
Vai trò của TN trong mỗi giai đoạn của quá trình nhận thức phụ thuộc vào vốn hiểu
biết của con người về đối tượng cần nghiên cứu. Trong dạy học vật lí, TN được sử
dụng như một công cụ phân tích hiện thực khách quan, từ đó HS thu nhận tri thức về
đối tượng, nếu ban đầu HS chưa biết hoặc biết một ít về đối tượng cần nghiên cứu, thì
TN được sử dụng để thu nhận những kiến thức đầu tiên về nó, thông qua TN, HS có
thể trả lời được các câu hỏi về hiện tượng xảy ra của đối tượng … Chẳng hạn, khi
nghiên cứu hiện tượng khúc xạ ánh sáng, thông qua TN, HS không những quan sát
được hiện tượng khúc xạ ánh sáng (sự gãy khúc của tia sáng tại mặt phân cách giữa hai
môi trường) mà còn thu thập được các số liệu về góc tới và góc khúc xạ tương ứng, tạo
cơ sở để rút ra được nội dung định luật khúc xạ ánh sáng.
Trong cuộc sống thực tế, các sự vật hiện tượng xung quanh chúng ta vô cùng phức
tạp, đa dạng và đan xen vào nhau. Ta không thể nghiên cứu riêng lẻ một hiện tượng
mà không có sự ảnh hưởng của các hiện tượng khác tác động lên chúng, nghĩa là
không thể tách riêng từng hiện tượng để quan sát, nghiên cứu. Trong tự nhiên cũng
thế, các hiện tượng xảy ra chằng chịt và đan xen lẫn nhau, để nghiên cứu các hiện
tượng, sự vật riêng biệt, ta chỉ có thể sử dụng TN để nghiên cứu riêng cho trường hợp
cụ thể đó, và chỉ có thông qua TN thì sự vật, hiện tượng cần nghiên cứu mới được phơi
bày rõ ràng bản chất của nó, và đó cũng là điều mà chúng ta cần quan tâm.
Thực tế, trong dạy học nói chung và dạy học vật lí nói riêng, đối với những bài học
có liên quan đến những hiện tượng, nếu GV giảng dạy theo lối thông báo TN thì HS sẽ
thụ động tiếp nhận kiến thức, nhưng nếu dùng TN thì thông qua TN, HS không những
tiếp thu kiến thức một cách một cách tự lực, mà qua đó làm cho HS tích cực, sáng tạo
hơn trong hoạt động nhận thức, từ đó họ hăng hái tham gia vào công cuộc khám phá
kiến thức mới thông qua TN.
Có thể nói rằng, TN là nguồn cung cấp thông tin chính xác về các sự vật, hiện
tượng và chỉ có TN thì kiến thức mà HS thu nhận mới đạt chất lượng, hiệu quả và
chính việc sử dụng TN trong dạy học vật lí mới đem lại cho HS sự tự tin vào kiến thức
được lĩnh hội.
nhận
b. Thí nghiệm là phương tiện kiểm tra tính đúng đắn của những tri thức đã thu
Trong khoa học, phương pháp thực nghiệm được coi là “hòn đá thử vàng” của mọi
tri thức chân chính. Bởi vậy, có thể nói TN có chức năng trong việc kiểm tra tính đúng
đắn của tri thức đã thu nhận.
17
Trong dạy học vật lí, TN là một trong những phương tiện tốt để kiểm tra kiến thức
vật lí đã được khái quát hoá từ lí thuyết. Thực tế cho thấy, từ sự khái quát hoá lí thuyết
rồi đưa ra TN để kiểm tra lí thuyết không những làm cho hoạt động nhận thức của HS
tích cực hơn mà còn tạo được niềm tin về sự đúng đắn của kiến thức mà HS đã lĩnh
hội. Thông thường, suy nghĩ của HS luôn có sự khái quát lí thuyết, tuy nhiên, đó chỉ là
sự khái quát hoá, sự tư duy theo lí thuyết suông, mà cần phải được GV kiểm tra bằng
TN. Ngoài ra, những kết luận từ sự tư duy trừu tượng của HS cũng cần phải được kiểm
tra tính đúng đắn thông qua TN. Trong trường hợp này, rõ ràng TN đã góp phần tích
cực vào hoạt động nhận thức của HS, kiểm chứng sự đúng đắn trong suy luận và
những kiến thức mà HS thu nhận được.
