Tải bản đầy đủ (.pdf) (55 trang)

Thơ haiku của yosa buson (KL07191)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (473.3 KB, 55 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
---------------

LƯU THỊ ANH

THƠ HAIKU CỦA YOSA BUSON

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn Học Nước Ngoài
Người hướng dẫn khoa học
TS. Nguyễn Thị Bích Dung

HÀ NỘI -2015


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo
TS. Nguyễn Thị Bích Dung - người trực tiếp hướng dẫn, chỉ đạo tận tình giúp
tôi hoàn thành khóa luận này.
Tôi cũng xin gửi cảm ơn chân thành tới tất cả các thầy cô giáo trong
khoa Ngữ Văn, đặc biệt là thầy cô trong tổ Văn học Nước ngoài đã giúp đỡ và
tạo điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành khóa luận.
Khóa luận được hoàn thành nhưng không tránh khỏi những thiếu sót,
hạn chế. Tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp từ phía các thầy cô giáo và
các bạn sinh viên để đề tài nghiên cứu của chúng tôi tiếp tục được hoàn thiện.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, tháng 5 năm 2015
Người thực hiện


Lưu Thị Anh


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài nghiên cứu “Thơ Haiku của Yosa Buson” là kết
quả nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn trực tiếp của TS. Nguyễn
Thị Bích Dung. Đề tài này không trùng với công trình nghiên cứu của tác giả
khác.

Hà Nội, tháng 5 năm 2015
Người thực hiện

Lưu Thị Anh


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ......................................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu ............................................................................... 4
4. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi khảo sát ................................................. 4
5. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................... 4
6. Đóng góp của đề tài ................................................................................. 4
7. Cấu trúc khóa luận................................................................................... 4
NỘI DUNG .................................................................................................... 5
Chương 1. HAIKU VỚI YOSA BUSON ....................................................... 5
1.1. Vài nét về thơ Haiku............................................................................. 5
1.1.1. Nguồn gốc hình thành của thơ Haiku ........................................... 5
1.1.2. Nội dung và hình thức nghệ thuật của thơ Haiku .......................... 6

1.1.3. Cảm thức thẩm mĩ của thơ Haiku ................................................. 8
1.1.4. Vai trò của thơ Haiku trong nền Văn hóa – Văn học Nhật
Bản và thế giới ....................................................................................... 10
1.2. Haiku với Yosa Buson và “sự trở lại của M.Basho” ........................... 11
1.2.1. Yosa Buson ................................................................................. 11
1.2.2. Yosa Buson người “Dọn dẹp gai cỏ” cho thơ Haiku tỏa sáng .... 12
Chương 2. THƠ HAIKU CỦA YOSA BUSON ........................................... 14
2.1. Yếu tố hội họa trong thơ Haiku của Yosa Buson ................................ 14
2.2. Yosa Buson thi sĩ của mùa xuân ......................................................... 21
2.2.1. Mùa xuân trong thơ Haiku của Yosa Buson đẹp, ẩn chứa quan
niệm nhân sinh thấm đẫm tinh thần nhân văn ........................................ 21


2.2.2. Mùa xuân trong thơ Haiku của Yosa Buson thể hiện tâm hồn
yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống sâu sắc................................................... 30
2.2.3. Yosa Buson mang đến cho thơ Haiku màu sắc lãng mạn .............. 36
2.3. Yosa Buson thiền sư giữa đời thường ................................................. 39
2.3.1. “Thiền” và thi ca Thiền trong quan niệm của người Nhật ............ 39
2.3.2. Thiền tính trong thơ Haiku của Yosa Buson ................................. 42
KẾT LUẬN.................................................................................................. 49
TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nhật Bản là một dân tộc có hàng ngàn năm lịch sử. Bên cạnh đó là nền
văn hóa từ truyền thống đến hiện đại dồi dào bản sắc dân tộc và nhất quán.
Nhật Bản nổi tiếng với hoa Anh Đào, Thiền tông, trà đạo và trang phục truyền
thống Kimono…
Cũng như người Việt Nam, người Nhật Bản rất yêu thơ ca, thích làm

thơ để trải lòng mình. Người Nhật Bản với văn hóa ưa sự giản dị và xúc tích
đượm màu thiền nên thơ Haiku luôn được ưa chuộng và tham gia sáng tác
đông đảo qua các thời. Thơ haiku được coi là thể thơ ngắn nhất trên thế giới
với 17 âm tiết, là thể thơ thiền độc đáo, giàu tính trí tuệ và tinh thần nhân văn.
Thể thơ này được coi là tinh hoa của thơ ca và văn học Nhật Bản – nền văn
học tôn thờ thiên nhiên và cái đẹp.
Và ngày nay thơ Haiku đã trở thành thể thơ được yêu thích trên thế
giới, vươn ra khỏi biên giới Nhật Bản.
Trong chương trình Ngữ văn THPT thơ Haiku đã được đưa vào để
giảng dạy, tuy nhiên mới chỉ có một tác giả lớn là M.Basho, vậy nên việc tìm
hiểu thơ haiku nói chung và “Thơ Haiku của Yosa Buson” nói riêng sẽ giúp
chúng ta tìm hiểu thêm một tác giả lớn sau M.Basho, để có thêm tài liệu phục
vụ cho việc giảng dạy, đưa ra liên hệ và so sánh, mở rộng thêm cho người học
hiểu biết về các nhà thơ sáng tác thơ haiku, làm cho bài giảng phong phú, hấp
dẫn hơn, việc giảng dạy đạt hiệu quả cao hơn.
Tuy nhiên trên thực tế, thơ haiku ở Việt Nam còn chưa được phổ biến
và sâu rộng, mới chỉ là bước đầu tiếp cận, nên người dạy và người học vẫn
còn nhiều lúng túng và khó khăn khi tìm hiểu.

