Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (34.2 KB, 2 trang )
Soạn bài lẽ ghét thương của Nguyễn Đình Chiểu
(Trích Truyện Lục Vân Tiên)
I. Đọc – hiểu văn bản
Câu 1. Những điều ông Quán ghét
10 câu thơ trong đoạn trích nói về lẽ ghét. Ghét việc tầm phào, ghét vua Trụ mê dâm, U Vương, Lệ Vương
gây ra nhiều mối rắc rối, Ngũ Bá chia rẽ, đổ nát, sớm đầu tối đánh… Căn nguyên của cái ghét ở đây là do
lòng thương dân, vì dân, ghét những kẻ hại dân, làm cho nhân dân sa hầm sẩy hang, chịu lầm than, nhọc
nhằn… Nỗi khổ của dân được lặp lại nhiều lần, rải rác ở các câu 10, 12, 14, 16 thể hiện tấm lòng thường dân
tha thiết của nhà thơ.
Để giãi bày cái ghét sâu sắc, tác giả sử dụng điệp từ ghét. Đoạn thơ có 8 từ ghét thì riêng hai câu thơ mở
đầu đã có 4 từ:
Quán rằng: “Ghét việc tầm phào”
Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tận tâm.
Kết hợp với biện pháp điệp ngữ, phép tăng cấp diễn tả mùi vị, độ sâu tăng dần của cái ghét. Từ cái ghét có
vị cay sang cái ghét có vị đắng, đến ghét có vị sâu của lòng người, ghét vào tận tâm. Cách diễn đạt tăng cấp
cho thấy cái ghét đã kết tinh thành cái căm thù. Ông Quán căm thù những kẻ hại dân. Điều này thể hiện tính
nhân dân trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu.
Câu 2. Những điều ông Quán thương
Đối với cái ghét là lẽ thương, 16 câu thơ kế tiếp như lời tự bạch của ông Quán về tình thương: thương những
người có tài cao chí cả, muốn cứu đời, giúp dân nhưng lại gặp rủi ro, bất hạnh nên không thực hiện được chí
hướng. Phép điệp từ tiếp tục sử dụng với 9 từ thương trong đoạn thơ này.
Lòng thương của ông Quán thật rộng lớn: thương Nhan Tử mất sớm, dở dang công danh; thương Gia Cát
Lượng có tài thao lược không cứu vãn được thời Hán mạt; thương Đồng Trọng Thư tài đức hơn người mà bị
dồn vào thế bí; thương Đào Tiềm khí tiết thanh cao lại lui về ở ẩn; thương Hàn Dũ can vua bị đày…
Đoạn thơ được viết theo bút pháp ước lệ, mượn chuyện sách vở để nói chuyện đời. Tác giả kể về các nho gia
đáng kính, đồng thời cũng nói về người đời đáng kính.
Ngôn ngữ thật sinh động với những trạng ngữ gợi tả: nếu ghét cay, ghét đắng, đa đoan, lằng nhằng… thì
thương cái dở dang, phôi pha, bùi ngùi, chẳng may, bị lời xua đuổi…
Đoạn thơ kết thúc:
Xem qua kinh sử mấy lần
Nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương