Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

tổ chức và hoạt động của thanh tra huyện – thực tiễn tại thanh tra huyện phong điền thuộc thành phố cần thơ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (774.45 KB, 76 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
KHÓA 37 (2011-2015)
Đề tài:

TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA THANH TRA HUYỆN –
THỰC TIỄN TẠI THANH TRA HUYỆN PHONG ĐIỀN
THUỘC THÀNH PHỐ CẦN THƠ

Giảng viên hướng dẫn:

Sinh viên thực hiện:

ThS. DIỆP THÀNH NGUYÊN

TRẦN VĂN THÀNH

Bộ môn Luật Hành chính

MSSV: 5115753

Khoa Luật - Trường Đại học Cần Thơ

Lớp: Luật Hành chính – K37

Cần Thơ, tháng 11/2014


NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG CHẤM LUẬN VĂN



......................................................................................................................................................
......................................................................................................................................................
......................................................................................................................................................
......................................................................................................................................................
......................................................................................................................................................
......................................................................................................................................................
......................................................................................................................................................
......................................................................................................................................................
......................................................................................................................................................
......................................................................................................................................................
......................................................................................................................................................
......................................................................................................................................................
......................................................................................................................................................
......................................................................................................................................................
......................................................................................................................................................
......................................................................................................................................................
......................................................................................................................................................
......................................................................................................................................................
......................................................................................................................................................
......................................................................................................................................................
......................................................................................................................................................
......................................................................................................................................................
......................................................................................................................................................

.....................................................................................................................................


Đề tài: Tổ chức và hoạt động của Thanh tra huyện – Thực tiễn tại Thanh tra huyện Phong
Điền thuộc thành phố Cần Thơ


MỤC LỤC

Trang
LỜI NÓI ĐẦU ........................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THANH TRA ......................................... 3
1.1. Sơ lược sự hình thành và phát triển của pháp luật nước ta về thanh tra ..... 3
1.2. Khái quát về thanh tra .................................................................................... 4
1.2.1. Khái niệm thanh tra ................................................................................... 4
1.2.2. Đặc điểm của thanh tra.............................................................................. 5
1.2.3. Phân biệt thanh tra với một số hoạt động khác ......................................... 7
1.2.3.1. Thanh tra với giám sát.......................................................................... 7
1.2.3.2 .Thanh tra với kiểm tra .......................................................................... 8
1.3. Vai trò của hoạt động thanh tra ................................................................... 10
1.4. Nguyên tắc hoạt động thanh tra ................................................................... 12
1.4.1. Nguyên tắc tuân theo pháp luật của hoạt động thanh tra ....................... 12
1.4.2. Nguyên tắc đảm bảo tính chính xác, khách quan, trung thực, công khai
dân chủ và kịp thời trong hoạt động thanh tra .................................................. 13
1.4.3. Nguyên tắc không làm cản trở hoạt động bình thường của cơ quan, tổ
chức, cá nhân là đối tượng thanh tra ................................................................ 14
1.4.4. Nguyên tắc không trùng lặp về phạm vi, đối tượng, nội dung, thời gian
thanh tra giữa các cơ quan thực hiện chức năng thanh tra ............................. 15
1.5. Cơ quan thực hiện chức năng thanh tra ...................................................... 16
1.6. Những điểm mới của Luật Thanh tra năm 2010 so với Luật Thanh tra năm
2004 ....................................................................................................................... 16
CHƯƠNG 2: TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA THANH TRA HUYỆN ......... 21
2.1. Tổ chức của Thanh tra huyện ....................................................................... 21
2.1.1. Biên chế của Thanh tra huyện ................................................................ 21
2.1.2. Thành viên của Thanh tra huyện ............................................................ 22
2.1.2.1. Chánh Thanh tra ................................................................................ 22

2.1.2.2. Phó Chánh Thanh tra ......................................................................... 23
2.1.2.3. Thanh tra viên .................................................................................... 24
2.2. Nội dung hoạt động của Thanh tra huyện.................................................... 26
GVHD: ThS. Diệp Thành Nguyên

SVTH: Trần Văn Thành


Đề tài: Tổ chức và hoạt động của Thanh tra huyện – Thực tiễn tại Thanh tra huyện Phong
Điền thuộc thành phố Cần Thơ

2.2.1. Trong công tác thanh tra ......................................................................... 26
2.2.2. Trong lĩnh vực giải quyết nại, tố cáo ....................................................... 31
`2.2.2.1. Trong lĩnh vực giải quyết khiếu nại ................................................... 33
2.2.2.2. Trong lĩnh vực giải quyết tố cáo ........................................................ 35
2.2.3. Trong lĩnh vực phòng, chống tham nhũng .............................................. 37
2.3. Mối quan hệ giữa Thanh tra huyện với các cơ quan có liên quan .............. 40
2.3.1. Mối quan hệ giữa Thanh tra huyện với Thanh tra tỉnh .......................... 40
2.3.2. Mối quan hệ giữa Thanh tra huyện với Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát41
2.3.3. Mối quan hệ giữa Thanh tra huyện với Ủy ban nhân dân cấp huyện..... 41
2.3.4. Mối quan hệ giữa Thanh tra huyện với các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy
ban nhân dân cấp huyện……………………………………………………………..42
2.3.5. Mối quan hệ giữa Thanh tra huyện với Ủy ban nhân dân cấp xã ........... 42
CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA THANH TRA
HUYỆN PHONG ĐIỀN THUỘC THÀNH PHỐ CẦN THƠ - THỰC TRẠNG
VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỀ XUẤT ..................................................................... 44
3.1. Khái quát về huyện Phong Điền thuộc thành phố Cần Thơ........................ 44
3.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên............................................................. 44
3.1.2. Tình hình kinh tế - xã hội ........................................................................ 44
3.2. Thực tiễn tổ chức và hoạt động của Thanh tra huyện Phong Điền ............. 46

3.2.1. Tổ chức của Thanh tra huyện Phong Điền ............................................. 46
3.2.1.1. Chánh Thanh tra huyện ...................................................................... 46
3.2.1.2. Phó Chánh Thanh tra huyện ............................................................... 47
3.1.2.3. Thanh tra viên .................................................................................... 47
3.2.2. Hoạt động của Thanh tra huyện Phong Điền ......................................... 47
3.2.2.1. Trong công tác thanh tra .................................................................... 47
3.2.2.2. Trong lĩnh vực giải quyết khiếu nại, tố cáo ......................................... 48
3.2.2.3. Trong lĩnh vực phòng, chống tham nhũng........................................... 52
3.3. Thực trạng và những giải pháp đề xuất giúp nâng cao hiệu quả hoạt động
của Thanh tra huyện Phong Điền ........................................................................ 58
3.3.1. Thành tựu đạt được ................................................................................. 58
3.3.1.1. Trong công tác thanh tra .................................................................... 58
3.3.1.2. Trong lĩnh vực giải quyết khiếu nại, tố cáo ......................................... 58
GVHD: ThS. Diệp Thành Nguyên

SVTH: Trần Văn Thành


Đề tài: Tổ chức và hoạt động của Thanh tra huyện – Thực tiễn tại Thanh tra huyện Phong
Điền thuộc thành phố Cần Thơ

3.3.1.3. Trong lĩnh vực phòng, chống tham nhũng........................................... 59
3.3.2. Những hạn chế ........................................................................................ 60
3.3.2.1. Trong công tác thanh tra .................................................................... 60
3.3.2.2. Trong lĩnh vực giải quyết khiếu nại, tố cáo ......................................... 61
3.3.2.3. Trong lĩnh vực phòng, chống tham nhũng........................................... 62
3.3.3. Những giải pháp đề xuất ......................................................................... 63
3.3.3.1. Trong công tác thanh tra .................................................................... 63
3.3.3.2. Trong lĩnh vực giải quyết khiếu nại, tố cáo ......................................... 64
3.3.3.3. Trong lĩnh vực phòng, chống tham nhũng........................................... 65

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 68
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

GVHD: ThS. Diệp Thành Nguyên

SVTH: Trần Văn Thành


Đề tài: Tổ chức và hoạt động của Thanh tra huyện – Thực tiễn tại Thanh tra huyện Phong
Điền thuộc thành phố Cần Thơ

LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đất nước ta đang trên đà phát triển, hội nhập cùng nền kinh tế thế giới. Dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự nghiệp đổi mới bước đầu đã gặt hái được
nhiều thành tựu đáng kể. Nền kinh tế phát triển nhanh và đạt mức tăng trưởng khá
trong nhiều năm. Tuy nhiên, do chịu ảnh hưởng bởi mặt trái của nền kinh tế thị trường
nên việc quản lý nền kinh tế nói riêng và công tác quản lý nhà nước của các cơ quan
chức năng nói chung đã dần bộc lộ một số hạn chế nhất định. Ở nhiều nơi, khi công tác
quản lý nhà nước bị lơi lỏng đã gây nên tình trạng thất thoát ngân sách của Nhà nước
nghiêm trọng, các hiện tượng như tham nhũng, quan liêu ngày càng phát triển và lan
rộng; các vụ việc khiếu nại, tố cáo vẫn còn xảy ra nhiều, gây nên tình trạng mất đoàn
kết trong dân, ảnh hưởng đến công tác ổn định an ninh trật tự ở địa phương. Nguyên
nhân gây nên tình trạng trên là do hiệu quả hoạt động quản lý của Nhà nước chưa cao,
chưa đạt được yêu cầu nhiệm vụ và tình hình mới đặt ra.
Với mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân
và vì dân, đồng thời nhằm phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, Đảng và Nhà nước ta đã ra sức xây dựng một hệ thống pháp luật ngày càng
nghiêm minh, chặt chẽ hơn. Cùng với các cơ quan bảo vệ pháp luật, ngành Thanh tra
đã ra đời và giữ một vị trí quan trọng trong bộ máy nhà nước. Đây là một trong những

công cụ có hiệu quả của Nhà nước trong hoạt động quản lý, góp phần quan trọng vào
công cuộc đấu tranh, phòng và chống các hành vi vi phạm pháp luật, bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp cho Nhà nước, cơ quan, tổ chức và cá nhân.
Thanh tra vốn có vai trò là công cụ quản lý của Nhà nước. Mục đích chính của
thanh tra là tham mưu cho các chủ thể quản lý nhà nước các cấp kiểm soát việc chấp
hành pháp luật của các đối tượng chịu sự quản lý từ trung ương đến địa phương. Ngoài
việc phát hiện ra những sai phạm để xử lý thì hoạt động thanh tra cũng góp phần vào
việc hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách, pháp luật do Nhà nước ban hành. Thực
trạng của hệ thống pháp luật nước ta hiện nay đặt ra là có nhiều lĩnh vực còn thiếu
đồng bộ và chưa chặt chẽ, làm ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của cả nước nói
chung. Thông qua hoạt động của các cơ quan thanh tra, tình trạng sai sót, hạn chế
trong việc thực thi các chủ trương, chính sách, pháp luật đã sớm được phát hiện và
khắc phục kịp thời, góp phần quan trọng vào việc đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Nhận thức được tầm quan trọng của Thanh tra huyện trong hoạt động quản lý
nhà nước, người viết đã chọn đề tài: “Tổ chức và hoạt động của Thanh tra huyện –

GVHD: ThS. Diệp Thành Nguyên

1

SVTH: Trần Văn Thành


Đề tài: Tổ chức và hoạt động của Thanh tra huyện – Thực tiễn tại Thanh tra huyện Phong
Điền thuộc thành phố Cần Thơ

Thực tiễn tại Thanh tra huyện Phong Điền thuộc thành phố Cần Thơ” để thực hiện
bài luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Luận văn có mục đích phân tích những quy định của pháp luật hiện hành có liên

quan đến tổ chức và hoạt động của Thanh tra huyện, đồng thời tìm hiểu thực tiễn tổ
chức và hoạt động của Thanh tra huyện Phong Điền thuộc thành phố Cần Thơ. Trên cơ
sở đó, người viết cũng đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm khắc phục những mặt
hạn chế trong tổ chức và hoạt động của cơ quan này, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt
động của cơ quan và cũng để phục vụ tốt hơn cho lợi ích của người dân.
3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài luận văn có nội dung tương đối rộng và bao quát. Do đó, trong phạm vi
nghiên cứu của đề tài, người viết chỉ tập trung làm rõ một số nét khái quát, cơ bản nhất
liên quan đến tổ chức và hoạt động của Thanh tra huyện, thực tiễn tại Thanh tra huyện
Phong Điền, những kết quả đạt được cũng như những mặt hạn chế còn tồn tại trong tổ
chức và hoạt động của cơ quan này; từ đó có những đề xuất cơ bản nhằm nâng cao hơn
nữa hiệu quả hoạt động của Thanh tra huyện.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, người viết đã sử dụng các phương pháp so
sánh, phân tích luật, đối chiếu, thống kê để làm rõ những quy định của pháp luật liên
quan đến đề tài cũng như thực tiễn tổ chức và hoạt động của Thanh tra huyện Phong
Điền. Đồng thời, người viết cũng đưa ra một số giải pháp tuy còn hạn chế nhưng đó là
những trải nghiệm trong quá trình nghiên cứu đề tài và qua quá trình thực tập thực tế.
5. Bố cục của đề tài
Bố cục của luận văn ngoài phần lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo thì về phần nội dung gồm có 03 chương, được trình bày với các với các nội dung
chính như sau:
Chương 1: Khái quát chung về thanh tra
Chương 2: Tổ chức và hoạt động của Thanh tra huyện
Chương 3: Thực tiễn tổ chức và hoạt động của Thanh tra huyện Phong
Điền thuộc thành phố Cần Thơ - Thực trạng và một số giải pháp đề xuất

GVHD: ThS. Diệp Thành Nguyên

2


SVTH: Trần Văn Thành


Đề tài: Tổ chức và hoạt động của Thanh tra huyện – Thực tiễn tại Thanh tra huyện Phong
Điền thuộc thành phố Cần Thơ

CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THANH TRA
1.1. Sơ lược sự hình thành và phát triển của pháp luật nước ta về thanh tra
Ngay trong những ngày đầu xây dựng chính quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh và
Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà đã nhận được khá nhiều ý kiến từ các tầng lớp
nhân dân phản ảnh bằng thư từ, đơn kiện hoặc gặp gỡ trực tiếp bày tỏ nguyện vọng cần
sớm chấm dứt các hiện tượng, việc làm sai trái của một số nhân viên trong bộ máy
chính quyền các cấp, nhất là ở các địa phương. Từ thực tế đó, ngày 04/10/1945, lần
đầu tiên cuộc họp Hội đồng Chính phủ đã đưa ra vấn đề thành lập tổ chức Thanh tra.
Trong lúc chờ đợi có một Sắc lệnh thành lập Ban Thanh tra, Chính phủ giao cho cấp
trên quyền xét xử cấp dưới và đề nghị Bộ Nội vụ lập một Uỷ ban Thanh tra hành chính
để đi điều tra công việc hành chính ở các địa phương.
Giữa tháng 12/1949, tại phiên họp toàn thể, Hội đồng Chính phủ ra Quyết nghị
giải thể Ban Thanh tra đặc biệt và thành lập Ban Thanh tra Chính phủ đồng thời cử các
thành viên vào Ban Thanh tra Chính phủ. Ngày 18/12/1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký
Sắc lệnh số 138 B-SL thành lập Ban Thanh tra Chính phủ.
Trước nhiệm vụ mới của đất nước và trước yêu cầu cần thiết của công tác thanh
tra, xét khiếu tố, ngày 11/08/1969, Ủy ban Thanh tra của Chính phủ đã được thành lập
theo Nghị quyết số 780/NQ-TVQH của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa.
Cùng với sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, Ủy ban Thanh tra của
Chính phủ đã từng bước tăng cường, ổn định tổ chức. Các cán bộ lãnh đạo của Ủy ban
Thanh tra của Chính phủ lần lượt được bổ nhiệm.
Ngày 01/4/1990, Pháp lệnh Thanh tra - một văn bản mang tính pháp lý cao đã

được công bố. Pháp lệnh Thanh tra gồm 6 Chương, 41 Điều quy định về hệ thống tổ
chức, nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Nhà nước, tổ chức Thanh tra nhân dân và
trình tự thanh tra, Ủy ban Thanh tra Nhà nước được đổi thành Thanh tra Nhà nước.
Cho đến thời điểm này, đây là văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất của Nhà nước Việt
Nam về công tác thanh tra, tạo cơ sở pháp lý và xác định rõ vị trí của công tác thanh
tra trong sự nghiệp đổi mới đất nước.1
Theo thời gian, những quy định trong Pháp lệnh Thanh tra cũng bộc số một số
khuyết điểm nên có hiệu lực thi hành thấp. Để khắc phục hạn chế đó, Luật Khiếu nại,
tố cáo 1998 ra đời đã góp phần to lớn vào việc xác định lại thẩm quyền của các cơ
1

Thanh tra Việt Nam 65 năm xây dựng và trưởng thành (1945-2010) - Cổng thông tin điện tử Thanh tra Chính
phủ, [truy cập ngày
15/08/2014].

