TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
===***===
TRẦN THỊ MAI
HỆ THỐNG HÌNH ẢNH SO SÁNH
TRONG NHỮNG LỜI CA DAO
CÓ CÙNG MÔ HÌNH CẤU TRÚC
“THÂN EM NHƢ…”
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học dân gian
HÀ NỘI, 2015
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
===***===
TRẦN THỊ MAI
HỆ THỐNG HÌNH ẢNH SO SÁNH
TRONG NHỮNG LỜI CA DAO
CÓ CÙNG MÔ HÌNH CẤU TRÚC
“THÂN EM NHƢ…”
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học dân gian
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
TS. Nguyễn Thị Ngọc Lan
HÀ NỘI, 2015
LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, em xin bày tỏ lòng biết ơn đến TS. Nguyễn Thị Ngọc Lan người trực tiếp hướng dẫn đã luôn tận tình chỉ bảo và tạo mọi điều kiện trong
suốt quá trình thực hiện khóa luận tốt nghiệp.
Đồng thời, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến những thầy cô trong khoa
Ngữ văn và các thầy cô tổ Văn học Việt Nam trong suốt bốn năm qua đã trang bị
những kiến thức giúp em hoàn thành tốt công việc.
Cuối cùng, người viết xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy cô
giáo, các bạn sinh viên đã giúp đỡ, chỉ bảo tận tình cũng như tạo mọi điều kiện
để người viết hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này.
Hà Nội, ngày 10 tháng 4 năm 2015
Tác giả khóa luận
Trần Thị Mai
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những nội dung mà tôi trình bày trong khóa luận tốt
nghiệp này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn, chỉ bảo tận
tình của TS. Nguyễn Thị Ngọc Lan.
Tôi xin chịu trách nhiệm về kết quả nghiên cứu của tôi trong khóa luận này.
Hà Nội, ngày 10 tháng 4 năm 2015
Tác giả khóa luận
Trần Thị Mai
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................ 3
3. Mục đích nghiên cứu.................................................................................. 5
4. Phạm vi nghiên cứu.................................................................................... 6
5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................... 6
6. Đóng góp của khóa luận ............................................................................ 7
7. Cấu trúc khóa luận ..................................................................................... 7
NỘI DUNG ....................................................................................................... 8
Chương 1. GIỚI THUYẾT CHUNG VỀ NGHỆ THUẬT SO SÁNH ............. 8
TRONG CA DAO TRỮ TÌNH NGƯỜI VIỆT................................................. 8
1.1. Khái niệm “nghệ thuật so sánh”.............................................................. 8
1.2. Các mô hình so sánh ............................................................................... 9
1.2.1. So sánh bằng (205/1467 lần, chiếm 14,0%) ..................................... 9
1.2.2. So sánh không ngang bằng (73/1467 lần, chiếm 5%) .................... 17
1.3. Cấu trúc so sánh .................................................................................... 20
1.3.1. So sánh trực tiếp (so sánh nổi) ........................................................ 20
1.3.2. So sánh gián tiếp (so sánh chìm) .................................................... 23
1.4. Vai trò, ý nghĩa của so sánh .................................................................. 24
Chương 2. SỰ HIỆN DIỆN VÀ Ý NGHĨA BIỂU ĐẠT CỦA HÌNH ẢNH SO
SÁNH TRONG NHỮNG LỜI CA DAO CÓ CÙNG MÔ HÌNH CẤU TRÚC
“THÂN EM NHƯ…” ..................................................................................... 26
2.1. Sự hiện diện của hình ảnh so sánh ........................................................ 26
2.1.1. Khảo sát tư liệu ............................................................................... 26
2.1.2. Kết quả khảo sát .............................................................................. 29
2.2. Ý nghĩa biểu đạt của các hình ảnh so sánh ........................................... 32
2.2.1. Hình ảnh “thân em” đẹp đẽ, sang trọng .......................................... 32
2.2.2. Hình ảnh “thân em như” thấp hèn, kém giá trị ............................... 37
2.2.3. Hình ảnh “thân em” phụ thuộc, trôi nổi.......................................... 39
2.2.4. Hình ảnh “thân em” đau đớn, buồn tủi ........................................... 46
2.2.5. Hình ảnh “thân em”ngang tàng, thách thức .................................... 52
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 57
TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn học là loại hình nghệ thuật đặc biệt so với các loại hình nghệ thuật
khác. Một tác phẩm văn chương có giá trị phải xây dựng được hình tượng nghệ
thuật đặc sắc và vì thế người nghệ sĩ phải tìm đến các biện pháp tu từ nghệ thuật
như một lẽ tất yếu. Đồng thời, đời sống tình cảm vốn trừu tượng của con người
được phản ánh một cách rõ nét hơn. Trong đó, nghệ thuật so sánh được sử dụng
với tần số cao và mang nhiều giá trị nghệ thuật. Ca dao là một bộ phận của loại
hình nghệ thuật đặc biệt ấy. Vì vậy, nghệ thuật so sánh cũng được sử dụng rất
nhiều trong ca dao. Ca dao là mạch nguồn nuôi dưỡng văn học ngàn đời của mỗi
dân tộc. Muôn mặt của đời sống với những nốt trầm bổng trong cuộc sống tinh
thần của người Việt đều được ca dao phản ánh. Ca dao được ví là “thơ của vạn
nhà” nó phản ánh toàn bộ cuộc sống của nhân dân trong đó nghiêng nhiều về đời
sống tình cảm. Bên cạnh những lời ca dao yêu thương tình nghĩa với những lời
ca ngọt ngào, mặn nồng của “vũ trụ tình” còn có những nốt lặng thể hiện nỗi xót
xa của con người sống dưới xã hội phong kiến hà khắc. Sắc thái tình cảm ấy
được thể hiện cụ thể qua ca dao than thân người Việt nói riêng và ca dao than
thân Việt Nam nói chung. Đã là đời sống tinh thần thì luôn tồn tại những điều
khó diễn đạt với những khái niệm trừu tượng và để cụ thể nó người nghệ sĩ dân
gian đã sử dụng những hình ảnh so sánh. Vì thế, hệ thống hình ảnh so sánh trong
những nhóm lời ca dao có cùng mô hình cấu trúc “Thân em như…” là một đề tài
còn nhiều “đất” để khám phá, cần được khai thác tìm hiểu chuyên sâu hơn. Đó là
một trong những lí do để chúng tôi lựa chọn đề tài này để tiến hành nghiên cứu.