c. Thí nghiệm là phương tiện để vận dụng tri thức vào thực tiễn
Trong quá trình vận dụng kiến thức vào thực tiễn, vào việc thiết kế và chế tạo các
thiết bị kĩ thuật, người ta gặp phải những khó khăn nhất định do tính khái quát và trừu
tượng của các tri thức cần vận dụng, cũng như bởi tính phức tạp của các thiết bị kĩ
thuật cần chế tạo. Trong trường hợp đó TN được sử dụng với tư cách là phương tiện
thử nghiệm cho việc vận dụng tri thức vào thực tiễn.
Chẳng hạn: việc vận dụng kiến thức về lực nâng trong chế tạo máy bay, để có được
phương án tối ưu trong việc thiết kế kiểu dáng cánh máy bay người ta đã làm TN với
với các mô hình máy bay thu nhỏ. Sau đó dựa vào phương pháp tương tự và lí thuyết
đồng dạng để chuyển kết quả thu được qua việc nghiên cứu trên mô hình vào các đối
tượng thực tế cần chế tạo.
Trong dạy học vật lí, TN không những có vai trò rất lớn trong việc tích cực hóa
hoạt động nhận thức của HS, thể hiện ở khía cạnh cung cấp kiến thức, rèn luyện thao
tác chân tay, tác động đến giác quan của HS ..., mà TN còn có một vai trò rất lớn khác
trong việc giúp HS củng cố và vận dụng kiến thức một cách vững chắc.
Các kiến thức vật lí được giảng dạy trên lớp cần phải được khắc sâu trong tiềm
thức của HS, theo đó, HS phải thường xuyên củng cố và vận dụng kiến thức đã học
vào thực tế cuộc sống, vấn đề này sẽ được thực hiện tốt nếu chúng ta biết vận dụng TN
để giải quyết, TN vật lí giúp cho HS có điều kiện vận dụng những kiến thức đã học
vào thực tế cuộc sống, từ đó xoá bỏ dần lối học vẹt, lí thuyết suông đã tồn tại nhiều
năm trước đây.
d. Thí nghiệm là một bộ phận của các phương pháp nhận thức
TN luôn đóng một vai trò rất quan trọng trong các phương pháp nhận thức khoa
học, chẳng hạn:
-
Đối với phương pháp thực nghiệm, TN luôn có mặt ở nhiều khâu khác nhau:
làm xuất hiện vấn đề nghiên cứu, kiểm tra tính đúng đắn của các giả thuyết…
18
-
Trong phương pháp mô hình, TN giúp ta thu thập các thông tin về đối tượng
gốc làm cơ sở cho việc xây dựng mô hình.
Ngoài ra, đối với mô hình vật chất điều bắt buộc là người ta phải tiến hành các TN
thực sự với nó. Cuối cùng, nhờ những kết quả của các TN được tiến hành trên vật gốc
tạo cơ sở để đối chiếu với kết quả thu được từ mô hình, qua đó để có thể kiểm tra tính
đúng đắn của mô hình được xây dựng và chỉ ra giới hạn áp dụng của nó
1.2.1.2. Vai trò của thí nghiệm vật lí theo quan điểm của lí luận dạy học
Trong dạy học vật lí, TN đóng một vai trò cực kì quan trọng, dưới quan điểm lí
luận dạy học vai trò đó được thể hiện những mặt sau:
a. Thí nghiệm có thể được sử dụng trong tất cả các giai đoạn khác nhau của
tiến trình dạy học
TN vật lí có thể được sử dụng trong tất cả các giai đoạn khác nhau của tiến trình
dạy học như đề xuất vấn đề nghiên cứu, giải quyết vấn đề (hình thành kiến thức, kĩ
năng mới...), củng cố kiến thức và kiểm tra đánh giá kiến thức kĩ năng, kĩ xảo của HS.
b. Thí nghiệm góp phần vào việc phát triển toàn diện học sinh
Việc sử dụng TN trong dạy học góp phần quan trong vào việc hoàn thiện những
phẩm chất và năng lực của HS, đưa đến sự phát triển toàn diện cho người học. Trước
hết, TN là phương tiện nhằm góp phần nâng cao chất lượng kiến thức và rèn luyện kĩ
năng, kĩ xảo vật lí cho HS. Nhờ TN HS có thể hiểu sâu hơn bản chất vật lí của các hiện
tượng, định luật, quá trình... được nghiên cứu và do đó có khả năng vận dụng kiến thức
vào thực tiễn của HS sẽ linh hoạt và hiệu quả hơn.