1


Xét trên phương diện cá nhân, lý do tôi chọn đề tài “Thơ Haiku của
Yosa Buson” còn do niềm đam mê, yêu thích với nền văn hóa Nhật Bản, và
đặc biệt với thơ haiku của Yosa Buson. Tôi hi vọng sẽ giúp cho bản thân cũng
như các bạn đọc có thêm những hiểu biết về thơ haiku, giúp chúng ta tích lũy
thêm vốn kiến thức cho mình.
2. Lịch sử vấn đề
Theo Nhật Chiêu: “Thơ haiku của Nhật Bản là một phần tài sản trong
kho tàng văn hóa Á Đông vĩ đại và giàu sang”.

Chúng ta là người thừa tự văn hóa ấy nhưng còn chưa khai thác di sản
của nó đúng mức như nó xứng đáng. Nhiều thành quả và tinh hoa của nó còn
chờ đợi chúng ta.
Ở Việt Nam nghiên cứu về thơ haiku dừng lại ở số lượng không nhiều
với một số gương mặt các nhà nghiên cứu và dịch giả tiêu biểu như: Phan
Nhật Chiêu, Vĩnh Sính, Thái Bá Tân, Thanh Châu, Đoàn Lê Giang, Hữu
Ngọc, Lê Từ Hiển, Lưu Đức Trung, Đoàn Thị Thu Vân, … Có tính chuyên
sâu về thơ haiku của Nhật Bản phải kể đến hai công trình nghiên cứu là: “Ba
nghìn thế giới thơm” của Nhật Chiêu (NXB Văn nghệ, 2007) tập hợp gần như
đầy đủ các bài báo, tạp chí mà ông đã từng công bố liên quan đến thơ haiku
và thơ Nhật Bản.
Tiếp đến là cuốn tài liệu quý báu đối với giáo viên, học sinh cũng như
những ai yêu thích thể thơ độc đáo này đó là: Haiku, Hoa thời gian của Lê Từ
Hiển và Lưu Đức Trung (NXB Giáo dục, 2007) cuốn sách được chia làm ba
phần với ba nội dung chính: Tiếp cận thơ Haiku trong chương trình THPT,
Hương sắc Haiku – những nẻo đường góp nhặt và Dạo bước vườn thơ.
Ngoài hai công trình nghiên cứu kể trên, nội dung nghiên cứu còn được
đề cập đên trong những cuốn giáo trình về văn học Nhật Bản, cuốn sách giới
thiệu văn hóa, văn học Nhật Bản như: Văn học Nhật Bản từ khởi thủy đến

2


1868, Nhật Chiêu, NXB Giáo dục, 2003, Nhật Bản trong chiếc gương soi,
Nhật Chiêu, NXB Giáo dục HCM năm 1997, Câu chuyện văn chương phương
Đông, Nhật Chiêu, NXB Giáo dục, 2002.
Ngoài ra còn một số nhà nghiên cứu khác như: Lê Từ Hiền – Lưu Đức
Trung với tác phẩm: Haiku – Hoa thời gian (NXB Giáo dục, 2007), Lê Thiện
Dũng dịch tác phẩm: Hài cú nhập môn (tác giả H.G Henderson, NXB trẻ 2002), Nguyễn Nam Trần, Bản thảo: Tổng Quan Lịch Sử Văn Học Nhật Bản,
quyền thượng: Từ thượng cổ đến cận đại.

Một số bài báo, tạp chí cũng cung cấp cho người đọc một số hiểu biết
cơ bản về haiku cho người đọc. Tiêu biểu như các bài viết: Cảm nhận về thơ
Haiku (Ngô Văn Phú, Tác phẩm mới, số 4 năm 1992), Một số đặc điểm của
thơ haiku Nhật Bản (Hà Văn Lưỡng – Tạp chí nghiên cứu Nhật Bản và Đông
Bắc Á, số 4 năm 2001), Thế giới trong thơ haiku (Hà Văn Minh, Báo Xuân
Điện Bàn, 2000).
Các công trình nghiên cứu của thơ haiku của Yosa Buson ở Việt Nam
không nhiều. Về dịch thơ có tác giả Thái Bá Tân có nhiều bài dịch thơ của
Buson, tuy còn nhiều chỗ đáng bàn nhưng không thể phủ nhận đó là những
công trình hiếm hoi góp một phần quan trọng vào việc tìm hiểu thơ haiku của
Yosa Buson.
Phổ biến nhất là những bài báo ngắn gọn đăng tải trên các trang
internet, niên luận: “Tìm hiểu phong cách thơ haiku của Matsuo Basho, Yosa
Buson và Koybayashi Issa” của Đại Học Quốc Gia thành phố Hồ Chí Minh,
Đại Học Khoa Học Xã Hội Và Nhân Văn, “Đặc sắc thơ haiku Nhật Bản”,
Báo Hải Dương điện tử…
Tất cả những đóng góp trên đều cho chúng ta những hiểu biết nhất định
về “Thơ Haiku của Yosa Buson” ở nhiều góc độ khác nhau.
Với đề tài này tôi hi vọng sẽ đem đến một cái nhìn khái quát và đầy đủ
hơn về “Thơ Haiku củ Yosa Buson”.

