Nguyễn Tuân đã sử dụng một loạt từ Hán Việt rất đắt (pháp
trường, tử tù, tử hình, nhất sinh, bộ tứ bình, bức trung đường , lạc
khoản, thiên hạ, thiên lương, lương thiện, V.V...) tạo nên màu sắc
lịch sử, cổ kính, bi tráng. Đúng Nguyễn Tuân là bậc thầy về ngôn
ngữ, rất lịch lãm uyên bác về lịch sử, về
Truyện "Chữ người tử tù" rút trong tập "Vang bóng một thời", một giai phẩm chưa đầy 2.500 chữ
nhưng hàm chứa một dung lượng lớn. Chỉ có ba nhân vật và ba cảnh: Quản ngục và viên thơ lại đọc công
văn nói về tử tù Huấn Cao; Huân Cao bị giải đến và sự biệt đãi của ngục quan đối với tử tù, cảnh Huấn
Cao cho chữ trong nhà ngục. Cảnh nào cũng hội tụ cả ba nhân vật này.
Viên thơ lại là kẻ giúp việc giấy tờ cho ngục quan. Một con người sắc sảo và có tâm điền tốt. Mới đọc
công văn và nghe ngục quan nói về Huấn Cao, y đã biểu lộ lòng khâm phục: "thế ra y văn võ đều có tài
cả, chà chà”. Sau đó lại bày lỏ lòng thương tiếc: "... phải chém những người như vậy, tôi nghĩ mà thấy
thương tiếc". Sau nhiều lần thăm dò, thử thách, ngục quan đánh giá viên thư lại: "có lẽ lão bát này cũng là
một người khá đây. Có lẽ hắn cũng như mình, chọn nhầm nghề mất rồi. Một kẻ biết yêu mến khí phách,
một kẻ biết tiếc, biết trọng người có tài, hẳn không phải là kẻ xấu hay là vô tình". Suốt nửa tháng tử tù ở
trong buồng tối vẫn được viên thơ lại gầy gò "dâng rượu và đồ nhắm". Y đã trở thành kẻ tâm phúc của
ngục quan. Sau khi nghe tâm sự của ngục quan "muốn xin chữ tử tù", viên thư lại sốt sắng nói: "Dạ bẩm,
ngài cứ yên tâm, đã có tôi" rồi y chạy ngay đến trại giam đấm cửa thùm thùm gặp Huân Cao. Nhờ y mà
ngục quan xin được chữ tử tù. Trong cảnh cho chữ, viên thơ lại "run run bưng chậu mực". Đúng y là một
người "biết yêu mến khí phách, biết tiếc, biết trọng người có tài". Nhân vật thơ lại chỉ là một nét phụ
nhưng rất thần tình, góp phần làm rõ chủ đề tác phẩm.
Ngục quan là một khách tài tử chọn nhầm nghề. Giữa bọn người tàn nhẫn, lừa lọc thì ngục quan lại có
"tính cách dịu dàng và lòng biết giá người, biết trọng người ngay” chẳng khác nào "một âm thanh trong
trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ". Lần đầu gặp Huấn Cao trong cảnh
nhận tù, ngục quan có "lòng kiêng nể", "lại còn có biệt nhỡn đối riêng với Huấn Cao". Suốt nửa tháng
trời, ngục quan bí mật sai viên thơ lại dâng rượu và đồ nhắm cho tử tù - Huân Cao và các đồng chí của
ông.
Lần thư hai, y gặp Huấn Cao, nhẹ nhàng và khiêm tốn “muốn châm chước ít nhiều" đối với tử tù, nhưng
đã bị ông Huấn miệt thị nặng lời, gần như xua đuổi, nhưng ngục quan vẫn ôn tồn, nhã nhặn "xỉn lĩnh ý”
rồi lui ra.
Ngục quan là một nhà nho "biết đọc đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền", suối đời chỉ ao ước một điều là "có
một ngày kia treo ở nhà riêng mình một câu đối do ông Huấn Cao viết". Ngục quan đang sống trong bi
kịch: y tâm phục Huấn Cao là một nguời chọc trời quấy nước nhưng lại tự ti , “cái thứ mình chỉ là một kể
tiểu lại giữ tù". Viên quản ngục khổ nhất là "có một ông Huấn Cao trong tay mình, mà không biết làm thế
nào mà xin được chữ". Là quản ngục, nhưng lại không can đảm giáp mặt tử tù vì y cảm thấy Huấn Cao ,
“cách xa y nhiều quá". Tử tù thì ung dung, trái lại, ngục quan lại lo "mai mốt đây, ông Huấn Cao bị hành
hình mà chưa xin được mấy chữ thì ân hận suốt đời mất”. Bi kịch ấy cho thấy tính cách quản ngục là một
con người biết phục khí tiết, biết quý trọng người tài và rất yêu cái đẹp. Y yêu chữ Huấn Cao, chứng tỏ y
có một sở thích cao quý. Vì thế khi nghe viên thơ lại nói lên ước nguyện của ngục quan, Huấn Cao cảm
động nói: "Ta cảm cái tấm lòng biệt nhân liên tài của các người. Nào ta biết đâu một người như thầy quản
đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ".