Truyền thụ cho HS những kiến thức phổ thông cơ bản là một trong những nhiệm
vụ quan trọng của hoạt động dạy học. Để làm được điều đó, GV cần nhận thức rõ việc
xây dựng cho HS một tiềm lực, một bản lĩnh, thể hiện trong cách suy nghĩ, thao tác tư
duy và làm việc để họ tiếp cận với các vấn đề của thực tiễn. Thông qua TN, bản thân
HS cần phải tư duy cao mới có thể khám phá ra được những điều cần nghiên cứu.
Thực tế cho thấy, trong dạy học vật lí, đối với các bài giảng có sử dụng TN, thì HS
lĩnh hội kiến thức rộng hơn và nhanh hơn, HS quan sát và đưa ra những dự đoán,
những ý tưởng mới, nhờ đó hoạt động nhận thức của HS sẽ được tích cực và tư duy
của các em sẽ được phát triển tốt hơn.
c. Thí nghiệm là phương tiện góp phần quan trọng vào việc giáo dục kĩ thuật
tổng hợp cho học sinh.
Thông qua việc tiến hành TN, HS có cơ hội trong việc rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo
thực hành, góp phần thiết thực vào việc giáo dục kĩ thuật tổng hợp cho HS. TN còn là
điều kiện để HS rèn luyện những phẩm chất của người lao động mới, như: đức tính cẩn
19
thận, kiên trì, trung thực... Xét trên phương diện thao tác kĩ thuật, chúng ta không thể
phủ nhận vai trò của TN đối với việc rèn luyện sự khéo léo tay chân của HS.
Hoạt động dạy học không chỉ dừng lại ở chỗ truyền thụ cho HS những kiến thức
phổ thông cơ bản đơn thuần mà điều không kém phần quan trọng ở đây là làm thế nào
phải tạo điều kiện cho HS tiếp cận với hoạt động thực tiễn bằng những thao tác của
chính bản thân họ. Trong dạy học vật lí, đối với những bài giảng có TN thì GV cần
phải biết hướng HS vào việc cho họ tự tiến hành TN, có như vậy kiến thức các em thu
nhận được sẽ vững vàng hơn, rèn luyện được cho các em sự khéo léo chân tay, khả
năng quan sát tinh tế, tỉ mỉ hơn và chính xác hơn. Có như thế, khả năng hoạt động thực
tiễn của HS sẽ được nâng cao.
d. Thí nghiệm là phương tiện kích thích hứng thú học tập của học sinh
TN là phương tiện gây hứng thú, là yếu tố kích thích tính tò mò, ham hiểu biết của
HS học tập, nhờ đó làm cho các em tích cực và sáng tạo hơn trong quá trình nhận thức.
Chính nhờ TN và thông qua TN mà ở đó HS tự tay tiến hành các TN, các em sẽ
thực hiện các thao tác TN một cách thuần thục, khơi dậy ở các em sự say sưa, tò mò để
khám phá ra những điều mới, những điều bí ẩn từ TN và cao hơn là hình thành nên
những ý tưởng cho những TN mới. Đó cũng chính là những tác động cơ bản, giúp cho
quá trình hoạt động nhận thức của HS được tích cực hơn.
Thông qua TN, nhờ vào sự tập trung chú ý, quan sát sự vật, hiện tượng có thể tạo
cho HS sự ham thích tìm hiểu những đặc tính, quy luật diễn biến của hiện tượng đang
quan sát. Khi giác quan của HS bị tác động mạnh, HS phải tư duy cao độ từ sự quan
sát TN, chú ý kĩ TN để có những kết luận, những nhận xét phù hợp.
e. Thí nghiệm là phương tiện tổ chức các hình thức hoạt động của học sinh
TN là phương tiện tổ chức các hình thức làm việc độc lập hoặc tập thể qua đó góp
phần bồi dưỡng các phẩm chất đạo đức của HS. Qua TN đòi hỏi HS phải làm việc tự
lực hoặc phối hợp tập thể, nhờ đó có thể phát huy vai trò cá nhân hoặc tính cộng đồng
trách nhiệm trong công việc của các em.