GVHD: ThS. Diệp Thành Nguyên

3

SVTH: Trần Văn Thành


Đề tài: Tổ chức và hoạt động của Thanh tra huyện – Thực tiễn tại Thanh tra huyện Phong
Điền thuộc thành phố Cần Thơ

quan thanh tra trong lĩnh vực giải quyết khiếu nại, tố cáo để phù hợp hơn với thực tiễn
cũng như vai trò của cơ quan thanh tra trong hệ thống cơ quan hành chính nhà nước.
Sau 6 năm thực hiện, các quy định của Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998 đã bộc
lộ những điểm bất cập, không còn phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội. Để
khắc phục những điểm bất cập đó và đáp ứng nhu cầu đổi mới, ngày 15/06/2004, Quốc

hội đã thông qua Luật Thanh tra năm 2004. Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày
01/10/2004.
Song sau 5 năm thực hiện, các quy định của Luật Thanh tra lại một lần nữa bộc
lộ những hạn chế, bất cập cần phải sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình thực tế.
Tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật Thanh tra năm 2010, có hiệu
lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 07 năm 2011.
Ngày nay, đất nước đã và đang tiếp tục công cuộc đổi mới với mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”, ngành Thanh tra đã và đang
góp phần quan trọng vào thắng lợi chung trong sự nghiệp đổi mới của đất nước.
1.2. Khái quát về thanh tra
1.2.1. Khái niệm thanh tra
Theo Từ điển Tiếng Việt, thanh tra là “kiểm soát, xem xét tại chỗ việc làm của
địa phương, cơ quan, xí nghiệp”2. Căn cứ vào khái niệm này có thể thấy, thanh tra bao
hàm cả kiểm soát nhằm xem xét, phát hiện và ngăn chặn những gì trái với quy định.
Hoạt động thanh tra thường đi kèm với một chủ thể nhất định, đó là người làm nhiệm
vụ thanh tra.
Luật Thanh tra năm 2010 không đưa ra định nghĩa về thanh tra. Tuy nhiên, theo
tinh thần của Luật này, thanh tra là thuật ngữ chung để chỉ thanh tra nhà nước và thanh
tra nhân dân.
“Thanh tra nhà nước là hoạt động xem xét, đánh giá, xử lý theo trình tự, thủ tục
do pháp luật quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với việc thực hiện
chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Thanh tra
nhà nước bao gồm thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành”.3
“Thanh tra nhân dân là hình thức giám sát của nhân dân thông qua Ban thanh
tra nhân dân đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, việc giải quyết khiếu nại, tố
cáo, việc thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở của cơ quan, tổ chức, cá nhân có

2
3


Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng,1997, tr.882.
Khoản 1 Điều 3 Luật Thanh tra năm 2010.

GVHD: ThS. Diệp Thành Nguyên

4

SVTH: Trần Văn Thành


Đề tài: Tổ chức và hoạt động của Thanh tra huyện – Thực tiễn tại Thanh tra huyện Phong
Điền thuộc thành phố Cần Thơ

trách nhiệm ở xã, phường, thị trấn, cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập,
doanh nghiệp nhà nước”.4
1.2.2. Đặc điểm của thanh tra
Thanh tra là một trong các hoạt động trong quá trình quản lý nhà nước và giúp
quá trình này được khép kín. Có thể thấy, hoạt động thanh tra mang những đặc điểm
cơ bản sau:
Tính quyền lực nhà nước
Là một chức năng của quản lý nhà nước, thanh tra phải thể hiện như một hoạt
động tích cực nhằm thực hiện quyền lực của chủ thể quản lý đối với đối tượng quản lý.
Tính quyền lực nhà nước của hoạt động thanh tra gắn bó chặt chẽ với tính quyền uy
phục tùng. Thanh tra được nhà nước sử dụng như một công cụ có hiệu quả trong quá
trình quản lý. Tính quyền lực nhà nước của hoạt động thanh tra được thể hiện ở những
mặt sau đây:
Thứ nhất, ra các quyết định bắt buộc thực hiện đối với các đối tượng bị thanh
tra về những vấn đề đã bị thanh tra phát hiện và xử lý;
Thứ hai, yêu cầu cấp có thẩm quyền giải quyết đề nghị của thanh tra; yêu cầu
truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với những người vi phạm pháp luật;

Thứ ba, trong những trường hợp cần thiết, trực tiếp áp dụng các biện pháp
cưỡng chế nhà nước.
Ngoài ra, tính quyền lực nhà nước của thanh tra còn được cụ thể hóa ở chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các tổ chức thanh tra; phương thức tiến hành thanh tra;
xử lý kết quả thanh tra; trong mối quan hệ giữa cơ quan thanh tra với đối tượng thanh
tra cũng như trong sự phối hợp giữa các tổ chức thanh tra nhà nước theo cấp hành
chính và theo ngành, lĩnh vực.
Tính khách quan
Bản chất của thanh tra là xem xét, đánh giá, xử lý một cách khách quan việc
thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, kế hoạch của cơ quan, tổ chức và cá nhân
nhằm đưa ra kết luận đúng, sai, đánh giá ưu khuyết điểm, phòng ngừa và xử lý vi
phạm. Vì thế, hoạt động thanh tra phải mang tính khách quan. Tính khách quan của
hoạt động thanh tra biểu hiện ở chỗ mọi hoạt động thanh tra đều phải dựa trên các quy
định pháp luật và phải tuyệt đối tuân thủ pháp luật. Nhà nước đặt ra pháp luật và pháp
luật là công cụ để Nhà nước thực hiện quản lý xã hội. Theo đó, mọi hoạt động của cơ
quan nhà nước nói chung và hoạt động thanh tra nói riêng đều phải dựa trên cơ sở
4

Khoản 8 Điều 3 Luật Thanh tra năm 2010.

GVHD: ThS. Diệp Thành Nguyên

5

SVTH: Trần Văn Thành


Đề tài: Tổ chức và hoạt động của Thanh tra huyện – Thực tiễn tại Thanh tra huyện Phong
Điền thuộc thành phố Cần Thơ


pháp luật, bởi nếu như hoạt động thanh tra mà không dựa trên cơ sở pháp luật thì nó sẽ
mất đi tính công minh, ảnh hưởng đến hiệu quả của hoạt động quản lý.
Tính độc lập tương đối
Tính độc lập tương đối là đặc điểm vốn có, gắn liền với bản chất của thanh tra.
Khác với hoạt động kiểm tra, thường do chính các cơ quan quản lý nhà nước tự tiến
hành trong nội bộ, hoạt động thanh tra thường được tiến hành bởi một cơ quan chuyên
trách, có thẩm quyền về thanh tra. Vì vậy, khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của
mình, ngoài việc đảm bảo sự phối hợp nhịp nhàng với các cơ quan khác trong bộ máy
nhà nước, hoạt động thanh tra còn mang tính độc lập tương đối trong quá trình thực thi
nhiệm vụ. Điều này được thể hiện ở chỗ, các tổ chức thanh tra được phép tự mình tổ
chức các cuộc thanh tra trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội theo thẩm quyền đã được
pháp luật quy định. Trên cơ sở kết quả thanh tra, các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền
thanh tra ra các kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý theo quy định của pháp luật về
thanh tra, đồng thời chịu trách nhiệm về quyết định thanh tra của mình.
Có thể thấy, tính độc lập của thanh tra chỉ là tương đối. Vì hoạt động thanh tra
ngoài việc phải căn cứ vào pháp luật, chính sách hiện hành còn phải xuất phát từ thực
tế cuộc sống, vào tính hợp lý của sự vật, hiện tượng trong quá trình phát triển. Tính
độc lập của hoạt động thanh tra cũng khác với tính độc lập trong xét xử của Tòa án bởi
vì:
Thứ nhất, thanh tra xem xét mọi việc không chỉ căn cứ vào tính hợp pháp mà
còn căn cứ vào tính hợp lý; trong khi đó, hoạt động xét xử của Tòa án độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật.
Thứ hai, không phải mọi hoạt động thanh tra đều mang tính tài phán; còn hoạt
động của Tòa án đều mang tính chất tài phán (tính xét xử).
Thứ ba, trong hoạt động thanh tra, về nguyên tắc, người có thẩm quyền quyết
định cuối cùng trong việc xử lý kết quả thanh tra là Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà
nước; còn trong hoạt động xét xử, người có thẩm quyền quyết định cuối cùng là Hội
đồng xét xử.
Thanh tra luôn gắn với quản lý nhà nước
Điểm chung của hoạt động quản lý nhà nước và thanh tra là nhân danh quyền

lực nhà nước thực hiện sự tác động lên đối tượng quản lý. Hơn nữa, với tư cách là một
chức năng thiết yếu của quản lý nhà nước, hoạt động thanh tra luôn gắn liền với quản
lý nhà nước. Như vậy, hoạt động quản lý nhà nước và thanh tra có mối quan hệ mật
thiết với nhau.