Đồng thời, chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này.
Xuất phát từ thực tiễn ấy, người viết muốn đi sâu vào khám phá, khai thác ý nghĩa,
vẻ đẹp những hình ảnh so sánh trong ca dao than thân người Việt. Người viết
muốn từ phạm vi ca dao than thân để dần đi đến cái nhìn tổng quát hơn về ca dao.
1
Trong hệ thống thể loại văn học dân gian, ca dao có tỉ lệ tương đối lớn được
đưa vào giảng dạy trong chương trình giáo dục phổ thông, trong đó ca dao than
thân, có 4 bài (Ngữ Văn lớp 7) và 2 bài (Ngữ Văn 10). Những bài ca này được
biết đến với mô hình cấu trúc quen thuộc “Thân em như”. Nghiên cứu đề tài này
sẽ phần nào hỗ trợ tích cực cho công việc giảng dạy sau này ở trường phổ thông
và bồi đắp những kiến thức mới về ca dao cho bản thân người viết. Đồng thời,
việc tìm hiểu hình ảnh so sánh trong những câu ca dao có cùng mô hình “Thân
em như…” trong ca dao người Việt là cơ hội tiếp xúc nhiều hơn với nền văn học
dân tộc. Ta có thể tìm hiểu thêm về những giá trị văn học, tài năng nghệ thuật
của người nghệ sĩ dân gian với những sáng tạo độc đáo. Từ đó có ý thức bảo tồn,
phát huy các giá trị văn học.
Bản thân là sinh viên năm cuối chuyên ngành văn, phải tiếp cận tác phẩm
văn chương trong đó có ca dao và ý thức được tầm quan trọng của việc tiếp nhận
tác phẩm từ góc độ nghệ thuật (trong đó có nghệ thuật so sánh). Vì vậy, người
viết lựa chọn đề tài này nhằm mục đích tăng khả năng tiếp nhận tác phẩm và trau
dồi kiến thức chuyên môn cho công tác giảng dạy thực tế sau này.
Đồng thời, đây cũng là cơ hội để người viết bước đầu làm quen tư duy
nghiên cứu khoa học và bồi dưỡng kiến thức văn học dân gian. Vì vậy, chúng tôi
lựa chọn Hệ thống hình ảnh so sánh trong những lời ca dao có cùng mô hình
cấu trúc: “Thân em nhƣ…” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
Một lí do nữa, chính là xuất phát từ sự yêu thích của bản thân với những lời
ca dao của người Việt nói riêng và ca dao dân tộc nói chung. Những lời ca dao
đã ăn sâu vào tâm thức qua lời ru của mẹ, câu ca của bà và những bài ca dao gắn
với tuổi học trò qua trang vở nhỏ. Với đề tài này, người nghiên cứu đi khám phá
ca dao người Việt trên phương diện nghệ thuật và nội dung qua những hình ảnh
so sánh độc đáo. Từ đó, hy vọng đóng góp một phần nhỏ vào việc tìm hiểu giá trị
biểu đạt của những hình ảnh so sánh trong ca dao.
2
2. Lịch sử vấn đề
Nghệ thuật so sánh được sử dụng với tỉ lệ khá cao trong ca dao vì thế hình
ảnh so sánh cũng có tần số xuất hiện khá nhiều so với những hình ảnh ẩn dụ,
hoán dụ, nhân hóa…Tác giả dân gian với tâm hồn tinh tế và tài năng điêu luyện
đã tạo ra những hình ảnh so sánh độc đáo giàu giá trị gợi hình và biểu cảm.
Năm 1972, trong cuốn Văn học dân gian của Đinh Gia Khánh, Chu Xuân
Diên viết “những liên từ như là, như thể hay giống như...hay được sử dụng để
thể hiện mối quan hệ về hình ảnh giữa chủ thể sự vật với những sự vật, hiện
tượng tự nhiên được sử dụng làm đối tượng so sánh”. Đó là lời nhận xét mang
tính tổng quát cho ca dao dân tộc (ca dao người Việt và ca dao dân tộc thiểu số).
Năm 1978, cuốn Tục ngữ ca dao Việt Nam của Vũ Ngọc Phan viết về tác
dụng của so sánh “làm cho lời thêm ý nhị, tình tứ và thắm thiết”. Tác giả đã đi
sâu vào chứng minh, phân tích những hiệu quả tu từ nghệ thuật của so sánh một
cách sâu sắc trong việc truyền tải thế giới nội tâm của con người vốn phức tạp.
Đồng thời vào năm 1978, Bùi Xuân Nguyên trong cuốn Lịch sử văn học
Việt Nam (tập 1, phần 2) cũng nhắc tới so sánh như là một biện pháp nghệ thuật
của ca dao nhưng chưa đi sâu phân tích biện pháp tu từ này trong ca dao. Hai tác
giả đều đưa đến một nhận xét chung: “thể tỷ là cách so sánh, ví von, là phương
thức diễn đạt thông thường của nhân dân qua hình tượng ca dao” [9, 22]. Qua
đó khiến những lời ca dao trở lên giàu hình ảnh và giá trị biểu cảm hơn. Điều đó
được thể hiện cụ thể trong mảng ca dao trữ tình người Việt.
Năm 1995, với cuốn sách Phân tích tác phẩm văn học dân gian của GS.
Đỗ Bình Trị có viết “chất liệu so sánh chẳng lấy đâu xa mà chủ yếu là cảnh vật
thiên nhiên làng quê và những vật gần gũi trong lao động và sinh hoạt hàng
ngày”, “hình ảnh so sánh thường giản dị mà giàu sức gợi cảm vì nó tạo âm vang
trong lòng người, được người ta góp phần đẩy sức gợi cảm của nó đi xa, sâu
hơn trong miền kí ức” [15, 50].
3
Năm 1999, trong cuốn Những đặc điểm thi pháp của loại hình nghệ
thuật dân gian của GS. Đỗ Bình Trị cũng chú ý nghiên cứu đến “hệ thống hình
ảnh trong ca dao”, “đặc biệt là những hình ảnh so sánh” [16, 214].
