NHỮNG VẤN ĐỀ THIẾT YẾU TRONG XÂY DỰNG NHÀ
MỤC LỤC
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
10.
11.
Chương 1 NỀN
Chương 2 MÓNG
Chương 3 KHUNG
Chương 4 CỘT
Chương 5 DẦM
Chương 6 SÀN
Chương 7 TƯỜNG
Chương 8 CẦU THANG
Chương 9 MÁI
Chương 10 TRẦN
Chương 11 CÁC HẠNG MỤC PHỤ
CHƯƠNG 1 NỀN
A. NỀN ĐẶT MÓNG
Nền đặt móng nằm dưới đáy móng nhà. Nền này chịu toàn bộ tải trọng của nhà (kể cả
móng). Tuy vậy, chỉ một khoản chiều sâu nền chịu tải trọng này. Khoảng chiều sâu đó
bằng khoảng hai lần chiều rộng đáy móng. Nền bị phá hoại thì nhà bị rạn, nứt,
nghiên…và có thể bị sập đổ. Đặc tính của nền phụ thuộc thành phần hóa học, sự sắp
xếp các lớp, trạng thái từng lớp đất…
Nền tốt là nền như thế nào?
Nền tốt là nền mà khi xây dựng nhà không cần dùng một biện pháp nào để cải biến
tính năng (xử lý) xây dựng của nó. Loại nền này hoặc đã đủ cường độ và độ chặt sao
cho ứng suất tác dụng lên nền (do tải trọng của nhà) và độ lún của nền gây ra không
vượt quá các trị số giới hạn cho phép. Thông thường nền tốt là nên đá đặc, đá vụn, đất
hòn lớn. đất sét cừng, đất sét nửa cứng, đất sét dẻo, đá cát, đá sét nguyên thô hoặc các
loại đá, đất này đắp quá 5 năm. Đất sét khô, cát hạt to, đá vụn dù có bị phong hóa
nhưng cũng vẫn là nền tốt.
Nền xấu là nền như thế nào?
Nền xấy là nền đất yếu, nền có các lớp đất đá yếu xen kẽ các lớp đất tốt, nền tốt-xấu
không đều. Đặc điểm của nền xấy là khả năng chịu tải kém và biến dạng lớn. Khi xây
dựng nhà trên nền yếu thì phải xử lý hoặc có biện pháp kết cấu thích hợp.
Nền xấu phổ biến là than bùn, bùn, bùn thối, đất sét mềm, đất xốp, đất lún sụt, đất
mùn, cát chảy, đá cát chảy, cát mịn ở trạng thái no nước (bão hòa nước), các loại đất
đá đắp không được đầm kỹ hoặc chưa được 5 năm. Nền đất yếu là nền có khả năng
chịu lực <=1KG/cm2. Nếu tải trọng bên trên vượt quá 1kG/cm2 thì nền lún nhiều và
đùn sang các phía, dẫn đến móng và các kết cấu bên trên bị nứt, nhà có thể bị sập đổ.
Ở nước ta thường gặp nhất là đất sét yếu bão hòa nước.
Người ta phân loại nền đặt móng thành bốn sơ đồ như hình sau:
a.
b.
c.
d.
Toàn bộ là đất đá tốt
Toàn bộ là đất yếu
Trên là đất yếu, dưới là đất đá tốt
Trên là đất đá tốt, dưới là đất yếu
Khi làm nhà cần biết đến địa chất của khu vực nhà cần xây dựng, và cần biết mực
nước ngầm. Nếu nền của nhà tạm, nhà 1 tần thì có thể không cần quan tâm đến nhưng
nếu là nhà >=2 tầng hoặc kiên cố cần phải quan tâm đến đất nền để quyết định loại
móng, có phải xử lý nền hay không, xử lý theo cách nào, kết cấu bên trên như thế nào,
cách đào hố móng…
Muốn có các số liệu về địa chất công trình hoặc địa chất thủy văn cần phải khảo sát,
khoan thăm dò, đo điện trở của nền…
Nều toàn bộ nền đều tốt (sơ đồ a) thì không cần phải xử lý nền và việc làm móng, kết
cấu bên trên không có vấn đề gì phức tạp, chỉ cần đào bỏ lớp đất đá phong hóa bên
trên và làm sạch mặt nền (nếu là nền đá), đào sâu >=0.5m (nếu là nền đất) đầm phẳng
rồi làm móng.
Xử lý nền xấu như thế nào?
Nếu là nền xấu (ba sơ đồ còn lại), muốn cho nền chịu được tải trọng bên trên (và cả tải
trọng chấn động của động đất) phải xử lý bằng:
- Kết cấu, là chọn kết cấu phù hợp (nhất là móng).
- Làm nền nhân tạo.
Các phương pháp xử lý nền nhân tạo.
1. Phương pháp làm tăng độ chặt của đất nền:
- Làm chặt bằng tải trọng tĩnh (thường dùng các khối bê tông hoặc chất nên móng đề
nền chịu nén trước, nếu bằng cát thì luôn phải tưới ẩm bằng nước lên cát và cát này sẽ
dùng san nền). Đây là một trong ba biện phapts cần quan tâm, Nếu là sát, sét pha cát ở
trạng thái chảy hoặc cát mịn ở trạng thái bão hòa nước (no nước) thì đây là biện pháp
hay được dùng.
- Làm chặt đất trên mặt bằng đầm (đầm nặng, đầm rung), xe lu…Biện pháp này rất
thông dụng, dùng cho mọi loại đất đát nhưng nền phải ít ẩm. Nếu dùng đầm máy, có
thể đầm chặt được lớp đất yếu đến 2,5m.
- Làm chặt đất dưới sâu bằng cọc cát, cọc đất, cọc vôi, gieesngs cát, giwngs cac tông, nổ
mìn…Biện pháp này dùng khi nhà cao >=3m tần và đất nền có độ rỗng lớn, ở trạng
thái rời, bão hòa nước, đất có kết cấu dễ bị phá hoại và kém ổn định (đất cát rời, đất
dính ở trạng thái chảy, đất bùn…)
Cọc cát giúp nước trong đất thoát nhanh, làm cho độ lún của nền chóng ổn định. Giá
thành nền cọc cát rẻ hơn nền đệm cát, đệm đât, móng cọc và dễ thi công. Do vậy, nền
cọc cát thường được dùng, nhất là khi lớp đất yếu>3m, nhưng không nền dùng khi đất
nền quá nhão. Nếu thi công tốt thì nền cọc cát có thê gia tăng cường độ gấp 2-2,5 lần.
2. Phương pháp cải tạo sự phân bố ứng suất và điều kiện biến dạng của nền đất yếu,
đó là dùng đệm cát, đệm đất, đệm đá - sỏi hoặc bệ phản áp.
Đệm cát có nhiều ưu điểm nên được dùng nhiều nhất là nơi sẵn cát. Tuy vậy,
đệm cát phải nằm trên MNN, vì nếu nằm dưới MNN thì cát có thể di động, gây độ lún
phụ thêm. Cát làm đệm cát là cát vừa, cát to tốt hơn cát nhỏ. Nếu trộn vào cát 20-30%
đá dăm hoặc sỏi thì càng tốt.
Đệm đất kinh tế hơn đệm cát. Đất làm đệm đất là đất pha sét, đôi khi dùng cat
spha sét hoặc sét. Đệm đất cũng không dùng dưới MNN.
Sau khi thi công xong đệm cát, đệm đất nếu dùng biện pháp nén bằng tải trọng
tĩnh thì càng tốt.
Đệm cát, đệm đất chỉ nên dùng khi lớp đất yếu trên bề mặt có chiều dày <=3m.
Đệm đá-sỏi dùng khi MNN quá cao, không dùng đệm cát, đệm đất được. Do có
độ cứng khá lớn, ứng suất không thay đổi theo chiều sâu, nên đệm đá – sỏi được xem
như một phần của móng. Đệm đá – sỏi, tỏ ra ưu việt khi lớp đất yếu trên mặt có chiều
dày <=3m và nằm trên MNN.
3. Các biện pháp xử lý bằng hóa – lý. Đó là phụt vữa xi măng, phụt vữa tổng hợp, phụt
nhựa bitum, điện thấm, điện hóa, silicat, nhiệt…Các biện pháp này chủ yếu dùng để xử
lý nền nhà đang sử dụng hoặc chống thấm.
4. Các biện pháp xử lý khác như: làm rãnh thoát nước cho nền, thấm ướt trước, hạ
MNN.
Các biện pháp xử lý nền phải tuân theo TCXD 79-1980.
B. Nền nhà
Chiều cao của nền nhà
Chiều cao của nền nhà tính từ mặt đất tự nhiên hoặc mặt đất quy hoạch chung. Chiều
cao nền nhà tạo dáng bề thế cho nhà, tránh ngập lụt, chống ẩm…Chiều cao nền nhà
phải phù hợp với quy hoạch chung của khu vực, đặc biệt là chiều cao. Khi có yêu cầu
để tránh ngập lục, chiều cao nền nhà cần có chiều cao dự phòng khi nền đất yếu bị lún
và khi đường có thể nâng cao. Nếu chỉ cần chống ẩm thì chiều cao nền nhà chỉ cần 0,2
– 0,3m. Khi nhà sát đường thì chiều cao nền nhà thường lấy chẵn theo chiều cao 1 bậc
tam cấp là 0.15m và không quá 0.9m (6 bậc).
Sau khi xây móng và làm các bộ phận phần ngầm (bể nước, bể xí, hệ thống cấp
thoát nước…) 1 ngày có thể lấp hố móng để làm nền nhà. Nếu là móng bê tông cốt
thép hoặc có giằng móng, dầm móng bằng bê tông trông cốt thép thì sau khi đổ bê
tông 2 ngày mới được tháo ván khuôn để lấp hố móng. Khi không có lớp bảo vệ móng
thì lấp hố móng bằng đất sét, không lấp bằng cát. Phần nền trên móng và trên MNN thì
nên đắp bằng cát (hạt thô). Vì cát khong kéo được nước mao dẫn dưới nền lên, do đó
nền khô ráo. Đất đào hố móng nếu không phải là bùn, đất bụi, đá cát nhiều bụi, đất có
chứa nhiều muối, rễ cây, thạch cao thì có thể dùng đắp nền nhà. Các lớp đất lấp, đất
đắp phải thực hiện tưng flowps dày <=0.2m. san phẳng đầm kỹ. Đất lấp, đất đắp cần
có độ ẩm theo yêu cầu, nếu khô quá thì phải tưới nước, ướt quá phải hong khô, không
được trộn đất khô với đất nhão để đầm. Lớp đất đắp trên cùng nên trộn với vôi bột,
thuốc trừ sâu để tránh kiến, mối.
Tránh hiện tượng nồm như thế nào?
Để tránh hiện tượng nồm, nên làm nền nhà có các lớp như sau (từ lớp đất đắp dưới trở
nên
1. Xỉ hoặc cuội, sỏi, đá vụn dày 0.15-0.25m
2. Cát hạt to có chiều dày lớp: 0.05 – 0.1m
3. Vữa lót bằng xi măng-cát có mác tùy loại gạch lát:
50-75: nơi khô ráo
>=75: nơi ẩm ướt
4.
Gạch lát (nên lát bằng gạch lung). Nếu láng mặt nền thì dùng vữa xi măng –cát
M75.
CHƯƠNG 2 MÓNG
2.1 Móng là gì?
Định nghĩa: Móng là bộ phận nằm dưới cùng của nhà để truyền toàn bộ tải
trọng của nhà xuống nền và phân phối tải trọng đó lên diện tích nền sao cho độ lún của
nhà không vượt quá trị số giới hạn cho phép và đảm bảo sự ổn định của nhà. Trong các
bộ phận của nhà thì móng quyết định sự bền vững, thời gian sử dụng, giá thành…của
nhà. Nếu nền móng hỏng thì việc sửa chữa rất khó khăn, tốn kém, nhiều khi phải dỡ bỏ
cả nhà để làm lại.
Chiều cao móng tính từ đáy móng đến đỉnh móng, bao gồm đế móng, thân
móng và cổ móng. Đỉnh móng nên đặt thấp hơn mặt nền nhà 0.1-0.2m nhưng phải cao
hơn mặt đất tự nhiên. Chiều rộng đỉnh móng thường rộng hơn các bộ phận bên trên
(tường, cột), tức là có gờ móng. Khi móng có chiều cao lớn thì thân móng nên làm bậc
hoặc hình thang để mở roongjd dáy móng. Đế móng là bộ phận chịu lực chính của
móng.
-
-
-
Các loại móng.
Phân loại theo chiều sâu đặt móng có 2 loại:
Móng nông: được xây dựng trong hố lộ thiên sau đó lấp đất lại.
Móng sâu: là móng hạ xuống nền và có thể lấy đất từ móng lên. Móng cọc, móng
giếng chìm, móng giếng chìm hơn ép thuộc loại móng sâu. Trong xây dựng nhà người
ta hay dùng móng cọc.
Phân loại theo hình dạng trên mặt bằng: có móng đơn, móng băng và móng bè:
Móng đơn (móng độc lập, móng cột, móng trụ, đế cột) nằm dưới cột (trụ). Móng đơn
nằm riêng lẻ, trên mặt bằng có thể là hình vuông, chữ nhật, tám cạnh, tròn,,,Móng đơn
có thể là móng cứng, móng mềm hoặc móng kết hợp.