GVHD: ThS. Diệp Thành Nguyên

6

SVTH: Trần Văn Thành


Đề tài: Tổ chức và hoạt động của Thanh tra huyện – Thực tiễn tại Thanh tra huyện Phong
Điền thuộc thành phố Cần Thơ

Thanh tra chỉ xuất hiện khi có nhà nước và ở đâu có quản lý nhà nước thì ở đó
có thanh tra. Trong mối quan hệ này, quản lý nhà nước giữ vai trò chủ đạo, chi phối
hoạt động thanh tra (thể hiện ở việc xác định đường lối, chủ trương, quy định thẩm
quyền của cơ quan thanh tra; sử dụng các kết quả, thông tin từ phía cơ quan thanh tra).
Hơn nữa, hoạt động chấp hành của quản lý nhà nước thường bao hàm cả sự điều hành,
cho nên trong quá trình chấp hành các văn bản pháp luật đòi hỏi phải có sự kiểm tra
nghiêm ngặt của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tuy nhiên, xét về mặt cơ cấu,
chức năng của quản lý thì thanh tra chỉ là phương tiện, công cụ để quản lý nhà nước.
Ngoài ra, với tư cách là một khâu trong chu trình quản lý, hoạt động thanh tra bị
ràng buộc, chế ước bởi quản lý nhưng đồng thời lại tác động trở lại, góp phần điều
chỉnh cách thức, phương pháp quản lý của chủ thể quản lý. Nhờ có thanh tra mà mục
đích của hoạt động quản lý được đảm bảo. Thực tế cho thấy rằng, một thể chế hành
chính và cơ chế quản lý nhà nước sẽ không đầy đủ và kém hiệu quả nếu thiếu thanh
tra. Hoạt động có hiệu quả của thanh tra sẽ ngăn chặn được nguy cơ biến dạng, tùy
tiện, thiếu kỷ cương trong hoạt động của bộ máy nhà nước.5

1.2.3. Phân biệt thanh tra với một số hoạt động khác
1.2.3.1. Thanh tra với giám sát
Giám sát có nghĩa là “theo dõi và kiểm tra xem có thực hiện đúng những điều
quy định không”.6 Ở góc độ pháp lý, với tính chất là một biện pháp bảo đảm pháp chế
trong hoạt động quản lý nhà nước, giám sát được xác định là hoạt động của các cơ
quan quyền lực nhà nước đối với hệ thống cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan xét xử
và cơ quan kiểm sát. Bên cạnh đó, các chủ thể khác như công dân, tổ chức và toàn xã
hội cũng tham gia vào việc giám sát quá trình hoạt động của bộ máy nhà nước. Đối
tượng của hoạt động giám sát là các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương
cũng như cán bộ, công chức và viên chức.
Hoạt động giám sát có những điểm khác biệt với hoạt động thanh tra ở những
điểm cơ bản sau đây:
Về chủ thể: Chủ thể thực hiện hoạt động giám sát chủ yếu là các cơ quan quyền
lực nhà nước, bao gồm Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Ngoài ra, các tổ chức
xã hội và cá nhân cũng có thể thực hiện hoạt động giám sát bằng các biện pháp, cách
thức theo quy định của pháp luật. Chủ thể thực hiện hoạt động giám sát và chủ thể bị
giám sát không phải là cùng một cơ quan. Trong khi đó, hoạt động thanh tra được thực

5

Võ Nguyễn Nam Trung, Lâm Bá Khánh Toàn, Tài liệu hướng dẫn học tập môn pháp luật về thanh tra, Nxb
Đại học Cần Thơ, tháng 11/2012, tr.3-4.
6
Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng,1997, tr.374.

GVHD: ThS. Diệp Thành Nguyên

7

SVTH: Trần Văn Thành



Đề tài: Tổ chức và hoạt động của Thanh tra huyện – Thực tiễn tại Thanh tra huyện Phong
Điền thuộc thành phố Cần Thơ

hiện bởi các cơ quan thanh tra và các cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra
chuyên ngành. Các cơ quan này không chỉ thực hiện hoạt động thanh tra đối với các cơ
quan, tổ chức, cá nhân khác mà còn có thể thực hiện hoạt động thanh tra với chính cơ
quan của mình.
Về nội dung: Nội dung của hoạt động giám sát là tính hợp hiến, hợp pháp trong
việc ban hành văn bản và trong hoạt động của các cơ quan nhà nước. Trong khi đó, nội
dung của hoạt động thanh tra là xem xét, đánh giá, xử lý đối với việc thực hiện chính
sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Về hình thức: Hoạt động thanh tra được thực hiện bằng nhiều hình thức khác
nhau, mang tính đặc thù, trong đó phải kể đến những hình thức giám sát mang tính
trực tiếp, tính theo dõi của cơ quan giám sát đối với cơ quan chịu sự giám sát. Ví dụ,
hoạt động giám sát của Quốc hội đối với Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao; hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân các cấp đối với
các cơ quan nhà nước ở địa phương thông qua các kỳ họp để xét báo cáo của các cơ
quan này. Hoạt động giám sát được thực hiện thường xuyên, liên tục, không cần phải
thông báo hoặc ra quyết định. Trong khi đó, hoạt động thanh tra được thực hiện theo
kế hoạch, thanh tra thường xuyên hoặc thanh tra đột xuất. Hoạt động thanh tra chỉ
được thực hiện khi có quyết định thanh tra.
Về tính chất: Trong khi hoạt động thanh tra luôn gắn liền với quản lý nhà nước,
mang tính quyền lực nhà nước thì hoạt động giám sát có thể mang tính quyền lực nhà
nước hoặc không mang tính quyền lực nhà nước. Trong đó, giám sát không mang tính
quyền lực nhà nước là loại hình giám sát được tiến hành bởi các chủ thể phi Nhà nước
như hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của
Mặt trận đối với bộ máy nhà nước và đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước; hay đơn
giản chỉ là giám sát thi công một công trình.7

1.2.3.2.Thanh tra với kiểm tra
Theo Từ điển Tiếng Việt, kiểm tra là “xem xét tình hình thực tế để đánh giá,
nhận xét”8. Còn theo cách hiểu chung nhất, kiểm tra là việc cơ quan nhà nước thực
hiện quá trình xem xét, kiểm tra hoạt động của các cơ quan, đơn vị trực thuộc hoặc của

7

Phân biệt giữa thanh tra với kiểm tra, điều tra và giám sát – Cơ sở dữ liệu khoa học thanh tra,
, [truy
cập ngày 15/08/2014].
8
Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng,1997, tr.504.

GVHD: ThS. Diệp Thành Nguyên

8

SVTH: Trần Văn Thành


Đề tài: Tổ chức và hoạt động của Thanh tra huyện – Thực tiễn tại Thanh tra huyện Phong
Điền thuộc thành phố Cần Thơ

chính cơ quan mình nhằm phát hiện những sai phạm, yếu kém để từ đó đưa ra biện
pháp giải quyết.9
Có thể nói giữa hoạt động thanh tra và kiểm tra có mối quan hệ chặt chẽ, gần
gũi và có nhiều điểm giao thoa nhau. Qua kiểm tra, thanh tra, các cơ quan quản lý nhà
nước có thể phân tích, đánh giá, theo dõi quá trình thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ
quản lý đề ra. Đây là mối quan hệ đan chéo nhau. Nếu hiểu theo nghĩa rộng thì thanh
tra là một loại hình đặc biệt của kiểm tra. Ngược lại, nếu hiểu theo nghĩa hẹp, thanh tra

lại bao hàm cả kiểm tra. Các hoạt động thao tác nghiệp vụ trong một cuộc thanh tra
như việc kiểm tra sổ sách, tài liệu của đối tượng thanh tra; so sánh đối chiếu, đánh giá
tài liệu, chứng cứ thu thập được trong quá trình thanh tra, đó là kiểm tra. Với tư cách là
một hoạt động độc lập, kiểm tra có nhiều điểm khác biệt với thanh tra, cụ thể như sau:
Về chủ thể tiến hành: Giữa kiểm tra và thanh tra có một mảng giao thoa về chủ
thể, đó là Nhà nước. Nhà nước tiến hành cả hoạt động thanh tra và kiểm tra. Tuy
nhiên, chủ thể của kiểm tra rộng hơn của thanh tra rất nhiều. Trong khi chủ thể tiến
hành thanh tra phải là Nhà nước, thì chủ thể tiến hành kiểm tra có thể là Nhà nước
hoặc có thể là chủ thể phi Nhà nước, chẳng hạn như hoạt động kiểm tra của một tổ
chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội (Đảng, Công đoàn, Mặt trận Tổ quốc, Đoàn
thanh niên...), hay như hoạt động kiểm tra trong nội bộ một doanh nghiệp.
Về mục đích thực hiện: Mục đích của thanh tra bao giờ cũng rộng hơn, sâu hơn
đối với các hoạt động kiểm tra. Đặc biệt, đối với các cuộc thanh tra để giải quyết khiếu
nại, tố cáo thì sự khác biệt về mục đích, ý nghĩa giữa hoạt động thanh tra và kiểm tra
càng rõ hơn nhiều, bởi vì thông thường qua các vụ việc khiếu nại, tố cáo sẽ phản ánh
được sự bức xúc, bất bình của nhân dân trước những việc mà nhân dân cho là quyền và
lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. Khi đó, mục đích của hoạt động thanh tra
không còn chỉ là xem xét, đánh giá một cách bình thường nữa, mà quan trọng hơn là
phải tìm ra giải pháp để giải quyết vấn đề.
Về phương pháp tiến hành: Với mục đích rộng hơn, khi tiến hành thanh tra,
Đoàn thanh tra cũng áp dụng những biện pháp nghiệp vụ sâu hơn, đi vào tận cùng của
vấn đề như: xác minh, thu thập chứng cứ, đối thoại, chất vấn, giám định... Đặc biệt,
trong quá trình thanh tra, các Đoàn thanh tra còn có thể áp dụng những biện pháp cần
thiết để phục vụ thanh tra theo quy định của pháp luật về thanh tra để tác động lên đối
tượng bị quản lý. Trong khi đó, hoạt động kiểm tra có phương pháp tiến hành khá đơn
giản, không rườm rà và phức tạp như hoạt động thanh tra.
9

Võ Nguyễn Nam Trung, Lâm Bá Khánh Toàn, Tài liệu hướng dẫn học tập môn pháp luật về thanh tra, Nxb
Đại học Cần Thơ, tháng 11/2012, tr.2.