Năm 2000, Triều Nguyên với cuốn Bình giảng ca dao đã đi sâu vào nghiên
cứu ý nghĩa biểu đạt của những hình ảnh so sánh và mỗi mô hình như vậy đều
mang sắc thái riêng. Tác giả tiến hành khảo sát, thống kê các bài ca dao có cùng
mô hình cấu trúc: “Thân em như…” trong sách Văn học 10 và sách Văn học 10
phân ban. Song chùm ca dao trong chương trình 10 phổ thông cũ, chỉ là một nét
của diện mạo, một phần trong tâm lí của người phụ nữ . Vì vậy, những bài ca
dao trong chương trình Văn học này chưa đủ làm căn cứ để đưa ra nhận xét khái
quát về thân phận người phụ nữ (trong xã hội xưa). Cho nên, tác giả đã tiến hành
khảo sát hình ảnh so sánh trên 85 câu ca dao (không tính số bài mở đầu bằng:
“Em như…”, “Thiếp như…”) và chia hình ảnh so sánh thành 9 mô hình cơ bản
để có cái nhìn toàn diện và chính xác hơn. Đồng thời, năm 2000 trên tạp chí
Ngôn ngữ và đời sống có bài nghiên cứu của TS. Nguyễn Văn Nở với tựa đề:
“Hình ảnh “Thân em…” trong ca dao trữ tình đồng bằng sông Cửu Long”. Với
bài viết này, tác giả nhắc đến cấu trúc đầy đủ của phép so sánh, đi sâu vào phân
tích ba hình ảnh so sánh đặc trưng trong ca dao đồng bằng sông Cửu Long (cá rô
mề, bèo, trái bần) và đưa ra nhận xét về sự phong phú của hình ảnh so sánh ba
miền trong biểu hiện thân phận người phụ nữ. Qua đó, ta có thêm tư liệu để tiến
hành đi sâu tìm hiểu hệ thống hình ảnh trong những nhóm lời ca dao có cùng mô
hình cấu trúc “Thân em như…”
Năm 2005, Lữ Huy Nguyên, Trần Thị An với Ca dao trữ tình chọn lọc đã
đề cập đến so sánh trực tiếp và so sánh gián tiếp. Các tác giả cho rằng so sánh
trực tiếp (tỉ dụ) bằng các từ “như”, “như thể”,… để so sánh vật này với vật kia;
so sánh gián tiếp là ẩn dụ.
Năm 2007, đề tài khoa học cấp cơ sở của tác giả Nguyễn Thị Ngọc Lan có
tên: Nghệ thuật so sánh với việc khắc họa nhân vật trữ tình trong ca dao.
4
Tác giả đã đi tìm hiểu những mô hình phổ biến trong ca dao của người Việt và
những bài ca dao các dân tộc thiểu số. Hơn nữa, tác giả không chỉ dừng ở việc
tìm hiểu các mô hình ấy mà còn đi sâu vào phân tích hiệu quả của so sánh trong
việc xây dựng nhân vật trữ tình. Điều đó cho thấy, tác giả đã nghiên cứu trên cả
hai bình diện nghệ thuật và nội dung. Trên cơ sở ấy, chúng tôi có những tiền đề
định hướng nghiên cứu đúng đắn hơn.
Năm 2009, tác giả Nguyễn Thị Ngọc Lan có bài viết trên tạp chí khoa học,
trường ĐHSP Hà Nội: Nghệ thuật so sánh trong ca dao dân ca một số dân tộc
vùng núi phía Bắc và Tây Nguyên. Trong bài viết này, người viết đi vào phân
tích giá trị của nghệ thuật so sánh với việc khắc họa nhân vật trên hai phương
diện là ngoại hình và nội tâm. Đây cũng là một trong những tài liệu quan trọng
trong việc tìm hiểu đề tài của chúng tôi.
Nhìn lại toàn thể bộ lịch sử nghiên cứu về vấn đề này, có thể thấy nghệ
thuật so sánh được quan tâm nghiên cứu trong nhiều công trình song chưa có
công trình nào tập trung vào khai thác hệ thống hình ảnh trong những lời ca dao
mở đầu bằng mô hình “Thân em như…”. Vì vậy, đề tài này còn là một “mảnh
đất” cần được khai thác nghiên cứu chuyên sâu hơn. Trên cơ sở kế thừa những
thành tựu của các công trình nghiên cứu trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề
tài này nhằm khám phá cái hay, cái đẹp những hình ảnh so sánh trong những lời
ca dao có cùng mô hình cấu trúc “Thân em như…”. Qua đó khám phá phần nào
đời sống tâm tư, tình cảm của kiếp người trót sinh ra làm phận gái.
3. Mục đích nghiên cứu
- Chứng minh sự phong phú của hình ảnh so sánh trong ca dao than thân
người Việt với việc thể hiện nội dung tư tưởng tình cảm. Đồng thời, thấy được
tài năng nghệ thuật và sự liên tưởng phong phú của người nghệ sĩ dân gian. Bên
cạnh đó thấy được cấu tạo của các phép so sánh trong ca dao, đi sâu nghiên cứu
hệ thống hình ảnh so sánh trong ca dao nhằm tiếp cận tác phẩm dân gian từ góc
độ nghệ thuật.
5
- Tìm hiểu dấu ấn văn hóa người Việt được thể hiện và lưu giữ ở các phép so
sánh trong ca dao trữ tình Việt Nam. Đồng thời, ca dao chính là nơi biểu hiện rõ tài
năng nghệ thuật của người nghệ sĩ dân gian thẩm mĩ văn hóa và tư duy của dân tộc
nên thông qua việc nghiên cứu này sẽ góp phần hiểu thêm những điều ấy.
4. Phạm vi nghiên cứu
4.1. Tư liệu
- Để phục vụ cho việc nghiên cứu, chúng tôi tập trung tiến hành khảo sát
một số tư liệu sau:
- Kho tàng ca dao người Việt (Nguyễn Xuân Kính, Phan Đăng Nhật, NXB
Văn hóa thông tin, 1995)
- Tuyển tập Văn học dân gian Việt Nam, quyển IV phần ca dao (Tập thể
tác giả Viện văn học, NXBGD, 2001) và tập hợp những bài ca dao tương tự.
- Tục ngữ ca dao Việt Nam (Vũ Ngọc Phan - NXB Văn học, 2004)
4.2. Nội dung
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, 2 trang tài liệu tham khảo và 2 trang
phụ lục, luận văn gồm hai chương (44 trang chính văn) chủ yếu đi sâu vào
nghiên cứu hệ thống so sánh trong những lời ca dao có cùng mô hình cấu trúc
“Thân em như…” của người Việt:
- Khảo sát, thống kê hệ thống hình ảnh so sánh trong ca dao than thân
người Việt.
- Khám phá ý nghĩa biểu đạt của những hình ảnh so sánh ấy và khả năng
sử dụng ngôn ngữ điêu luyện của tác giả dân gian.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Những phương pháp chủ yếu:
- Phương pháp tiếp cận hệ thống, thống kê những câu ca dao có cùng mô
hình cấu trúc “Thân em như…” có sử dụng hình ảnh so sánh.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu để phát hiện ra nét riêng độc đáo của các
hình ảnh so sánh. Vận dụng kiến thức liên ngành: ngôn ngữ - văn học - văn hóa và
phân tích văn bản để đi sâu vào tìm hiểu giá trị nghệ thuật của biện pháp so sánh.
6
- Các phương pháp cơ bản: quy nạp, diễn dịch,…để xử lí các hình ảnh so
sánh, ngữ liệu.
6. Đóng góp của khóa luận
6.1. Về mặt lí luận
- Đóng góp thêm nguồn tư liệu và những kiến thức về hình ảnh so sánh
trong ca dao than thân người Việt. Hình ảnh so sánh trong ca dao người Việt là
đề tài hay cần được quan tâm nghiên cứu sâu hơn. Tư duy văn hóa của người
Việt, nếp cảm nếp nghĩ in bóng vào văn học được thể hiện qua những hình ảnh
so sánh.
- Về mặt lí luận, phép so sánh trong ca dao mở đầu có cùng mô hình “Thân
em như…” được nghiên cứu một cách tương đối đầy đủ.
- Về mặt thực tiễn, có giá trị thiết thực cho những ai nghiên cứu, học tập và
giảng dạy ca dao trữ tình.
6.2. Về mặt thực tiễn
Việc tìm hiểu và nghiên cứu: Hệ thống hình ảnh so sánh trong những nhóm
lời ca dao có cùng mô hình cấu trúc “Thân em như…” góp phần nâng cao kiến
thức về văn học dân gian và có thể áp dụng vào việc giảng dạy ca dao trong nhà
trường phổ thông.
7. Cấu trúc khóa luận
Chương 1. Giới thuyết chung về nghệ thuật so sánh trong ca dao trữ tình
người Việt
Chương 2. Sự hiện diện và ý nghĩa biểu đạt của hình ảnh so sánh trong
những nhóm lời ca dao có mô hình cấu trúc “Thân em như…”
7
NỘI DUNG
Chƣơng 1. GIỚI THUYẾT CHUNG VỀ NGHỆ THUẬT SO SÁNH
TRONG CA DAO TRỮ TÌNH NGƢỜI VIỆT
1.1. Khái niệm “nghệ thuật so sánh”
Người nghệ sĩ dân gian khi sáng tạo các hình ảnh nghệ thuật trong ca dao
thường sử dụng nhiều biện pháp tu từ trong đó so sánh là một trong những biện
pháp nghệ thuật được sử dụng nhiều nhất. Bàn về nghệ thuật so sánh nói chung
và nghệ thuật so sánh trong ca dao trữ tình người Việt có nhiều ý kiến khác
nhau. Dưới đây là một vài định nghĩa về biện pháp tu từ so sánh:
Tác giả Đinh Trọng Lạc: “So sánh là phương thức diễn đạt tu từ khi đem sự
vật này đối chiếu với sự vật khác miễn là giữa hai sự vật có nét tương đồng nào
đó để gợi ra những hình ảnh cụ thể, những cảm xúc thẩm mỹ trong nhận thức
của người đọc, người nghe”.
Nguyễn Thái Hòa: “So sánh là biện pháp tu từ ngữ nghĩa trong đó người ta
đối chiếu hai đối tượng khác loại của thực tế khách quan không đồng nhất với
nhau hoàn toàn mà chỉ có một nét riêng giống nhau nào đó nhằm diễn đạt bằng
hình ảnh một lối tri giác mới mẻ về hiện tượng”
Hồng Dân: “Nếu liên tưởng đến nét giống nhau giữa hai đối tượng được
nêu ra một cách công khai, ta có phép so sánh”
Nguyễn Thế Linh: “So sánh là đưa ra một vật ra xem xét sự giống nhau,
khác nhau, sự hơn kém về một phương diện với vật khác được xem là chuẩn, có
thể không phải là một mà là nhiều sự vật, nhiều thuộc tính được so sánh”
Đào Thản: “So sánh là lối đối chiếu hai sự vật hoặc hai hiện tượng có một
hay nhiều dấu hiệu giống nhau về hình thức bên ngoài và tính chất bên trong.
Lối đối chiếu như vậy được dùng với mục đích giải thích, miêu tả, đánh giá và
biểu lộ tình cảm về đối tượng được nói đến”
Trong mảng ca dao trữ tình của người Việt đây là biện pháp nghệ thuật
được sử dụng với tần xuất cao và là phương tiện đắc lực để người nghệ sĩ dân
8
gian thể hiện thế giới tình cảm đa sắc thái của con người. Dưới đây là một số mô
hình và cấu trúc so sánh được sử dụng nhiều trong mảng ca dao trữ tình của
người Việt.