lí
f. Thí nghiệm vật lí góp phần làm đơn giản hoá các hiện tượng và quá trình vật
TN vật lí góp phần đơn giản hoá hiện tượng, tạo trực quan sinh động nhằm hỗ
trợ cho tư duy trừu tượng của HS, giúp cho HS tư duy trên những đối tượng cụ thể,
những hiện tượng và quá trình đang diễn ra trước mắt họ. Các hiện tượng trong tự
nhiên xẩy ra vô cùng phức tạp, có mối quan hệ chằng chịt lấy nhau, do đó không thể
cùng một lúc phân biệt những tính chất đặc trưng của từng hiện tượng riêng lẻ, cũng
như không thể cùng một lúc phân biệt được ảnh hưởng của tính chất này lên tính chất
khác. Chính nhờ TN vật lí đã góp phần làm đơn giản hoá các hiện tượng, làm nổi bật
20
những khía cạnh cần nghiên cứu của từng hiện tượng và quá trình vật lí giúp cho HS
dễ quan sát, dễ theo dõi và dễ tiếp thu bài.
1.2.2. Hệ thống thí nghiệm vật lí ở trường phổ thông
Có nhiều cách phân loại thí nghiệm khác nhau tùy vào cách chọn dấu hiệu này hay
dấu hiệu khác để phân loại, điều quan trọng là phải nắm được đặc trưng của mỗi loại
để có thể khai thác và sử dụng nó vào mục đích cụ thể một cách có hiệu quả trong quá
trình dạy học vật lí.
Nếu dựa vào hoạt động của giáo viên và học sinh người ta có thể phân thí nghiệm
vật lí thành hai loại: Thí nghiệm biểu diễn của giáo viên và thí nghiệm thực tập của
học sinh.
1.2.2.1. Thí nghiệm biểu diễn
a. Đặc điểm của thí nghiệm biểu diễn
Thí nghiệm biểu diễn là thí nghiệm do giáo viên tiến hành nhằm đề xuất vấn đề
nghiên cứu (kháo sát hay kiểm chứng, minh họa một định luật, một quá trình, một hiện
tượng vật lí), trong các giờ học nghiên cứu kiến thức mới và các giờ ôn tạp, củng cố
kiến thức, kĩ năng của học sinh.
o Vai trò của thí nghiệm biểu diễn: thí nghiệm biểu diễn giữ một vị trí hàng đầu
trong hệ thống thí nghiệm vật lí phổ thông. Thí nghiệm biểu diễn có đầy đủ các vai trò
của thí nghiệm đã nêu ở trên. Đặc biệ thí nghiệm biểu diễn nếu được tổ chức hợp lí sẽ
giúp cho việc truyền thụ bài của giáo viên thuận lợi, hợp lí và giúp học sinh tiếp thu
bài dễ dàng và nhanh chóng hơn.
o Những ưu điểm của thí nghiệm biểu diễn
+ Dễ tổ chức, có hiệu lực ngay.
+ Không đòi hỏi nhiều thiết bị
+ Cùng một lúc nhiều học sinh có thể quan sát.
Tuy nhiên, thí nghiệm biểu diễn có hạn chế đó là: học sinh chỉ được quan sát mà
không được tiến hành thí nghiệm, tính độc lập, sáng tạo trong thí nghiệm bị hạn
chế,không phát triển được kĩ năng, kĩ xảo của học sinh.
Với những ưu điểm và hạn chế trên, chúng ta sử dụng thí nghiệm biểu diễn trong
dạy học cần quán triệt các yêu cầu sau: Thí nghiệm biểu diễn cần phải:
+ Gắn liền hữu cơ với bài giảng
+ Ngắn gọn, hợp lí
+ Đủ sức thuyết phục
+ Đảm bảo cả lớp quan sát được
+ Đảm bảo an toàn
b. Phân loại thí nghiệm biểu diễn
21
Thí nghiệm biểu diễn có thể được sử dụng ở tất cả các giai đoạn khác nhau của quá
trình dạy học như: đề xuất vấn đề nghiên cứu, hình thành kiến thức, kĩ năng mới hoặc
để củng cố bài học.