GVHD: ThS. Diệp Thành Nguyên

9

SVTH: Trần Văn Thành


Đề tài: Tổ chức và hoạt động của Thanh tra huyện – Thực tiễn tại Thanh tra huyện Phong
Điền thuộc thành phố Cần Thơ

Về trình độ nghiệp vụ: Hoạt động thanh tra đòi hỏi đội ngũ Thanh tra viên phải
có nghiệp vụ giỏi, am hiểu về quy luật phát triển của kinh tế - xã hội, có khả năng
chuyên sâu vào lĩnh vực thanh tra hướng đến. Do nội dung hoạt động kiểm tra ít phức
tạp hơn thanh tra và chủ thể của kiểm tra bao gồm lực lượng rộng lớn có tính quần
chúng phổ biến nên nói chung, trình độ nghiệp vụ kiểm tra không nhất thiết phải đòi
hỏi cao như nghiệp vụ thanh tra.
Về phạm vi hoạt động: Phạm vi hoạt động kiểm tra thường rộng và diễn ra liên
tục, ở khắp nơi với nhiều hình thức phong phú, mang tính quần chúng. Phạm vi hoạt
động thanh tra thường hẹp hơn so với hoạt động kiểm tra.
Về thời gian tiến hành: Trong hoạt động thanh tra có rất nhiều vấn đề phải xác
minh, đối chiếu rất công phu, nhiều mối quan hệ phức tạp cần được làm rõ. Hơn nữa,
đây là hoạt động cần phải tiến hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định nên
phải sử dụng thời gian nhiều hơn so với hoạt động kiểm tra.10
1.3. Vai trò của hoạt động thanh tra
Thanh tra là nội dung không thể thiếu của quản lý nhà nước, là giai đoạn cuối
cùng trong chu trình quản lý, có vai trò kiểm định, đánh giá hiệu quả của hoạt động
quản lý nhà nước. Qua thanh tra để có các kiến nghị, khắc phục những sơ hở, yếu kém,
đề xuất những biện pháp đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lý, sửa đổi cơ chế, chính
sách để quản lý tốt hơn, hiệu quả hơn. Chính vì vậy, trong hoạt động quản lý nhà nước

phải có thanh tra và thanh tra phải phục vụ cho yêu cầu quản lý nhà nước. Ở đâu có
quản lý nhà nước thì ở đó có thanh tra. Quản lý nhà nước mà không có thanh tra sẽ dẫn
tới quan liêu và xa rời thực tiễn.
Thanh tra làm cho chu trình quản lý nhà nước được khép kín, giúp các hoạt
động ban hành và tổ chức thực hiện quyết định quản lý được gắn bó chặt chẽ hơn, từ
việc xem xét, đánh giá, kiểm chứng việc thực hiện các chủ trương, chính sách của đối
tượng chịu sự quản lý, đến việc đề xuất các biện pháp hoàn thiện chủ trương, chính
sách, nâng cao hiệu quả quản lý của chủ thể có trách nhiệm quản lý. Để thực hiện đổi
mới kinh tế và cải cách nền hành chính quốc gia thì vai trò của công tác thanh tra ngày
càng cần thiết và quan trọng để quản lý nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Vai trò này được thể hiện ở những nội dung sau:
Thứ nhất, thanh tra là phương thức đảm bảo trật tự, kỷ cương trong quản lý, góp
phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Với chức năng giám sát hoạt động của các

10

Phân biệt giữa thanh tra với kiểm tra, điều tra và giám sát – Cơ sở dữ liệu khoa học thanh tra,
[truy
cập ngày 15/08/2014].

GVHD: ThS. Diệp Thành Nguyên

10

SVTH: Trần Văn Thành


Đề tài: Tổ chức và hoạt động của Thanh tra huyện – Thực tiễn tại Thanh tra huyện Phong
Điền thuộc thành phố Cần Thơ


đối tượng chịu sự quản lý, các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền thanh tra có thể kịp
thời phát hiện những sai phạm và có biện pháp xử lý đúng đắn. Bên cạnh đó, thông
qua hoạt động thanh tra, các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền thanh tra có thể xem xét,
kết luận và xử lý kịp thời những việc làm trái pháp luật của các cơ quan nhà nước, cán
bộ, công chức nhà nước, góp phần đảm bảo trật tự, kỷ cương trong quản lý và góp
phần làm trong sạch bộ máy nhà nước.
Thứ hai, hoạt động thanh tra còn giúp mở rộng và bảo đảm cho quyền dân chủ
của nhân dân được thực thi một cách nghiêm minh. Theo Hiến pháp nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, vì thế Nhà
nước có nghĩa vụ bảo đảm, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mọi người dân, tạo
điều kiện thuận lợi để họ thực hiện các quyền dân chủ của mình như: quyền tham gia
quản lý nhà nước, quản lý xã hội, quyền tự do lập hội, quyền tự do ngôn luận, quyền
khiếu nại, tố cáo. Hơn nữa, pháp luật Việt Nam không chỉ ghi nhận các quyền của
công dân mà còn ghi nhận các cơ chế đảm bảo thực hiện các quyền, nghĩa vụ của họ
thông qua hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện như quyền kiểm tra, giám
sát thông qua hoạt động của các cơ quan nhà nước do mình bầu ra, các tổ chức chính
trị - xã hội mà mình là thành viên.11
Bên cạnh đó, hoạt động thanh tra còn góp phần tìm ra các sơ hở, yếu kém trong
công tác quản lý, phát hiện những nội dung chưa phù hợp với yêu cầu thực tế khách
quan, từ đó sửa đổi, bổ sung, khắc phục kịp thời. Điều đó có ý nghĩa thiết thực trong
việc củng cố trật tự, kỷ cương, hoàn thiện cơ chế quản lý. Tuy nhiên, việc chỉ phát
hiện, tìm kiếm sai phạm, sơ hở, yếu kém trong quản lý là chưa đủ, mà thanh tra còn
phải phát hiện và khẳng định, đồng thời tạo điều kiện cho những nhân tố mới, cơ chế
mới nảy sinh và phát triển. Có như thế, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước mới
đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn.
Thứ ba, vai trò quan trọng nữa của thanh tra là nhằm tham mưu cho các cấp
chính quyền trong giải quyết khiếu nại hành chính, nhất là trong việc thực hiện nhiệm
vụ theo dõi, đôn đốc các cấp, các ngành trong việc tiếp công dân, tiếp nhận các khiếu
nại, tố cáo, giải quyết khiếu nại, tố cáo và thi hành quyết định giải quyết khiếu nại, tố
cáo, đảm bảo sự ổn định của xã hội, giảm bức xúc trong quần chúng nhân dân.


11

Xem Điều 2, Điều 6, Điều 25, Điều 26, Điều 30 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
2013.

GVHD: ThS. Diệp Thành Nguyên

11

SVTH: Trần Văn Thành


Đề tài: Tổ chức và hoạt động của Thanh tra huyện – Thực tiễn tại Thanh tra huyện Phong
Điền thuộc thành phố Cần Thơ