3


3. Mục đích nghiên cứu
- Giới thiệu đến bạn đọc những nội dung khái quát, đầy đủ nhất về thơ
Haiku của Nhật Bản cũng như những khám phá, phát hiện mới mẻ về thơ
Haiku của nhà thơ Yosa Buson, để bạn đọc có cái nhìn hoàn thiện hơn.
- Thông qua tìm hiểu, tiếp cận các sáng tác của nhà thơ để khám phá
những cái hay, cái đẹp khơi gợi niềm say mê, yêu thích của người đọc với thể

thơ này.
- Làm tư liệu cho các bạn đọc và người nghiên cứu.
4. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi khảo sát
- Đối tượng nghiên cứu là “Thơ Haiku của Yosa Buson”.
- Phạm vi khảo sát: Thơ Haiku của Buson qua bản dịch của các dịch
giả: Nhật Chiêu, Vĩnh Sính, Thái Bá Tân…
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thống kê, phân loại.
- Phương pháp đối chiếu so sánh.
- Phương pháp tổng hợp đánh giá.
6. Đóng góp của đề tài
- Hiểu sâu sắc và cụ thể về thơ haiku của tác giả Yosa Buson.
- Làm tài liệu tham khảo cần thiết, bổ ích, cần thiết cho sự tìm tòi học
hỏi văn học Nhật Bản của những người yêu thích bộ môn.
7. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, khóa luận gồm hai chương:
Chương 1: Haiku với Yosa Buson
Chương 2: Thơ Haiku của Yosa Buson

4


NỘI DUNG
Chương 1
HAIKU VỚI YOSA BUSON
1.1. Vài nét về thơ Haiku
1.1.1. Nguồn gốc hình thành của thơ Haiku
Thể thơ haiku được ra đời vào thế kỷ XVII và phát triển mạnh vào thời
Edo (1603-1867) khi đã mất dần đi sắc thái trào phúng mà mang âm hưởng
sâu thẳm của thiền tông.

Haiku là thể thơ nổi tiếng của Nhật Bản, toàn bài có 17 âm tiết, có thể
xếp thành 3 câu (5-7-5). Trong tiếng Nhật thơ haiku không có vần và thường
không có nhan đề. Các bài thơ haiku chỉ là những nét chấm phá, gợi mở để
độc giả vận dụng trí tưởng tượng nhằm liên tưởng đến các sự vật, hiện tượng
khác.Vì thế người ta cho rằng thơ haiku như bức tranh thủy mặc của người
Nhật.Nó chứa đựng một khoảng chân không nhưng tràn trề sinh động của
cuộc sống. Thơ haiku là thể thơ phái sinh từ Tanka. Tanka là thể thơ khởi đầu
của dân tộc Nhật Bản, tức Đoàn ca hay Hòa Ca. Bài thơ theo thể tanka có 31
âm tiết, chia thành 5 dòng: dòng một 5 âm tiết, dòng hai 7 âm tiết, dòng ba 5
âm tiết, hai dòng cuối mỗi dòng 7 âm tiết (5-7-5-7-7).
Từ thế kỷ XIV-XV khi thơ tanka có dấu hiệu đi xuống trên thi đàn
Nhật xuất hiện thể thơ Renga cũng có nhịp 5-7-5-7-7 như tanka nhưng tách ra
hai phần 5-7-5 và 7-7 rõ rệt, số lượng câu không hạn chế.
Thực chất renga là trò chơi nối thơ của các nhà thơ tanka. Giới quý tộc
thời Heian rất thích lối sáng tác như thế. Sau này trong bài renga liên hoàn
đoạn thơ khởi xướng phần thượng cú được gọi là hokku (phát cú) và được
viết với hình thức 17 âm tiết (5-7-5).
Đến thế kỷ XVI, công chúng yêu thơ Nhật Bản rất thích trò chơi nối
thơ nên thơ renga trở nên phổ biến và bình dân hơn, thậm chí có nhiều bài

5


renga được làm với mục đích hài hước, thậm chí là châm chọc gọi là haikai
no renga, gọi tắt là haikai. Thể haikai do tầng lớp thị dân sáng tác với mục
đích đùa cợt, phóng túng nên dễ sa vào sự dung tục, chắp nối, gượng ép.
Sau này Basho đã đưa thơ haiku thoát khỏi sự tầm thường bằng sự
dung hợp cả cái vô tâm lẫn hữu tâm, sự trào lộng đời thường của haikai hiện
đại với sư tao nhã, tâm linh của renga cổ điển vào trong 17 âm tiết của bài
hokku. Từ đấy hokku không phụ thuộc vào renga nữa, nó trở thành thể thơ

độc lập và có tên là haiku hay hài cú (lúc đầu có tên là haikai đến thế kỷ XIX
mới có tên là (haiku). Phần đầu hokku của bài renga là tiền thân của thơ
haiku, như vậy thơ haiku có nguồn gốc từ tanka và renga.
1.1.2. Nội dung và hình thức nghệ thuật của thơ Haiku
Thơ haiku không mô tả cảm xúc, chủ yếu ghi lại những sự việc xảy ra
trước mắt. Vì số chữ bị giới hạn trong 17 âm nên thơ haiku thường chỉ diễn tả
một sự kiện xảy ra ngay lúc đó, ở thì hiện tại.Sự kiện này có thể liên kết hai ý
nghĩ, hay hai ý tưởng khác nhau mà ít khi người ta nghĩ đến cùng một lúc.
“Ôi những hạt sương (sự kiện hiện tại)
trân châu từng hạt(ý nghĩa thứ 1)
hiện hình cố hương”(ý nghĩa thứ 2)
(Issa)
Một bài haiku luôn tuân thủ hai nguyên lý tối thiểu, đó là mùa và tính
tương quan hai hình ảnh. Trong thơ bắt buộc phải có “Kigo” (quí ngữ) nghĩa
là từ miêu tả mùa (không dùng xuân, hạ, thu, đông, nhưng dùng các từ như
hoa anh đào, cành khô, lá vàng, tuyết trắng… để chỉ các mùa) và diễn tả một
hình ảnh lớn (vũ trụ) tương xứng với một hình ảnh nhỏ (đời thường).
“Trên cành khô
cánh quạ đậu
chiều thu”
(M.Basho)