Căn cứ vào mục đích sử dụng của thí nghiệm người ta phân thí nghiệm biểu diễn
thành ba loại:
-
Thí nghiệm mở đầu
-
Thí nghiệm củng cố
-
Thí nghiệm nghiên cứu hiện tượng mới
o Thí nghiệm mở đầu:
Đây là thí nghiệm nhằm tạo ra tình huống có vấn đề, thúc đẩy mâu thuẫn giữa trình
độ kiến thức hiện có và nhu cầu tìm hiểu kiến thức mới. Thí nghiệm mở đầu đòi hỏi
phải hêt sức ngắn gọn và cho kết quả ngay.
o Thí nghiệm nghiên cứu hiện tượng mới
Trong dạy học vật lí, có hai loại thí nghiệm nghiên cứu hiện tượng, đó là thí
nghiệm nghiên cứu khảo sát và thí nghiệm nghiên cứu minh họa.
+ Thí nghiệm nghiên cứu khảo sát là thí nghiệm được tiến hành để thu thập
các số liệu. Trên cơ sở đó phân tích, khái quát hóa…nhằm rút ra kiến thức mới
(khái niệm, định luật…).
+ Thí nghiệm nghiên cứu inh hoạ là thí nghiệm nhằm kiểm chứng những
kiến thức (khái niệm, định luật…) đã được rút ra bằng con đường lí thuyết.
o Thí nghiệm củng cố
Là thí nghiệm được tiến hành vào cuối tiết học nhằm củng cố lại những nội dung
kiến thức đã học. Trên cơ sở tiến hành các thí nghiệm vận dụng, ứng dụng các định
luật vật lí vào trong kĩ thuật và đời sống.
Để thực hiện những TN một cách có hiệu quả, cần chú ý đến những kĩ thuật biểu
diễn TN cơ bản sau:
+ Sắp xếp dụng cụ: Các dụng cụ TN phải được bố trí và sắp xếp sao cho lôi
cuốn được sự chú ý của HS và đảm bảo cho cả lớp quan sát được. Muốn vậy
phải lựa chọn các dụng cụ TN có kích thước đủ lớn và phải sắp xếp những dụng
cụ này trong cùng một mặt phẳng thẳng đứng để chúng không che lấp lẫn nhau.
Những dụng cụ quan trọng phải đặt ở vị trí cao nhất, dụng cụ thứ yếu đặt thấp
hơn và dụng cụ không cần thiết để HS quan sát thì có thể che lấp.
+ Dùng vật chỉ thị: Để tăng cường tính trực quan của các TN ta có thể dùng
các vật chỉ thị, chẳng hạn: Dùng màu pha vào nước; dùng khói trong TN truyền
thảng ánh sáng, hoặc trong TN đối lưu của không khí...
22
+ Dùng các phương tiện hỗ trợ như: Đèn chiếu; Gương phẳng; Video
Camera
1.2.2.2. Thí nghiệm thực tập
a. Đặc điểm của thí nghiệm thực tập
Là loại thí nghiệm do học sinh trực tiếp tiến hành và rút ra kết luận
o Ưu điểm: Phát huy tính độc lập, tự lực, sáng tạo của học sinh trong học tập
vật lí.
o Hạn chế: Đòi hỏi phải trang bị nhiều bộ thí nghiệm, thời gian tiến hành thí
nghiệm dài, giáo viên phải có nhiều kinh nghiệm, kĩ năng trong tổ chức các
tình huống học tập.
b. Phân loại thí nghiệm thực tập
o Thí nghiệm trực diện
Là loại thí nghiệm đơn giản, do học sinh tiến hành dưới sự hướng dẫn của giáo
viên, trên cơ sở đó rút ra kết luận hoặc minh họa cho lí thuyết đã học.
o Thí nghiệm thực hành
Là loại thí nghiệm do học sinh tiến hành sau khi đã học xong một chương hoặc một
phần chương trình và thường được tiến hành sau khi học sinh đã tích lũy đầy đủ kiến
thức và kĩ năng ban đầu qua các thí nghiệm trực diện.
o Thí nghiệm và quan sát ở nhà
Là thí nghiệm do học sinh tiến hành ở nhà, hoàn toàn tự lực không có sự hướng
dẫn của giáo viên. Vì vậy học sinh phải tự mình vạch ra tiến trình thí nghiệm, lựa chọn
dụng cụ thí nghiệm, đo đạc và xử lí số liệu thu được.