Móng băng (móng liên tục) nằm dưới hàng cột hoặc tường. Khi không thể dùng móng
đơn hoặc móng đơn sát nhau, hoặc để cân băng fđộ lún giữa các cột trong cùng một
hàng, hoặc dưới tường thì phải dùng móng băng. Trong xây dựng nhà, móng băng hay
đươc dùng nhất, vì nó lún đề hơn và dễ thi công hơn móng đơn, tuy vậy chỉ nên dùng
nó khi chiều rông <1.5m (về mặt kinh tế). khi chiều rộng >1.5m thì nền dùng móng bè.
Chú ý nếu cấu tạo móng băng không hợp lý có thể lún lệch nhiều hơn móng đơn.
Khi các hàng cột hoặc tường có cả hai phương thì các dải móng băng giao nhau có
dạng ô cờ tên mặt bằng. Móng băng ở hồi nhà thường phải tốt hơn móng băng dọc
nhà, móng băng tường ngăn. Thường đặt đáy móng măng cùng chiều sâu nên móng
băng ở hồi nhà thường rộng hơn.
Móng băng có thể là móng cứng, mogns mềm hoặc móng kết hợp, Khi móng
băng là móng cứng có chiều sâu ddawtj móng lớn thì nên thay bằng móng băng mềm
sẽ giảm được chiều sâu đặt móng sẽ kinh tế hơn. Khi chiều sâu đặt móng bị hạn chế
hoặc nhà cần có móng ổn định hoặc móng cần có cường độ cao thì phải dùng móng
băng bê tông cốt thép. Khi đế móng là bê tông cốt thép thì hầu hết các trường hợp nhà
làm khung bê tông cốt thép và khi đó cốt thép cột được liên kết với cốt thép móng.
Khi nhà có tầng hầm thì móng băng còn có tác dụng chắn đất, tạo tường hầm.
Tường hầm có thể nằm dưới mặt đất hoặc một phần nằm trên mặt đất. Móng băng của
tầng hầm phải đặt sâu hơn nền tầng hầm một khoảng >=0.4m và đỉnh móng phải nằm
dưới sàn tầng hầm.
-Móng bè (móng liền, móng bản) là loại móng mềm, chiếm toàn bộ diện tích
nền nhà. Khi nhà tải trọng lớn (nhà>=3 tầng), nền xấy thì thường phải dùng móng
băng đặt sâu và diện tích móng chiếm đến 75% diện tích nền, khi đó nên dùng móng
bè. Móng bè còn dùng thích hợp khi cần hạn chế chấn động, lún kệch nhiều, cần tăng
cường độ và độ cứng của móng.
Theo vật liệu làm móng có: móng gạch xây móng đá xây, móng bê tông đá hộc,
móng bê tông, móng bê tông cốt thép, móng thép..
Theo tính chất làm việc của móng, móng có: móng cứng và móng mềm
-
-
Móng cứng làm bằng cạch xây, đá xây, bê tông, bê tông đá hộc, bê tông ít cốt thép…
Móng bê tông và bê tông ít cốt thép rất ít được dùng vì không kinh tế. Móng cứng có
thể là móng đơn, móng băng. Móng cứng chịu nén tốt nhưng chịu kéo và chịu uống
kém
Để tiện thi công, móng cứng thường có mặt cắt hình baack. Tỷ số giữa chiều
vào và chiều rộng bậc không nhỏ hơn cotga ( a là góc gứng, góc truyền lực, góc
khuyeechs tán áp lực của vật liệu). Trị số a phụ thuộc vào vật liệu làm móng.
Móng mềm: làm bằng bê tông cốt thép, thép…với nhà, móng thép rất ít khi được dùng
vì rất đắt và dễ bị ăn mòn.
Theo cách thi công có: móng liền khối và móng lắp ghép
Nhà có bền vững lâu dài hay không là tùy thuộc trước tiên ở móng.
2.2 Chọn loại móng như thế nào?
Việc chọn loại móng phụ thuộc nhiều yếu tố, trong đó điều kiện nền và tải trọng nhà là
quan trọng nhất.
- Nếu nền tốt (sơ đồ a): có thể dùng móng gạch xây, đá xây, bê tông đá hộc
- Nếu nền có lớp đất yếu rất dày thì thường dùng móng bè với cọc ma sát đóng xuống
sâu, có thể dùng biện pháp xử lý nền bằng cách làm chặt đất dưới sâu (không dùng
cách làm chặt đất trên mặt), không dùng đệm cát, đệm đất.
- Nếu nền có lớp trên yếu, lớp dưới tốt (sơ đồ c):
+ Khi lớp đất yếu mỏng (<=1.5m): thay lớp đất yếu bằng đệm cát, đệm đất hoặc làm
chặt đất trên mặt rồi coi như nền tốt hoặc làm móng cọc tre, cọc tràm.
+ Khi lớp đất yếu dày (>=3m),: như sơ đồ b (toàn bộ là đất yếu)
+ Khi lớp đất yếu có chiều dày thay đổi:
• Dùng móng băng có chiều dày thay đổi, tức là phần đất yều dày hơn thì đặt móng sâu
hơn (hình 2 sau đây)
•
Dùng móng băng có chiều rộng thay đổi, tức là phần đất yếu dày hơn thì dùng móng
rộng hơn (hình 3 sau đấy):
•
Dùng móng băng không cùng cao trình, đặt trong vùng đất tốt. (hình 4):
•
-
Dùng móng băng có cọc vùng đất yếu có chiều dày lớn.
Nếu nền có lớp trên tốt, lớp dưới yếu (sơ đồ d).
+ Khi lớp trên mỏng (<=1.5m): coi như toàn bộ là nền yếu (sơ đồ b)
+ Khi lớp trên không dày lắm 1.5-3m: Chỉ nên xây nhà đến 2 tầng (dùng móng bè).
Nếu muốn xây nhà >2 tầng thì xử lý như nền đất yếu rất dày (sơ đồ b) nhưng không
được đặt móng sâu và không nên dùng móng cọc.
+ Khi lớp trên dày (>=3m): tận dụng lớp nền tốt bên trên, không nên ddawtj móng sâu,
nên dùng móng bè và chỉ nên xây nhà đến 3 tầng, nếu nhà >=4 tầng thì sử lý như sơ đồ
b(toàn bộ là đất yếu)…
2.3 Xác định chiều sâu đặt móng.
Chiều sâu đặt móng tính từ mặt đất tự nhiên đến đáy móng. Chiều sâu đặt m
óng phải đủ để giữ ổn định, chống xô ngang và chống lật đổ nhà. Chiều sâu đặt m óng
phụ thuộc vào tải trọng nhà (chủ yếu là chiều cao), điều kiện nên và trong mọi trường
hợp nên đặt móng trên MNN. Nếu buộc phải đặt móng dưới (thấp hơn) MNN thì phải
trành làm phá vỡ kết cấu nền khi đào hố móng và làm móng. Về kinh tế, móng đặt
càng nông càng tốt, nhưng móng đặt sâu sẽ hạn chế được lún (kể cả lún lệch), do đó
phải so sánh kinh tế-kỹ thuật để chọn chiều sâu đặt móng. Khi chiều sâu đặt móng
không quá lớn thì dùng móng nông sẽ hợp lý hơn về kinh tế-kỹ thuât. Đồi với nhà cao
<=4 tầng thì giải pháp móng nông là thích hợp. Nếu điều kiện cho phép thì nên mở
rộng đế móng để tăng diện tích móng, làm giảm áp lực lên nền. Khi nhà xây dựng trên
nền đất thì móng phải đặt sâu >=0.5m.