1.2. Các mô hình so sánh
So sánh là một trong những biện pháp tu từ được sử dụng nhiều trong văn
học dân gian nói chung và ca dao nói riêng. Nó được định nghĩa: “so sánh là
phương thức diễn đạt tu từ khi đem sự vật này đối chiếu với sự vật khác, miễn là
hai sự vật có nét tương đồng nào đó để gợi ra hình ảnh cụ thể những cảm xúc
thẩm mĩ trong nhận thức người đọc, người nghe”. Với một phép so sánh đúng
đắn bao giờ cũng có hai điều kiện bắt buộc. Đó là: đối tượng so sánh là khác
loại, giữa hai đối tượng phải có nét tương đồng làm cơ sở so sánh. Đã là so sánh
thì bao giờ cũng có hai vế A và B là hai đối tượng khác phạm trù và giữa chúng
luôn có công cụ so sánh. Mô hình cấu tạo chung: AxB (x: là từ so sánh). Có
nhiều mô hình so sánh khác nhau: so sánh tuyệt đối, so sánh đặc biệt,… Từ cơ sở
lý thuyết đó, chúng tôi bước đầu nhận diện các mô hình so sánh trong ca dao trữ
tình người Việt. Do không đủ điều kiện tìm hiểu và dung lượng khóa luận tôi chỉ
khảo sát một số mô hình so sánh tiêu biểu. Dưới đây là hai mô hình so sánh cơ
bản xuất hiện nhiều trong ca dao trữ tình.
1.2.1. So sánh bằng (205/1467 lần, chiếm 14,0%)
So sánh bằng là cách thức so sánh phổ biến nhất được sử dụng trong ca dao
than thân. Với so sánh cân bằng, hai đối tượng được đem ra so sánh có đặc điểm
tương đồng, chúng được nối với nhau bằng các quan hệ từ như: như, như thể,
giống như, tựa như… Song trong những ngữ cảnh khác nhau mô hình ấy có sự
thay đổi linh hoạt. Đây là mô hình so sánh được sử dụng với tần xuất cao nhất
trong ca dao trữ tình nói chung và ca dao trữ tình người Việt nói riêng.
1.2.1.1. Mô hình: A như B
Mô hình này sử dụng các quan hệ từ so sánh: như, giống như, tựa như, như
là, như thể... Những từ ấy được sử dụng để thể hiện mối tương quan về mặt hình
ảnh giữa chủ thể với những sự vật, hiện tượng tự nhiên được dùng để so sánh.
9
Ví dụ:
“Thân em như cánh buồm trước gió
Nay đây mai đó thật khó làm sao” [1, 686]
Câu ca dao trên, hai vế A (thân em) và vế B (cánh buồm trước gió) được
nối kết bằng quan hệ từ (như) và nét đặc điểm tương đồng giữa A và B được làm
rõ qua cơ sở so sánh (nay đây mai đó). Câu ca dao với mô hình so sánh đó thể
hiện nỗi xót xa, đau đớn của người con gái khi nghĩ về thân phận mình. Đó là nỗi
hoang mang, lo lắng của cô gái về số phận vô định, mù mịt, đầy bất trắc của
mình. Mặc dù vậy, giữa hai vế có đôi khi vẫn liên kết với nhau bằng những quan
hệ từ nhưng giấu đi cơ sở so sánh:
“Thân em như trái bầu trên cây
Đang tay mẹ ngắt những ngày còn non”
Với câu ca dao trên, ta nhận thấy giữa hai vế A (thân em) và vế B (trái bần
trên cây) được nối kết bằng quan hệ từ (như) nhưng cơ sở so sánh được giấu đi,
song không phải vì thế mà ý nghĩa của câu ca dao trở nên khó hiểu. Ngược lại,
người đọc có thể “đọc ra” ý nghĩa khái quát của câu ca dao một cách dễ dàng.
Đó là nỗi niềm của cô gái về thân phận phụ thuộc vào người khác, không làm
chủ được số phận của mình. Với những bài ca dao về tình cảm gia đình, ta cũng
thấy nhiều hình ảnh so sánh được sử dụng với mô hình cấu trúc này:
“Yêu nhau như thể tay chân
Anh em hòa thuận, hai thân vui vầy” [1, 180]
Hay:
“Công cha như ngọc, nghĩa mẹ như vàng
Đạo làm con chưa trả, huống chi chàng người dưng” [1, 279]
Mô hình so sánh này xuất hiện với tần số dày đặc trong ca dao trữ tình người
Việt, đặc biệt là mảng ca dao trữ tình gắn với tình cảm lứa đôi vốn đa sắc thái:
“Đêm qua mới thực là đêm
Ruột xót như muối, dạ mềm như dưa
10
Mong chàng như cá mong mưa
Nhớ chàng như bữa cơm chưa đói lòng” [1, 385]
Nỗi nhớ người yêu được cụ thể hóa bằng những hình ảnh so sánh cụ thể
khiến người đọc dễ dàng cảm nhận, thấu hiểu những nỗi niềm của người con gái
trong tình yêu. Tác giả dân gian đã sử dụng mô hình so sánh này một cách triệt
để trong việc thể hiện sợi tơ lòng muôn điệu của con người. Đó có khi là những
nốt nhạc vui tươi khi hạnh phúc lứa đôi hòa hợp:
“Chàng mười lăm, thiếp mười lăm
Chàng như con bướm bạch, thiếp như trăng rằm”
Vế A là “chàng, thiếp” và B là “bướm bạch, trăng rằm” được nối kết với
nhau bằng quan hệ từ so sánh. Qua đó, sự xứng đôi được thể hiện sinh động với
những hình ảnh tự nhiên được sử dụng làm chất liệu so sánh. Đó đều là những sự
vật, hiện tượng đẹp đẽ của tạo hóa. Song cũng có khi những hình ảnh so sánh lại
được người nghệ sĩ dân gian sử dụng để truyền tải những nỗi đắng cay trong
cuộc đời con người:
“Đừng đi trang trại mà hư
Ở nhà với dượng cũng như đi lấy chồng
Đêm khuya dượng thắp đèn lồng
Dượng vây mùng lại, dượng bồng cháu lên” [1, 395]
Tương tự:
“Đi đâu gánh gánh gồng gồng
Gánh gạo cho chồng nước mắt như mưa” [1, 365]
Những hình ảnh so sánh mộc mạc cùng với mô hình so sánh này đã cụ thể
hóa những cảm xúc trừu tượng thành hình ảnh sống động giàu sức gợi hình và
gợi cảm. Hay hai đối tượng trong quan hệ tương đồng:
“Tình anh như nước dâng cao
Tình em như dải lụa đào tẩm hương”
Câu ca dao thể hiện tình yêu của “anh và em” đều da diết nhưng cách thể
hiện của mỗi người lại mang nét riêng khác biệt. Tình cảm của “anh” được so
11
sánh với “nước dâng cao” đầy chủ động, bồng bột, mạnh mẽ còn “tình em” dịu
dàng kín đáo nhưng cũng thắm thiết, nồng nàn chẳng kém “lụa đào tẩm hương”.