1.4. Nguyên tắc hoạt động thanh tra
Trong hoạt động thanh tra, các nguyên tắc được hiểu là những tư tưởng, định
hướng, chỉ đạo đúng đắn, khách quan và khoa học, được quy định trong pháp luật
thanh tra mà các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức thanh tra, cán bộ thanh tra,
thanh tra viên phải tuân theo trong quá trình thực hiện thanh tra kinh tế - xã hội, thanh
tra giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng chống tham nhũng. Các nguyên tắc này không
chỉ thể hiện trong toàn bộ quá trình tiến hành thanh tra mà nó phải trở thành ý thức của
từng cán bộ, công chức, thanh tra viên trong suy nghĩ và trong hành vi, hành xử cụ thể
khi thực thi nhiệm vụ, công vụ trên cương vị của mình. Các nguyên tắc của hoạt động
thanh tra chỉ đạo và chi phối mối quan hệ trong thanh tra nhằm đảm bảo cho hoạt động
thanh tra đạt được mục đích đã đề ra.12
Nguyên tắc hoạt động của thanh tra được quy định ở Điều 7 Luật Thanh tra
2010, bao gồm những nguyên tắc sau đây:
“1. Tuân theo pháp luật; bảo đảm chính xác, khách quan, trung thực, công

khai, dân chủ, kịp thời.
2. Không trùng lặp về phạm vi, đối tượng, nội dung, thời gian thanh tra giữa
các cơ quan thực hiện chức năng thanh tra; không làm cản trở hoạt động bình thường
của cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra.”
1.4.1. Nguyên tắc tuân theo pháp luật của hoạt động thanh tra
Xuất phát từ yêu cầu phải phù hợp với nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa,
hoạt động thanh tra cũng đòi hỏi phải tuân thủ nguyên tắc tuân theo pháp luật. Nguyên
tắc này đặt ra hai yêu cầu căn bản sau đây:
Một là, tất cả mọi công việc cần tiến hành trong hoạt động thanh tra phải được
thực hiện trên cơ sở những quy định của pháp luật hiện hành về thanh tra.
Hai là, không một cơ quan, tổ chức, cá nhân nào được can thiệp trái pháp luật
vào hoạt động thanh tra. Khi có đầy đủ những cơ sở pháp lý cần thiết, các cơ quan
thanh tra được quyền tiến hành hoạt động thanh tra một cách độc lập. Việc can thiệp
không có căn cứ pháp luật của bất kỳ tổ chức, cá nhân nào đều là bất hợp pháp và tùy
theo mức độ nặng, nhẹ của hành vi vi phạm sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật.
Theo đó, từ việc thống nhất và ban hành ra các chương trình, kế hoạch hoạt
động của các cơ quan thanh tra đến việc ra quyết định thanh tra, cử Đoàn thanh tra, ra

12

Trần Văn Long, Đặc điểm, vai trò của các nguyên tắc trong hoạt động thanh tra – Cơ sở dữ liệu khoa học của
Viện Khoa học Thanh tra, [truy cập ngày 30/08/2014].

GVHD: ThS. Diệp Thành Nguyên

12

SVTH: Trần Văn Thành



Đề tài: Tổ chức và hoạt động của Thanh tra huyện – Thực tiễn tại Thanh tra huyện Phong
Điền thuộc thành phố Cần Thơ

kết luận thanh tra đều phải được tiến hành theo quy định của pháp luật hiện hành về
thanh tra.
1.4.2. Nguyên tắc đảm bảo tính chính xác, khách quan, trung thực, công khai
dân chủ và kịp thời trong hoạt động thanh tra
Thanh tra là việc cơ quan có thẩm quyền tiến hành hoạt động xem xét, đánh giá
việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, tổ chức, cá
nhân, trên cơ sở đó đề ra các biện pháp xử lý thích hợp nhằm đảm bảo cho chính sách,
pháp luật, kế hoạch được tôn trọng và thực hiện. Mọi kết luận, kiến nghị hay quyết
định trong hoạt động thanh tra đều rất quan trọng bởi nó làm rõ tính chất đúng sai, nêu
rõ tình hình, tính chất, nguyên nhân, hậu quả của sự việc; xác định trách nhiệm của tổ
chức, cá nhân nếu họ có sai phạm và yêu cầu các đối tượng có liên quan phải có các
biện pháp tích cực để khắc phục và loại bỏ những sai phạm đó. Vì vậy, tính chính xác
phải được coi là một trong những nguyên tắc hàng đầu của hoạt động thanh tra. Bản
thân nguyên tắc tuân thủ pháp luật trong hoạt động thanh tra đã tạo cơ sở quan trọng
để đảm bảo cho nguyên tắc chính xác trong hoạt động này. Nó đòi hỏi hoạt động thanh
tra chỉ được tiến hành khi có đầy đủ những căn cứ pháp lý rõ ràng; việc thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn, các quyền và nghĩa vụ pháp lý khác đều phải phù hợp với các
quy định của pháp luật về thanh tra.
Nguyên tắc khách quan trong hoạt động thanh tra đòi hỏi mọi công việc được
tiến hành trong hoạt động này đều phải xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của công tác
quản lý nhà nước. Mọi quyết định, kết luận hay kiến nghị trong hoạt động thanh tra
đều phải xuất phát từ thực tiễn khách quan chứ không phải là kết quả của quá trình suy
diễn chủ quan, cảm tính hay mang tính áp đặt. Để đảm bảo cho nguyên tắc khách quan
trong hoạt động thanh tra được thực thi trên thực tế đòi hỏi tất cả các cán bộ làm công
tác thanh tra phải đạt mức trình độ hiểu biết nhất định về chính trị, pháp luật, am hiểu
sâu về chuyên môn nghiệp vụ để có thể độc lập, khách quan trong suy nghĩ và hành
động của mình.

Hoạt động thanh tra có vai trò rất quan trọng trong công tác quản lý nhà nước
nói chung. Qua hoạt động thanh tra, những biểu hiện, hành vi tốt - xấu của các tổ chức,
cá nhân sẽ được làm rõ, và điều này có ảnh hưởng rất lớn đến danh dự, uy tín của tổ
chức, cá nhân đó. Vì thế, mọi thao tác nghiệp vụ trong hoạt động thanh tra như thu
thập thông tin, chứng cứ hay thống kê số liệu đều phải được thực hiện một cách trung
thực và có cơ sở đáng tin cậy. Bất kỳ hành vi gian dối nào trong hoạt động thành tra
cũng sẽ đều làm cho kết quả thanh tra bị sai lệch, ảnh hưởng đến hiệu quả của công
việc, từ đó sẽ không đạt được yêu cầu nhiệm vụ đã đề ra.
GVHD: ThS. Diệp Thành Nguyên

13

SVTH: Trần Văn Thành


Đề tài: Tổ chức và hoạt động của Thanh tra huyện – Thực tiễn tại Thanh tra huyện Phong
Điền thuộc thành phố Cần Thơ

Công khai là một trong những nguyên tắc chủ đạo trong hoạt động thanh tra.
Các quy định của pháp luật hiện hành của nước ta về trình tự, thủ tục đối với hoạt
động thanh tra đều thể hiện rõ nét những nội dung của nguyên tắc công khai, dân chủ.
Nguyên tắc này đòi hỏi:
Thứ nhất, nội dung các công việc trong hoạt động thanh tra đều phải được
thông báo công khai và kịp thời đến các đối tượng có liên quan.
Thứ ba, các kết luận, kiến nghị, quyết định trong hoạt động thanh tra cũng phải
được thông báo công khai cho các đối tượng có liên quan biết.
Nguyên tắc dân chủ được thể hiện trong mối quan hệ giữa các thành viên Đoàn
thanh tra với nhau và giữa các thành viên Đoàn thanh tra với đối tượng thanh tra và
những người có liên quan. Đây là một nguyên tắc không thể thiếu trong hoạt động
thanh tra và cũng là bản chất của chế độ ta hiện nay. Riêng đối với lĩnh vực thanh tra,

đây vốn dĩ là một trong những lĩnh vực quản lý công nên sẽ có ảnh hưởng trực tiếp đến
công tác quản lý nhà nước. Vì tính đặc thù của công việc, hoạt động thanh tra phải chủ
động thu hút sự tham gia đông đảo của quần chúng nhân dân trong việc cung cấp
thông tin hay thu thập chứng cứ. Sự tham gia của các bên hữu quan trong việc cung
cấp thông tin sẽ giúp cho các bên hiểu tường tận vấn đề hơn, cảm thấy mình được tôn
trọng và vì vậy sẽ dễ chấp nhận kết quả cuối cùng hơn. Bên cạnh đó, việc cho phép
mọi người cùng tham gia, đóng góp ý kiến sẽ giúp cho họ thỏa mãn được nhu cầu tâm
lý là được thể hiện quan điểm của cá nhân và cảm thấy mình được đối xử công bằng.
Kịp thời là yêu cầu mang tính đặc thù trong nguyên tắc hoạt động của thanh tra.
Yêu cầu này đảm bảo việc phát hiện, ngăn ngừa và xử lý kịp lúc những hành vi vi
phạm pháp luật, phòng tránh trường hợp xảy ra hậu quả đáng tiếc, góp phần bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho Nhà nước, tổ chức và các cá nhân trong toàn xã hội.
Nguyên tắc kịp thời trong hoạt động thanh tra đòi hỏi: khi có đầy đủ các cơ sở để tiến
hành thanh tra, các tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải nhanh chóng tiến hành hoạt
động thanh tra theo quy định của pháp luật; mọi công việc cần làm trong hoạt động
thanh tra cần phải được tiến hành trong khuôn khổ thời gian do pháp luật quy định,
tránh các trường hợp vượt quá thời hạn đã giao.
1.4.3. Nguyên tắc không làm cản trở hoạt động bình thường của cơ quan, tổ
chức, cá nhân là đối tượng thanh tra
Thực hiện hoạt động thanh tra là nhằm góp phần bảo đảm việc tuân thủ pháp
chế và kỷ cương nhà nước, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý nhà
nước ở các cấp, các ngành. Nhà nước trao cho cơ quan thanh tra những nhiệm vụ,
quyền hạn đặc biệt để tiến hành hoạt động thanh tra nhằm đạt được những mục tiêu
GVHD: ThS. Diệp Thành Nguyên