Khi móng không cùng độ cao thì phải dùng chiều sâu đặt móng khác nhau, tức
là phải làm giật bậc (hình 5). Với nền tốt thì tỷ số giữa chiều cao và chiều rộng của bậc
nên <=1:1, chiều cao một bậc b<=1m, với nền yếu thì tỷ số này nên <=1:2 và b<=0.5m
chiều dài l mỗi bậc nên >=1m.
Khi xây giật bậc phải xây chỗ thấp trước.
2.4 Làm móng khi nhà sát các công trình đã có chú ý:
Trong thực tế thường gặp xây dựng nhà mới sát cac công trình đã có, nhất là ở
độ thị. Các công trình mới sẽ phải tính toán, xem xét kỹ công trình đã có để khi thi
công tránh gây hư hỏng nhà bên. Nếu móng nhà mới là móng nông thì thường chọn
chiều sâu đặt móng ngang với chiều sâu đặt móng của công trình liền kề đã có, vì nếu
đặt nông hơn (hoặc cao hơn), sẽ không tốt cho móng nhà mới, đặt sâu hơn (thấp hơn)
thì nguy hiểm công trình liền kề. Khi buộc phải đặt sâu hơn thì không được đặt móng
mới quá sát móng cũ, nhất là liền với móng cũ. Khi đặt nông hơn cũng không được đè
lên móng cũ. Bất cứ trường hợp nào cũng cần đặt móng nhà mới tách rời móng công
trình đã có liến kề (móng cũ).
Nếu móng nhà mới là móng sâu thì ảnh hưởng đến công trình liên kề, tuy vậy
không ép cọc quá gần móng cũ.
Chú ý là khi nhà mới dùng móng cọc khoan nhồi thì có thể làm rút nước, đất từ nền
công trình liền kề có thể trôi theo nước làm tăng lún, thậm chí gây trượt công trình liền
kế. Nếu công trình liền kề quá yếu hoặc nền quá yếu thì phải đặt móng mới cách xa
>=4m và làm đầm cong –xon đề vườn sàn ra, khi đào hố móng mới phải đặc biệt cẩn
thận.
Các bộ phận ngầm (đường ống kỹ thuật để cấp – thoát nước, bể chứa nước, bể
nước thải, tầng hầm…) cần thi công cùng với móng hoặc trước lúc lấp hố móng.
CHƯƠNG 3 KHUNG
1.
2.
3.
4.
3.1 Khung nhà như thế nào?
Khung nhà gồm cột và dầm. Khung nhà dùng chịu lực cho nhà. Khung nhà có độ cứng
không gian lớn hơn, ổn định hơn và chịu chấn động tốt hơn sơ đồ kết cáu tường chịu
lực, do đó khi nhà bị lún lệch và phát sinh vết nứt thì vết nứt phát triển chậm. Nhà
khung chịu lực tiết kiệm được vật liệu, trọng lượng bản thân nhỏ hơn, hình thức kiến
trúc nhẹ nhàng nhưng thi công phức tạp và thường đắt hơn.
Các loại khung nhà
Theo vật liệu, có khung bê tông cốt thép, khung gạch-đá, khung gỗ tre, khung thép.
Sau đây là 1 số loại
Khung bê tông cốt thép: do các cột và dầm bê tông cốt thép liên kết với nhau tạo nên,
được dùng nhiều nhất trong các công trình hiện nay.
Khung gạch đá là khung kết hợp: cột gạch – đá, dầm bê tông cốt thép, dầm gỗ hoặc
dầm thép, liên kết với nhau chỉ dùng cho nhà đến 2 tầng và nền tốt.
Khung gỗ tre là khung cổ truyền, bao gồm cột, thường đắt, xà ngang, xà dọc bằng gỗ,
tre và liên kết bằng mộng, bu lông, đinh, đinh đỉa (liên kết giữa cột và kèo thì phải
dùng con xỏ còn gọi là chốt bằng tre hoặc bu – lông, đinh, đinh đỉa). Khung gỗ tre
không dùng cho nhà nhiều tầng bằng gỗ.
Khung thép
-
CHƯƠNG 4 CỘT
Cột nhà có cột gạch, đá, gỗ, tre, bê tông cốt thép hoặc thép
4.1 Cột bê tông cốt thép:
Cột thường có tiết diện vuông hoặc hình chữ nhật. Cột tiết diện vuông thông
dụng trong nhà dân dụng là cột 200x200; đối với nhà cao tầng các cột có trong khung
có thể là hỗn hợp để vừa đảm bảo kết cấu chịu lực, vừa đảm bảo tính mỹ thuật cho
ngôi nhà. Cột chữ nhật thường cạnh lớn bằng 1.5-2 lần cạnh nhỏ. Khoảng cách các cột
thường từ 3-3.5m. Có thể lớn hơn: 4.5-5m nhưng khi đó chiều cao dầm lại lớn. Trong
cột bê tông cốt thép thì cốt dọc (cốt chịu lực) thường đặt đối xứng, có đường kính
D12-22mm và số thanh >=4, cốt đai (ngang) dùng D8, đặt cách nhau 150-200mm, Bê
tông của cột BTCT thường M200. Lớp bê tông bảo vệ cootjt có chiều dày không nhỏ
hơn:
20mm khi cột ở nơi khô ráo trong nhà.
25 mm khi cột ở ngoài trời.
30mm khi cột ở nơi ẩm ướt.
Lớp BT bảo vệ cốt thép đai của cột >=15mm.
4.2 Cột gạch đá:
Cột gạch đá (cột xây bằng gạch đá) để đỡ dầm, vì kèo, sàn…Dầm, vì kèo, sàn
…không đặt trực tiếp lên cột gạch đá, mà phải qua bản bê tông cốt thép hoặc đơn giản
hơn là lớp vữa xi măng –cát M>=50, dày 30mm, rải đều trên đỉnh cột hoặc đệm gỗ.
Cột xây có tiết diện vuông, chữ nhật, tám canh, tròn, chữ thập…Để tăng cường khả
năng chịu lực của cột, nhất là cột chịu uốn thì nên đặt cốt thép hoặc lõi bê tông cốt
thép trong cột xây gạch đá: đặt ngang trong mạch vữa ngang (lưới ô chữ nhật hoặc
lưới dích dắc) hoặc dọc (đặt cốt thép bên trong hoặc bên ngoài cột).