6


Đọc thơ haiku, ta cảm nhận được vị trí đứng ở ngoài sự kiện của tác
giả. Tác giả dường như chỉ chia sẻ với người đọcmột sự kiện đã quan sát
được:
“Cỏ hoang trong đồng ruộng
dẫy xong bỏ tại chỗ

phân bón!”
(M.Basho)
Nhưng người đọc vẫn có thể nghiệm được tình cảm của tác giả, một
tình cảm nhè nhẹ, bàng bạc trong cả bài thơ, nói lên niềm vui sống hay sự cô
đơn, đôi khi cũng nêu ra điểm thắc mắc về cuộc đời của con người: ngắn
ngủi, phù du, trước sự vĩnh hằng của thiên nhiên.
Thơ có xu hướng gợi ý hay ám chỉ bóng gió nhẹ nhàng. Thông thường
trong thơ đưa ra hình ảnh: một hình ảnh trừu tượng sống động và linh hoạt,
một hình ảnh cụ thể ghi dấu hời gian và nơi chốn.
“Trăng soi(hình ảnh trừu tượng)
một bầy ốc nhỏ (hình ảnh cụ thể)
khóc than đáy nồi” (nơi chốn cụ thể)
(Issa)
Nhà thơ không giải thích hay bàn luận về sự liên kết giữa hai hình ảnh
này, chỉ diễn tả bản chất tự nhiên của nó. Người làm thơ phải đặt mình như
đứa trẻ lúc nào cũng có cảm giác bỡ ngỡ, lạ lùng khi tiếp xúc lần đầu tiên với
ngoại giới. Một bài thơ haiku hay là làm sống lại những gì đã chôn sâu trong
ký ức và đưa ra những cảm giác sâu sắc, tế nhị, để tự nó khơi lại trí tưởng
tượng và mơ ước của người đọc để người đọc tự suy diễn, cảm nhận.
Thơ như một bài kệ, sàng lọc từng chữ, không dư mà cũng không thiếu,
cốt sao nói đến chính cái đang là “đương hạ tức thị”. Nắm bắt thực tại ngay
trong giây phút nảy mầm, cái đang xảy ra lắm khi chuyên chở cả một vũ trụ
thu gọn vào trong thời điểm đó, tiểu thế giới và đại thế giới hòa nhập vào

7


nhau. Một diễn tiến trước mắt khiến ta liên tưởng đến một hiện tượng hay
biến cố nào đó trong một kinh nghiệm sống của riêng mình.Kỹ xảo của thơ
haiku là giản lược tối đa chữ nghĩa trong thơ để vận dụng trí tưởng tượng nơi

người đọc.
1.1.3. Cảm thức thẩm mĩ của thơ Haiku
Từ một thể thơ được làm với mục đích hài hước, bông lơn, đùa vui, về
sau do ảnh hưởng của tư tưởng thiền tông, thơ haiku thể hiện những cảm thức
thẩm mỹ khác nhau. Những cảm thức thẩm mỹ này thể hiện cái nhìn của các
thi sĩ haiku về thiên nhiên và con người mang đậm màu sắc Thiền tông. Thơ
haiku đề cao những cảm thức thẩm mỹ tinh tế như cái vắng lặng (sabi), đơn
sơ (wabi), buồn thương (aware), nhẹ nhàng (karumi), u huyền (yugen)…
Sabi (tịch) là cảm thức về sư tĩnh mịch sâu xa của sự vật, tự chúng bộc
lộ những điều kỳ diệu, như trong một không gian vắng lặng, tiếng ve như
thấm sâu vào đá:
“Vắng lặng u trầm
thấm sâu vào đá
tiếng ve ngâm”
(M.Basho)
Hay trong một bài thơ khác cũng mang cảm thức Sabi:
“Nghe tiếng chim đỗ phủ
ở kinh đô
mà nhớ kinh đô”
(M.Basho)
Nếu cảm thức sabi là tâm điểm gắn với tư tưởng thiền tông thì wabi
(đà) lại gần gũi với các sự vật bình thường hơn. Đó là những cảm nhận về sự
lắng đọng nhỏ nhoi, mong manh như con ốc nhỏ nhắn, một chiếc lá rụng rơi,
một giọt sương mai long lanh:

8


“Con bướm bay
làm cánh đồng thức giấc

trời đầy nắng”
(M.Basho)
Cảm thức aware (bi ai) là niềm bi cảm, xao xuyến trước mọi vẻ đẹp
buồn thương của sự vật. Tuy nhiên, đó không phải là cái bi lụy, bi tráng mà
aware là một niềm bi cảm thâm trầm, đẹp và buồn như trong bài:
“Cái chết cận kề
mặc ai hay biết
vẫn hoài tiếng ve”
(M.Basho)
Karumi (khinh) bắt nguồn từ chữ Karushi, nghĩa là nhẹ nhàng, thanh
thoát.Karumi thể hiện phong thái ung dung, tự tại của thi sĩ. Thi sĩ haiku
thường cảm nhận và biểu đạt vẻ đẹp của con người và sự vật nhỏ bé tưởng
chừng như bị lãng quên. Phát hiện từ trong những vật bình thường, cái đẹp
bình dị, đơn sơ là một cảm thức mang tính karumi. Karumi thường mang đến
cho người đọc những phút giây bình yên trước những cảm nhận về đời
thường:
“Từ phương trời xa
cánh hoa anh đào lả tả
gợn sóng hồ Bi – wa”
( Basho)
Từ cảm nhận về sự cô tịch (sabi) nhận ra cái đẹp ở sự bình dị, thân
thuộc (wabi) và thể hiện sự nhẹ nhàng thanh thoát, ung dung, tự tại (karumi)
đến vẻ đẹp buồn (aware), haiku thể hiện những sắc thái thẩm mỹ mang dấu ấn
Thiền tông và văn hóa phù Tang.