Như vậy, trong vị thế xã hội, ngục quan và tử tù là đối địch, còn trên lĩnh vực nghệ thuật, họ là tri âm.
Huấn Cao trước lúc ra pháp trường đã tri ngộ một kẻ biệt nhỡn liên tài là ngục quan.
Trong cảnh cho chữ có một hình ảnh kì diệu: "ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi lên ba đầu
người đang chăm chú trên một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ". Ánh sáng bó đuốc ấy chính là ánh
sáng của thiên lương mà tử tù đang chiếu lên và lay tỉnh ngục quan. Chi tiết ngục quan "khúm núm cất
những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng” chi tiết ngục quan vái tử tù một vái, nước
mắt rỉ vào kẽ miệng nghẹn ngào nói: "Kẻ mê muội này xin bái lĩnh" là những chi tiết thú vị. Lúc sở thích
nghệ thuật đã mãn nguyện cũng là lúc ánh sáng thiên lương soi tỏ, chiếu rọi tâm hồn. Một cái vái lạy đầy
nhân cách, hiếm có.
Có thể, sau khi Huấn Cao bị giải vào Kinh thụ hình thì cũng là lúc ngục quan trả áo mũ "tìm về quê nhà
mà ở" để giữ lấy thiên lương "cho lành vững" và thực hiện cái sở thích chơi chữ bấy nay? Nguyễn Tuân
đã xây dựng ngục quan bằng nhiều nét vẽ có thần. Ngoai hình thì "đầu đã điểm hoa râm, râu đã ngả màu".
Một con người ưa sống hằng nội tâm: cái đêm hôm trước đón nhận tử tù, ông sống trong trạng thái thanh
thản, gương mặt ông ta "là mặt nước ao xuân, bằng lặng, kín đáo và êm nhẹ". Trong một xã hội phong
kiến suy tàn, chốn quan trường đầy rẫy kẻ bất lương vô đạo, nhân vật ngục quan đúng là một con người
vang bóng. Nhân vật này đã thể hiện sâu sắc chủ đề tác phẩm.
Huấn Cao là một "tên giặc”, một nhân vật bi tráng, cao đẹp, mang màu sắc lãng mạn.
Lúc đấu Huấn Cao được giới thiệu gián tiếp qua một tiếng đồn: “cái người mà vùng tỉnh ta vẫn khen...",
"nhiều người nhắc nhỏm đến cái danh đó luôn...", "một tên tù có tiếng.. ” và "thầy có nghe người ta
đồn...”. Đó là một con người không phải tầm thường!
Ngục quan và viên thơ lại mới "văn kì thanh" mà đã tâm phục Huấn Cao. Họ trầm trồ: "người đứng
đầu...", "người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp...", một tử tù lững lẫy
tiếng tăm "văn võ đều có tài cả.".
Lấy xa để nói gần, lấy bóng làm lộ hình, sử dụng lối tả gián tiếp... đó là bút pháp Nguyễn Tuân vận dụng
sáng tạo để giới thiệu nhân vật Huấn Cao, tạo ra sự cuốn hút nghệ thuật kì diệu.
Là một nhà nho dám chọc trời quấy nước. Chí lớn không thành mà vẫn hiên ngang. Chết chém cũng
chẳng sợ. Một tinh thần gang thép và bất khuất. Một cái "dỗ gông" trước cửa ngục. Một câu miệt thị
ngục quan: "Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng tới quấy rầy ta". Không
phải ai cũng có cái gan dám thách thức cường quyền bạo lực thế đâu!
Huấn Cao coi khinh vàng ngọc. Không vì vàng ngọc, vì quyền uv mà ông "ép mình viết bao giờ” Chữ thì
quý thật! Nhất sinh ông mới viết hai bộ tứ bình và một bức trung đường tặng ba người bạn thân. Không
chỉ đẹp ở nét chữ, mà mỗi chữ, mỗi bức thư họa của Huấn Cao là một bức châm, thể hiện một lí tưởng
tung hoành, một hoài bão, một đạo lí cao đẹp. Chữ của Huấn Cao cho thấy cái tài, cái tâm, cái tầm nhìn
của kẻ sĩ chân chính mà ta ngưỡng mộ và kính phục.