Mặc dù phân chia thí nghiệm vật lí thành hai loại trên, nhưng đây không phải là
một công thức cố định. Trong tiến trình dạy học, tùy theo nội dung của bài học, trình
độ nhận thức của học sinh, điều kiện thời gian, điều kiện trang thiết bị thí nghiệm, cơ
sở vật chất trong nhà trường….mà giáo viên sử dụng một cách linh hoạt, hợp lí các
loại thí nghiệm trên để đạt hiệu quả cao nhất.
1.2.3. Các biện pháp sử dụng thí nghiệm nhằm tích cực hoá hoạt động nhận thức
của học sinh
1.2.3.1. Tăng cường sử dụng thí nghiệm để tạo ra tình huống có vấn đề
Tình huống có vấn đề là quy luật của hoạt động nhận thức, sáng tạo có hiệu quả.
Nó quy định sự khởi đầu của tư duy, hành động tư duy tích cực sẽ diễn ra trong quá
trình nêu và giải quyết vấn đề.
Thực tế dạy học cho thấy, việc tạo ra tình huống có vấn đề có thể xây dựng theo
nhiều cách, nhiều biện pháp khác nhau tuỳ vào từng nội dung kiến thức. Một trong
23
những biện pháp đó chính là việc sử dụng TN mở đầu, biện pháp mà lâu nay đa số GV
gần như lãng quên hoặc thực hiện chưa có hiệu quả.
Vật lí là môn khoa học thực nghiệm, do đó việc khai thác các TN nhằm tạo ra tình
huống có vấn đề là một thế mạnh rất cần được phát huy. Sử dụng TN mở đầu để tạo ra
tình huống có vấn đề tạo ra sự hứng thú, thu hút sự chú ý đối với HS, đặt HS vào
những tình huống có vấn đề và làm cho HS tích cực, chủ động trong việc tìm hiểu giải
quyết vấn đề. Khi sử dụng TN trong giai đoạn này, GV cần chú ý phải làm thế nào để
thông qua TN, gây được cho HS sự ngạc nhiên, tạo ra được những sự khó khăn nhất
định về mặt nhận thức đối với vấn đề đặt ra, HS chưa biết cách giải thích hiện tượng,
sự vật, quá trình của thực tế, chưa thể đạt tới mục đích bằng cách thức hành động quen
thuộc. Tình huống này kích thích HS tìm tòi cách giải thích hay hành động mới. Thông
qua TN, HS phải thấy được tại sao những gì các em quan sát được có vẻ khác với
những dự đoán trong suy luận của chính các em, từ đó dần đưa HS vào những bài toán
nhận thức để HS tích cực hoạt động hơn, coi việc giải quyết vấn đề tiếp theo như một
nhiệm vụ mà chính các em tự đặt ra, đồng thời tạo cho các em một niềm vui nhận thức
mới.
1.2.3.2. Sử dụng thí nghiệm đúng lúc để giải quyết vấn đề cụ thể
Ngoài việc sử dụng TN để tạo ra tình huống có vấn đề, TN còn được sử dụng ngay
trong quá trình giải quyết vấn đề.
Thông qua TN, bằng cách quan sát diễn biến của hiện tượng xảy ra, ghi chép số
liệu từ TN, HS có thể thu nhận được một số thông tin nhất định từ những vấn đề đang
học. Dựa trên những thông tin thu được HS có thể sơ bộ dự đoán về tính chất của các
sự vật, về nguyên nhân của hiện tượng … Việc đưa TN ra đúng lúc không những có
tác dụng kiểm tra dự đoán của HS trước một vấn đề đã được nêu ra, mà còn khuyến
khích được HS mạnh dạn đưa ra những suy nghĩ riêng của mình. Khi những dự đoán
suy luận của HS được TN xác nhận là đúng một cách kịp thời thì HS sẽ rất phấn khởi,
tin tưởng hơn vào bản thân, dần khắc phục tâm lí thường gặp ở HS là sự thiếu tự tin
vào bản thân.