9


1.1.4. Vai trò của thơ Haiku trong nền Văn hóa – Văn học Nhật Bản và thế
giới

Thơ Haiku có quá trình ra đời lâu dài và phát triển mạnh mẽ. Thơ haiku
ra đời từ thế kỉ XVII, đạt tới đỉnh cao với Basho. Sau Basho còn có rất nhiều
nhà thơ đã chọn haiku làm con đường để bước vào trong nghệ thuật. Đó là các
nhà thơ Yosa Buson (1716-1784), Kobayashi Issa (1762-1827), Masaoka
Shiki (1867-1902), Onitsura (1660-1738)… Đối với họ sáng tác thơ haiku
không chỉ là niềm vui mà còn là lối sống. Thơ haiku đến với họ chứa cái đạo
trong đó, đó là con đường sâu thẳm giản dị nhất giữa đời.
Hiện nay thơ haiku của Nhật Bản đã lan tỏa ra khắp thế giới. Nhà
nghiên cứu Nhật Chiêu đã nhận định: “Nói một cách không chừng mực hơn,
thơ haiku mà Basho đã hoàn thiện bằng thiên tài của mình, trở nên thể thơ
quốc tế trong thế kỉ XX”. Bên ngoài Nhật Bản, haiku chẳng những được
nghiên cứu rộng rãi mà còn được các nhà thơ ở nhiều xứ khác nhau sáng tác
bằng tiếng mẹ đẻ của mình, trong đó có cả Paul Eluard của Pháp, Octavio Paz
của Tây Ban Nha và George Seferis của Hi Lạp”.
Vậy thơ haiku bắt đầu hình thành vào thế kỉ XVII, đạt đỉnh cao với
Basho. Ngày nay thơ haiku lan tỏa ra thế giới thành một thể thơ được quốc tế
đón nhận.
Thơ haiku đã vượt ra khỏi biên giới của Nhật Bản đến với các nước
trong và ngoài khu vực như Châu Âu, Nam Mỹ, Trung Quốc, rất thịnh ở Mỹ.
Ở Việt Nam phong trào sáng tác thơ haiku cũng được nở rộ trong giới yêu
thích thơ văn Nhật Bản. Cuộc thi sáng tác thơ haiku Nhật – Việt lần thứ 4
được tổ chức ở Việt Nam, giải nhất thuộc về tác giả Trần Đức Việt:
“Trên lá môn non
Giọt sương đọng
Vầng trăng tý hon”
(Trần Đức Việt)

10



Anh Trần Đức Việt cho biết ý tưởng để anh sáng tác bài thơ này đến từ
một khuya đi dạo tại quê nhà Quảng Ngãi: “Trong lúc đi dạo, một giọt sáng
long lanh bên bờ rào đập vào mắt tôi. Tôi đến gần và thấy ánh sáng đó được
phát ra từ một giọt sương đọng trên lá môn. Tôi nhìn lên bầu trời thật trong,
trăng sáng vằng vặc, rồi tôi cúi nhìn giọt sương long lanh rực rỡ và lớn dần
đầy bí ẩn. Giọt sương đó như thâu góp cả mặt trăng và sự tinh khiết của bầu
trời và vụ trụ trong nó”.
Thơ haiku không chỉ là thần thái của con người Nhật Bản, đất nước
Nhật Bản mà nó còn là nét đẹp văn hóa truyền thống, thơ haiku ngày cần
được thế giới nâng niu và trân trọng, phát triển theo đúng vị trí vốn có của nó.
1.2. Haiku với Yosa Buson và “sự trở lại của M.Basho”
1.2.1. Yosa Buson
Yosa Buson (1716-1784) tên thật là Taniguchi Buson, sinh năm 1716 ở
làng Kema, tỉnh Settsu (Nhiếp Tân) ngoại ô thành Osaka. Mất ngày 25 tháng
12 năm 1784. Ông là thi sĩ và họa sĩ nổi tiếng trong thời Edo, ông sinh sau
Basho một thế kỷ và là người có công đầu trong việc đưa haiku ra khỏi sự suy
đồi mà nó rơi phải sau khi Basho mất.
Buson còn mang đến cho haiku màu sắc lãng mạn mà trong thơ Basho
còn thiếu. Người ta biết đến ông như một họa sĩ, và do là họa sĩ thơ ông mang
nhiều hình ảnh với những nét chấm phá độc đáo. Có thể ví ông như Vương
Duy của Trung Quốc đời Đường.
Năm 20 tuổi, Buson đến Edo học làm thơ và hội họa dưới sự chỉ dẫn
của nhà thơ Hayano Haijin (1677-1742) hiệu là Yahantei, một nhà thơ có
khuynh hướng chống lại những tệ nạn đương thời. Tại đây, Buson còn được
tiếp thu tinh hoa thể thơ haiku truyền thống dưới sự chỉ dẫn của nhà thơ
Hattori Ransetsu và Takarai Kikaku. Lúc đó Buson lấy hiệu là Saicho, ông
đào luyện nhiều môn đệ, trong số đó có các cao đồ Yoshiwake, Taikai Kito…

11



Saukhi thầy Hajin mất, ông đổi hiệu là Buson(1744). Buson chuyển đến
sống khá lâu ở Yuki một vùng phía Bắc Edo. Tại đây ông dành ra thời gian
cho việc vẽ tranh, luyện thơ haiku và viết tác phẩm: Thương tiếc Hokuji
Rosen (Hokuji Rosen wo itamu). Sau đó men theo những địa danh trong
quyển nhật ký hành trình nổi tiếng “Lối lên miền Oku” của Basho, Buson đã
thực hiện những chuyến đi lên vùng Đông Bắc và vùng Kanto Nhật Bản.
Cuối năm 1750, Buson đến Kyoto ông hoạt động văn thơ trong thi đàn
của nhà thơ Mochizuki Sooku (1688-1766), đồng thời ông cùng vẽ tranh theo
phong cách thủy mặc của Trung Quốc.
Năm 45 tuổi, Buson lấy vợ và ông có một người con gái tên là Kuno.
Năm 1770, lúc đó Buson 55 tuổi, ông nối nghiệp thầy Haijin lấy hiệu là
Yahantei Nhị thể và làm chủ một thi đàn. Buson chịu ảnh hưởng của Hán thi
và lý luận Bunjinga nên ông đề xướng thoát tục luận đặt trọng tâm vào những
sáng tác lãng mạn có phong vị cổ điển nhưng đem lại cảm giác thanh tân. Với
sự giúp đỡ đắc lực từ hai nhà thơ Tan Tagi và Kuroyanagi Shoha, ông đã làm
sống dậy tâm hồn thơ nguyên thủy của haiku- tâm hồn Basho, hay còn gọi là
“sự trở lại của Basho”.
Năm 1772, Buson ra mắt tập thơ đầu tiên.
Năm 1776, Buson thành lập một câu lạc bộ thi ca, nơi đây được xem
như là “Ba tiêu am” thời Buson. Các nhà thơ tập hợp lại cùng nhau sáng tác
và bàn luận nhằm phục hưng tinh hoa trong thơ haiku của Basho, họ luôn tôn
trọng và xem M.Basho như là một vị thánh thơ haiku M.Basho là khuôn mẫu,
là mẫu mực thước đo cho Buson và các nhà thơ khác trong phong cách sáng
tác thơ Haiku.
1.2.2. Yosa Buson người “dọn dẹp gai cỏ” cho thơ Haiku tỏa sáng
Sau khi M.Basho mất, thơ Haiku được phổ biến trong quần chúng nhân
dân nhưng chất lượng dần trở nên thấp kém. Nó mất dần tính văn chương và
người làm thơ thì để cầu danh lợi thì nhiều. Trong hoàn cảnh đó, làng thơ ca