14

SVTH: Trần Văn Thành



Đề tài: Tổ chức và hoạt động của Thanh tra huyện – Thực tiễn tại Thanh tra huyện Phong
Điền thuộc thành phố Cần Thơ

quan trọng nêu trên. Tuy nhiên, khi tiến hành hoạt động thanh tra, các cơ quan thanh
tra phải đảm bảo không làm cản trở đến hoạt động bình thường của các cơ quan, tổ
chức, đơn vị, cá nhân là đối tượng thanh tra. Có như thế, thanh tra mới xứng đáng là
một trong những công cụ vững chắc để củng cố, tăng cường pháp chế và kỷ luật nhà
nước trong công tác quản lý nhà nước nói chung. Nguyên tắc không làm cản trở hoạt
động bình thường của các đối tượng thanh tra có ý nghĩa thực tiễn rất quan trọng, đặc
biệt là đối với thực trạng ngày nay khi ngày càng có nhiều các cán bộ thanh tra lợi
dụng vệc thanh tra để thực hiện các hành vi tiêu cực, gây ảnh hưởng đến hoạt động
bình thường của các đối tượng thanh tra.
Nguyên tắc này cũng lấy nguyên tắc tuân theo pháp luật làm cơ sở để đảm bảo
thực hiện. Luật Thanh tra năm 2010 có quy định một số hành vi bị nghiêm cấm trong
quá trình tổ chức thực hiện hoạt động thanh tra, trong đó có những hành vi bị nghiêm
cấm nhằm đảm bảo thực hiện nguyên tắc không làm cản trở hoạt động bình thường
của đối tượng thanh tra. Khoản 1 Điều 13 Luật Thanh tra năm 2010 quy định cấm việc
“Lợi dụng chức vụ, quyền hạn thanh tra để thực hiện hành vi trái pháp luật, sách
nhiễu, gây khó khăn, phiền hà cho đối tượng thanh tra.”
1.4.4. Nguyên tắc không trùng lặp về phạm vi, đối tượng, nội dung, thời gian
thanh tra giữa các cơ quan thực hiện chức năng thanh tra
Ngoài những nguyên tắc cơ bản nêu trên, Luật Thanh tra năm 2010 còn bổ sung
nguyên tắc “không trùng lặp về phạm vi, đối tượng, nội dung, thời gian thanh tra giữa
các cơ quan thực hiện chức năng thanh tra”. Thực tế, việc bổ sung nguyên tắc này là
rất cần thiết, nó góp phần khắc phục tình trạng chồng chéo, trùng lắp về phạm vi, đối
tượng, nội dung, thời gian thanh tra mà trước đây Luật Thanh tra năm 2004 đã không
quy định, giúp cơ quan thanh thanh tra hoạt động đúng theo quy định của pháp luật,
đưa công tác thanh tra góp phần thiết thực hơn nữa trong việc hoàn thiện cơ chế quản
lý nhà nước, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các cơ quan,
tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra.

Để đảm bảo thực hiện đúng theo nguyên tắc này đòi hỏi các cơ quan thanh tra
phải chuẩn bị kỹ lưỡng chương trình thanh tra hằng năm, đồng thời cần có sự phối hợp
hiệu quả với các cơ quan hữu quan trong mọi hoạt động để đảm bảo không trùng lắp
cũng như không bỏ sót phạm vi, đối tượng, nội dung hay thời gian trong hoạt động
thanh tra dẫn đến phiền hà không đáng có cho đối tượng thanh tra.

GVHD: ThS. Diệp Thành Nguyên

15

SVTH: Trần Văn Thành


Đề tài: Tổ chức và hoạt động của Thanh tra huyện – Thực tiễn tại Thanh tra huyện Phong
Điền thuộc thành phố Cần Thơ

1.5. Cơ quan thực hiện chức năng thanh tra
Hệ thống các cơ quan có chức năng thanh tra được phân chia thành hai nhóm,
đó là hệ thống các cơ quan thanh tra nhà nước và cơ quan được giao thực hiện chức
năng thanh tra chuyên ngành.
Theo quy định của Luật Thanh tra năm 2010, hệ thống cơ quan thanh tra nhà
nước bao gồm những cơ quan sau đây:13
- Thanh tra Chính phủ;
- Thanh tra bộ, cơ quan ngang bộ (gọi chung là Thanh tra bộ);
- Thanh tra tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là Thanh tra tỉnh);
- Thanh tra sở;
- Thanh tra huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là thanh tra
huyện).
Cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành là cơ quan thực
hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực, bao gồm tổng cục, cục thuộc bộ,

chi cục thuộc sở được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành.14
1.6. Những điểm mới của Luật Thanh tra năm 2010 so với Luật Thanh tra năm
2004
Luật Thanh tra năm 2010 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 07 năm 2011)
gồm VII Chương và 78 Điều. Theo quy định của Luật này, tổ chức, nhiệm vụ và quyền
hạn của các cơ quan thanh tra vẫn giữ nguyên giống như đã được thể hiện trong Luật
Thanh tra năm 2004 với mục đích là để phù hợp với chế độ chính trị nước ta và Hiến
pháp năm 1992 (đã hết hiệu lực và đã được thay thế bằng Hiến pháp năm 2013). Cách
thiết kế mới trong Luật Thanh tra năm 2010 đã thể hiện cụ thể hơn về tổ chức, nhiệm
vụ và quyền hạn của các tổ chức, cá nhân hoạt động trong các cơ quan thanh tra nhà
nước từ trung ương đến địa phương, thể hiện rõ chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh
vực thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng chống tham nhũng của các cơ quan
đó; đồng thời qua đó cũng đã khẳng định được mối quan hệ phối hợp chặt chẽ giữa các
cơ quan thanh tra nhà nước với nhau và cơ quan thanh tra nhà nước với các cơ quan
hữu quan.
Bên cạnh đó, Luật Thanh tra năm 2010 cũng có nhiều điểm mới so với Luật
Thanh tra năm 2004, cụ thể như sau:

13
14

Điều 4 Luật Thanh tra năm 2010.
Khoản 6 Điều 3 Luật Thanh tra năm 2010.

GVHD: ThS. Diệp Thành Nguyên

16

SVTH: Trần Văn Thành



Đề tài: Tổ chức và hoạt động của Thanh tra huyện – Thực tiễn tại Thanh tra huyện Phong
Điền thuộc thành phố Cần Thơ

Thứ nhất, chi tiết hóa các quy định về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ
quan thanh tra nhà nước. Cụ thể, Luật Thanh tra năm 2010 đã xác định rõ trong phạm
vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, các cơ quan thanh tra có quyền chủ động tiến hành
thanh tra theo kế hoạch đã được phê duyệt; trường hợp phát hiện có dấu hiệu vi phạm
pháp luật thì Thủ trưởng cơ quan thanh tra nhà nước có quyền quyết định thanh tra đột
xuất và chịu trách nhiệm về quyết định của mình mà không phải chỉ tiến hành thanh
tra theo yêu cầu của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp (các Điều 15, 16,
18, 19, 21, 22, 24, 25, 27 và 28); quy định Thủ trưởng cơ quan thanh tra có quyền
thanh tra lại đối với các vụ việc đã được Thủ trưởng cơ quan chuyên môn cùng cấp kết
luận khi được Thủ trưởng cơ quan quản lý nước cùng cấp giao hoặc tự mình quyết
định thanh tra lại đối với vụ việc thanh tra đã được Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp dưới
kết luận khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật (điểm b, khoản 2, Điều 16; điểm
b, khoản 2, Điều 19; điểm b, khoản 2, Điều 22); xác định và phân định rõ thẩm quyền
xử lý sai phạm, trách nhiệm trong xử lý sai phạm của Trưởng đoàn thanh tra và người
ra quyết định thanh tra trong quá trình tiến hành thanh tra cũng như sau khi có kết luận
thanh tra (các Điều 46, 48, 53 và 55).
Thứ hai, về tổ chức và hoạt động của các cơ quan thanh tra chuyên ngành: Luật
Thanh tra năm 2010 thay đổi lại tổ chức và hoạt động của các cơ quan thanh tra
chuyên ngành theo hướng giao chức năng thanh tra chuyên ngành cho các cơ quan
thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực (bao gồm Tổng cục, Cục
thuộc Bộ, Chi cục thuộc Sở) trực tiếp thực hiện, để chính những người thực hiện
nhiệm vụ chuyên môn trong các cơ quan này trực tiếp tiến hành thanh tra và quyết
định xử phạt vi phạm hành chính đối với những hành vi vi phạm pháp luật. Cụ thể, tại
Điều 3 của Luật về giải thích từ ngữ đã bổ sung quy định “Cơ quan được giao thực
hiện chức năng thanh tra chuyên ngành là cơ quan thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà
nước theo ngành, lĩnh vực, bao gồm tổng cục, cục thuộc bộ, chi cục thuộc sở được

giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành”; người được giao thực hiện nhiệm
vụ thanh tra chuyên ngành là công chức được phân công thực hiện nhiệm vụ thanh tra
của cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành. Tại Điều 30, Luật
còn chỉ rõ “Cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành không
thành lập cơ quan thanh tra chuyên ngành độc lập”. Trình tự, thủ tục hoạt động thanh
tra chuyên ngành cũng được Luật quy định phù hợp với công tác quản lý theo ngành,
lĩnh vực. Với những thay đổi trong các quy định về tổ chức và hoạt động của các cơ
quan thanh tra chuyên ngành như vậy đã giúp cho công tác quản lý nhà nước đạt hiệu
quả hơn trên hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội.