4.3 Cột gỗ - tre:
Cột gỗ tre dùng cho nhà cấp 4 hoặc dùng cho nhà đặc biệt (xây dựng bằng gỗ tốt).
Cột tre phải thẳng, già đường kính cây >=100mm, chiều dài >=2,2m. Chỉ nhà tạm thì
dùng cột tre, cột tre được chôn xuống đất 0.5-0.6m (sau khi đã quét bitum chống ẩm),
nhà bình thường cột tre kê lên gạch đá, hoặc viên bê tông.
Cột gỗ thường có dạng tròn, đường kính >=100mm hoặc vuông 140x140, 160x160…
Cột gỗ có thể liên kết với vì kèo hoặc xà ngang bằng mộng, hoặc kết hợp với bu lông
(Nên kết hợp mộng và bu lông thì chắc hơn). Để chống gió bão, cột gỗ cần liên kết
chặt xuống nền móng bằng bật thép đuôi cá chôn sẵ trong bê tông gạch vỡ hoặc bê
tông mác thấp và bu lông. Để tránh ẩm, cột gỗ được kê lên đá tảng, gạch xây hoặc bê
tông và chân cột gần sát nền nhà cần quét bitum.
Cột thép: Trong nhà dân dụng phổ thông ít dùng.
CHƯƠNG 5
-
DẦM
Các loại dầm
Dầm thường có tiết diện chữ nhật (đặt đứng, không được đặt nằm tức là chiều cao
>chiều rộng). Các loại dầm sau:
Theo tính chất chịu lực có: dầm đơn, dầm liên tục, dầm công –xon.
Theo cách truyền tải trọng, có: dầm chính, dầm phụ.
Theo công dụng. có: dầm chính, dầm phụ…
Theo vật liệu, có: dầm bê tông cốt thép, dầm gỗ, dầm tre, dầm kim loại.
5.1 Dầm đơn:
Dầm đơn (hay còn gọi là dầm 1 nhịp) là dầm hai đầu đặt lên gối tựa (cột hoặc tường).
Phía trên của dầm đơn chịu nén, phía trước chịu kéo do vậy nếu là dầm BTCT thì cốt
thép chịu lực (dọc) đặt phía dưới là chính. Để chống lực cắt ở gần gối tựa, nên có thêm
cốt thép xiên. Cốt thép đai cũng có tác dụng chống lực cắt.
Dầm phải gối vào cột hoặc tường một đoạn không nhỏ hơn nửa chiều cao dầm (h/2).
5.2 Dầm liên tục:
Dầm liên tục (dầm nhiều nhịp) là dầm nhiều gối đỡ (tựa), tương tự như nhiều dầm đơn
ghép lại.
5.3 Dầm công –xon:
Dầm công –xon là dầm chỉ ngàm một đầu, một đầu tự do. Dầm công –xon chịu
lực gần như ngược với dầm đơn: lực kéo phía trên, chịu lực nén phía dưới. Dầm công
–xon thường dùng cho ban công, ô văng, sê – nô.
Dầm bê tông cốt thép:
Dầm bê tông cốt thép chó chiều cao h của tiết diện tính theo nhịp l của dầm:
h=1/m l
M: 5-7 đối với dầm công xon
M: 8-12: đối với dầm chính
15-20: đối với dầm phụ
>20: đối với dầm liên tục
`
Nếu các dầm phụ đặt gần nhau (300-700mmm) thì chiều cao h của nó lấy bằng
½-1/3 chiều dài của dầm phụ nó.
Chiều rộng b của tiết diện dầm bê tông cốt thép lấy bằng (1/2-2/3)h. Trong nhà
khung bê tông cốt thép, chiều rộng b của tiết diện dầm thường lấy bằng chiều rộng côt.
Người ta khuyên rằng, tỉ số giữa hai chiều của tiết diện dầm nên lấy theo “tỷ số
vàng”.Trong thực tế người ta thường lấy kích thước tiết diện dầm (mm) như bảng 1
sau:
h
b
160
100
220
120
250
150
300
200
400
250
Nguyên tắc đặt cốt thép:
Nguyên tắc đặt cốt thép trong dầm là cốt thép chịu lực đặt ở vùng dầm chịu
kéo, vùng dầm chịu kéo chỉ đặt cốt thép theo cấu tạo (không chịu lực). Số lượng và
đường kính vủa cốt théo chịu lực đặt theo tính toán. ĐƯờng kính cốt thép chịu lực
trong dầm thường lấy D12-D32 và không được nhỏ hơn b/10 (b là chiều rộng dầm(.
Thông thường khi b<150mm thì đặt 2 thanh, khi b>=150mm thì đặt 4 thanh cốt thép
chịu lực. Cốt thép chịu lực đặt ở phiwas dưới dầm có thể có đường kính lớn hơn hoặc
số thanh nhiều hơn phía trên, chẳng hạn nếu dầm đặt 2 thanh thì thanh phía dưới dầm
có thể có đường kính lớn hơn, nếu dầm đặt 3 thanh thì phía dưới dầm có 2 thanh, nếu
dầm đặt 4 thanh thì 2 thanh phía dưới dầm có thể dùng đường kính lớn hơn, nếu dầm
có 5 thanh thì phía dưới dầm có 3 thanh.
Đoạn dầm trên gối tựa cần đặt thêm các cốt thép xiên để chống lực cắt và tránh
nứt xiên (hình 6). Nếu cốt thép phía dưới >=3 thanh thì chỉ cần trừ lại 2 thanh ở góc,
các thanh còn lại có thể uốn lên phía trên. Các thanh uốn lên phải đối xứng với trục
dầm và uốn xiên góc 450 (khi dầm thấp có thể uốn thoải khoảng 30 0 khi dầm cao có
thể uốn dốc khoảng 600). Đầu các thanh uốn xiên này phải có đoạn nằm ngang dài D20
trong vùng chịu kéo và D10 trong vùng chịu nén. Khi không kết hợp được cốt thép dọc
uốn làm cốt thép xiên thì cần đặt thêm cốt thép xiên dạng vai bò (hình 7a), không được
dùng cốt thép xiên dạng cổ ngỗng (hình 7b).
Để thuận tiện cho thi công, tỏng mỗi dầm không dùng qua ba cỡ đường kính cốt thép
và trong mỗi tiết diện dầm thì cốt thép chịu lực không nên chênh lệch nhau quá 6mm.
Cốt thép cầu tạo (cốt thép giá) có đường kính D
D10-d12: Đối với dầm phụ
D12-D14 đối với dầm chính.
Cốt thép đai (cốt thép ngang) có tác dụng tiếp nhận lực cắt, gắn chặt vùng chịu kéo và
vùng chịu nén của dầm, định vị cốt thép dọc. Cốt thép đai dùng D6, đặt cách nhau
120-180mm (gần gối tựa đặt dày hơn).