12


Nhật Bản xuất hiện một người tự nhận lấy trọng trách phực hưng thơ haiku,
đó là Yosa Buson, và ông là người đã giúp cho thơ haiku trở lại với ánh sáng
vốn dĩ của nó.
Tuy Yosa Buson không phải là người “phá rừng mở núi” để đưa haiku
lên hàng nghệ thuật cao quý nhưng ông có công “dọn dẹp gai cỏ” để haiku
được tỏa sáng như thuở ban đầu. Buson đã sáng tác hơn 3000 bài thơ, gần
phân nửa là tranh thơ với chủ trương người nghệ sĩ phải có tai nghe thính
nhạy, mắt nhìn thông suốt và một tâm cảm sâu đậm để ghi nhận và diễn đạt.
Buson đọc rất nhiều kinh thư và nghiên cứu phong cách khác nhau của
các tác phẩm thơ ca của Nhật Bản và Trung Quốc. Đồng thời vì Buson vừa là
một nhà thơ vừa là họa sĩ nên trong phong cách thơ ông có sự đan xen dung
hợp, tác động lẫn nhau giữa thi ca và hội họa. Khác với khuynh hướng chủ
quan của Basho, Buson đứng ngoài nhìn với con mắt họa gia, diễn tả sự vật
một cách hoa lệ và lãng mạn. Trong thơ của ông luôn giàu hình ảnh nhạy cảm
với cảnh sắc, vẻ đẹp của thiên nhiên. Đặc biệt là với mùa xuân, Yosa Buson
được còn được gọi là thi sĩ của mùa xuân với những sáng tác rất hay về mùa
xuân. Mùa xuân trong thơ ông bình dị, nhẹ nhàng, thanh thản.
Buson đã dung nạp, hấp thụ nhiều phong cách từ Trung Quốc, nhưng
cuối cùng, ông vẫn tạo ra cho mình một phong cách thật riêng, thật đặc trưng
mà không nhầm lẫn ở bất kỳ nhà thơ nào.
Cùng với Matsu Basho và Kobayashi Issa, Buson được xem là một
trong những nhà thơ vỹ đại nhất của người Nhật Bản.
Yosa Buson đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của một người hậu thế
trong vai trò tiếp bước người khai sinh vĩ đại Matsu Basho. Nếu như
R.H.Blyth đã khẳng định: “Nước Nhật sinh ra cùng thời với M.Basho vào
năm 1644. Ông chính là người sáng tạo ra linh hồn Nhật Bản” thì chúng ta
cũng có thể nói rằng: “Linh hồn Nhật Bản đã được thăng hoa cùng những vần

thơ của Yosa Buson”.

13


Chương 2
THƠ HAIKU CỦA YOSA BUSON

2.1. Yếu tố hội họa trong thơ Haiku của Yosa Buson
Mối quan hệ giữa thi và họa là một trong những lí luận thẩm mĩ cơ bản
của văn học nghệ thuật.
Đây là hai loại nghệ thuật khác nhau nên có những đặc trưng riêng biệt,
nhưng dù là nghệ thuật của không gian hay nghệ thuật của thời gian, dù sử
dụng chất liệu là ngôn từ hay đường nét, màu sắc, dù trừu tượng hay cụ thể thì
đều chung nhau ở tính chất phản ánh bức tranh thiên nhiên và đời sống, có tác
động mĩ cảm sâu sắc đến con người.
Từ Đông đến Tây, hàng loạt những công trình lý luận cũng như những
lời nhận xét cảm tính, với Lessing, Heghen, Leonardo Da Vinci, Tô Thức…
không hẹn mà gặp nhau ở lời nhận xét “thơ là họa vô hình, họa là thơ hữu
hình”, “thơ là họa hữu thanh, họa là thơ vô thanh”, “thi họa nhất luật”…
Theo đó họa và thi được coi như chị em song sinh của nghệ thuật,
mệnh đề quen thuộc với chúng ta là “thi trung hữu họa”.Cheryl A. Crowley
cũng có nhận định về văn hóa Nhật Bản: “Trong truyền thống văn hóa Nhật
Bản, hội họa, thơ ca và thư pháp được xem là những nghệ thuật liên quan”.
Đặc biệt quan niệm thẩm mĩ về “tả ý”, “truyền thần” đã đưa hội họa đến gần
với thơ ca, từ tả thực đi đến nắm bắt chiều sâu của thế giới tâm hồn, hài hòa
tình – cảnh, cái hữu hình và cái vô tình.
Buson là đại diện kiệt xuất cho loại hình thi sĩ – họa gia của văn hóa –
văn học phương Đông thâm trầm. Ông khẳng định tài năng của mình ở haiku
và haiga, đồng thời giỏi cả nanga (Nam họa).