GVHD: ThS. Diệp Thành Nguyên

17

SVTH: Trần Văn Thành


Đề tài: Tổ chức và hoạt động của Thanh tra huyện – Thực tiễn tại Thanh tra huyện Phong
Điền thuộc thành phố Cần Thơ

Thứ ba, quy định rõ trách nhiệm, thời hạn mà người ra quyết định thanh tra phải
công bố công khai kết luận thanh tra tại Điều 39: “Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày
ký kết luận thanh tra, người ra quyết định thanh tra có trách nhiệm thực hiện việc
công khai kết luận thanh tra”(khoản 3, Điều 39) với các hình thức như công bố tại
cuộc họp với các thành phần liên quan, thông báo trên phương tiện thông tin đại
chúng, đưa lên trang thông tin điện tử của cơ quan thanh tra nhà nước, cơ quan được
giao thực hiện chức năng thanh tra, niêm yết tại trụ sở làm việc của cơ quan, tổ chức là
đối tượng thanh tra. Đây là điểm bổ sung mới của Luật Thanh tra năm 2010 nhằm bảo
đảm nguyên tắc chính xác, khách quan, trung thực, công khai, dân chủ và kịp thời, góp
phần nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước trong công tác thanh tra. Ngoài ra, Luật

Thanh tra năm 2010, quy định nếu trong quá trình tiến hành thanh tra, người ra quyết
định thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra, Thanh tra viên, người được giao thực hiện
nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành, cộng tác viên thanh tra mà không hoàn thành nhiệm
vụ thanh tra hoặc cố ý không phát hiện hoặc phát hiện hành vi vi phạm pháp luật đến
mức phải xử lý mà không xử lý, không kiến nghị việc xử lý hoặc có hành vi khác vi
phạm pháp luật về thanh tra thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm có thể bị xử lý kỷ
luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy
định của pháp luật (Điều 42). Quy định này đã góp phần đảm bảo tính pháp chế trong
hoạt động thanh tra ở các cơ quan có thẩm quyền thanh tra.
Thứ tư, về trách nhiệm phối hợp giữa cơ quan thanh tra và các cơ quan hữu
quan: Trong phạm vi quyền hạn của mình, các cơ quan thanh tra có trách nhiệm phối
hợp với các cơ quan hữu quan. Ngoài ra, các cơ quan hữu quan khác như: Công an,
Viện kiểm sát trong phạm vi quyền hạn của mình phải có trách nhiệm xem xét, kiến
nghị khởi tố vụ án do cơ quan có chức năng thanh tra chuyển đến và trả lời bằng văn
bản về việc thực hiện yêu cầu, kiến nghị, quyết định xử lý đó (khoản 2 và khoản 3,
Điều 11). Đây là quy định trách nhiệm phối hợp mang tính hai chiều, thống nhất, gắn
kết chặt chẽ giữa các cơ quan với nhau nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả của công tác
quản lý nhà nước giữa các cơ quan hữu quan. Quy định này phù hợp và tiến bộ hơn so
với quy định tại Điều 9 Luật Thanh tra năm 2004 do đó là quy định chỉ mang tính một
chiều, không đảm bảo sự thống nhất trong hoạt động giữa các cơ quan với nhau.
Thứ năm, về thời gian hoạt động thanh tra: Đối với quyết định thanh tra hành
chính trong thời gian chậm nhất là 05 ngày (theo quy định tại khoản 2, Điều 37 Luật
Thanh tra năm 2004 là 03 ngày) kể từ ngày ký quyết định thanh tra, người ra quyết
định thanh tra phải gửi cho đối tượng thanh tra (khoản 2, Điều 37 Luật Thanh tra năm
2010). Quy định mới này đã tạo điều kiện để người ra quyết định thanh tra có thêm
thời gian để hoàn chỉnh quyết định thanh tra, hạn chế tối đa các sai sót trong đó. Còn
GVHD: ThS. Diệp Thành Nguyên

18


SVTH: Trần Văn Thành


Đề tài: Tổ chức và hoạt động của Thanh tra huyện – Thực tiễn tại Thanh tra huyện Phong
Điền thuộc thành phố Cần Thơ

đối với hoạt động thanh tra chuyên ngành, tại Điều 56 quy định rõ thời hạn thanh tra,
thời hạn để ra quyết định thanh tra, thời hạn kể từ ngày ký quyết định thanh tra đến
ngày công bố quyết định thanh tra, báo cáo kết quả thanh tra, kết luận thanh tra do
Chính phủ quy định (theo quy định tại khoản 1, Điều 48 Luật Thanh tra năm 2004 là
30 ngày), góp phần đảm bảo sự quản lý sâu sát hơn của Chính phủ đối với hoạt động
thanh tra chuyên ngành nói chung, đồng thời có thể điều chỉnh các quy định về thời
hạn thanh tra, thời hạn để ra quyết định thanh tra, thời hạn kể từ ngày ký quyết định
thanh tra đến ngày công bố quyết định thanh tra, báo cáo kết quả thanh tra, kết luận
thanh tra cho phù hợp với thực tế tương ứng với từng giai đoạn phát triển khác nhau
của đất nước.
Thứ sáu, về các hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động thanh tra: Ngoài các
hành vi được quy định trong Luật Thanh tra năm 2004, thì Luật Thanh tra năm 2010
có bổ sung thêm ba hành vi là: Cố ý không ra quyết định thanh tra khi phát hiện có dấu
hiệu vi phạm pháp luật (khoản 3, Điều 13); lợi dụng ảnh hưởng của mình tác động đến
người làm nhiệm vụ thanh tra (khoản 7, Điều 13); đưa nhận, môi giới hối lộ (khoản 8,
Điều 13). Với những quy định mới này đã góp phần khắc phục và ngăn ngừa tối đa các
hiện tượng tiêu cực xảy ra trong hoạt động thanh tra ở các cấp, các ngành.
Thứ bảy, về đối tượng, tiêu chuẩn chung của Thanh tra viên: Ngoài những quy
định về tiêu chuẩn bổ nhiệm Thanh tra viên của Luật Thanh tra năm 2004, thì Luật
Thanh tra năm 2010 có thay đổi về điều kiện bổ nhiệm Thanh tra viên nếu là cán bộ,
công chức, viên chức, sỹ quan quân đội nhân dân, sỹ quan công an nhân dân công tác
ở các cơ quan khác chuyển sang cơ quan thanh tra nhà nước thì phải công tác ở các cơ
quan đó từ 05 năm trở lên (điểm d, khoản 1, Điều 32). Như vậy, ngoài đối tượng là
công chức thì Thanh tra viên còn mở rộng thêm đối tượng là viên chức, sỹ quan quân

đội nhân dân, sỹ quan công an nhân dân và khi các đối tượng trên công tác từ các cơ
quan khác chuyển sang các cơ quan thanh tra nhà nước, chỉ cần công tác từ 05 năm trở
lên mà không cần phải công tác trong ngành thanh tra 01 năm như quy định trước đây
(điểm d, khoản 1, Điều 31 Luật Thanh tra năm 2004). Quy định này đã góp phần nới
lỏng điều kiện cho những ai có nhu cầu công tác trong lĩnh vực thanh tra.
Thứ tám, về nguyên tắc hoạt động thanh tra: Luật Thanh tra năm 2010 bổ sung
thêm một nguyên tắc cũng không kém phần quan trọng trong hoạt động thanh tra, đó
là nguyên tắc “không trùng lặp về phạm vi, đối tượng, nội dung, thời gian thanh tra
giữa các cơ quan thực hiện chức năng thanh tra” (khoản 2, Điều 7) mà Luật Thanh tra
năm 2004 trước đây đã không quy định. Dựa trên nguyên tắc này, các cơ quan có thẩm
quyền thanh tra có thể triển khai thực hiện các hoạt động trong quá trình thanh tra
GVHD: ThS. Diệp Thành Nguyên

19

SVTH: Trần Văn Thành


Đề tài: Tổ chức và hoạt động của Thanh tra huyện – Thực tiễn tại Thanh tra huyện Phong
Điền thuộc thành phố Cần Thơ

đúng theo quy định của pháp luật, khắc phục được tình trạng chồng chéo, trùng lắp về
phạm vi, đối tượng, nội dung và thời gian thanh tra giữa các cuộc thanh tra với nhau,
góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động thanh tra.

GVHD: ThS. Diệp Thành Nguyên

20

SVTH: Trần Văn Thành



×