Cần chú ý, nếu dầm nhỏ quá, cốt thép có thể phải đặt gần nhau quá sẽ khó đầm
đảm bảo chất lương bê tông đầm, ngược lại nếu đầm lớn quá thì có thểm giảm được
lượng cốt thép nhưng lãng phí bê tông và không mỹ quan, mà chưa chắc chịu lực đã
tốt hơn.
Dầm bê tông cốt thép có bê tông mác thường 150-200. Lớp bê tông bảo vệ cốt
thép của dâm như cột BTCT.
5.4 Dầm gỗ:
Dầm gỗ được dùng trong khung gỗ, tre, dầm đỡ sàn gỗ, dầm đỡ ván ghép trên
sàn bê tông cốt thép, dầm treo trần…Không được khoan dầm gỗ để đặt đường điện,
đường nước.
5.5 Dầm thép:
Dầm thép ít được dùng trong xây dựng nhà ở.
CHƯƠNG 6 SÀN
1.
2.
1.
2.
3.
4.
6.1 Định nghĩa sàn:
Sàn được đặt trên trường hoặc dầm. Nếu sàn đặt trực tiếp trên trường hoặc đặt
trên dầm lẫn vào tường thì gọi là “bản phẳng”, nếu sàn có dầm đỡ thì gọi là “bản
sường”. Bản phẳng tận dụng được chiều cao của phòng và không phải làm thêm trần,
bản sường làm giảm chiều cao của phòng (do chiều cao của dầm chiếm) và có cảm
giác nặng nền nên phải làm trần để che dầm.
Tường và dầm chia sàn thành các ô (thường là ô chữ nhật). Dầm dọc là dầm đặt
theo cạnh dài của ô sàn, dầm ngang là dầm đặt theo cạnh ngắn của ô sàn.
Hai sơ đồ hệ dầm sàn:
Tại chỗ dầm dọc và dầm ngang giao nhau đều có cột thì gọi là dầm “dầm sàn”, không
phân biệt dầm chính, dầm phụ.
Có những dầm dọc không đặt trực tiếp lên cột mà đặt lên dầm ngang, làm việc như
dầm phụ, còn dầm ngang thì đóng vai trò dầm chính.
Thông thường, khi sàn có chiều dài >=6m. các dầm chính đặt trong chiều rộng của sàn
hoặc nhà, cách nhau 4-6m, dầm phụ đặt vuông góc với dầm chính. Trong phạm vi mỗi
nhịp của dầm chính (khoảng cách giữa hai cột). có thể đặt 1-3 dầm phụ (hoặc nhiều
hơn), trong đó nên có dầm phụ đặt ngay trên đầu cột. Khoảng cách giữa các dầm phụ
phụ thuộc loại bản (sàn) và hoạt tải (tải trọng di động) với bản sường loại dầm thì các
dầm phụ đặt cách nhau 1,5-3m (có thể đến 3,6m), với bản kê bốn cạnh thì cac dầm phụ
đặt cách nhau 2,5-3,5m (có thể đến 4m). Dầm chính phải đặt vào tường 0.2-0.25m.
Nếu sàn chỉ đặt lên hai cạnh đối diện nhau hoặc đặt lên 3-4 cạnh nhưng tỉ lệ
cạnh dài và cạnh ngắn >=2 thì gọi là “bản dầm”, nếu tỉ lệ đó <2 thì gọi là “bản chịu lực
hai phương”. Bản dầm phải đặt lên tường hoặc dầm một đoạn >=120mm.
Sàn có sàn ngăn các tầng, sàn mái bằng, sàn khu phụ, sàn ban công…
Sàn có nhiệm vụ chịu lực và ngăn che, đóng vai trò khá lớn trong việc đảm bảo
tính ổn định và độ cứng không gian của nhà.
6.2 Các thành phần chính của sàn:
Sàn có hai phần chính: chịu lực và mặt sàn. Phần chịu lực của sàn có thể bằng bê tông
cốt thép, thép, gỗ, gạch…nhưng thông dụng nhất là bê tông cốt thép đổ tại chỗ. Mặt
sàn có thể lát bằng gạch (đất sét nung, men, là nem…) tấm granito, gỗ (ghép, pac – kê)
hoặc láng trải thảm.
Các yêu cầu về mặt sàn:
Vật liệu cần chống được sự mài mòn và va chạm
Dễ bảo dưỡng, chống đọng bẩn và biến màu.
Mùa hè mát, mùa đông ấm
Thẩm mỹ khi ở
Sàn có sàn bê tông cốt thép và sàn gỗ.
6.3 Sàn bê tông cốt thép:
Sàn bê tông cốt thép có thể gác lên dầm bê tông cốt thép, dầm gác lên tường và
cột hoặc dầm chỉ gác lên tường.
Bản phẳng bê tông cốt thép tốn cốt thép, tốn bê tông hơn bản sườn bê tông cốt
thép.
Người ta thường lộn ngược bản sường bê tông cốt thép (cho dầm lên trên) để
phẳng phía dưới, do đó không cần phải làm thêm trần phía dưới và tận dụng các hộc
phía trên để cách âm.
Thường thường người ta hay lấy chiều dày của sàn bê tông cốt thép đổ tại chỗ
là 60-80mm, sàn mái và sàn khu phụ là 50-70mm. Nhưng thông thường người ta lấy
100mm chung. Không nên làm sàn dày quá, sẽ tăng khối lương bê tông đáng kể nhưng
mỏng quá sàn sẽ bị rung khi đi lại. Chiều dày sản chủ yếu phụ thuộc loại sàn, chiều
rộng của sàn. Khi các dầm phụ đặt gần nhau (cách nhau 300-700mm) thì được “bản
dày sườn” chỉ cần dày 30-50mm. Lớp bê tông bảo vệ cốt thép dày >=10mm (nhà ở
vùng biển thì lớp bảo vệ bê tông cốt thép dày >=12mm).
Thông thường ở vùng giữa ô sàn thì phía dưới chịu kéo, phía trên chịu nén, ở
vùng xung quanh ô sàn thì ngược lại. Cốt thép trong sàn vẫn bố trí theo nguyên tắc là
đặt cốt thép chịu lực ở vùng chịu kéo (uốn) và không được nhầm lẫn. Dùng cốt thép
D6-D8.
Đối với sàn bản dầm, cốt thép chịu lực đặt ở phía dưới, theo chiều ngắn của ô
sàn, đặt cách nhau 70-150mm (ở vùng giữa ô sàn đặt dày hơn).
Tại vùng sàn sát tường thường có Mô men âm nên cần bẻ 2/3 số thanh chịu lực
(cách 1 bẻ 2) một đoạn l0/10 với góc bẻ a =300 (l0 là khoaongr cách giữa hai gối tựa)
lên phía trên để tiếp nhận ứng suất kéo do mô men âm gây ra. Các thanh còn lại phía
dưới sàn (không bẻ lên) phải còn >3 thanh trên 1m dài. Cốt thép phân bố là D6, đặt
vuông góc với cốt thép chịu lực, cách nhau <=350mm nhưng không được <3 thanh
trên một mét dài.