Song cũng có thể là hai đối tượng trong quan hệ đối nghịch:
“Anh như chỉ gấm thêu cờ
Em như rau má mọc bờ giếng khơi” [1, 196]
1.2.1.2. Mô hình: A như B1, B2, B3…
So với các mô hình so sánh khác đây là một trong những mô hình xuất hiện
khá nhiều trong ca dao trữ tình người Việt chỉ sau mô hình A như B. Ở dạng so
sánh này, một vế A có thể so sánh với hai hay nhiều vế B nhằm mục đích nhấn
mạnh một đặc điểm hay một trạng thái cảm xúc nào đó:
“Bây giờ em đã có chồng
Như chim vào lồng
Như cá cắn câu
Cá cắn câu biết đâu mà gỡ
Chim vào lồng biết thuở nào ra”
Nỗi nhớ trong tình yêu là nỗi nhớ da diết, thường trực tuôn trào như những
đợt sóng không ngừng cho nên để diễn tả trạng thái ấy tác giả dân gian sử dụng
những hình ảnh so sánh nối tiếp. Những con sóng lòng vốn trừu tượng nay được
cụ thể hóa bằng những chuỗi hình ảnh so sánh cụ thể:
“Nhớ chàng như bút nhớ nghiên
Như mực chờ giấy, như thuyền nhớ sông
Nhớ chàng như vợ nhớ chồng
Như chim nhớ tổ, như rồng nhớ mây”
Tình cảm con người vốn là thứ trừu tượng khó diễn tả thành lời nhưng qua
cách so sánh ví von, tác giả dân gian đã cụ thể hóa nỗi nhớ mong ấy. Vế A là nỗi
nhớ chàng còn vế B là nỗi nhớ của bút - nghiên, mực - giấy, thuyền - sông, vợ chồng, chim - tổ, rồng - mây. Đó là những hiện tượng trong tự nhiên, đời sống
luôn gắn kết chặt chẽ với nhau như hình với bóng qua đó thể hiện nỗi nhớ da diết
12
của người con gái trong tình yêu. Nỗi nhớ ấy cồn cào và luôn hiện hữu từng giờ,
từng phút. Tâm trạng ấy, ta cũng thấy nhiều trong kho tàng ca dao:
“Nhớ ai bồi hổi bồi hồi
Như đứng đống rạ như ngồi đống rơm”
Phải chăng đó là nỗi nhớ của đôi ta khi tình yêu vừa chớm nở:
“Đôi ta như chỉ mới xe
Như trăng mới mọc, như đèn mới khêu” [1, 408]
Ở đây, ta lại bắt gặp mô hình so sánh với một chuỗi những hình ảnh so sánh
được liệt kê nối tiếp qua đại từ quan hệ “như”. Có khi đó không còn là tình cảm
từ một phía mà xuất phát từ hai phía:
“Đôi ta thương mãi nhớ lâu
Như sông nhớ nước, như dâu nhớ tằm” [1, 374]
Nỗi nhớ của người con gái không chỉ thường trực hiện hữu từng khắc từng
giờ mà còn là nỗi nhớ trải dài theo không gian và thời gian “thương mãi nhớ
lâu”. Tình cảm của lứa đôi không chỉ nồng nàn mà còn sâu sắc để rồi vượt qua
cả cái hữu hạn của đời người. Tình cảm lứa đôi của “đôi ta” (vế A) được so sánh
với những hiện tượng tự nhiên (vế B). Đó là “sông, nước” những sự vật vô thủy
vô chung trường tồn cùng thời gian bất chấp sự xoay vần nghiệt ngã của con tạo
và “dâu, tằm” luôn gắn kết gắn mật thiết không tách rời. Với nghệ thuật so sánh
sử dụng những chuỗi so sánh liên tiếp như thế đã góp phần nhấn mạnh tình cảm
của đôi lứa. Đồng thời, khiến bạn đọc cảm nhận rõ nét hơn sự sâu đậm bền chặt
của tình cảm của “đôi ta”.