Buson là bậc thầy của tranh haiga kết hợp tranh vẽ và thơ haiku, chọn
Văn nhân họa là ông đã lựa chọn sự giản dị tinh tế, đó không phải là sự đơn
giản đó là sự giản dị đạt đến cảnh giới cao nhất của nghệ thuật là phương

14


pháp đạt đến “độ” dường như không có phương pháp. Lựa chọn Nam họa
cũng là lựa chọn tinh thần Thiền Tông, với tính trực cảm, đốn ngộ trong
khoảnh khắc, lưu giữ trong tranh cái vĩnh cửu vĩnh hằng.
Vẻ đẹp hội họa trong thơ Buson được thể hiện qua không gian hóa hình
tượng thời gian, nghệ thuật sử dụng màu sắc, điểm nhìn nghệ thuật và phép
thấu thị hội họa, cấu trúc thơ ca và cấu đồ hội họa, ý cảnh thiền.
Lessing đã chỉ ra điểm khác biệt cơ bản giữa hội họa và thơ ca, đó là
trong khi hội họa đặt đồng thời các sự vật bên nhau trong cùng một không
gian, là nghệ thuật không gian, thì thơ ca miêu tả các hoạt động nối tiếp nhau
trong thời gian, là nghệ thuật thời gian.
Trong thơ Buson ta gặp hình tượng thời gian đã được không gian hóa.Ở
đây không gian đã như ngừng lại, níu giữ cái vĩnh cửu trôi chảy trong khoảnh
khắc, và ngay cả ý niệm thời gian cũng được thể hiện qua không gian.
Trong bức họa mùa hè của Buson ta thấy một bức tranh tươi tắn đầy
sức sống của mùa hè trong những gam màu sáng khi ông đặt Lá non – nước
trắng – Những bông lúa vàng bên cạnh nhau. Ở một bức tranh khác:
“Con diều giấy
đứng ở chỗ
bầu trời hôm qua”
(Yosa Buson)
Ông đồng nhất quá khứ - hiện tại trong hình tượng cánh diều, Buson đã
dựng nên trong thơ một không gian mang vẻ đẹp hội họa đầy sinh thú.
Đi vào thế giới thơ của Y.Buson người đọc như được bước vào một

không gian đầy màu sắc, thanh lệ và đẹp đẽ. Do đặc trưng của thơ haiku, giàu
sức ám thị và gợi tả, hầu như không sử dụng tính từ, để sự vật hiện ra như tự
nó. Chính vì vậy mà những tính từ chỉ màu sắc được Buson sử dụng lại càng
có ý nghĩa đặc biệt, màu sắc được chồng chất lên nhau để càng thêm rực rỡ,

15


ông đã từng vẽ lên bức tranh hoàng hôn với hiệu ứng rực rỡ của ánh sáng và
màu sắc:
“Nhuộm đỏ hoa mận
rồi tấn công sồi và thông
mặt trời sắp lặn”
(Yosa Buson )
Hiệu ứng rực rỡ của sắc đỏ còn được Buson sử dụng trong một lần khác
với mặt trời hoàng hôn và màu lá phong:
“Vài ba chiếc lá rụng
rồi hoàng hôn
cây phong thắm đỏ”
(Yosa Buson)
Hay:
“Hoa mận đỏ
như cháy lên
từ bãi phân ngựa”
(Yosa Buson)
Trong thơ ông có sự thiên ái hai màu trắng và xanh, sắc trắng phiêu
không của tinh thần Thiền siêu thoát và sắc xanh sâu thẳm thể hiện vẻ đẹp
thanh đạm của không gian và đơn sơ của sự vật.
Buson ấn tượng với màu trắng của hoa, cái đẹp tao nhã đơn sơ ngay
giữa cuộc đời, và có khi mang ánh sáng giác ngộ. Bút pháp đối tỉ hắc – bạch

trong tranh thủy mặc được Buson vận dụng tài tình khi ông đặt sắc trắng của
hoa trên nền đen thẳm:
“Nhánh lan đêm
mùi hương giấu kín
sắc hoa trắng ngần”
(Yosa Buson)

16


Bài thơ từ thế của Y.Buson không mang niềm u ám của chốn u minh
mà đặc sắc trắng hoa chiếu sáng, ấy cũng là thứ ánh sáng an lạc chiếu ra từ
tâm hồn nhà thơ đạt ngộ, trên thực tế nhà thơ mất trước lúc bình minh nhưng
ông đã có một bình minh vĩnh cửu:
“Với hoa mận trắng
đêm thắp sáng
và bình minh lên”
(Yosa Buson)
Màu xanh trong thơ Y.Buson không phải là màu xanh sâu thẳm của chốn
núi non thăm thẳm non cao mà là màu xanh non tươi rờn. Chiếc lá non
(wakaba) trở đi trở lại 12 lần trong thơ ông mang thông điệp tươi non của sự
sống. Dưới ngòi bút của Buson, chiếc lá bé nhỏ mong manh trong sự đối tỉ với
cái cổ kính tuổi tác, lớn lao vĩnh cửu, một ngọn núi Fuji với đỉnh tuyết nhô lên
đơn độc trên nền lá mới, hay một ngọn thác kì vĩ đang tái sinh từng giây phút,
những tòa lâu đài sừng sững tuổi tác như được lá non làm trẻ hóa lại.
Và còn nữa:
“Bên dòng sông cạn
đằng đông đằng tây
lá non tươi đầy”
(Yosa Buson)

Không dùng tính từ xanh mà những bài thơ của Buson vẫn tươi tắn màu
xanh non tơ sự sống, từng giây từng phút sinh thành.
Điểm nhìn nghệ thuật là vị trí của tác giả để quan sát, cảm nhận đánh
giá bao gồm cả khoảng giữa chủ thể và khách thể, cả phương diện vật lý, tâm
lý và văn hóa.
Đặc trưng của nghệ thuật ngoài dùng lý trí quan sát để tìm kiếm hình tự
(sự giống nhau về hình) của sự vật, mà tập trung nắm bắt thần thái của sự vật