Với Huấn Cao thì thiên lương là ngọn lửa, là "ánh sáng đỏ rực như ngọn đuốc kia. Nếu ngục quan tâm
phục con người nghĩa khí, tài hoa thì Huấn Cao lại nể trọng con người biệt nhỡn liên tài. Suốt đời ông chỉ
“cúi đầu vái lạy hoa mai" thế mà khi nghe tên thơ lại nói lên tâm sự của chủ mình muốn "xin chữ”, Huân
Cao đã ân hận nói: “Thiếu chút nữa ta phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ". Cảnh "cho chữ" được miêu
tả bằng bút pháp lãng mạn gợi lên một không khí thiêng liêng bi tráng. Phòng giam ẩm ướt bẩn thỉu, hôi
hám. Lửa đuốc sáng rực. Tấm lụa trắng. Chậu mực thơm lắm. Ba cái đầu cúi xuống tấm lụa trắng. Huấn
Cao hiện ra với vẻ uy nghi, hào hùng, cổ đeo gông, chân vướng xiềng, Huấn Cao vung bút viết. "những
nét chữ vuông vắn rõ ràng" hiện lên rực rỡ trên phiến lụa óng. Tư thế đĩnh đạc ung dung. Mai kia ông đã
bước lên đoạn đầu đài, nhưng đêm nay ông vẫn ung dung. Một cử chỉ "đỡ viên quan ngục đứng thẳng
người dậy". Một lời khuyên: "Ta khuyên thầy quản nên thay đổi chỗ ở đi... thầy quản nên tìm về nhà quê
mà ở đã, rỗi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến
nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi". Với Huấn Cao thì thiên lương là cái gốc của đạo lí, có giữ được
thiên lương thì mới biết quý trọng tài năng và cái đẹp ở đời. Ở con người Huấn Cao, từ cử chỉ, hành động,
đến ngôn ngữ, từ nét chữ đến phong thái - đều toát ra một vẻ đẹp vừa phi thường, vừa bình dị, vừa anh
hùng, vừa nghệ sĩ, bên cạnh cái hùng có cái bi, tính vốn khoảnh mà lại trân trọng kẻ biệt nhỡn liên tài, coi
thường vàng bạc quyền uy mà lại đề cao tình bằng hữu, đến chết vẫn nghĩa khí và giữ trọn thiên lương.
Nguyễn Tuân đã dàn cảnh, tả người và kể chuyện, sử dụng những ẩn dụ so sánh, những tình tiết đan chéo,
càng buộc vào nhau, tạo nên một không gian nghệ thuật cổ kính, bi tráng nâng nhân vật Huấn Cao lên
một tầm vóc lịch sử. Văn học lãng mạn thời tiền chiến chỉ có một Huấn Cao đẹp hào hùng như vậy.
Đọc "Chữ người tử tù" ta càng thấm thía điều mà Vũ Ngọc Phan đã nói: "... văn Nguyễn Tuân không phải
thứ văn để người nông nổi thường thức". Nghệ thuật kể chuyện, cấu trúc tình tiết, lời thoại và độc thoại,
khắc họa tính cách nhân vật,... hầu như không có một chi tiết nào thừa. Ba nhân vật cùng đồng thời xuất
hiện. Cảnh cho chữ là cao trào, một canh tượng xưa nay chưa từng có. Tất cả đều hướng về cái tài, cái
đẹp, cái thiên lương. Nguyễn Tuân đã sử dụng một loạt từ Hán Việt rất đắt (pháp trường, tử tù, tử hình,
nhất sinh, bộ tứ bình, bức trung đường , lạc khoản, thiên hạ, thiên lương, lương thiện, V.V...) tạo nên màu
sắc lịch sử, cổ kính, bi tráng. Đúng Nguyễn Tuân là bậc thầy về ngôn ngữ, rất lịch lãm uyên bác về lịch
sử, về xã hội.
Hai câu văn: "Thiếu chút nữa ta phụ muí một tấm lòng trong thiên hạ" và:"Kẻ mê muôi này xin bái lĩnh" đẹp như một bức châm trong các thư hoạ nghìn xưa lưu lại, cũng là bài học làm người sáng giá !
Trích; loigiaihay.com
Xem thêm: Video bài giảng môn Văn học