1.2.1.3. Mô hình: A ( khuyết x) B
Mô hình này, ta thấy chỉ xuất hiện hai vế A và B mà không xuất hiện quan
hệ từ so sánh. Mô hình so sánh này dễ bị nhầm lẫn với ẩn dụ song sự khác biệt
để nhận ra đây là mô hình so sánh chính là chủ thể chưa ẩn đi hoàn toàn:
“Đất bờ sông bên lở bên bồi
Người cõi trần có dở có hay
13
Dầu ai đem bụng chẳng ngay
Anh nguyền một dạ như ngày tơ gieo” [1, 380]
Câu ca dao xuất hiện hai mô hình so sánh. Đó là mô hình so sánh: A
(khuyết x) B và A như B nhưng ở đây ta chỉ đi phân tích mô hình so sánh thứ
nhất A (khuyết x) B. Vế A là “đất bờ sông” còn B chính là “người cõi trần” với
sự vắng mặt của quan hệ từ so sánh. Tuy nhiên, người đọc vẫn có thể hiểu ý tứ
mà tác giả dân gian muốn truyền đạt. Câu ca dao so sánh con người cũng như đất
bờ sông kia luôn tồn tại hai mặt đối nghịch “lở, bồi”, “dở, hay”. Đó là quy luật
của tự nhiên và cũng là quy luật của tạo hóa vốn vô thường luôn tồn tại những
điều bất ngờ. Trong tình cảm, người bình dân vốn ưa những gì mộc mạc, bình dị
nên khi đi vào thơ ca nếp cảm nếp nghĩ ấy cũng in dấu sâu sắc. Nhưng không vì
sự mộc mạc thẳng thắn trong tư duy mà hình ảnh thơ ca mất đi sự tế nhị, kín đáo:
“Cây đứng giữa đồng gió thổi lồng còn ngã
Mình thương mình khoan đã mình ơi” [1, 250]
Bên cạnh, lối tư duy rõ ràng không ưa lối nói vòng vo thì người bình dân
vẫn giữ cho mình sự tế nhị cần thiết, nhất là trong chuyện tình cảm vốn nhạy
cảm. Câu ca dao sử dụng mô hình so sánh khuyết quan hệ từ, chỉ tồn tại hai vế A
và B. Câu ca dao xuất hiện ba từ “mình”, từ mình thứ nhất và thứ ba chính là đối
tượng trữ tình (đối tượng được gửi gắm những nỗi niềm), còn từ “mình” xuất
hiện giữa câu chính là chủ thể trữ tình (đối tượng gửi gắm tâm tình). Vế A nêu
lên một hiện tượng tự nhiên hiển nhiên để thể hiện lẽ tất nhiên trong tình cảm
của nhân vật trữ tình trong vế B. Đó là nỗi lòng với những tâm tư thầm kín được
gửi gắm một cách đầy khéo léo tới “mình”. Nhân vật trữ tình muốn nhắn gửi tới
“mình” (đối tượng trữ tình) về sự nồng nàn, mãnh liệt có phần thái quá trong tình
cảm có thể khiến tình yêu tan vỡ. Mô hình so sánh khuyết này cũng được sử
dụng rất nhiều trong ca dao để thể hiện những nỗi niềm với sức gợi tả cao:
“Bướm xa hoa bướm khô hoa tỏ
Liễu xa đào liễu ngẩn đào ngây
Đôi ta tình nặng nghĩa dày” [1, 235]
14
Đôi khi, người ta cũng sử dụng mô hình so sánh này để chuyên chở những
đạo lí, quy luật sống ở đời :
“Cá lên khỏi nước cá khô
Làm thân con gái lõa lồ ai khen” [1, 243]
“Cha mẹ nuôi con biển hồ lai láng
Con nuôi mẹ tính từng tháng từng ngày” [1, 251]
“Cha mẹ nuôi con ở chốn buồng the
Con nuôi cha mẹ đầu hè, đầu chái” [1, 251]
Cách so sánh của người nghệ sĩ dân gian với mô hình so sánh khuyết như
lời nhắc nhở nhẹ nhàng, kín đáo, tế nhị mà đầy thấm thía.
1.2.1.4. Mô hình: A bằng B
Mô hình so sánh này, hai vế A và B nối kết với nhau bằng quan hệ từ so
sánh ngang bằng như: bằng, ngang bằng, xem bằng, cũng bằng…
“Anh ơi em cũng muốn kết nghĩa giao hòa
Sợ mẹ bằng biển, sợ cha bằng trời
Anh với em cũng muốn kết nghĩa ở đời
Sợ rằng mây bạc giữa trời mau tan”
Đó là tâm trạng của cô gái khao khát tình yêu, mong ước “kết nghĩa” cùng
người mình yêu là “anh”. Song cô gái vẫn không vượt lên trên được những ràng
buộc của đạo đức Nho giáo “sợ mẹ, sợ cha”. Người con gái sống trong xã hội
phong kiến xưa phải chịu sự sắp đặt trong hôn nhân “cha mẹ đặt đâu con ngồi
đấy”. Điều ấy cũng được thể hiện trong những câu thơ của Truyện Kiều: “Dù cho
lá thắm chỉ hồng - Lên chăng cũng tại lòng mẹ cha”. Trong câu ca dao trên có
hai so sánh bằng, vế A (sợ mẹ, sợ cha) và vế B (biển, trời) được nối kết bằng
quan hệ từ “bằng”. Vế B là những hiện tượng tự nhiên to lớn, kì vĩ qua đó thể
hiện vị trí và sức ảnh hưởng của cha mẹ đến cô gái. Lối so sánh này còn được sử
dụng nhiều để diễn tả những trạng thái tâm lí khác trong đó có nỗi nhớ mong. Ta
dễ dàng bắt gặp những câu ca dao với mô hình cấu trúc như thế với sắc thái tình
cảm tương đồng:
15
“Cây đa cũ, con én cũ, cây đa tàn
Bao nhiêu lá rụng, thương nàng bấy nhiêu” [1, 271]
Hay:
“Cây đa lá rụng đầu đình
Bao nhiêu lá rụng thương mình bấy nhiêu” [1, 249]
1.2.1.5. Mô hình: A là B
Đây là mô hình mà giữa hai vế A và B được nối với bằng quan hệ từ “là”.
Đó là dạng so sánh ẩn dụ - “là” có chức năng liên hệ so sánh ngầm. Nó có chức
năng như từ “như”, tuy nhiên nếu dùng từ “như” thì sắc thái biểu cảm, hàm súc
cô đọng vốn có sẽ thay đổi. Từ “là” được dùng như để định nghĩa một khái niệm,
mang sắc thái biểu cảm:
“Cổ tay em trắng như ngà
Con mắt em sắc như là dao cau
Miệng cười như thể hoa ngâu
Cái khăn đội đầu như thể hoa sen” [1, 337]
Mô hình so sánh này không được sử dụng nhiều trong ca dao trữ tình người
Việt. Mặc dù vậy, nếu đi sâu nghiên cứu tìm hiểu ca dao một cách có hệ thống
thì có thể thấy những lối so sánh này cũng có giá trị biểu đạt khá cao.