17


nhằm đạt đến thần sự (sự giồng nhau về thần), đến mức vật – ngã lưỡng vong,
tác giả và sự vật như hòa làm một. Khi truyền thống tả ý của Văn nhân họa
lên ngôi, thì tính chất trữ tình càng có điểm tương đồng. Khi đó cùng với
điểm nhìn không gian – điểm nhìm vật lý thì điểm nhìn bên trong – điểm nhìn
vật lý đóng vai trò hết sức quan trọng.
Trong thơ haiku của Y.Buson điểm nhìn của nhà thơ cũng chịu sự chi
phối của phép thấu thị, khi đó nhà thơ mở ra một không gian kì vĩ rộng lớn .
“Bức tranh Đỉnh Phú Sĩ cô đơn
không phủ đầy
bởi lá non”
(Yosa Buson)
Trên nền tiền cảnh lá non xanh tràn ngập nơi nơi thì hậu cảnh là đỉnh
núi cao vời vợi mang vẻ đẹp thoát tục đơn côi như bản chất cái đẹp ngàn đời.
Nhưng hầu hết các bài haiku, giản dị như những bức haiga với rất ít tình tiết,
đường nét, điểm nhìn của nhà thơ đồng nhất vào sự vật, khi đó không còn ba
chiều không gian, sự vật hiện lên giản đơn như chính nó:
“Dòng nước mùa xuân
hoa tím và lau trắng
ướt rờn khi trôi”

(Yosa Buson)
Dòng nước ấy chỉ là khoảng không bạch, hoa và lau được vẽ bằng vài
nét điểm màu, không gian mất đi luật viễn cận để thể hiện lên trên mặt phẳng,
để mở vào chiều thứ tư – chiều tâm linh – ngay bên trong bản thân sự vật.
Hay ở một bức tranh khác của ông:
“Một cơn gió mạnh
loài chim nước
trở nên trắng”
(Yosa Buson)

18


Không gian làm nền xóa hẳn khoảng cách cao thấp xa gần, chỉ để hiện
lên sắc trắng loài chim nước, vũ trụ đang vận động trong môt nhịp điệu lặng
lẽ, êm đềm nhấn mạnh vẻ đẹp đơn sơ mà sâu thẳm của sự vật.
Cũng theo Francois Cheng, kinh nghiệm hôi họa có ảnh hưởng đến
cách tổ chức ký hiệu trong thơ. Cách tổ chức ký hiệu hay cũng chính là cấu
trúc của tác phẩm, tức “tổ chức nội tại mối quan hệ qua lại các yếu tố trong
tác phẩm” – “mối quan hệ qua lại của các kí hiệu thẩm mĩ đặc thù”.
Thống nhất và đối lập trong thơ haiku của Buson lại thể hiện ở một
dạng thức đặc biệt. Cũng giống như điểm nhìn nghệ thuật không lấy con
người làm trung tâm để từ đó phủ - ngưỡng, tứ vọng tạo thành một ấn tượng
tổng thể, trong haiku của ông không có một cấu trúc phức tạp, có khi chỉ là
một góc của bức tranh. Sự vật hiện ra tự nó trong sự giản đơn, sự thống nhất
được thể hiện ở chiều sâu:
“Bên dãy núi
một con thuyền chèo
lá non”
(Yosa Buson)

Và những hình ảnh khác như núi kì vĩ – lá nhỏ bé, núi vĩnh cửu – lá
tươi mới, chông chênh bất đối xứng trong cấu trúc, nhưng lại có cái thống
nhất thẳm sâu bên trong đó là cuộc sống đang vận hành theo hơi thở tự nhiên
của vũ trụ.
Vậy thống nhất trong thơ haiku chỉ có thể xem xét ở cấp độ khái quát
đó là mối quan hệ giữa thực và hư.
Ý cảnh là sự hài hòa giữa không gian và tâm trạng, giữa khách quan và
chủ quan, giữa cảnh và tình.Sự thống nhất thi – họa trong thơ Buson từ màu
sắc đến điểm nhìn đến cấu trúc là ở chỗ đều tạo ra một ý cảnh thiền.Bước vào
thế giới “thi trung hữu họa” cảm nhận được nguyên lý sống trong khoảnh

19


khắc thực tại của thiền.Thời gian như ngừng lại trong bức tranh để thế giới
trong khoảnh khắc hiện lên toàn bộ vẻ đẹp của nó. Buson đã nhận ra khoảnh
khắc hiện tồn ấy:
“Rụng rồi
vẫn còn lưu ảnh
đóa mẫu đơn”
(Yosa Buson)
Với khoảnh khắc ấy thi sĩ – họa gia giữ lại trong thế giới của mình một
tia nắng chiều hắt lại trên rêu xanh, một chiếc lá trôi trên dòng nước, mà trong
bức tranh thơ hình tượng thời gian được không gian hóa, các sự vật tồn tại
bên nhau trong sự bình đẳng hồn nhiên.
Buson yêu thích không gian mê viễn, trong không gian ấy các sự vật
hòa lẫn vào nhau không phân biệt trong cái nhìn tương giao của Thiền. Đó là
không gian của những cơn mưa làm cho nước và cát hòa lẫn vào nhau, cho ô
và áo tơi thì thầm tình tự. Các sự vật trong thơ ông như động đậy, đầy hơi thở
sự sống:

“Chú cá hồi nhỏ
bơi cùng
chiếc lá tre nhỏ trong thung”
(Yosa Buson)
Thơ ông còn nhiều màu sắc, tạo ấn tượng thị giác đặc biệt:
“Trong giông bão
áo rơm người chèo chống
hóa áo hoa đào đến lạ thường”
(Yosa Buson)
Trong cơn giông bão, chiếc áo rơm khoác ngoài lại được biến thành áo
hoa đào, vậy là từ chiếc áo giản dị, nay đã hóa thành áo hoa đào, một chiếc áo

20


×