Khi sàn nhô ra ngoài gối tựa (tường) để làm mái đua, ban công..thì phần nhô ra
là bản công – xon nhất thiết phải đặt cốt thép ở phía trên sàn. Khi phần nhô ra không
lớn lắm (<=400mm) để che cho phía dưới, làm sê-nô…thì có thể hạ thấp phần sàn nhô
ra. Tùy theo số lượng gối tựa mà người ta phân bản sường thành bản công –xon, bản
một nhịp, bản nhiều nhịp. Đối với bản nhiều hơn hai nhịp, cốt thép chịu lực đặt phía
dưới, dùng D6-D8 đặt như bản dầm. Tại vùng sàn sát tường và trên các gối tựa cũng
uốn cốt thép và đặt thêm cốt thép phía trên như bản dầm. Mút cốt thép phía dưới cần
được neo chắc vào gối tựa, đặc biệt là ở gối biên kê tự do.
Đối với sàn chịu có dầm liên kết bốn bên thì ở các ô sàn nhịp giữa và gối giữa
(phần gạch chéo hình 8) được phép giảm cốt thép đến 20%. Đối với các ô sàn nhịp
biên và gối thứ 2, nếu chỉ có dầm ở ba bên thì không được giảm bớt cốt thép.
Nếu sàn có lỗ hổng mà mép lỗ hổng không có dầm thì phải đặt cốt thép chịu lực
như dầm chìm trong sàn. Đầu giao nhahu ở hai dầm vuông góc quanh lỗ hổng và vùng
sàn gầm đó cần thêm cốt thép chống ứng suất cục bộ.
Hình 8
Cốt thép sàn nên buộc tất cả các nút, nhất là hai hàng nút sát biên.
Mặt sàn BTCT lát bằng gạch men, gốm, gạch xi măng, hoặc tấm granito…nhưng lát
bằng gạch nung thì ít bị hiện tượng nồm. Mặt sân cũng có thể láng bằng vữa xi măng –
cát Mác >=50.
Bê tông sàn khu phụ (bếp, xí, tắm) dùng M200 và cần khống chế tỉ lệ N/X nên
dùng xi măng chống giãn nở, phụ gia chống thấm, ngâm nước xi măng. Thường dùng
gạch chống trượt vữa M75 để lát khu phụ. Khi lát sàn khu phụ chú sý cần đánh dốc
>=2% về phía rãnh hoặc lỗ thoát nước. Sàn khu phòng tắm khi hoàn thiện cần thấp
hơn 1 chút (khoảng 3-5cm) so với cốt sàn hành lang, phòng ngủ khi hoàn thiện. Phòng
tắm nên lát bằng loại gạch chất lượng tốt và nên có chút trang trí hoa văn.
Sàn ban công nhô ra không nên rộng quá 1,4m để tránh lật, vóng, gẫy…Sàn ban
công chịu lực phức tạp nên phải chú ý khi đặt cốt thép. Với ban công rông <0.8m thì
có thể không cần dầm, khi đó đặt cốt thép chịu lực theo chiều rộng phía trên. Khi ban
công ba bên có dầm (chỉ bên ngoài không có dầm) thì vùng bên ngoài bị uốn phía
dưới, khi đó tốt nhất (an toàn nhất) là đặt hai lớp cốt thép trên và dưới (theo chiều rộng
vẫn là cốt thép chịu lực). Khi bốn bên đều có dầm thì vũng giữa bị uốn phía dưới (như
sàn mà xing quanh đều có dầm). Mặt ban công cần thấp hơn mặt phòng trong và dốc
-
ra bên ngoài, lát bằng gạch không có hoa văn hoặc láng bằng vữa Xi măng – cát Mác
>75.
6.4 Sàn gỗ;
Sàn gỗ có ưu điểm là nhẹ, thi công đơn giản nhưng kém bền và không chịu được ấm
thấp, va đập và lửa…Để bảo vệ gỗ, gỗ làm sàn phải được sấy khô kỹ, thông hơi tốt. Để
tăng tính chịu lửa của gỗ làm sản phải quét phủ các chất chống cháy cho gỗ. Sàn gỗ
dùng hợp lý khi có khẩu độ <=4m, khi khẩu độ lớn hơn 4m thì dùng sàn gỗ không
kinh tế.
Khi xây dựng nhà, sàn gỗ chỉ gặp kiểu sàn dầm. Khi sàn gỗ có khẩu độ <=4m thì kết
cấu chịu lực là hệ dầm gỗ đặt cách đều và song song với nhau, khi khẩu độ lớn hơn 4
thì phải bố trí thêm các dầm chính cách nhau 3-4m và đặt dầm theo cạnh ngắn của sàn.
Chiều cao của tiết diện dầm chính phụ thuộc khẩu độ sàn và thường lấy bằng 1/20 –
1/15 khẩu độ sàn. Chiều rộng của tiết diện dầm chính lấy bằng 2/3 -2/5 chiều cao.
Bố trí dầm phụ:
Dầm phụ gác lên dầm chính dọc
Dầm phụ gác lên dầm chính ngang.
Dầm phụ đặt cách nhau 700, 800 hoặc 1000mm. Chiều cao của tiết diện dầm phụ
tường lấy 160,180,200 hoặc 220 phụ thuộc vào khẩu độ dầm đó. Chiều rộng của tiết
diện dầm phụ lấy 80-100mm.
Các dầm gỗ có thể bằng gỗ hộp đặc có tiết diện hình chữ nhật, cũng có thể bằng gỗ
ghép (kinh tế hơn) có tiết diện chữ T (hình 10).
Khi gác dầm chính lên tường, phải liên kết dầm vào tường thật chắc để đảm bảo độ
cứng và độ ổn định chung của nhà. Liên kết này có thể theo kiểu dầm gác đối đầu qua
lỗ tường hình 11a. hoặc dầm gác vào hốc tường (hình 11b) hoặc dầm gác lên gờ tượng
(11c). Liên kết như hình 11a ít được dùng vì thi công phức tạp và việc đảm bảo dầm
gỗ khó khăn. Liên kết như hình 11b thì hốc tường phải đủ rộng và sâu để đầu dầm gác
lên tường mà không bị thức hay cần vào tường, phần dầm gỗ nằm trong hốc tường
phải bọc giấy dầu, quét bitum, đầu dầm có thể đặt ngay trên vữa hoặc gạch nhưng tốt
nhất nên đặt dầm trên đệm gỗ hoặc tôn.