1.2.3.3. Kết hợp thí nghiệm biểu diễn của giáo viên và thí nghiệm học sinh để kích
thích hứng thú và rèn luyện kĩ năng cho học sinh
Cả lí luận và thực tiễn dạy học cho thấy, đối với HS phổ thông, bản thân HS không
thể tự sử dụng thành thạo các TN, lắp ráp tiến hành các TN một cách có hiệu quả nếu
không có sự hỗ trợ, hướng dẫn của GV. Khi làm TN không thành công, HS thường tỏ
ra chán nản và mất đi lòng tự tin vào bản thân. Chính vì vậy mà GV cần phải kiên trì,
có kế hoạch tỉ mỉ và vận dụng kết hợp TN của GV và TN của HS để rèn luyện dần
những khả năng tối thiểu mà một HS cần phải đạt được. Điều này đặc biệt quan trọng
24
với HS, làm cho các em có điều kiện tiếp xúc với các dụng cụ đo lường, thiết bị kĩ
thuật thông dụng trong cuộc sống hàng ngày.
Việc kết hợp TN biểu diễn của GV và TN của HS còn tạo ra ở các em một tinh
thần say mê học tập, ham hiểu biết khoa học, tìm tòi nghiên cứu và trên cơ sở đó mới
có thể nảy sinh ra những vấn đề hay, những vấn đề lí thú và bổ ích cho các giờ học vật
lí.
Để việc kết hợp thí nghiệm biểu diễn của giáo viên và thí nghiệm học sinh đạt hiệu
quả, nhằm kích thích tính tích cực của HS, GV không nên chỉ cho HS quan sát kết quả
cuối cùng, trước khi đi đến những kết luận, cần biểu diễn TN sao cho HS thấy được
quá trình vận động của hiện tượng, cần giới thiệu thí nghiệm dưới dạng phân tích, so
sánh, trình bày thí nghiệm như một quá trình nghiên cứu và tổ chức cho HS tham gia
vào quá trình nghiên cứu đó qua một hệ thống các câu hỏi theo hai dạng cơ bản là dự
đoán hiện tượng sẽ xảy ra và giải thích các hiện tượng đã quan sát được.
1.2.3.4. Chú trọng đến việc rèn luyện cho học sinh kĩ năng giải bài tập thí nghiệm
Bài tập TN là loại bài tập đòi hỏi phải làm TN để kiểm chứng lời giải lý thuyết
hoặc để tìm những số liệu cần thiết cho việc giải bài tập.
Bài tập TN có tác dụng tốt về cả ba mặt: giáo dục, giáo dưỡng và giáo dục kĩ thuật
tổng hợp, đặc biệt nó giúp làm sáng tỏ mối quan hệ giữa lí thuyết và thực tiễn. Thông
qua các bài tập TN, có thể rèn luyện tư duy cho HS, nâng cao khả năng độc lập suy
nghĩ, tuy nhiên, để làm được điều này thì kĩ năng TN của HS phải đạt được trình độ
nhất định nào đó.
Cũng cần chú ý rằng, trong các bài tập TN thì TN chỉ cho các số liệu để giải bài
tập, chứ không cho biết tại sao hiện tượng lại xảy ra như thế, cho nên phần vận dụng
các định luật vật lí để lí giải các hiện tượng mới là nội dung chính của bài tập TN.
1.2.3.5. Thảo luận ở lớp về các phương án thiết kế, chế tạo và tiến hành các thí
nghiệm đơn giản nhằm phát huy tính chủ động sáng tạo cho học sinh
Có thể nói rằng, việc thảo luận ở lớp về các phương án thiết kế, chế tạo và tiến
hành các TN đơn giản là công việc cực kì khó khăn và rất khó thực hiện ở các trường
phổ thông trong điều kiện hiện nay. Ngoài những nguyên nhân chủ quan từ phía GV
và HS, thì một nguyên nhân khác rất kho khắc phục là thời gian dành cho việc thảo
luận là khá dài, trong khi đó thời gian của một giờ học vật lí là có hạn. Tuy nhiên, nếu
thực hiện được thì đây quả là một biện pháp hữu hiệu nhất, phát huy được tổng lực của
tất cả các biện pháp nêu trên. Việc trao đổi thảo luận sẽ rèn luyện cho HS khả năng
diễn đạt tư tưởng rõ ràng, lập luận chính xác, học tập được kinh nghiệm của các bạn,
đồng thời phát triển được tư duy sáng tạo về mặt kĩ thuật. Khi các TN được hình thành
từ chính ý tưởng sáng tạo của các em, được làm từ chính bàn tay của các em thì các
25