“Phận em là gái thuyền quyên
Ai mà đối đặng kết nguyền phu thê” [1, 332]
Tương tự:
“Em là con gái út ông trời
Khi mưa dông gió tạt rơi đầu chàng” [1, 420]
Hai câu ca dao đưa ra hai định nghĩa về “em” với sắc thái khẳng định rõ nét
với quan hệ từ “là” nằm giữa hai vế A và B. Đọc hai câu ca dao trên, ta có thể
cảm nhận đây là lời nói đầy tự hào và là sự khẳng định về giá trị bản thân mình
của cô gái. Người con gái ở cả hai câu ca dao đều ví mình với những đối tượng
không hề tầm thường “gái thuyền quyên”, “con gái út ông trời”. Đó là những đối
16
tượng được người đời tôn trọng, yêu quý: “gái thuyền quyên” mang trong mình
tài và sắc còn “con gái út ông trời” luôn được nâng niu, chiều chuộng. Bởi vậy ai
kết duyên cùng “em” thì đều là niềm may mắn hiếm có. Để làm rõ mô hình so
sánh này, ta có thể xét thêm ví dụ:
“Bóng chàng nhác thấy nẻo xa
Xuân lan thu cúc mặn mà cả hai
Người quốc sắc với kẻ thiên tài
Nghĩa sâu là bể tình dài là sông
Nên chăng lá thắm chỉ hồng
Bõ công giao ước, bõ công đi về” [1, 239]
Câu ca dao thể hiện tình cảm xứng đôi vừa lứa của “người quốc sắc kẻ
thiên tài” với nghĩa tình sâu đậm được thể hiện qua lối so sánh mang ý nghĩa
khẳng định với quan hệ từ “là”:
“Nghĩa sâu là bể tình dài là sông”
Trong một câu ca dao mà xuất hiện liên tiếp hai so sánh A là B. Vế A
(nghĩa sâu, tình dài) và vế B (bể, sông) được nối kết bằng quan hệ từ “là”. Tình
nghĩa của con người được so sánh với các hiện tượng tự nhiên “bể, sông” vốn
vĩnh cửu và mênh mông to lớn nhằm thể hiện sự vô hạn của tình nghĩa con
người. Nghĩa tình ấy sâu rộng và trường tồn như tạo hóa nghìn đời không đổi.
1.2.2. So sánh không ngang bằng (73/1467 lần, chiếm 5%)
Với so sánh không cân bằng, sự so sánh bao giờ cũng nghiêng về một phía,
luôn có một đối tượng của mình được đem so sánh với đối tượng kia. Mối quan
hệ giữa A và B là mối quan hệ hơn kém, chêch lệch được biểu thị bằng các quan
hệ từ.
“Dù cho lên núi lên non
Không bằng có vợ có con ở nhà”
Hay:
17
“Đèn nào cao bằng đèn ông Chánh
Bánh nào trắng bằng bánh bò bông
Trách ai ăn ở hai lòng
Sang sông rồi nỡ quên công người chèo” [1, 383]
1.2.2.1. Mô hình: A hơn B (48/1467 lần, chiếm 3,3%)
Mô hình này, cán cân so sánh nghiêng về vế A để khẳng định sự vượt trội
so với B. Vế B xuất hiện có tác dụng như đòn bẩy để làm nổi bật vế A:
“Đạo cang thường khó lắm bạn ơi
Không như ong bướm đậu rồi lại bay” [1, 379]
Câu ca dao là suy ngẫm về “đạo cang thường”, vế A (đạo cang thường) và
B (ong bướm đậu rồi lại bay) được nối kết bằng quan hệ từ chỉ mức độ hơn kém
“không như”. Đọc câu ca dao, ta dễ dàng nhận ra mức độ so sánh nghiêng về vế
A, hình ảnh “ong bướm đậu rồi lại bay” được dùng làm chất liệu so sánh để làm
nổi bật cái bất biến cố định khó đổi thay của “đạo cang thường”. Mảng ca dao
trữ tình người Việt xuất hiện nhiều câu ca dao được xây dựng bằng mô hình so
sánh này:
“Lòng em bền chặt, không như nàng Văn Quân”
Lòng “em” (A) và “Văn Quân” (B) được so sánh với quan hệ từ “không
như” để thể hiện tấm lòng chung thủy son sắc không đổi dời của người con gái
là “em”.
1.2.2.2. Mô hình A kém B (25/1467 lần, chiếm 1,7%)
Trong mô hình này, A và B được nối kết bằng các quan hệ từ so sánh:
không bằng, chưa bằng, chẳng bằng…
“Dù ai cho bạc, cho vàng
Không bằng nhìn thấy mặt chàng hôm nay
Dù ai cho bạc cầm tay
Không bằng nhìn thấy chàng ngay bây giờ” [1, 355]
18
Tương tự:
“Dù ai cho bạc cho tiền
Không bằng em được đứng liền với anh
Dù ai cho bạc cho chinh
Không bằng thiếp đứng với mình, mình ơi!” [1, 355]
Đây là lời tâm sự bộc lộ những nỗi niềm của cô gái hướng về người mình
yêu là “chàng”. Người con gái tự tin khẳng định rằng: đối với cô của cải vật chất
(bạc, vàng) cũng không bằng được “chàng”. Điều đó thể hiện vị trí của chàng
trai trong lòng cô gái, tình yêu của “em” dành cho “anh” vượt lên trên mọi giá trị
của cải vật chất phù du tầm thường. Ca dao trữ tình người Việt mô hình này xuất
hiện với tần số không nhiều nhưng đều là những câu ca dao chuyên chở được
nhiều nội dung sâu sắc:
“Cha mẹ bồng bế nâng niu
Tội trời phải chịu, chẳng yêu bằng chồng”
Nhân vật trữ tình trong hai bài ca dao trên, đem hai thứ tình cảm quan
trọng nhất của con người (tình mẫu tử và tình đôi lứa) lên cán cân của tình cảm.
Và dù cho ơn kia chín chữ cao sâu thì một khi tình đôi lứa đến, nhân vật trữ
tình chỉ biết nghe theo tiếng gọi của con tim mách bảo. Tình cảm đôi lứa đã lấn
át tình cảm mẫu tử thiêng liêng. Câu ca dao nghe tưởng chừng sự phê phán đã
hướng về nhân vật trữ tình song tâm tư đó là lẽ tất yếu của trái tim của kẻ đang
yêu say đắm. Đó là khi cảm xúc lấn át lí trí. Với lối so sánh này, người nghệ sĩ
dân gian còn gửi gắm vào đó những triết lí dân gian giản dị mà có tính chất
khái quát sâu rộng:
“Cha mẹ cho bạc cho tiền
Không bằng lấy thằng chồng hiền sướng thân”
Trong quá trình nghiên cứu mảng ca dao trữ tình người Việt có thể thấy mô
hình so sánh bằng vẫn chiếm tần số cao hơn so sánh không cân bằng. Tuy nhiên,
mỗi mô hình so sánh đều mang giá trị nghệ thuật và nét riêng độc đáo của mình.
19