Giữa dầm chính và dầm phụ, giữa các dầm phụ với nhau có thể liên kết theo
kiểu mộng, đai thép, tựa trực tiếp lên mặt dầm hoặc tai dầm nhưng cần có biện pháp để
cố định chúng, nhất là chỗ hai dầm phụ gác đối đầu lên dầm chính. Người ta thường
dùng thép bản làm đai giằng hai đầu dầm phụ với nhau. Dầm phụ gác lên dầm chính
có thể như ở hình 12:1 – dầm chính 2- dầm phụ.
Sau khi làm hệ chịu lực bằng các dầm chính và dầm phụ thì ghép mặt sàn bằng
gỗ. Cách ghép mặt sàn bằng gỗ tương tự như chép mặt sàn bằng gỗ trên sàn bê tông
cốt thép nhưng ở đây thường dùng các ván gỗ tự nhiên.
-
-
-
-
CHƯƠNG 7 TƯỜNG
Tường nhà có: tường xây gạch, tường đổ bê tông tại chỗ và tường lắp ghép (ít được
dùng)
Các loại tường xây:
Theo tính chất chịu lực, có: tường chịu lực, tường không chịu lực, tường treo
Theo công cụ, có: tường ngoài (tường bao che), tường tong (tường ngăn), tường móng,
tường tầng hầm, tường chắn, tường vượt mái, tường thu hồi, tường khu phụ…
Theo vật liệu xây, có : tường gạch, tường đá, bê tông thủ công, tường trình…
Theo cấu tạo, có: tường đặc, tường rỗng, tường nhiều lớp…
Ngoài ra còn có tường bổ trụ (trụ liền tường), tường lấp khung, tường cong, tường có
trát vữa, tường không trát vữa…
Tường xây không nên cao cáo, nếu muốn xây cao thì tường phải dày, vữa tốt và phải
có trụ. Tường xay nên tăng cường các trụ cách nhau 1.8-1,2m, nhất là hai bên cửa. nên
có giằng tường bao quanh nhà để tường thành một khối và dễ liên kết với mái.
7.1 Tường gạch:
Tường gạch dùng phổ biến khi xây dựng nhà. Gạch xây tường phải đạt mác thiết kế,
độ hút nước 8-12%. Không sai kích thước lớn, mặt phải phẳng, cạnh thẳng, không bị
nứt, sứt mẻ >15mm, trong viên gạch không lẫn đá vội, sạch, các chất bẩn. Vữa xây
tường gạch phải đạt mác thiết kế, có độ dẻo (cm) như sau:
Khi xây gạch đất sét nung đặc:
+ 8-13: nếu trời hanh khô, nắng gắt.
+ 6-8: nếu trời ẩm ướt
Khi xây gạch có lỗ: 7-8
Khi xây gạch xỉ: 10-13
Khi xây các gạch khác: 4-6
Theo chiều dày, tường gạch có các loại: tường ¼ gạch (không được xây cao quá 3m và
chiều dài <=4m. vữa xây có M50, thường làm tường ngăn), tường ½ gạch (xây vữa
mác 25-50, thường làm tường ngăn, tường thu hồi, tường nhà cấp 4…); tường 1 gạch
(xây vữa mác 1-25; thường làm tường chịu lực, tường ngoài, nhất là tường hồi và
tường phía tây), tường 1.5 gạch (xây vữa mác 10-25), tường =>2 gạch (xây vữa m1025, thường làm tường tầng hầm, tường móng)…
Tường xây gạch si li cát phải dày =>250mm (1 gạch) và các mảng tường giữa các lỗ
cửa phải có chiều rộng =>1000mm, xây bằng vữa M=>25.
Tường xây gạch cay (gạch cay đất và gạch cay xỉ lò vôi) xây nhà tạm, nhà cấp 4,
tường lấp khung, tường ngăn..Tường gạch cay có chân dày 400mm, cao 0,6-0,8m,
móng đặt sâu 0,2-0,4m, thân tường dày 200mm, cao 1.2-1.5m. Tường gạch cay đất xây
bằng vữa đất sét hoặc vữa đất sét trộn vôi. Tường gạch cay xỉ lò vôi nếu thân tường
xây bằng gạch đất sét nung thông thường càng tốt, nếu làm tường chịu lực, xây bằng
vữa vôi – cát, vôi – cát đất sét. Nơi ẩm hoặc nơi nhiệt độ cao thì không dùng được
tường cay.
-
-
7.2 Tường đá
ở những nơi sãn có đá xây thì xây tường đá kinh tế hơn tường xây bằng gạch, nhưng
tường đá cũng chỉ nên xây tường hầm, tường tầng 1 và tầng 2 của nhà đến hai tầng, vì
khối lượng thể tích của đá lớn làm tăng trọng lượng của nhà. Tường có thể xây bằng
bất cứ loại đá nào: đá hộc, đá ba lát. Đá phiến, đá ong, đá vôi vỏ sò, đá cát kết…tuy
vậy thông dụng nhất là đá hộc, đá đẽo, đá ong. Đá xây tường phải đạt mác thiết kế, đủ
độ cứng, độ đặc chắc, phải ít thấm nước, chịu được mài mòn, cách nhiệt…và không có
vết nứt, không bị phân lớp, không bị phong hóa, không lẫn tạp chất (sét, tạp chất dễ
hòa tan, dễ phân rã…) không bị bẩn, rêu bám. Vữa xây tường đá phụ thuộc loại đá,
loại tường, mác vữa có thể lấy như sau:
=>25 khi xây đá mac =>50
10-25 khi xây đá mác 25-50
Các loại tường đá khác nhau có các yêu cầu khác nhau. Khi xây tường đá không tát thì
mặt vữa như tường gạch không trát
Tường bằng đá hộc có chiều dày 300-800mm, chiều cao <10 lần chiều dày tường. Đá
hộc xây tường có chiều dài =>250mm, chiều dày =>100mm, chiều rộng =>200mm.
Những viên đá hộc dùng để giằng phải =>300mm, mặt phô ra ngoài phải có diện tích
=>300mm2, độ lõm <=30mm. Mỗi viên đá hộc để xây không nên có kích thước quá
450x250x200mm hoặc nặng quá 20kg. Những viên đá lớn dùng để xây chân tường,
góc tường và mặt tường. Những viên đá vừa và nhỏ dùng để xây thân tường, xen kẽ
với đá lớn. Những viên đá vụn dùng để chèn. Khi xây tường đá hộc phải có =>70%
viên đá hộc năng 10-20kg.
Tường xây bằng đá ba lát có thể xây cao lên đến 4m, dày 220-250mmm.
Tường xây bằng đá đẽo có loại đẽo kỳ hai mặt để xây góc tường và đẽo kỹ một mặt để
xây khe lún. Khi xây cần phối hợp các viên đá to và các viên đá nhỏ cho hợp lý, tạo
mạch xây dạng “hoa thị” (hình 13a), không được có quá nhiều viên đá bốn cạnh (1 ở
hình 13b) hoặc viên đá lõm mặt (2 ở hình 13c).
Tường xây đá đẽo theo kiểu tổ ong như ở hình 14.